Nhớ nhà thơ Huy Cận: "Lấp lánh hồn ta mặn gió khơi"
Thoạt nhìn Huy Cận, người ta dễ có cảm giác ông là một người
thật nhàn nhã. Đi đứng khoan thai, đến mức chậm chạp. Ông dễ cười như trẻ thơ.
Ông cười rất hiền, cả những khi bị ai đó trêu chọc. Và cũng thật kỳ lạ, trong
những năm tháng tôi thường xuyên gặp ông, tôi biết, có những người không thật
thích ông, nhưng cả với những người ấy, ông cũng vẫn thường hỏi han, trò chuyện
rất ân cần, đôn hậu.
Ông có nhàn nhã thật không? Không! Hoàn toàn không! Tôi tin chắc
là bởi cứ nhìn kỹ vào những công việc ông làm của một đời người, dẫu là đời
người ấy đến được cái cột mốc 86 hiếm hoi. Hai mươi bốn tuổi tốt nghiệp đại
học, một học vị mà ngày ấy trong một tỉnh, người ta chỉ có thể đếm được trên
đầu ngón tay (1943). Và ngay từ ngày ấy, Huy Cận đã tiếp xúc với cách mạng, một
tiếp xúc hết sức nguy hiểm, nhất là đối với một trí thức có học vị, "lương
cao bổng hậu". Thế rồi cách mạng thành công giữa muôn trùng khó khăn,
kháng chiến khốc liệt; những ngày sau hòa bình thống nhất mà vẫn còn biết bao
gian nan... lúc nào ta cũng thấy ông đứng trước những công việc trọng đại, và
vì thế chắc cũng chẳng dễ dàng: Bộ trưởng Bộ Canh nông; Thứ trưởng Bộ Văn hóa;
Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam; Bộ trưởng đặc trách văn
hóa thông tin thuộc Hội đồng bộ trưởng...
Thế nhưng Huy Cận chưa bao giờ ngừng làm thơ. Và cũng kỳ diệu
thay, qua suốt bẩy mươi năm cầm bút, ở giai đoạn nào của nền văn học Việt Nam,
Huy Cận cũng "cứ tự nhiên" được đặt vào vị trí nhà thơ hàng đầu trong
tâm hồn người đọc!
Và đối với riêng tôi, sau gần bốn mươi năm cầm bút, chưa bao giờ
ông không khiến tôi ngạc nhiên đến ngơ ngác trước thơ ông!
"Đêm mưa làm nhớ không gian Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao
la..." "Rơi rơi... dìu dịu rơi rơi...
Trong muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ" - "Thuyền đậu
thuyền đi hạ kín mui Lưa thưa mưa biển ấm chân trời..." - "Con trẻ
thuyền ai ra giỡn nước Mưa xuân tươi tốt cả cây buồm" Làm sao ông lại có
thể viết về mưa buồn, mưa vui như kiếp người mà hay như thế nhỉ? "Mưa xuân
tươi tốt cả cây buồm", còn ai có thể viết về vẻ đẹp mưa xuân đến nhuần
thấm cả vạn vật, đất trời, tạo nên sự huyền ảo của hồi sinh như thế không?.
Thế rồi với mùa thu, cái mùa thu đẹp nhất của một năm, nhưng
cũng là cái mùa đã từng đi lại đến "mòn đường đứt cỏ" trong thơ ca
cổ, kim, đông, tây; Huy Cận viết thế nào nhỉ?
- "Vi vu gió hút nẻo vàng Một trời thu rộng mấy hàng mây
nao" "Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều Nắng
xuống, trời lên sầu chót vót Sông dài, trời rộng, nhớ cô liêu" - "Lớp
lớp mây cao đùn núi bạc Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa..." -
"Nai cao gót lẫn trong mù Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về..." Ai
cũng biết, viết về cảnh cũng chính là viết về người. Không có những cảm xúc
huyền ảo từ tâm hồn thì làm sao xuân, thu, mưa, nắng, trời rộng, sông dài, rồi
cả đến con nai, tiếng nhạc ngựa... cũng được tái tạo kỳ ảo thế kia.
Nhưng đến khi viết trực diện vào con người, Huy Cận cũng luôn
luôn khiến ta bàng hoàng về những vẻ đẹp hay nỗi đắng cay trong số phận. Trời
mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa... ở tập thơ nào ta cũng tìm được những trang cảm
xúc đặc sắc nhất của nhà thơ về số phận con người, như Anh Tài Lạc hay là Các
vị La-hán chùa Tây Phương: "Mỗi người một vẻ mặt con người Cuồn cuộn đau
thương cháy dưới trời Cuộc họp lạ lùng trăm vật vã Tượng không khóc cũng đổ mồ
hôi.
Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau Quay theo tám hướng hỏi
trời sâu Một câu hỏi lớn. Không lời đáp Cho đến bây giờ mặt vẫn chau..."
Đời người hay sa mạc đây? "Chỉ có trời xanh thay cỏ cây/Mênh mông sa mạc.
Cát làm ngày/Cát làm đêm nữa. Trăng phơi cát/Sao sáng đằng xa hay cát
bay?". Ta chỉ là những hạt cát trong sa mạc đời thế mãi sao? Còn những kẻ
ngự trị trên cát trong những Kim tự tháp thì ra sao nhỉ? Thử đánh thức họ dậy
xem sao nào! Vâng, chỉ có Huy Cận mới có cái ý tưởng kỳ lạ là đánh thức các xác
ướp những hoàng đế Ai Cập, những Pharaon: "Dậy, Vua ơi! Cái chết chẳng thể
rào được cái chết, Vua ngủ mê giấc đá Chất cái chết lên cao, trên mấy tầng mây
nổi Đã tấc nào thành sự sống hay chưa Hỡi nghìn năm Kim tự tháp chơ vơ...
Tôi thấy thời gian rúng lạnh chân tôi!..." Phải rồi. Đúng
rồi. Cái sự vĩnh cửu giả vờ ấy làm sao so được với những con người đang biết
sống với tất cả sự kỳ thú của sự sống: "Ta đi trong chiều dậy biếc/Trái
tim ở giữa cuộc đời/Trong nhịp chiều xanh bất tuyệt/Lá theo ta cũng thành
đôi" (1962).
Thương đời, đau đời mới thực biết yêu đời. Cái tình yêu đời ấy
đã được Huy Cận mở ra đắm say và lung linh lắm, ngay từ những năm tháng đắng
cay khi nhà thơ mới vào tuổi đôi mươi, cùng lúc với những bài thơ buồn nhất về
số phận những anh hề xiếc lưng gù, từ những ngày mà "nhạc sầu" dường
như bất tận, ông đã viết về vẻ đẹp kỳ lạ của tình yêu: "Áo trắng đơn sơ
mộng trắng trong/ Hôm xưa em đến, mắt như lòng/ Nở bừng ánh sáng. Em đi đến/
Gót ngọc dồn hương, bước tỏa hồng".
Với Huy Cận, vẻ đẹp một con người có thể dung chứa vẻ đẹp của cả vũ trụ! "Em lùa gió biếc vào trong tóc Thổi lại phòng anh cả núi non!" Với một tâm hồn thơ lớn khiến cho nỗi buồn từ sự xót thương con người có lúc như lan thấm đến cả vũ trụ; thì tình yêu và niềm vui từ những niềm vui và tình yêu con người, cũng sẽ rất tự nhiên tỏa ra với trái đất: "Bay cao bay vút/Chim biến mất rồi/Chỉ còn tiếng hót/Làm xanh da trời...".
Với Huy Cận, vẻ đẹp một con người có thể dung chứa vẻ đẹp của cả vũ trụ! "Em lùa gió biếc vào trong tóc Thổi lại phòng anh cả núi non!" Với một tâm hồn thơ lớn khiến cho nỗi buồn từ sự xót thương con người có lúc như lan thấm đến cả vũ trụ; thì tình yêu và niềm vui từ những niềm vui và tình yêu con người, cũng sẽ rất tự nhiên tỏa ra với trái đất: "Bay cao bay vút/Chim biến mất rồi/Chỉ còn tiếng hót/Làm xanh da trời...".
Chim biến đi sau những tiếng hót tuyệt vời. Còn con người, theo
quy luật rồi cũng sẽ "biến đi". Huy Cận rất ý thức về điều đó.
Trước lần ra đi vĩnh viễn này, Huy Cận đã hơn năm lần viết về
cái chết của chính ông khi viết Gửi một người bạn điêu khắc (1993); Một sáng
mưa xuân(1982); Hạt lại gieo(1974), cũng như khi vĩnh biệt Xuân Diệu, người bạn
đời, bạn thơ thân thiết: Diệu ơi, Diệu đã về yên tịnh(1986): "Biển lớn
băng qua ấy biển đời/Biến vào vũ trụ, ánh sao mời/Diệu dò thế giới bên kia
trước/Khỏi lạ đường khi Cận tới nơi".
Thế rồi ông viết bài thơ Ta viết bài thơ gọi biển về. Gọi biển
về hay ông gọi chính ông sau những tháng năm cật lực với đời, với những đóng
góp lớn lao rất đáng để bình tâm, thanh thản: "Rồi một ngày kia hết ở đời
Cho ta theo biển, khỏa chân trời Điều chi chưa nói xin trao sóng Lấp lánh hồn
ta mặn gió khơi".
Nhà thơ Huy Cận luôn luôn khiến ta bàng hoàng về những vẻ đẹp
hay nỗi đắng cay trong số phận. "Trời mỗi ngày lại sáng", "Đất
nở hoa"... ở tập thơ nào ta cũng tìm được những trang cảm xúc đặc sắc nhất
của nhà thơ về số phận con người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét