Ngôn ngữ
phương tiện
Trong cuộc sống, mọi người đều sử dụng ngôn ngữ thông thường trong giao tiếp để
truyền đạt tư tưởng, cảm xúc với nhau theo ngôn ngữ tập quán và ước lệ. Vì vậy,
ngôn ngữ trở thành mô thức sắp xếp thành một hệ thống những biểu tượng sự vật
có tương quan nhân quả nhằm mục đích mô tả sự vận hành của những cấu trúc và
tiến trình duyên sinh.
Ngôn ngữ thông thường là phương tiện hình thức của tư duy, thông qua giác quan
và ý thức phân biệt mọi sự vật hiện tượng có hình tướng để nhận biết. Trên nền
tảng đó cùng với biệt nghiệp của cá nhân mà sinh khởi thương yêu, ghét bỏ, chấp
thủ…
Trên bình diện khác ở cấp độ cao hơn, lời dạy của Đức Phật trong Kinh hay lời
nói của các Tổ trong các Luận cũng là một thứ ngôn ngữ, ngôn ngữ của tình
thương, của đại bi, đại trí, nhằm chỉ dẫn cho chúng sinh vượt thoát bờ mê. Thể
loại ngôn ngữ này không thể dùng trí năng mà diễn đạt cho đúng, trong nhà Phật
thường gọi là “bất khả tư nghị, bất khả thuyết”.
Bên cạnh hai thể loại ngôn ngữ nêu trên, còn một loại ngôn ngữ khác, đó là ngôn
ngữ khoa học, biểu đạt bằng toán ngữ, được xây dựng trên một hệ thống kí hiệu
cô đọng qui ước. Các kí hiệu toán học sẽ được biểu thị cho một sự thể và áp
dụng phương pháp diễn dịch với những qui tắc làm toán hình thức trên những kí
hiệu qui ước. Bằng các lý luận hình thức, máy móc và chặc chẽ chính xác dẫn từ
các hệ tiên đề đã xác nhận kết quả hiển nhiên. Phải lưu ý rằng, vai trò của
ngôn từ toán học biểu thị cho một sự thể khách quan nào đó chứ không phải thay
thế cho sự thể đó tức là “danh” và “sự” hoàn toàn khác nhau. Chính vì bản chất
này mà toán học rất hữu ích ở chỗ là biết diễn tả được tương quan nhân quả mà
không phụ thuộc hình tướng của hiện thực, một phương diện đắc lực giúp ta tiếp
cận với hiện thực.
Godel và những giới hạn của tư duy
Vì có sự thích ứng giữa Toán học và Thực tại, nên toán học cho phép ta tiến bộ
trên con đường tìm hiểu vũ trụ. Nhưng toán học bộc lộ cho thấy tư duy lý tính
có một giới hạn, có một bí ẩn ở cuối con đường mà với suy lý bằng logic thuần
tuý không thể khám phá được.
Vào năm 1900, tại Hội nghị Toán học thế giới ở Paris, nhà Toán học lừng danh
người Đức là David Hilbert (1862 – 1943) đã nêu ra danh sách 23 vấn đề toán học
quan trọng nhất của thời đại. Và ông muốn vén lên bức màn che lấp tương lai,
nhằm dự báo tiến bộ của toán học trong tương lai. Vấn đề được Godel chú ý tới
là vấn đề thứ 2 trong danh sách được viết như sau: “Chứng minh sự nhất quán của
hệ tiên đề số học”.
Vấn đề mà Hilbert đặt ra trong vấn đề này là tìm một thủ tục nhất quán trên một
cơ sở logic để đánh giá được tất cả các mệnh đề của số học đúng hoặc sai (và
sau này cho toàn bộ toán học).
Trong chương trình của Hilbert là sử dụng ký hiệu logic để chứng minh toán vừa
“đầy đủ“, vừa “phi mâu thuẩn“. Để làm được điều nầy, phải cần bổ sung vào một
hệ tiên đề nằm ngoài toán học, nhưng được sử dụng để mô tả toán học. Một hệ
thống như vậy gọi “siêu toán học”.
Giải quyết vấn đề này, không khác gì hình thức hoá toán học theo hướng diễn đạt
tất cả các mệnh đề theo một cấu trúc chuỗi những ký hiệu logic, và công việc
chứng minh chỉ là thao tác trên các ký hiệu logic đó mà không quan tâm đến ý
nghĩa của nó. Lúc đó, toán học được qui giản về một tập hợp những kí hiệu logic
nên chúng cần sự nhất quán. Hilbert cho rằng các thủ tục như vậy, mọi vấn đề
toán học sẽ được giải quyết. Liệu giấc mơ này có trở thành hiện thực không?
Trước khi xuất hiện thiên tài toán học Godel (1906 – 1978), bầu trời toán học
vẫn có những dấu hiệu của giông tố, khi những điểm yếu của logic đang bộc lộ
trong các “mệnh đề tự qui chiếu“, có nghĩa là tự nói về mình. Lấy một câu
chuyện tiêu biểu kể về câu nói của một triết gia xứ Crête: “Tất cả dân Crête
đều nói dối”. Ta thử lý luận: nếu triết gia này nói thật, tức ông ta nói dối.
Nếu ngược lại, triết gia này nói dối, tức là nói thật. Những mâu thuẩn logic
kiểu này quá phiền toái và hầu như vô nghĩa.
Vào năm 1931, Kurt Godel, nhà toán học 25 tuổi công bố một công trình bằng
tiếng Đức, làm rung chuyển thế giới toán học và đặt dấu chấm hết đối với giấc
mơ của Hilbert, đó là: “Về những mệnh đề không quyết định được một cách hình
thức trong cuốn Principia Mathematica và những hệ liên quan”.
Nội dung chi tiết bài viết được ông phát minh qua 2 định lý được trình bày bằng
ngôn ngữ logic hình thức khó hiểu, tuy vậy nó cũng được phiên dịch qua ngôn ngữ
thông thường. Cả 2 định lý đều chỉ ra rằng toán học về bản chất là không đầy đủ
vì nó chứa những mệnh đề không thể nói chúng là đúng hay sai nếu chỉ dựa vào
suy luận của logic thuần tuý.
Đột phá thiên tài của Godel nằm ở chỗ là khám phá ra một phương pháp chứng minh
nằm ở bên “trong toán học” cho phép xem xét chính bản thân toán học và vì thế
có thể tạo ra những mệnh đề trình bày về chính bản thân nó và có thể đi đến chỗ
phán xét.
Vượt ra ngoài toán học, định lý này có nhiều ảnh hưởng đến các lãnh vực tư duy
khác nhau như triết học, tin học và nhận thức luận
- Trong triết học thì định lý cho thấy rằng sức mạnh của tư duy lý tính còn bị
giới hạn.
- Trong tin học, nó thông báo rằng luôn luôn tồn tại các vấn đề toán học không
giải được bằng máy tính.
- Về mặt nhận thức thì nói rõ rằng ý nghĩa cuộc sống là ở chỗ biết phân biệt
đâu là ước muốn và hiện thực. Và rằng con người khó mà hiểu được chính mình, vì
vẫn phải dựa vào kiến thức chính mình để làm việc đó.
- Sau cùng định lý Godel thông báo rằng chúng ta không thể làm được lý thuyết
cho mọi thứ (viết tắt TOE) như các nhà vật lý mong đợi trong tương lai. Nhà
toán học Mỹ gốc Pháp André Weil (1906 – 1998) đã chua chát nói đùa: “Chúa tồn
tại, bởi vì cấu trúc của toán học là chặt chẽ, nhưng Quỷ cũng tồn tại bởi ta không
chứng minh được nó”.
Long Thọ và Trung Quán luận
Thông thường chúng ta nghĩ rằng (hay chúng ta đang sinh hoạt), ngôn ngữ giống
như một tấm gương phản chiếu vạn hữu đúng như chúng là. Hơn thế nữa, nó xác
định phần lớn những gì chúng ta đang nhận thấy và những gì chúng ta không nhận
thấy.
Friedrich Nietzsche (1844 – 1900), ông tổ của dòng triết lý hiện sinh vô thần,
có lần viết: “…Thông qua ngôn từ và khái niệm chúng ta tiếp tục bị lầm lẫn
trong việc tưởng tượng vạn vật như là đơn giản hơn chúng là, cái này độc lập
với cái kia, bất khả phân, mỗi thứ hiện hữu trong chính nó và cho chính nó…”.
Tóm lại, là chúng ta bị ngôn ngữ đánh lừa.
Trước đây hơn 2000 năm, ngài Long Thọ một đại sư, một triết gia cũng đã thấy
cách thức ngôn ngữ đánh lừa chúng ta. Ngài đã sáng tác lý thuyết trình bày
trong Trung Quán luận giúp chúng ta vượt thoát những giả danh mà ngôn ngữ của
ta căn cứ trên giả danh đã đánh lừa rất nhiều và khám xét giả danh để tìm mâu
thuẫn. Trung Quán luận là một bộ phận cơ bản, y cứ của nhiều tông phái trong
Đạo Phật, bản chất của bộ luận là một thể dạng lý luận cao siêu. Các sự kiện
trong đó luôn luôn được giữ nguyên như sự có mặt của nó trong thực tại.
Biện chứng pháp của Long Thọ có công năng phá tan màn lưới khái niệm, phá đi
mọi kiến chấp sai lầm để hiển bày thực lý của vạn pháp. Gọi là thực lý thì cái
lý này phải phù hợp với tất cả mọi hiện tượng từ vật chất đến tinh thần, thể
hiện trong đời sống, vượt qua không gian và thời gian. Hơn thế nữa nó phải lý
giải được nguồn gốc, vai trò, vị trí mọi học thuyết có trên cõi đời này.
Theo các kinh văn Phật học, lúc còn tại thế đức Phật không trả lời những câu
hỏi có tính cách triết học, Ngài im lặng trước những câu hỏi đó. Trong Kinh có
nhiều đoạn nói, đó là sự im lặng sấm sét, im lặng hùng tráng. Những vấn đề hay
những phạm trù tư tưởng mà con người đặt ra và tranh luận với nhau là: có,
không; vừa có vừa không; không có không không; thường, vô thường; vừa thường
vừa vô thường; không thường không vô thường; hữu biên, vô biên; vừa hữu vừa vô
biên; không hữu biên không vô biên. Thêm vào đó mạng sống và hình hài là hai
hay là một…
Thầy Long Thọ sinh vào khoảng thế kỷ thứ hai trước Thiên Chúa giáng sinh. Ngài
sống trong một thời đại mà trào lưu tư tưởng đang phát triển. Các bộ phái Phật
giáo như Hữu Bộ, Kinh Lượng Bộ đều cố gắng vận dụng trí tuệ để phát triển giáo
lý, bênh vực đạo Phật, chống lại sự công kích của các trào lưu tư tưởng Ấn Độ
lúc bấy giờ. Người ta xem sự xuất hiện của Ngài là lần Chuyển Pháp luân thứ hai
của Phật giáo (lần thứ nhất do Phật Thích Ca, lần thứ ba là sự xuất hiện của
giáo pháp Tan – tra). Trên thực tế, những tác phẩm của Ngài quan trọng đến nỗi
đôi khi người ta gọi Ngài là “Đức Phật thứ hai”, cứu Đức Thích ca là vị Phật
thứ nhất, tránh đi sự hiểu lầm.
Toàn bộ Trung Quán luận có mục đích là để phá tà hiển chánh hay là phá đi các
quan niệm sai lầm, nhằm hiển lộ ra giáo pháp chân chính nguyên thuỷ của Đức Thế
Tôn. Sở dĩ có tình thế này là vì thời bấy giờ trình độ văn hoá con người đa
phần còn thấp mà giáo pháp của Phật được ví như “ngón tay chỉ trăng“, rất uyên
bác thâm sâu, khó hiểu.
Phương pháp luận của Long Thọ là phân tích tư duy nhằm chứng minh rằng, chúng
không nhất quán và tự mâu thuẩn (điều mà 2000 năm sau Godel lại gặp gỡ trong
toán học). Theo ý Ngài, đó là tất cả những gì Ngài muốn làm. Sự phát triển một
phương pháp biện chứng rất đặc biệt, siêu phàm và nương tựa vào đây để chỉ ra
những nhược điểm, những sơ suất không thống nhất trong một lý thuyết nào đó.
Trên quan niệm rằng, mỗi một sự thật chỉ tồn tại bởi sự hiện hữu của cái đối
nghịch với nó. Ngài cho rằng mọi sự đều tương đối, không có gì bất biến trường
tồn nằm phía sau sự vật, tất cả đều là Không.
Không hay Tánh không, không có nghĩa là không có sự hiện hữu hoặc một khoảng
trống không. Theo Long Thọ, Tánh không đơn giản chỉ ra rằng vạn vật không có tự
tánh hay tự hữu riêng. Công trình nghiên cứu chính yếu của Ngài không phải để
mô tả thế giới mà là phân tích và bác bỏ những cách chúng ta hiểu sai về thế
giới. Những cách vốn dĩ liên hệ đến ngôn ngữ và dục vọng tác động cùng nhau.
Vấn đề là ngôn ngữ, chính xác hơn cách chúng ta sử dụng ngôn ngữ không phải chỉ
như tên gọi mà còn là chức năng (dụng) của vật thể. Rốt cuộc, chúng hiện hữu
cho ta sử dụng và hưởng thụ. Cung cách này đã cấu trúc thế giới thành một ngã
thức, bên trong là “ta” và các vật thể tách biệt bên ngoài là phần còn lại của
thế giới, đóng vai trò gây nên sự đau khổ và luyến ái.
Càng bám chấp vào cái ta, niềm tin vào thế giới là thực chất, khách quan tồn
tại tách biệt với chúng ta càng mạnh. Càng nhìn thế giới như vậy, thế giới lại
càng ám ảnh. Chúng ta bị ám ảnh bởi những gì mình ham muốn từ thế giới đó và bị
ám ảnh bởi nỗi sợ hãi đến từ việc bảo vệ cái ta ấy. Những nỗ lực bảo vệ cái ta
dẫn đến sự dính mắc đến cảm xúc tiêu cực tham lam, sân hận, si mê.
“Ta sẽ tiếc thương trần gian mãi mãi
Vì nơi đây tôi sống đủ vui sầu”
Chúng ta nghĩ tưởng rằng, ta kinh nghiệm thế giới thực hữu, nhưng thế giới như
vậy chỉ là một cấu trúc ngôn ngữ, đánh lừa chúng ta và chúng ta bám chấp vào
các cấu trúc khái niệm như thể là tự thân của thế giới nên phải phiền não là
điều tất nhiên. Do vậy, phương pháp của Ngài Long Thọ, rõ ràng là phương pháp
“ngôn ngữ trị liệu“.
Trong lịch sử Phật giáo, Long Thọ đã tạo dựng nên một nền “triết học” hẳn hoi,
qua đó, Ngài tìm cách chứng minh rằng thế giới hiện tượng không thật sự hiện
hữu. Đây thật ra là một kiến giải được chứng ngộ qua kinh nghiệm tu hành theo
Kinh Bát – Nhã.
Ngài đã y cứ trên lý thuyết “Mười hai nhân duyên” làm khởi điểm như một qui
luật nói lên bản chất của thế giới, bản chất đó là Không. Tính chất rổng không
của thế gian được Ngài minh thị bằng sự tương đối của các khái niệm vì các khái
niệm chỉ dựa lên nhau mà có và không có khái niệm nào tồn tại độc lập. Từ nhận
thức này dẫn đến mỗi sự vật cũng không thật có vì mỗi sự vật đều phải nương
trên các sự vật khác mà hiện hữu. Đây cũng là một lý luận về Tính không chính
là vô ngã; đồng thời nói lên rằng không có một nguyên nhân cơ bản mà chỉ có một
mạng lưới “duyên khởi“.
Vì ràng buộc trong một mạng lưới duyên khởi thì không thể nào tìm thấy trong
thế giới này các sự vật tồn tại độc lập, tự sinh, tự khởi. Thế giới hiện tượng
chỉ gồm các sự vật chịu tác động của sự hoạt diệt nên thế giới đó chỉ có thể là
Không, theo ý nghĩa là thiếu vắng cái ngã tính hoặc là không tự tính.
Thế giới hiện tượng có thể biểu hiện như thể là chúng có thật, nhưng do chúng
phụ thuộc nên chúng tồn tại giả hợp, không thể nói là thực sự hiện hữu. Mặt
khác, hiện tượng lại biểu hiện với giác quan, và tâm thức khái niệm của chúng
ta và chỉ hoạt dụng thông qua sự phụ thuộc của chúng vào cái “khác“. Thế nên
không thể nói nó không hiện hữu.
Hiểu được rằng hiện tượng vượt trên cả hiện hữu và không hiện hữu đưa ta đến
với “Trung đạo” của Đức Phật. Các hiện tượng là hư huyễn như giấc mơ, như cầu
vồng ngũ sắc.
Chúng chỉ đơn thuần xuất hiện, ta thực chứng nó là như vậy, đưa chúng ta đến
với sự hiểu biết trong trẻo về thực tại vượt khỏi các biên kiến có – không, về
thực tại rỗng không, thoát tất cả những sắp đặt kết cấu của khái niệm, của ngôn
ngữ ước lệ.
Biểu hiện không phải thứ ta đặt nghi vấn. Điều phải nghi vấn là trạng thái tồn
tại chân thực của hiện tượng. Chúng ta đang nhìn vào sự khác biệt giữa cách mọi
thứ biểu hiện với chúng ta và cách chúng “thực sự là“
“Cuộc đời chi lạ cuộc đời!
Ngày về bỗng nhớ phương trời đã đi”
(Hoài Khanh)
Theo Ngài Long Thọ, thế giới hiện tượng thì đa thù, trên đó con người “tưởng
tượng” ra nên ta lầm tưởng có một thế giới bên ngoài thật. Trong chân lý tuyệt
đối hay sự thật tối hậu, thì lại vắng bóng cái đa thù hay dập tắt của các ý
niệm, hay là sự dập tắt của những ý niệm của ta về hiện hữu – đó là Tánh không
hay Niết bàn. Theo Long Thọ, Niết bàn và thế giới hiện tượng chỉ là một, là hai
mặt của một cái duy nhất hay cái “nhất thể“.
Tính nhất thể của Tánh không, không phải là “cái một” theo nghĩa đối lập với
“cái vô số“. Nó là trạng thái vượt trên một hoặc hai, vượt trên chủ thể và đối
tượng, vượt trên cái tôi và phần thế giới ngoài tôi. Khi thực chứng tánh không,
vọng tưởng của ta, sự phân biệt nhị nguyên sai lầm về chủ thể và đối tượng sẽ
rơi rụng. Tức khắc, ta thoát khỏi gánh nặng gây ra bởi niềm tin vi tế ẩn núp
trong tâm, rằng mọi thứ có bản chất tách rời và có tự tính.
Vượt qua sự bám chấp, nỗi sợ hãi và vọng tưởng đó là thực chứng tánh không,
thực chứng chân lý. Khi trí kiến Tánh không loé lên trong trải nghiệm, dù trong
khoảnh khắc, thì sự bám chấp cái ta tự động huỷ diệt. Lúc đó nỗi khổ cá nhân
chúng ta và nỗi khổ của thế giới bên ngoài không là gì khác nhau, ngoài thế
giới bên trong và bên ngoài mà vọng tưởng của chính ta tạo ra luân hồi. Và
trong khoảnh khắc đó, ta trải nghiệm được hương vị giải thoát.
Theo trải
nghiệm của những nhà khoa học hiện còn sống thế kỷ hiện nay, có ít nhất ba cuộc
khủng hoảng nghiêm trọng, trong đó có hai cuộc khủng hoảng về vật lý, cuộc
khủng hoảng thứ ba xảy ra trong toán học. Đó là cuộc khủng hoảng về nhận thức
mà nội hàm là tìm kiếm phương pháp đứng đắn, chặt chẽ để đưa ra một chứng minh
toán học. Godel đã trình bày dưới dạng toán học rằng ngôn ngữ không thể bắt kịp
với tất cả những gì tồn tại trong thế gian, hay không có một dạng toán học nào
đủ thông minh để biểu hiện đầy đủ khái niệm chân lý hàng ngày. Từ đó suy ra
rằng, hoặc phần lớn tư duy con người là sai hoặc logic chỉ tác động trên một
phạm vi hẹp.
Biện chứng pháp của Ngài Long Thọ trong lý thuyết Tánh không, đi sâu phân tích
và tìm hiểu nguyên gốc cấu thành của thế giới vạn hữu. Để thực hiện được điều
đó phải sử dụng tri thức, nhưng tri thức thuộc thế tục đế, vốn tự bản chất là
nhị nguyên đối đãi. Tính nhị nguyên phải dựa vào ngôn ngữ và ý tưởng, ngôn ngữ
và ý tưởng song hành xuất hiện hoàn toàn là tri thức chủ quan. Kiểu nhị nguyên
này không chỉ thắm sâu vào kiến giải cốt lõi của chúng ta mà còn thâm nhập vào
những trải nghiệm ngoại vi, những điều vụn vặt thường ngày.
Theo Ngài, ta vượt qua rào cản của ngôn ngữ và ý tưởng tức thế tục đế – để ngộ
nhập đạo lý Tánh không, khi đó tâm thức sẽ được thong dong trước mọi thứ và
được trải nghiệm một sự bình an sâu thẳm, mọi sự vật sẽ xuất hiện như nó là một
thực tại trần trụi được hiển lộ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét