Trịnh Công Sơn với sự hồi sinh
của một cố đô rêu phong
của một cố đô rêu phong
Bửu Nam
Nhân giỗ đầu nhạc sĩ Trịnh Công
Sơn, tạp chí Sông Hương đã giới thiệu bài viết về anh. Dù cách nhìn, cách
đánh giá hiện thời còn có chỗ khác nhau nhưng chắc chắn rằng tên tuổi và nhạc
phẩm Trịnh Công Sơn sẽ còn mãi với mai sau.
Tuổi trẻ Huế thuở ấy; nỗi lòng; khí phách và khát vọng.
Thế hệ của chúng tôi, hiểu theo nghĩa rộng: thế hệ cùng tuổi của một thời đại, đều nặng lòng với thân phận của quê hương chiến tranh đói nghèo. Cũng nặng lòng với giấc mơ hợp nhất tổ quốc, giấc mơ của sự độc lập thoát khỏi thân phận của người nô lệ da vàng.
Thế hệ của chúng tôi, hiểu theo nghĩa rộng: thế hệ cùng tuổi của một thời đại, đều nặng lòng với thân phận của quê hương chiến tranh đói nghèo. Cũng nặng lòng với giấc mơ hợp nhất tổ quốc, giấc mơ của sự độc lập thoát khỏi thân phận của người nô lệ da vàng.
Những con người trẻ tuổi thời xưa ấy, thời đất nước còn cách chia
và chiến tranh ấy, do định mệnh ở hai miền Bắc, , nên có thái độ hành sử khác
nhau. Tuổi trẻ miền Bắc đi vào cuộc dấn thân lịch sử dễ dàng như hít thở khí
trời, như trở một bàn tay.
Còn thế hệ trẻ tuổi miền thuở ấy phải dò dẫm trong lo âu, tìm đường, định hướng với những bóng tối trong mạch máu nghi hoặc, phải với một hành trình dằng dặc để nhận diện lại quê hương, nhân dân, và phận mình. Từ nhận diện đến tỉnh thức, từ tỉnh thức đến hành động cho một quê hương hòa bình thống nhất, cho một vận hội mới trùng tu lại cái xứ sở mà cuộc chiến tranh dài dằng dặc những bóng chinh phu, các chinh phụ, những người tình, người vợ chờ đến hóa đá bên chân trời đăm đăm, những bà mẹ già lòng quặn thắt đớn đau bị rứt khỏi những vòng tay tình yêu, những đứa con ruột rà quẳng vào lò lửa cuộc chiến...
Còn thế hệ trẻ tuổi miền thuở ấy phải dò dẫm trong lo âu, tìm đường, định hướng với những bóng tối trong mạch máu nghi hoặc, phải với một hành trình dằng dặc để nhận diện lại quê hương, nhân dân, và phận mình. Từ nhận diện đến tỉnh thức, từ tỉnh thức đến hành động cho một quê hương hòa bình thống nhất, cho một vận hội mới trùng tu lại cái xứ sở mà cuộc chiến tranh dài dằng dặc những bóng chinh phu, các chinh phụ, những người tình, người vợ chờ đến hóa đá bên chân trời đăm đăm, những bà mẹ già lòng quặn thắt đớn đau bị rứt khỏi những vòng tay tình yêu, những đứa con ruột rà quẳng vào lò lửa cuộc chiến...
Trong cái tuổi trẻ chung của các đô thị miền
Nam ấy, tuổi trẻ của cái xứ Huế tĩnh lặng trầm mặc ấy của lăng miếu trùng vây
và của tiếng thở dài, của thành quách rêu phong lở lói vết tích thời gian ấy,
đột khởi một cơn bão lớn của phản chiến, đòi Hòa Bình và cũng của những ánh
thép, của những ngọn lửa cất cao ngùn ngụt của tình thương và cũng là ngọn lửa
cháy bùng của lòng yêu nước. Ngọn lửa của một ước mơ mai này hòa bình, mai này
thống nhất Huế- Sài Gòn-Hà Nội, mai này trùng tu lại một quê hương tan hoang đổ
nát, những ruộng đồng làng mạc bỏ hoang, những ngôi nhà sụp nát như những con
mắt linh hồn hoang vu, những cây cầu gẫy đổ nhịp giữa những giòng sông chới với
nỗi sầu muộn. Cũng là ngọn lửa của khát khao xây dựng lại một quê hương bình
an, xanh thắm hiện hữu thực bên ngoài. Và cũng là ngọn lửa mơ trùng tu lại quê
hương bên trong tâm hồn còn đầy những hiềm thù nghi ngại, đầy những biên giới
cách chia cảnh giác giữa những người cùng màu da, cùng tiếng nói, cùng cội
nguồn.
Tuổi trẻ Huế thuở xa xưa ấy đã trở thành ngòi
nổ và ngọn lửa của bão táp thổi dọc miền Trung vô Nam làm bùng cháy một cơn bão
lửa lớn hơn rồi quay trở ra lại Huế tiếp sức một đợt sóng cháy bùng mới. Ngọn
lửa ấy diễn tiến trong cái chu trình đi, về, đấu tranh sục sôi của phong trào
đô thị yêu nước miền Nam, chảy suốt một dọc thời gian khởi nguồn từ biến động
năm một chín sáu ba trãi dài cho đến tháng ba một chín bảy lăm.
Có hiểu nỗi lòng, khí phách, khát vọng của
Tuổi trẻ Huế, mới hiểu được thái độ dấn thân của trí thức văn nghệ sĩ. Những
Ngô Kha, Trần Quang Long, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Trần Vàng
Sao, Cao Huy Thuần, Thái Kim Lan, Nguyễn Đắc Xuân, Thái Ngọc San, Trần Phá
Nhạc, Võ Quê, Trần Hoài, Nguyễn Xuân Hoa... và đặc biệt Trịnh Công Sơn. Tuổi
trẻ đó lại in đậm một tâm thức Huế thẳm sâu.
Tâm thức Huế và người nghệ sĩ.
Dữ dội, bạo liệt trong cái chốn tịch lặng,
thâm u ấy. Khí phách hiên ngang của thanh kiếm trắng trên giòng trường giang
giữa cái cõi dịu dàng thơ mộng ngát thơm hương của giòng sông Hương u hoài ấy.
Tính cách Huế, cõi nội tâm sâu thẳm Huế là một
sự tổng hợp hài hòa của một phép biện chứng kỳ lạ của những sự trái ngược,
tương phản cực đoan, khủng khiếp trên.
Giữa cõi thực và cõi mơ, giữa bạo liệt và tĩnh
lặng, giữa hào hùng và dịu dàng, giữa chiêm nghiệm của triết gia, thi sĩ, nhà
tu hành với hành động dấn thân của nhà hoạt động xã hội, của chiến sĩ, lặn sâu
vào vòng xoáy của phận người, phận quê hương, phận dân tộc.
Phạm Duy, có lần có nhận xét về tính cách Huế
ấy khi đối chiếu so sánh tình yêu của một người con gái ở ba miền Trung Nam Bắc
khi bị thất tình. Người con gái xứ Bắc khi thất tình thì điên giả như Xúy Vân
giả dại, xứ Huế thì đâm đầu xuống sông tự tử, xứ sẽ đốt chồng như cô Quờn...
Theo tôi, đó là nhận xét và một phép so sánh
lý thú, từ đó nảy bật một cách hiểu về cái nét cực đoan của tính cách Huế: Tình
yêu quá mức hay nói rộng ra yêu cuộc sống quá mức đã bao hàm yêu cả cái chết và
sự vô vọng, tuyệt vọng.
Và cũng có thể nói từ trong sự vô vọng, tuyệt
vọng kia, từ trong cõi âm u của sự chết kia, đã bao hàm sự sống, sự phục sinh,
giữa tro tàn và khát vọng của huyền thoại xa xưa về ngọn lửa, cái chết và chim
Phượng hoàng.
Cõi cỏ hoa, cảnh sắc kiều diễm này, một thung lũng được đắp bồi do
phù sa của những nhánh sông, nhưng được chở che bởi dãy Trường Sơn và Biển Đông
này là sự hội tụ của “văn hóa biển” và “văn hóa rừng” của những gì mênh mông,
bát ngát, thẳm sâu và huyền bí. Từ đó, kết tinh trong Huế một chất tâm linh sâu
thẳm, chất lãng mạn mơ màng và chất đời thường tinh tế, nhưng cũng mãnh liệt
sục sôi những giòng ngầm.
Cái quê quán tôi xưa của uyên nguyên vĩnh hằng cũng kết hợp với quê quán cỏ hoa, cây lá có thực. Đó là cõi đi về của tâm hồn Huế và cũng là bản chất nghệ sĩ của Huế và người Huế hiểu theo nghĩa rộng. Chất cổ truyền xa xưa nhất và chất hiện đại nhất cũng được kết hợp ở đây.
Cái quê quán tôi xưa của uyên nguyên vĩnh hằng cũng kết hợp với quê quán cỏ hoa, cây lá có thực. Đó là cõi đi về của tâm hồn Huế và cũng là bản chất nghệ sĩ của Huế và người Huế hiểu theo nghĩa rộng. Chất cổ truyền xa xưa nhất và chất hiện đại nhất cũng được kết hợp ở đây.
Huế cũng là một trong những trung tâm của tôn
giáo. Từ Tiên thánh giáo “dân dã bí ẩn”, đến cái chất “thiền và tịnh độ” siêu
thoát, tự tại ung dung của Phật giáo, đến cái chất nhân vị huyền hoặc của một
“Phúc âm buồn”: tuẫn nạn trên cây Thập Tự Đời để rồi cũng “Phục Sinh” chính ở
giữa cõi trần này trong Thiên chúa giáo. Đụng đầu, đấu tranh, hay tách riêng ai
sống phận nấy, hoặc kết tủa thành các lớp địa tầng tâm hồn, các tôn giáo này
cũng tạo nên tâm thức Huế.
Tâm thức Huế qua các văn nghệ sĩ tiêu biểu: Ngô Kha, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Bửu Chỉ....
Tâm thức Huế ấy được kết tinh trong cõi lòng
của các văn nghệ sĩ tiêu biểu của Huế, ở những mức độ đậm nhạt khác nhau.
Trong cái thế hệ cùng tuổi thời đại của đất
nước bị chiến tranh và chia cắt ở Huế, theo tôi, bốn nghệ sĩ đặc trưng nhất cho
tâm thức Huế đó là: Ngô Kha, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trịnh Công Sơn, và Bửu Chỉ.
Bốn nghệ sĩ này vốn có một tình bạn gắn bó với
nhau qua những ngôn ngữ nghệ thuật khác nhau, tuy thể hiện cùng một tâm thức
Huế theo cách riêng của mình và có ảnh hưởng lẫn nhau và lên nhau trong cuộc
sống lẫn các tác phẩm.
Ngô Kha chủ yếu thể hiện trong ngôn ngữ thơ từ
“Hoa cô độc”, “Ngụ ngôn người đãng trí” đến “Trường ca Hòa Bình” và “Mai có Hòa
bình” là một sự vận động từ cái riêng của thân phận mình đến cái chung của thân
phận dân tộc quê hương.
Từ cái tôi cô đơn, “tân lãng mạn” với cõi tình
của tập thơ “Hoa cô độc” đến cái hư hư thực thực đi về giữa hai cõi mê và tỉnh
siêu thực ở “Ngụ ngôn người đãng trí“ ở cõi phận mình với cõi tình và cõi
người, đến sắc độ “thực” về thân phận quê hương trong “Trường ca hòa bình”,
“Mai có hòa bình”, ở đó là sự thâm nhập một hồn thơ vào cõi thực hiện hữu lịch
sử: một sự chọn lựa dứt khoát của dấn thân.
Hoàng Phủ Ngọc Tường chọn cái thể tản văn
phóng túng kết hợp và hòa tan cái chất thơ, chất triết lý và chất uyên bác của
mình.
Anh đi từ cái cõi khói sương lãng đãng của cái
chết đến thân phận lịch sử mang tính dấn thân cao (trong Tập ký “Rất nhiều ánh
lửa”) đến trở về bốn mùa thiên nhiên (“Ai đã đặt tên cho một giòng sông”, “Hoa
trái quanh tôi”) rồi trở lại cái cõi uyên nguyên của vô thường trong “ngọn núi
ảo ảnh”.
Bửu Chỉ trong các tranh bút mực phản chiến
trước 1975, đã thể hiện trong trong ngôn ngữ hội họa điều mà Trịnh Công Sơn thể
hiện trong ngôn ngữ ca khúc ở các tập “Ca khúc da vàng”, phụ “Ca khúc da vàng”,
“Kinh Việt Nam”, “Ta phải thấy mặt trời”. Họ là hai anh em song sinh cùng tâm
thức và thái độ dấn thân với hai hình thể ngôn ngữ nghề nghiệp khác nhau.
Từ sau giải phóng 1975 đến 1990, tranh Bửu Chỉ
đi vào con đường hiện thực và đã có một số họa phẩm thành công, nhưng chính từ
1991 đến nay, anh đã tìm được một ngôn ngữ hội họa triết lý và biểu tượng với
những gam màu rực rỡ mà lại phảng phất u buồn để diễn tả tâm linh mình trước vũ
trụ, cuộc đời và cõi thế nhân.
Trịnh Công Sơn thì đi về giữa cõi tình đến cõi phản chiến dấn
thân, rồi trở về với cõi phận mình. Sau 1975 với thử nghiệm đi vào cõi thực ít
thành công, anh trở lại với cái chất tình ca và chất triết lý vô thường và cũng
kết hợp với chất cõi thực nhưng mang màu sắc tâm linh hơn (Huyền thoại mẹ, Sóng
về đâu, Tôi ơi đừng tuyệt vọng...).
Đặc trưng nhất của tâm thức Huế: Trịnh Công Sơn.
1. Dưới đây chúng tôi chỉ muốn đề cập đến một
trường hợp đặc trưng nhất của tâm thức Huế: Trịnh Công Sơn và thế giới ca khúc
của anh, nhân năm giỗ đầu của anh, đặc biệt là đề cập đến cái chất “tâm linh
Huế” trong thế giới đó.
Tuy nhiên, lễ kỷ niệm một năm ngày mất của
anh, lại trùng với sự kiện quan trọng đang được chuẩn bị trong đời sống thành
phố Huế: Festival 2002.
Từ Festival 2000 đến Festival 2002, cố đô rêu
phong này đã hồi sinh mạnh mẽ về văn hóa - du lịch và ngay cả trong đời sống
của người dân. Tôi thử đặt ra một vấn nạn trong cuộc hồi sinh của cố đô đó, di
sản nghệ thuật của Trịnh Công Sơn còn đóng góp được gì cho sự phát triển chung
của thành phố Huế- Festival?
2. “Về Huế tháng ba. Trời đẹp, ở Morin, nơi
này xưa kia Charlie đã từng ở. Thấy vui vì Huế như được phục sinh...”
(...) “Đây là thời kỳ phục sinh, Huế được
“sống lại”, sống bền bỉ thì tốt biết bao nhiêu! Bởi vì một thành phố “sống lại”
thì “tất cả những gì, ai ở trong thành phố đó hoặc những ngành nghệ thuật có cơ
hội sống lại”.
Đó là những lời người nhạc sĩ tài hoa, đứa con
dấu yêu của đất Thần kinh đã viết, đã nói trong cuộc phỏng vấn của Văn Cầm Hải
vào ngày 27/3/1978 tại Huế. (Văn Cầm Hải là một người làm phỏng vấn rất hay.
Tôi cũng từng làm cùng công việc ấy và rất khâm phục, bởi anh biết nắm bắt được
tư tưởng và cảm quan nổi bật, nỗi lòng và cả mơ ước khát vọng của người nghệ
sĩ. Vừa rồi trên Sông Hương, số Tết Xuân Nhâm Ngọ, anh đã thực hiện một phỏng
vấn hay về Nghệ sĩ đạo diễn phim “Đặng Nhật Minh”, người mà tôi đã từng thực
hiện “hụt”.)
Cảm nhận của Trịnh Công Sơn về sự phục sinh
của thành phố Huế, mong ước của anh về sự “sống lại” bền bỉ của Huế, lập luận
bởi vì... của anh đã cho thấy tấm lòng của đứa con của Huế dù có “ở trọ” tít xa
ở thành phố phương Nam, vẫn trĩu nặng đau đáu đối với một chốn quê hương, một
“cõi đi về”, một “quê quán tôi xưa”.
Anh là một đứa con xuất sắc của Huế trong lĩnh
vực ca khúc âm nhạc. Chính anh cũng tự nhận mình là người được sinh ra, nuôi
dưỡng bởi khí chất của Huế, tâm linh của Huế.
“... Địa lý theo tôi rất quan trọng. Tâm hồn
của mình ít nhiều nhờ một vùng đất đặc biệt nào đó nuôi dưỡng, nó phả vào tâm
hồn một điều rất lạ và độc đáo. Ấy nên, có những giọng nói khác nhau ở mỗi
vùng, thực sự trong âm nhạc và nghệ thuật cũng vậy. Có nhiều người than phiền
và trách tôi tại sao tôi ở Huế mà không viết về Huế. Tôi nói tất cả các bài hát
của tôi đều viết về Huế. Thường khi như bài hát Nhớ mùa thu
Hà Nội, mình không phải là người Hà Nội nên phải dùng từ “Hà
Nội” để người ta biết mình viết về vùng đất đó như những người không phải đứa
con của Huế thì hay dùng từ Huế.
Tôi không nói về Huế, nhưng tất cả các bài hát
của mình đều là của “Huế” cả.
(...) Thậm chí “Một cõi đi về” cũng là Huế chứ không thể ở chỗ khác mà viết được (Bài phỏng vấn trên, I, trang 206, 207).
(...) Thậm chí “Một cõi đi về” cũng là Huế chứ không thể ở chỗ khác mà viết được (Bài phỏng vấn trên, I, trang 206, 207).
Những hình ảnh của Huế dày đặc trong ca khúc
của anh. Anh đã từng chỉ ra vài ví dụ mưa Huế, lăng miếu, tiếng thở dài rất
buông trùm xa xôi, tiếng khóc của bào thai (ở đường Âm hồn mới có những hồn
thai với những ngọn đèn leo lét trong am miếu”...) trong những lời ca từ của
anh.
3. Khánh Ly, một ca sĩ nhờ hát nhạc Trịnh Công Sơn mà nổi tiếng,
và chính Trịnh Công Sơn cũng ngược lại nhờ tiếng hát Khánh Ly mà làm xao động
tâm hồn hàng triệu con tim, người mà anh từng phát biểu “Còn Khánh Ly là một sự
may mắn tình cờ, không phải riêng cho tôi mà cả Khánh Ly”. Chính người ca sĩ
này cũng đã từng nhận xét:
“Trịnh Công Sơn là một người Huế chay”.
“Trịnh Công Sơn là một người Huế chay”.
Chính qua cái con người thân thương nhất đối
với đời mình, với “những kỷ niệm, ấn tượng với con người đó ở một vùng đất đặc
biệt, người ta có thể yêu tha thiết đắm say một vùng đất. Khánh Ly viết:
“Một thứ tình lạ thường đã trói buộc Huế trong
trái tim tôi. Một trói buộc mơ hồ nhưng mạnh mẽ, đằm thắm. Tôi lớn trong hơi
thở có Huế. Chính Huế cho tôi hơi thở.”
(Bài “Trịnh Công Sơn và thời
tôi còn trẻ”,IV, TCS, Rơi lệ ru người, NXB Phụ nữ, trang 165)
Không chỉ Khánh Ly mà hầu như tất cả bạn bè
của Trịnh Công Sơn đã từng nói tới cái chất Huế sâu nặng trong thế giới ca khúc
của anh. Những người bạn thân nhất của anh như Đinh Cường, Hoàng Phủ Ngọc
Tường, Bửu ý, Trịnh Cung, Cao Huy Thuần, Thái Kim Lan... đều nói những ấn tượng
Huế, kỷ niệm Huế với Trịnh Công Sơn và âm nhạc của anh.
4. Không chỉ là lời của ca từ và hình ảnh của
nó trong âm nhạc của Trịnh Công Sơn mới là Huế mà ngay cả cái nhịp Récitativo,
tâm tình nói kể than vãn như một tiếng thở dài, cái điệu blues của cung la thứ
sầu thảm u hoài có nguồn gốc trong âm nhạc da đen kia, những bản spirituals
(tâm ca, kinh ca), có cội nguồn Thánh ca Thiên chúa giáo và thiền ca của Phật
giáo kia cũng mang cái chất tâm linh của Huế.
Ngay cả cái chất lãng đãng khói sương, hát về
giấc mơ đời hư ảo kia cũng là linh hồn Huế được phả vào tâm linh người nhạc sĩ,
dĩ nhiên theo cách riêng của anh, chất Huế riêng của phong cách của anh.
Ngay cả đối tượng, để giải bày nỗi lòng chủ
yếu của anh về mọi cung bậc cuộc sống, người Tình, một hình bóng “em” mơ hồ nào
đó cũng là cái chất lãng mạn mơ mộng của Huế.
5. Cả cái cảm quan nghệ thuật biện chứng siêu
thoát tâm linh của thế giới ca khúc âm nhạc Trịnh Công Sơn, sự biện chứng giữa
vĩnh cửu và khoảnh khắc, thực và mơ, hiện tại sầu muộn và mơ ước tương lai,
giữa đi và ở, đi và về, trộn lẫn các không gian biển, rừng, phố, lẫn thời gian,
thiên thu vĩnh hằng và cái biến dịch, cái nỗi nhớ khôn nguôi ngoai chốn quê xưa
của uyên nguyên tâm linh, cỏ hoa, thời tiết bốn mùa, mây, gió, núi, sông, sương
cũng là của trời đất Huế được các sắc điệu của ý tình, cảm xúc Trịnh Công Sơn
nhào nặn để trở một linh hồn Huế dưới cái nhìn nghệ thuật riêng của Trịnh Công
Sơn. Cả cái không khí thời đại của phong trào đấu tranh đòi hòa bình, phản
chiến, mơ về thống nhất của phong trào đô thị tuổi trẻ Huế từ những năm 63 đến
75 cũng âm vang trong chất nhạc của anh và ngược lại nó tác động lại sâu đậm phong trào này.
6. Có thể cái chất Huế của TCS có cội nguồn từ kinh nghiệm sống,
sự nghiệm sinh của anh mà những lớp phù sa Huế đắp bồi dần dần trong bãi bờ của
tâm hồn anh.
Các ấn tượng, cảm giác, tri giác về Huế được thu nhận vô hình, có tính chất tiềm thức và vô thức, dần dần được kết tinh nhờ liên tưởng và tưởng tượng, nhờ cái tình, cái cảm xúc của anh trong mọi khoảnh khắc cuộc sống tạo tác nên.
Các ấn tượng, cảm giác, tri giác về Huế được thu nhận vô hình, có tính chất tiềm thức và vô thức, dần dần được kết tinh nhờ liên tưởng và tưởng tượng, nhờ cái tình, cái cảm xúc của anh trong mọi khoảnh khắc cuộc sống tạo tác nên.
Cội nguồn đó là chất thiền của các ngôi chùa
Huế, chất thế giới thiên đường - trần gian lưỡng diện của Thiên chúa giáo mà
những ngày anh học ở trường Pellerin, Providence xưa kia.
Rồi cái ngày phát hiện ra năng khiếu âm nhạc
và sáng tác, những mối tình đầu đưa mộng, chất suy ngẫm triết lý từ những trang
sách triết, đặc biệt là triết Hiện sinh, cái thế giới lãng đãng của “Tuyệt tình
cốc” và căn hộ ở đường Nguyễn Trường Tộ, cái thế giới bạn bè nghệ sĩ đã tác
động đến anh và ngược lại anh cũng tác động lại đến họ cũng là chất Huế tạo
dựng nên anh.
Rồi sự ám ảnh về cái chết đột ngột của người cha, cũng là ám ảnh
về “sự vắng mặt”, nó tạo ra sự thức ngộ biện chứng giữa sống/chết, vắng mặt/
hiện diện, một thứ biện chứng của các nghịch lý thấm đượm trong thế giới ca từ
và giai điệu của anh mà Cao Huy Thuần đã phân tích rất hay ở bài “Buồn bã với
những môi hôn”. Chính ám ảnh vắng mặt này đã tạo nên hình tượng “Nhớ” xuyên
thấm trong các ca khúc của anh.
7. Chất tâm linh Huế này không chỉ bó hẹp
trong tính địa phương của nó. Mà nó mở rộng tiếp thu, cảnh sắc khí chất của
nhiều miền đất nước, mà người nhạc sĩ đã trải nghiệm trong thế giới thực và mơ:
đó là biển Quy Nhơn, núi, đồi, thung lũng, sương mù, thác, đèo của Blao và Đà
Lạt, rồi thế giới huyên náo và tĩnh lặng của Sài Gòn, thế giới của giấc mơ về
Hà Nội...
Chất tâm linh Huế này hòa quyện với chất quê
hương dân tộc. Cái nhìn của anh còn mở rộng ra ở bình diện nhân loại: do vậy,
dù viết về thân phận con người, tình yêu, hay thân phận quê hương, chúng cũng
trở thành những huyền thoại lung linh. Cái nhìn về sự hiện hữu của các thân
phận hữu hạn ấy được đặt chồng trên bình diện vũ trụ vô hạn, do vậy luôn luôn
có hai thời gian sóng đôi, phản chiếu, như “vang và bóng” đó là thời gian vô
thủy vô chung, vĩnh cửu của vũ trụ và thời gian hữu hạn của con người. Từ đó
nổi bật cái tính vô thường, cái ở trọ của cõi đi về này. Cái thế giới trần gian
cũng chỉ là những bước loanh quanh mỏi mệt trong cái vô cùng trời đất kia. Chất
ngậm ngùi của nỗi đau toát ra từ triết lý nghiệm sinh đó.
8. Chất hiện sinh trong thế giới ca anh không
chỉ đến từ triết lý hiện sinh phương Tây, giữa lưu đày và quê nhà, giữa cái phi
lý phải chọn lựa để “gió hàm oan” còn thổi mãi mà còn chất hiện sinh “sống hết,
sống tận cùng với mỗi sát na” của Thiền gia. Sống một cách ung dung tự tại với
mọi thứ. Dù từng bị chẻ ra từng trăm mảnh nhỏ, dù từng bị nghi ngại cả hai
phía, bên này quê hương và phía bên kia, anh đã vượt qua để sống với chính
mình, tự phục sinh lấy mình, để tồn tại giữa lòng của mọi người và quê hương và
được yêu mến.
9. Cái ngôn ngữ tân kỳ mà đôi khi rất giản dị
của thế giới ca từ của anh nhờ mơ mà đi tới thực và từ thực mà đi tới mơ, từ
riêng đi đến chung, từ chung đi tới với chính mình. Các hình ảnh của vũ trụ và
thiên nhiên được phóng chiếu bởi cảm thức của tâm linh người nhạc sĩ với những
cung bậc và trạng thái cảm xúc khác nhau, để nó mang linh hồn của người nhạc sĩ
hòa quyện trong một thể đồng nhất con người - vũ trụ, vũ trụ - con người.
(Chẳng hạn, Ngày mai em đi, Biển nhớ tên em... Cánh diều rơi cho vực thẳm
buồn theo...)
Sự tương hợp giữa các giác quan (nghe tiếng
hát xanh
xao của một buổi
chiều), sự tương hợp của tâm hồn cá nhân và tâm hồn vũ trụ vốn là đặc trưng của
chủ nghĩa tượng trưng đã phủ thêm sắc màu của chủ nghĩa siêu thực để dẫn dắt ngôn
từ đi theo một trục liên tưởng của tiềm thức, vô thức gắn kết kiến trúc âm vang
và sự dẫn dắt tự động của ngôn từ, ca khúc tạo nên sự tân kỳ trong ngôn ngữ ca
từ rất thơ của anh.
10. Chất mặc khải, tiên tri cũng là chất đặc
biệt trong thế giới ca từ của anh. Sự tiên tri về thống nhất, hòa bình, về dựng
xây và cả những giả sử chiêm nghiệm ngắm nhìn cái chết, sự vô vọng, nỗi buồn
của “một cái tôi” để rồi từ đó, “một cái tôi khác” thoát ra khỏi nó một cách
ung dung thanh thoát.
11. Trịnh Công Sơn đã mất gần tròn một năm.
Đám tang của anh, đông đảo chưa bao giờ từng có đối với một nghệ sĩ. Cái đám
tang đông đảo hâm mộ và tiếc thương của mọi thành phần kia phải chăng là một sự
đánh dấu cho sự thành công của thế giới ca khúc của anh trong lòng mọi người.
Sự vinh quang sau cùng của nghệ sĩ là ở chỗ đó.
Năm tập sách viết về người nhạc sĩ ra đời
trong vòng mấy tháng với các nhà xuất bản khác nhau quy tụ các bài viết của
nhiều khuôn mặt trí thức văn nghệ sĩ, nhà báo có tiếng tăm là một biểu hiện
khác về sự kỳ diệu, kỳ vĩ của một thế giới nghệ thuật, một sự nghiệp, một con
người.
Là một đứa con của Huế, anh đã trở lại làm
rạng rỡ Huế, và tôi nghĩ rằng mơ ước của linh hồn anh là trở về lại với Huế,
bởi anh xem quê hương này là “một cõi đi về” của tâm thức mình.
Đặc biệt tôi có cảm tưởng rằng linh hồn ấy
chắc sẽ rất mừng vui với sự phục sinh của Huế, của cố đô rêu phong, khi nó thay
da đổi thịt để trở thành một thành phố Festival - một biểu hiện cụ thể hóa
trung tâm du lịch - văn hóa của cả nước, vì đó theo tôi nghĩ đó cũng là giấc mơ
của anh, cũng như giấc mơ của mỗi người con xứ Huế chỉ là giấc mơ đời hư ảo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét