Những đóng góp của Thế Lữ vào phong trào thơ mới
Đánh giá sự nghiệp Thế Lữ, những người đồng thời
với ông, như Vũ Ngọc Phan, với sự mực thước thường lệ, đã ghi"... công
đầu trong việc xây dựng nền thơ mới. Phan Khôi, Lưu Trọng Lư chỉ là những người
làm cho người ta chú ý đến thơ mới mà thôi, còn Thế Lữ mới chính là người làm
cho người ta tin cậy ở tương lai thơ mới. Thơ ông không phải chỉ mới ở lời mà
còn mới cả ở ý nữa"(1).
Hoài Thanh màu mè hơn: "Độ ấy thơ mới vừa ra đời. Thế Lữ như vừng
sao đột hiện, ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam. Người ta không thể không
nhìn nhận cái công Thế Lữ đã dựng thành nền thơ mới ở xứ này"(2).
Vũ Ngọc Phan và Hoài Thanh viết những dòng này khoảng 1942, và đều ghi nhận là
"danh vọng Thế Lữ có mờ đi ít nhiều"(2). Xuân Diệu, sau này,
1983, nói rõ là Thế Lữ được "người đương thời ưa thích nhất giữa
các nhà thơ mới khoảng 1932 - 1937"(3).
Văn chương Việt Nam thời
đó biến đổi nhanh nên dù ít tác phẩm văn nghệ, chỉ trong vòng năm bảy năm,
người đọc đã quên một nhà thơ lớn; ngày nay, hơn nửa thế kỷ sau, sau bao nhiêu
biến động, ta làm sao còn nhớ Thế Lữ? Tìm được tác phẩm Thế Lữ để đọc, đã khó,
đọc để thưởng thức, và đánh giá, lại càng phức tạp hơn. Bài này chủ yếu là nhắc
lại những đóng góp của Thế Lữ vào văn chương Việt Nam thời đó, về ngữ pháp, thi
pháp và nghệ thuật, từ những yếu tố mới, ông vừa tiếp thu được qua ngôn ngữ và
nghệ thuật phương Tây. Và đánh giá những đóng góp như thế dĩ nhiên là phức tạp.
Những cách tân thành công, ngày nay đã trở thành quen thuộc và ta không còn lưu
ý; những cách tân ngây ngô, nhất định phải có, ta lại càng không thưởng thức;
còn cái truyền thống thời Thế Lữ, ngày nay, đã xa chúng ta quá.
Thế Lữ chịu số
phận bất công của những người đi tiên phong nói chung, và còn chịu những bất
công của một xã hội chỉ nhớ những điều không đáng nhớ.
Về những đóng góp của
Thế Lữ, nhiều người đã viết tản mạn đó đây. Ta thử thu vén vào một ý tổng hợp:
Thế Lữ đã làm nổi bật tính cách duy lý - ta gọi là tư duy lô gíc - mới được du
nhập ồ ạt vào văn thơ Việt Nam thời đó.
Chúng ta không dám nói rằng văn thơ xưa kia
không duy lý; nhưng tư duy lô gíc không phải là giá trị chính trong văn thơ
xưa: ta thưởng thức ca dao, "Kiều", "Chinh phụ
ngâm" không phải bằng lý luận; ta thích một số nhân vật lịch sử,
hay tiểu thuyết, dù họ không lô gíc. Ở Thế Lữ, thì khác. Muốn thưởng thức một
truyện trinh thám, trong"Vàng và máu", ta phải khoái lô
gíc. Cái lô gíc đó, có lúc dài dòng, lẩm cẩm như trong truyện "Những
nét chữ",hoặc ngây thơ như trong "Cái đầu lâu", vẫn
là sản phẩm của luận lý. So với truyện trinh thám Phạm Cao Củng viết sau Thế
Lữ, thì truyện Thế Lữ thua hai điểm: tình tiết kém ly kỳ, và không khí ít màu
sắc Việt Nam. Nhưng hơn hai điểm: câu văn sáng sủa hơn, và bao giờ cũng làm nổi
bật tính luận lý. Cả hai ưu điểm đều dựa trên lô gíc. Tiểu thuyết nhóm Tự Lực
thời đó, là chuyện phong tục, tình cảm, không cần lô gíc: trong "Đoạn
tuyệt", chàng Thân, người chồng, chết vì con dao rọc sách đâm đúng...
trái tim, là không lô gíc, trong "Nửa chừng xuân", cuộc
đời trôi nổi của cô Mai tại Hà Nội cũng không thuận lý. Thế Lữ không đi vào con
đường chung đó: ông viết truyện trinh thám, truyện ly kỳ, dù hay dù dở, đều
phải hợp lý.
Hợp lý trong tình tiết, thì phải thuận lý trong
câu văn. Thế Lữ đã đưa vào tiểu thuyết Việt Nam cấu trúc câu văn tây phương,
minh bạch, khúc chiết, mà vẫn giữ được dáng dấp mềm mại của câu nói Việt Nam.
Lấy một ví dụ trong đoạn đầu truyện "Vàng và máu", tả
cảnh núi Văn Dú: "Sừng sững giữa trời, đứng làm chúa tể cho cả một
vùng phong cảnh hoang vu. Dân Thổ ở các làng gần đó, ngày nào cũng trông thấy
ngọn núi mù mù lam tím, nhô lên trên những hàng dừa xanh chi chít um tùm"(1).
Câu văn xuôi này mới lạ, thời đó, được kiến trúc
trên sơ đồ câu văn Pháp: ta thử dịch ra tiếng Pháp thì thấy dễ dàng lắm. Nói
chung, văn xuôi của Thế Lữ bao giờ cũng sáng sủa, trật tự, khúc chiết. Dĩ nhiên
là có người chê câu văn Thế Lữ là tây, như hai ông Trương Văn Chình và Nguyễn
Hiển Lê đã bắt bẻ câu văn Thế Lữ trong truyện"Câu chuyện trên tàu
thủy"(2): "Có
người Việt Nam quá say mê với "cái sáng sủa của tiếng Pháp" (la
clarté francaise) đã bẻ những câu như câu này, "xuống đến tàu, công việc
thứ nhất của bác (Hai Nhiên) là xem xét mọi nơi" (T.L), là viết không rõ
ràng, trái với ngữ pháp (của Pháp)"(3).
Câu văn trên, ngày nay,
không còn "tây" nữa, mà rất rõ ràng, không có gì là ngược ngữ pháp,
dù của tiếng Pháp hay tiếng Việt.
Trong thơ, Thế Lữ cũng ưu tiên cho tư duy lô gíc
đó, và Hòai Thanh đã có nhận xét đúng: "Thế Lữ ít khi ghép những
lời suông, khi nào viết là cũng có chuyện gì để nói"(2). Thường
là chuyện tưởng tượng: chuyện nàng chinh phụ, chàng chinh phu, nàng mỹ thuật,
chàng nghệ sĩ; chuyện lẩn thẩn, nhưng vẫn có chuyện, nghĩa là có sườn luận lý
để bài thơ ngăn nắp và trong sáng. Kết quả là những câu thơ rất dễ nhớ của Thế
Lữ thường lý sự: "Cái thuở ban đầu... nghìn năm chưa dễ...; Anh đi
đường anh... tôi... tình nghĩa đôi ta... đã quyết,,, bận lòng chi nữa...; Vì
chưng... mà... trong lúc... phải chăng...". Thậm chí, Thế Lữ còn
ưa chữ "song le" mà ít nhà thơ mới nào dùng đến.
Một khi đã coi trọng tư tưởng duy lý rồi, thì
khó chấp nhận được một ý tưởng phải dừng lại ở chữ cuối một câu thơ; do đó, đơn
vị trong thơ Thế Lữ không phải là câu thơ, mà là một mảng thơ trong "Cây
đàn muôn điệu":
Dáng
yêu kiều tha thướt khách giai nhân
Ánh
tưng bừng linh hoạt nắng trời xuân
Vẻ
sầu muộn, huy hoàng ngày mưa gió
Cảnh
vĩ đại, sóng nghiêng trời, thác ngàn đổ
Nét
mong manh thấp thoáng cánh hoa bay
Cảnh
cơ hàn nơi nước đọng bùn lầy
Thú
xán lạn mơ hồ trong náo động
Tôi
đều yêu, đều kiếm, đều say mê.
Một đoạn thơ dài chín
câu, tám câu đầu là những tân từ đảo ngược, đặt trước câu động từ nằm ở cuối
đoạn. Lối đặt câu như thế, ta không thể thấy ở thơ văn nước ta trước kia; có
thể đây là một câu thơ nặng nề, nhưng có tác dụng tốt là giải phóng tư duy lô
gíc ra khỏi khuôn khổ gò bó của câu thơ cũ. Một đoạn thơ dài, chỉ gồm có một
câu văn phạm, trong đó Thế Lữ đưa ra cả một tuyên ngôn về nghệ thuật trong tám
vai trò khác nhau: mô tả vẻ đẹp của phụ nữ, cảnh trời xuân, ngày mưa gió, cảnh
vĩ đại, nét mong manh, cảnh xã hội, thú mộng mơ và chí... tranh đấu. Mà câu thơ
vẫn trong sáng.
Câu thơ cổ của ta xưa kia vì cô đúc mà thiếu
khúc triết. Các cụ dồn ý tưởng vào câu năm chữ, bảy chữ, thừa thì cắt bớt những
hư từ, những liên từ, giới từ; câu thơ tối nghĩa cũng không sao, người đọc phải
cố công suy đoán. Ví dụ hai câu đầu của "Cung oán":
Trải
vách quế gió vàng hiu hắt
Mảnh
vũ y lạnh ngắt như đồng.
Ai muốn hiểu sao thì
hiểu. Lê Văn Hòe đã phải chú giải sáu trang, mà chưa chắc thuyết phục được
người không đồng ý.
Cũng vì nhu cầu diễn ý khúc triết, mà Thế Lữ
thường dùng lối "bắc cầu" (enjambement) thông dụng trong
thơ Pháp: cho câu thơ trên tràn xuống, quàng xuống câu dưới, ngày nay ta gọi là
"câu vắt", Xuân Diệu gọi là "cái duyên dáng của thơ Thế
Lữ".
Trong bài "Lựa tiếng đàn" - dường
như làm rất sớm, có câu:
Tôi
muốn sống cuộc đời thi sĩ, để
Dốc
chén mơ màng, nhưng chỉ thấy chua cay.
Trong "Giây phút chạnh lòng" -
làm muộn hơn:
Cát
bụi tung trời - Đường vất vả
Còn
dài - Nhưng hãy tạm dừng chân.
Xuân Diệu nhắc lại rằng Thế Lữ "đã
có những cách tân về hình thức, về cách ngắt câu, chấm câu, để cho câu trên
tràn quàng xuống câu dưới; cánh làm "thơ mới" chúng tôi lúc ấy rất
thú vị. Vì thuở ấy, chúng tôi cũng cần một công cụ câu thơ khúc chiết, có thể
nói được những ý mình muốn nói"(1).
Những cách tân của Thế Lữ có lẽ là nhu cầu của
thế hệ tân học đang dấn thân vào nền văn hóa mới, dựa vào khoa học, khoa học cơ
bản hay ứng dụng. Thơ, truyện, các bài báo ngắn của Thế Lữ ít nhiều biểu lộ
nguyện vọng khoa học, trong khuynh hướng chung của Tự Lực văn đoàn; và báo Phong
Hóa của nhóm đã có những cống hiến nhất định... Vẫn theo Xuân Diệu
- thành viên cuối cùng của nhóm Tự Lực: "Bài giới thiệu thơ Thế Lữ
trên tuần báo Phong Hóa năm ấy đã làm một việc trước đó báo
chương Việt Nam chưa từng làm: phân tích nghệ thuật, kỹ thuật thơ:
Tiếng
địch thổi đâu đây
Cớ
sao nghe réo rắt
Lơ
lửng cao đưa tận lưng trời xanh ngắt
Mây
bay... gió quyến mây bay...
Tiếng
vi vút như khuyên van như dìu dặt
Như
hắt hiu cùng hơi gió heo may
Bài báo làm cho người đọc chú ý đến hơi tiếng
sáo, hơi tiếng gió trong ba âm "v" và bốn âm "h", đây là
một khổ thơ rất thành công của Thế Lữ, hiện nay vẫn còn lơ lửng cao, đưa theo
một tiếng địch nào đó thổi ở đâu đây"(1).
Xưa kia, ta không phân
tích thơ về mặt nghệ thuật, kỹ thuật như vậy, đúng như lời Xuân Diệu. Các cụ có
bình thơ, cũng chỉ đưa ra những cảm giác chủ quan, cho rằng chữ này đắc, chữ
kia đạt, mà không giải thích tại sao. Ngày nay, tại Việt Nam, người ta vẫn theo
lối ấy, dĩ nhiên là vì những mục đích khác; nhưng cái lối "tán" thơ,
tán mãi thành tán phét, do đó thơ không có hy vọng gì biến đổi hay tiến bộ.
Việc giải thích thơ về diện nghệ thuật, kỹ thuật, và hy sinh nội dung nếu cần,
là thao tác thiết yếu, nó rọi vào giá trị tác phẩm những tia sáng khách quan,
giúp cho thơ, và người làm thơ, người đọc thơ tiến bộ. Người phê bình, ít
nhiều, khuynh đảo dư luận quần chúng, thì phải có trách nhiệm khoa học: anh
khen một câu thơ hay ắt phải có khả năng giải thích nó hay ở chỗ nào.
Trở lại thơ văn Thế Lữ: kinh nghiệm ông đề xuất
thời đó là thí nghiệm lô gíc. Khi xây dựng nội dung cũng như kiến trúc kỹ
thuật, Thế Lữ sáng tác rất ý thức và sáng suốt, dù rằng có khi không thành
công. Trong ý thức ấy, khi phụ trách trang thơ, hay mục "Tin
thơ" trên các báo "Phong Hóa, Ngày Nay, ông đã
tiếp tục soi sáng con đường Thơ Mới bằng lý thuyết, sau khi cho in tập "Mấy
vần thơ".
Năm 1935, Xuân Diệu gửi cho báo Phong
Hóa bài thơ đầu tiên, "Với bàn tay ấy":
Một
tối vòm trời chẳng gợn mây
Cây
tìm nghiêng xuống cánh hoa gầy
Thế Lữ đã chữa lại:
Một
tối bầu trời đắm sắc mây
Xuân Diệu, ba mươi năm sau, còn phục "Thế
Lữ đã chữa hộ tài tình"(1). Làm
thơ, không cần có lý; nhưng khi chữa thơ người khác, phải có lý. Nhất là khi
"người khác" là Xuân Diệu, dù một Xuân Diệu chưa nổi danh.
Một câu thơ Thế Lữ, hay
về âm pháp và từ pháp, gợi cảnh những nàng tiên đang tắm:
Ái
ân bờ cỏ ôm chân trúc
Sau
trúc, ô kìa, xiêm áo ai
Trên mười bốn từ, đã có sáu từ bắt đầu bằng
nguyên âm ái ân, ôm, ô, áo, ai, những nguyên âm tình tứ trong tiếng
Việt: yêu, âu yếm, ôm ấp, êm ái... Thán từ "ô
kìa" diễn tả niềm ngạc nhiên thích thú, "ô kìa, hai
con hạc trắng bay về bồng lai", khác với "ơ kìa", diễn
tả sự ngạc nhiên bình thường, có khi bất mãn:
Suốt
đêm thức để trông ai
Ơ
kìa ánh lửa đỏ trời phương đông
Những cách tân ngôn ngữ nghệ thuật thời Thế Lữ
thường được mô phỏng theo những mô hình phương Tây. Mô phỏng không phải vì say
mê cái mới mà quên truyền thống. Các cụ trong Đông Kinh nghĩa thục (1907),
những nhà nho chống Pháp, vẫn hô hào tiếp thu chữ quốc ngữ và những khoa học
phương Tây. Thơ mới, văn mới là một yêu cầu của xã hội trên bước đường hiện đại
hóa: tư duy lô gíc, là cái vốn chung của loài người. Sở dĩ công chúng thời đó
chấp nhận dễ dàng và nhanh chóng một ngôn ngữ mới, vì ngôn ngữ ấy đáp ứng với
một yêu cầu tiềm tàng trong con người nói chung, đến một giai đoạn nào đó thì
nảy nở. Vì vậy, từ 1935, người ta có thể yêu thích ngay những câu thơ trong bài "Nhớ
rừng":
Đâu
những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta
đợi chết mảnh mặt trời gay gắt.
Chúng ta thử tập trung
phân tích những cách tân trong hai câu - chỉ hai câu thôi.
1. Trước hết, ta xét chữ đâu, một từ
nghi vấn, dùng theo nghĩa phủ định. Trong bài "Nhớ rừng",
đơn vị thơ Thế Lữ không phải là câu mà là khổ thơ (strophe), chữ đâu ở
đây là tiếng vọng của "nào đâu những đêm vàng bên bờ suối" ở
khổ đầu và sẽ tắt ngấm với "than ôi, thời oanh liệt nay còn
đâu" ở cuối khổ. Nào đâu và còn đâu là từ thông
dụng, nhưng chữ đâu phủ định đặt ở đầu câu là một cách tân, có
thể là nó phát xuất từ câu thơ Pháp "Où sont les neiges
d'antan" (Đâu tuyết ngày xưa, Villon). Đâu, nguyên
ủy là do hai từ đằng nào thu gọn - cũng như đây, đấy là
do đằng này, đằng ấy thu gọn (1),
Nguyễn Du dùng chữ đâu 104 lần theo nghĩa ấy:
Biết
đâu ấm lạnh, biết đâu ngọt bùi.
Nhưng chúng ta không tìm thấy chữ đâu dùng
theo kiểu Thế Lữ. Ngược lại, các nhà thơ mới sẽ sử dụng kinh nghiệm ấy, như Huy
Cận trong "Tràng giang":
Đâu
tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nhiều người hiểu chữ đâu theo
nghĩa phiếm chỉ (indéfini): đây, đâu đó, có tiếng làng xa... Nhưng
ý Huy Cận không phải vậy. Đâu có nghĩa phủ định (négatif),
như trong câu thơ Thế Lữ: đâu có, không có tiếng làng xa; cũng như"không
một chuyến đò ngang, không cầu gợi chút niềm thân mật". Chữ đâu phủ
định tất cả phương tiện giao lưu, làm tăng không khí đìu hiu của
cảnh sông dài, trời rộng.
Ngày nay, chữ đâu đưa bao nhiêu
nhớ nhung, luyến tiếc vào đầu câu thơ (hay câu hát) đã trở thành quen thuộc.
Nhưng thời Thế Lữ, nó là một cách tân.
2. "Đâu những chiều...”. Chữ những chỉ
số nhiều, ngày nay là một trong những từ được thông dụng nhất. Nhưng xưa kia
thì khác, Nguyễn Du, trong "Kiều", sử dụng chữ những 67
lần, nhưng chỉ 26 lần trong nghĩa số nhiều, theo tỉ lệ rất thấp "chỉ
trên 1 phần ngàn trong khi trong danh sách tần số (ngày nay) là 0,487
phần trăm"(2),
theo nhận xét của Phan Ngọc:
Ba
đồng một mớ trầu cay
Sao
anh không hỏi những ngày còn không
Chữ những trong câu ca dao, có
lẽ xưa ấy, không chỉ số nhiều như ta thường tưởng, mà có nghĩa thời gian: từ
ngày, từ thuở, từ dạo... Nguyễn Du đã dùng 10 lần như vậy. Những
ngày = từ ngày:
Thân
này đã bỏ những ngày ra đi...
Ngày xưa các cụ cũng phân biệt số nhiều và số
ít, nhưng không rõ rệt như trong tiếng Pháp. Khi tiếp xúc với các ngôn ngữ
phương Tây, ta thấy sự phân biệt nhiều - ít làm sáng tỏ thêm một số ý tưởng,
nên tiếp thu rộng rãi ngữ pháp ấy, rồi dần dần chữ những được
trọng dụng và mang một giá trị thẩm mỹ mới. Điều này Phan Ngọc đã chứng
minh một cách rõ ràng và tài hoa. "Chữ "những" lúc đầu
là một phó từ như ta thấy trong "Truyện Kiều": "những mong cả
nước sum vầy. Chữ "những" do quá khứ của nó là một phó từ chứa đựng
cảm xúc, cho nên ngay khi nó làm mạo từ (số nhiều) trong tiếng Việt hiện đại,
nó vẫn chứa đựng cảm xúc. Miêu tả một mùa xuân thì thế nào cũng phải nói
"những bông hoa", "những con chim", "những ngọn
gió". Chỉ cần đổi thành "các bông hoa", "các con chim",
"các ngọn gió", thế là chẳng còn mùa xuân nữa"(10). Đúng
và hay. Như vậy thì, trong đoạn thơ Thế Lữ,những đêm vàng, những ngày, những
bình minh, những chiều, số nhiều ở đây, đã mang trọng lượng tình cảm,
như số nhiều trong "les neiges d'antan" của Villon.
Sau này, nhiều nhà thơ đã tận dụng giá trị tâm
cảm và luận lý của chữ những:
Những
chiều hành quân
Qua
những đồi hoa sim
Những
đồi hoa sim...
Hữu Loan
Những
cánh đồng thơm ngát
Những
ngả đường bát ngát
Những
dòng sông đỏ nặng phù sa
Ôi
những cánh đồng quê chảy máu...
Nguyễn Đình Thi
Chữ những trong thơ và văn xuôi
Nguyễn Đình Thi đằm thắm, thiết tha, tinh tế; tôi sẽ trở lại trong một dịp
khác.
3. Thế Lữ đã dùng cú
pháp và hình ảnh táo bạo trong câu tiếp theo:
Ta
đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Trước hết, ông đã đảo ngược chủ từ: "chết
mảnh mặt trời". Trong thơ xưa, vẫn có đảo ngữ, những thường là do
ảnh hưởng cấu trúc chữ Hán, theo dạng "gác mái ngư ông về viễn
phố" của Bà huyện Thanh Quan, mà ta đã thấy rải rác trong thơ
Nguyễn Trãi và Hồng Đức. Nhưng không ai lật ngược chủ từ một cách táo bạo như
Thế Lữ: "bên rừng thổi sáo một hai kim đồng".
Ông vẫn chuộng lối đảo
ngữ như thế, và sử dụng nhiều lần:
Đỗ
bờ sông trắng, con thuyền bé...
Để
dài thêm hạn cuộc tình duyên...
Bỗng
thong thả rơi một tiếng chuông chùa...
Cơn
gió thổi, lá bàng rơi lác đác,
Cùng
rơi theo loạt nước đọng trên cành
Những
cây khô đã chết cả màu xanh
Trong
giây phút lạnh lùng tê tái ấy...
Sau Thế Lữ vài năm, Huy
Cận đã có thể viết:
Đã
chảy về đâu những suối xưa
Đâu
cơn yêu mến đến không chờ
Tháng
ngày vùn vụt phai màu áo
Của
những nàng tiên thơ mộng trẻ thơ
Rụng
những chùm tên mấy độ bông
Phai
hàng nhật ký chép song song
Bài "Buồn" này, trích
từ tập "Lửa thiêng", đã bị loại ra khỏi "Tuyển
tập Huy Cận”, không hiểu tại sao. Trong sáu câu, tác giả năm lần đảo ngược
chủ từ, nhưng vẫn dựa theo cú pháp Việt Nam. Ta nói: chảy nước mắt, cỏ
pha màu áo, "trận gió thu phong rụng lá vàng". Chỉ có mộng
trẻ thơ để nói "trẻ thơ mộng những nàng tiên" là
cầu kỳ.
Sau này nữa, Tố Hữu viết
(1954):
Đã
tan tác những bóng thù hắc ám
Đã
sáng lại trời thu tháng tám.
Tuy nhiên những chủ từ
đảo vẫn không bạo dạn như trong thơ Thế Lữ thời 1932 - 1935. Chỉ trong Nguyễn
Đình Thi mới có những câu (1950):
Nơi
đây sống một người tóc bạc
Dường như Thế Lữ, thuở
ấy, có chủ tâm làm cho câu thơ Việt Nam mới mẻ, mà vẫn sáng sủa, ông muốn tạo
cho câu thơ mới nhiều khả năng nhất, về mặt diễn đạt cũng như truyền cảm.
4. Câu thơ còn tân kỳ vì hình ảnh "chết
mặt trời" để nói mặt trời lặn. Sau này, Xuân Diệu sẽ nói "mặt
trời đi ngủ sớm" và bị chê là tây, trong khi câu thơ Thế Lữ không
bị chê, vì Thế Lữ có sáng tạo, trong khi Xuân Diệu chỉ mô phỏng theo tiếng
Pháp; hơn nữa, hình ảnh "chết" được kết hợp với "máu
sau rừng" ở câu trên. Xưa kia, các cụ không dùng hình ảnh máu
huyết như vậy; để diễn tả màu đỏ rực, các cụ nói "áo choàng đỏ tựa
ráng pha". Các nhà thơ mới dùng hình ảnh thô bạo hơn; có lẽ Thế Lữ bị
ảnh hưởng câu thơ Baudelaire:
Le
soleil s'est noyé dans son sang qui se fige
Le
ciel est triste et beau comme un grand reposoir
(Mặt
nhật đắm trong máu hồng đông cứng
Trời
chiều buồn, rực rỡ tựa triều môn)
Sau này Hàn Mạc Tử, gặp
thêm ảnh hưởng của bệnh tật, sẽ viết:
Cả
niềm yêu ý nhớ cả một vùng
Hóa
thành vũng máu đào trong ác lặn...
...
Bao giờ mặt nhật tan thành máu
Và
khối lòng tôi cứng tợ si...
Loại từ mảnh trong "mảnh
mặt trời" cũng mới lạ; người ta chỉ nói mảnh sành, mảnh
giấy, thậm chí mảnh trăng vì trăng khi tròn khi
khuyết, có khi bị xẻ làm đôi. Hình ảnh "mảnh
mặt trời" gợi ra được cái nhìn tàn bạo của con hổ muốn giẫm nát
cả vũ trụ. Sau này Tế Hanh sẽ có câu thơ hay:
Cánh
buồm giăng to như mảnh hồn làng
Cụ thể là cánh buồm trắng lấp lánh trên biển xa
giống như mảnh chai, mảnh sứ dưới ánh nắng, nó còn có nghĩa là một bộ phận của
dân làng đang ở trên thuyền đánh cá, hình ảnh mang giá trị tình cảm như trong
câu "một mảnh tình riêng ta với ta" trong thơ xưa.
Chúng ta đã xét qua vài nét mới trong thơ Thế
Lữ. Nhưng không quên rằng "Mấy vần thơ" hấp dẫn
người đọc thời 1935 vì những cách tân vẫn gần gũi với truyền thống. Thế Lữ
"vịnh" con hổ trong vườn bách thú cũng giống như các cụ ngày xưa vịnh
con cóc, con ốc nhồi, thằng bù nhìn, ông phỗng đá - với những nét hiện thực,
nét tượng trưng và những ẩn ý. Người đọc có thể nhận ra thân phận của đất nước
Việt Nam bị mất chủ quyền qua hình ảnh con hổ (nhưng dường như tác giả không có
cái dụng ý đó).
Ta
say mồi đứng uống ánh trăng tan
là một hình ảnh tân kỳ,
mà vẫn quen thân, vì Nguyễn Trãi, từ thế kỷ XV, đã nhiều lần sử dụng:
Đêm
thanh hớp nguyệt nghiêng chén
Chè
tiên nước gánh bầu in nguyệt...
Thậm chí, câu thơ của
Bàng Bá Lân, có lẽ mượn ý Thế Lữ:
Hỡi
cô tát nước bên đàng
Sao
cô múc ánh trăng vàng đổ đi
đã bị nhiều người nhầm
ra ca dao.
"Uống ánh trăng tan"có thể là men rượu mới, nhưng hợp với khẩu vị
lâu đời của người Việt Nam.
Tóm lại, thời rạng đông của Thơ Mới, Thế Lữ đã
đưa ra, hoặc đã phát triển, những cách tân phù hợp với nhu cầu tư duy lô gíc
của thời đại, những cách tân sẽ mở đường cho bút pháp nhiều nhà thơ đến sau. Do
đó, Thế Lữ đã để lại cho người đồng thời kỷ niệm sâu sắc "cái thuở
ban đầu lưu luyến ấy".
Thế Lữ là nghệ sĩ tiên phong, trong cái nghĩa
trọng vẹn nhất của hai chữ tiên phong. Thế Lữ chỉ thoải mái
trên những bước đường, say mê những hoa trái đầu mùa, với cái thuở "lần
đầu hết, lòng cô mang tình ái".
Bản tính ấy giải thích
những chặng đường trong sự nghiệp Thế Lữ: làm thơ mới, khi thơ mới chưa có nền;
viết truyện trinh thám khi thể loại này chưa có móng.
Khi nền móng đã vững,
người thợ đá xoay sang xây kịch nói - một thể loại chưa có truyền thống trong
văn học ta. Ông dừng lại lâu nhất với ngọn đuốc sân khấu - có lẽ vì ánh sáng hư
ảo mỗi ngày mỗi thay đổi trên tiền trường, phù hợp với tâm hồn bất an của Thế
Lữ.
Bút hiệu Thế Lữ là do
tên Nguyễn Thứ Lễ nói lái. Ông tên thật là Nguyễn Đình Lễ. Nhưng Thế Lữ còn có
nghĩa: người khách đi ngang qua trần thế.
Tôi
là kẻ bộ hành phiêu lãng
Đường
trần gian xuôi ngược dễ vui chơi
Người khách lữ - "thèm vô cùng và
khát vọng mênh mông" ấy - giờ đây đang "uống ánh
trăng tan" bên một bờ suối trong, một trong chín dòng suối vô
thủy vô chung. Tình đầu, cõi ấy, biết đâu là tình cuối?
Cái thuở ban đầu, là cái
thuở người ta bắt đầu biết rằng người ta không thể quên nhau.
18-12-1989 (ngày giỗ
Xuân Diệu).
(1) Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, tập
III, Vĩnh Thịnh tái bản, Hà Nội, 1952, tr. 309.
(2) Hoài Thanh, Thi nhân Việt Nam, 1941,
in lại trong "Tuyển tập Hoài Thanh (I)", Nhà xuất bản Văn học, Hà
Nội, 1982, tr. 39 và 43.
(3) Xuân Diệu, Tuyển tập Thế Lữ, Nhà
xuất bản Văn học, Hà Nội, 1983, tr. 574.
(1) Thế Lữ, Tuyển tập Thế Lữ, s¸ch đ·
dẫn tr. 93.
(2) Thế Lữ, như trên, tr. 350.
(3) Trương Văn Chình và Nguyễn Hiển Lê, Khảo
luận về ngữ pháp Việt Nam, Viện đại học Huế xuất bản, 1963, tr. 703.
(1) Xuân Diệu, Tuyển tập Thế Lữ, sách đã
dẫn, tr. 581 và 582.
(1) Xuân Diệu, Công việc tìm thơ, nxb
Văn học, Hà Nội, 1984, tr. 26.
(1) Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê, sách đã dẫn,
tr. 135 (và tr. 432 - 434 về quá trình chữ đâu, biết đâu).
(2) Phan Ngọc, Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam
Á, Viện Đông Nam Á xuất bản, Hà Nội, 1983, các trang 274, 275, 277.
Đặng Tiến
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét