Trịnh Công Sơn chánh
quán Huế, làng Minh Hương, tổ tiên gốc Trung Hoa. Làng Minh Hương nay sát nhập
vào Bao Vinh thành xã Hương Vinh. Bao Vinh là thương cảng của Huế ngày xưa.
Anh sinh ngày 28 tháng 2
năm 1939, tại Lạc Giao, tỉnh Ðắc Lắc, lớn lên trong một gia đình buôn bán giữa
trung tâm thành phố Huế. Nhà đông anh chị em, ba trai năm gái, mà anh là con
trưởng. Tuy có thăng trầm, nhưng nói chung là khá giả.
Trịnh Công Sơn
"Tuổi đá buồn" - Tranh của Bửu Chỉ (Sưu tập Nguyễn Trọng Tạo, 50x80cm
- phiên bản duy nhất)
Trịnh Công Sơn theo học
chương trình Pháp, tại Trung học Pháp tại Huế, đến hết cấp 2. Năm ấy, 1955,
cùng lớp có ca sĩ Kim Tước (Giáo sư Decoux, dạy khoa học, thỉnh thoảng mang đàn
vĩ cầm vào lớp, đàn đệm cho học sinh hát). Lúc này Trịnh Công Sơn chơi guitare
đã hay. Trường giải thể, dời vào Ðà Nẵng, Trịnh Công Sơn có lúc theo học trường
Thiên Hựu, Providence ở Huế. Rồi chuyển vào Sài Gòn, học tại trường
Taberd, hay Jean Jacques Rousseau.. gì đó. Sau đó vào học trường Sư
Phạm Quy Nhơn, rồi đi dạy học vài năm tại Lâm Ðồng.
Anh tự học nhạc một
mình, và đã kể lại:
“Thưở ấy, tôi là một đứa
bé thích ca hát. Mười tuổi biết solfège, chép lại những bài hát yêu thích đóng
thành tập, chơi đàn mandolin và sáo trúc. Mười hai tuổi có cây đàn guitare đầu
tiên trong đời và từ đó sử dụng guitar như một phương tiện quen thuộc để đệm
cho chính mình hát.
Tôi không đến với âm
nhạc như một kẻ chọn nghề. Tôi nhớ mình đã viết những ca khúc đầu tiên từ những
đòi hỏi tự nhiên của tình cảm thôi thúc bên trong… Ðó là những năm 56 – 57 ,
thời của những giấc mộng ngổn ngang, của những viễn tưởng phù phiếm non dại.
Cái thời tuổi trẻ xanh mướt như trái quả đầu mùa ấy, tôi rất yêu âm nhạc nhưng
tuyệt nhiên trong tôi không hề gợi lên cái ham muốn trở thành nhạc sĩ… Dạo ấy
ba tôi đã mất …”
Những câu hỏi người tò
mò có thể đặt ra: một người chỉ học trường Pháp, giáo trình Việt ngữ rất hạn
chế và lỏng lẻo, khi đặt lời ca, sao có thể sử dụng tiếng Việt điêu luyện đến
như thế? Thỉnh thoảng anh viết truyện ngắn, tham luận, đều xuất sắc. Bạn bè
nhận được thư riêng, đều nhớ rằng Sơn chữ đẹp văn hay.
Tự học đàn hát, rồi sáng
tác một mình, Trịnh Công Sơn không thuộc một nhóm sáng tác nào, như những người
đi trước, như Lê Thương, Hoàng Quý trong nhóm Ðồng Vọng ở Hải Phòng, như Thẩm
Oánh, Dương Thiệu Tước trong nhóm Myosotis tại Hà Nội, nhóm Hoàng Mai Lưu tại Nam
Bộ. Cũng như sau này, anh sẽ tự học vẽ một mình.
Câu hỏi tò mò thứ hai:
tự học nhạc, rồi từ rất sớm đã lao mình vào đời sống sáng tác và tranh đấu, làm
sao anh có thể liên tục sáng tác khoảng 600 ca khúc, phần lớn được yêu chuộng?
Nói rằng Trịnh Công Sơn
là thiên tài, cũng dễ thôi. Nhưng trở thành thiên tài trên một đất nước như
Việt Nam, được thừa nhận là thiên tài trong một xã hội như Việt Nam – nhất là
sau cuộc đổi đời 1975 – thật không đơn giản.
Mục đích của bài này là
thử tìm hiểu sự hình thành của thiên tài Trịnh Công Sơn, thử giải mã hiện tượng
Trịnh Công Sơn và thử tìm hiểu vị trí của Trịnh Công Sơn trên những trầm luân
của đất nước, chủ yếu là khúc quanh 1975.
Về hoàn cảnh sáng tác
ban đầu, Trịnh Công Sơn đã tuyên bố với Vĩnh Xương, báo Ðất Việt, năm 1985: “Ðến
năm 1957, tôi sáng tác, gọi là để bạn bè nghe chơi. Sau đó thấy có
hứng thú sáng tác và thử viết thêm một số bài. Năm 1959, tôi viết bài Ướt Mi và
được bạn bè khích lệ. Tôi mới tìm sách nghiên cứu thêm về nhạc, trao đổi thêm
về nhạc lý với bạn bè. Sau đó, tôi phổ nhạc cho khoảng một chục bài thơ tình
yêu (như Nhìn Những Mùa Thu Ði chẳng hạn). Năm 63, tôi có một số sáng tác khá
thành công như Diễm Xưa, Biển Nhớ, Hạ Trắng. Từ đó, tôi đi vào con đường sáng
tác” [1].
Và từ đó, Trịnh Công Sơn
nổi tiếng.
Khi đặt câu hỏi: sao một
thanh niên, rất trẻ, chỉ học ỏtrường Tây mà sử dụng tiếng Việt tài hoa đến vậy,
tôi không có thành kiến – vì bản thân mình cũng chỉ học “trường Tây”- mà để tìm
hiểu nguồn sáng tạo trong ngôn ngữ.
Trịnh Công Sơn, có lẽ –
đây là giả thuyết dè dặt – không học nhiều văn chương Việt Nam được giảng dạy ở
nhà trường thời đó, nên không bị nô lệ vào những khuôn sáo trường quy, không
suy nghĩ bằng điển cố sẵn có, mà tạo được một hình thức mới cho lời ca. Lời ca
ấy sử dụng nhiều hình ảnh, biểu tượng bị xé lẻ, đi thẳng vào tâm tưởng người
nghe, mà không đòi hỏi họ phải hiểu nghĩa chính xác. Ví dụ bài Tình Sầu:
Tình xa như trời / Tình
gần như khói mây /
Tình trầm như bóng cây /
Tình reo vui trong nắng /
Tình buồn làm cơn say
… Cuộc tình lên cao vút
/ Như chim mỏi cánh rồi /
Như chim xa lìa bầy /
Như chim bỏ đường bay /
Mạch lạc nội tại
(cohérence organique) của ca khúc không dựa vào tương quan ý nghĩa: “tình
như trời xa” thì hợp lý, nhưng gần, sao lại như “khói mây”? “Tình
lên cao vút”, sao lại “như chim mỏi cánh rồi”? “Tình
reo vui trong nắng”, thì phải đối ngẫu với “tình buồn cơn mưa bay”
mới chỉnh, sao lại say sưa vào đây?
Thật ra, mạch lạc nội
tại được cấu trúc trên hình thức ngôn ngữ: những từ lặp lại: tình, chim, như,
những vần luyến láy: mây, cây, say, bay, những từ đối lập: xa/gần, vui/buồn.
Hình ảnh nối tiếp nhau, không cần ăn khớp với lý luận, lại được tiết điệu, âm
giai nâng đỡ, bay bổng, bay thẳng vào tâm tưởng người nghe.
Chúng ta thử so sánh, để
tìm hiểu chứ không phân định hơn thua, một lời nhạc tương tợ của Ðoàn Chuẩn:
Gửi gió cho mây ngàn bay
Gửi bướm muôn màu về hoa
Gửi thêm ánh trăng màu
xanh lá thư
Về đây với thu trần gian
…
Hai ca khúc na ná, vì
đều là ẩn dụ xâu chuỗi (métaphore filée), nhưng ca từ của Ðoàn Chuẩn được
cấu tứ theo ngữ nghĩa và quy ước, theo điển cố: gió+mây, bướm+hoa, gió+trăng,
trăng+thu. Nét mới là màu xanh lá thư bị xoá nhoè giữa những ước lệ được liên
kết thành một xâu chuỗi kiên cố, chặt chẽ quá làm mất chất thơ. Thêm vào đó là
những câu thất ngôn đường luật rất chỉnh chu:
Lá vàng từng cánh / rơi
từng cánh
Rơi xuống âm thầm / trên
đất xưa
Bài Gửi gió cho
mây ngàn bay rất hay, nhưng hay một cách khác, đựơc yêu chuộng ở một
giới thính giả khác.
Phạm Duy, thời trẻ, đã
có những sáng tạo tân kỳ:
Buồm về dội nắng đôi vai
Bao nhiêu màu hoa ngát
trên đôi môi
Tiếng Ðàn Tôi, 1947
Sau đó, anh trở về với
ngôn ngữ duy lý:
Bao giờ em giở lại vườn
dâu (hỡi em)
Là một câu thơ tuyệt
vời: vườn dâu là niềm thương nhớ muôn trùng một nền văn minh đã khuất bóng.
Nhưng Phạm Duy lại bồi thêm câu sau
Ðể anh bắc gỗ xây nhịp
cầu (anh) bước sang …
(Quê Nghèo, 1948)
Thì cái ý đã thu hẹp cái
tứ. Câu hát trở thành thô thiển, và giới hạn âm vang.
(Tôi đã có dịp trình bày
với anh Phạm Duy ý này, anh cười vui: thế à?)
Tác phẩmLê Thươnguyên
bác cả nhạc lẫn lời, đã đựơc người đời yêu thích.
Trịnh Công Sơn sẽ không
viết được những câu văn vẻ nhưLê Thương:
Bên Man Khê còn tung gió
bụi mịt mùng,
Bên Tiêu Tương còn
thương tiếc nơi ngàn trùng …
Hòn Vọng Phu
nhưng đã viết:
Ðàn bò vào thành phố
Reo buồn tiếng hạt
chuông
(…)
Ðàn bò tìm dòng sông
Nhưng dòng nước cạn khô
Ðàn bò bỗng thấy buồn,
bỗng thấy buồn
…
Những hình ảnh ngoài trí
tưởng tượng của Lê Thương – ông vua đặt lời ca – theo sự đánh giá của Phạm Duy.
Ði vào nền tân nhạc với
một tâm hồn mới mẻ, Trịnh Công Sơn đã dần dần xây dựng một nhạc ngữ mới, phá vỡ
những khuôn sáo của nền âm nhạc cải cách, thành hình chỉ hai mươi năm về trước.
[…]
Trịnh Công Sơn tự học
nhạc, chứ không được đào tạo theo hệ thống trường quy. Khi bắt đầu sáng tác,
được khích lệ, mới “trao đổi nhạc lý với bạn bè”, anh không nói rõ là những ai.
Câu hỏi thứ hai người tò
mò đặt ra là: học nhạc một mình, thì vốn liếng nhạc thuật lấy đâu ra mà sáng
tác nhiều, nhanh và hay, như thế?
Nhiều người cho là tác
phẩm anh đơn giản về mặt nhạc thuật, nói là nghèo nàn cũng được.
Văn Cao nhận xét: “Trong
âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc cổ điển, theo cấu trúc bác
học phương tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc, thơ tự nó
trào ra” [1].
Lối nhạc hồn nhiên, dung
dị này lại đáp ứng lại với yêu cầu thời đại, theo Phạm Duy:
“Về phần nhạc, toàn
thể ca khúc Trịnh Công Sơn không cầu kỳ, rắc rối vì nằm trong một số nhạc điệu
đơn giản, rất phù hợp với tiếng thở dài của thời đại” [1].
Một thính giả bình
thường, yêu quý Trịnh Công Sơn, đã viết sau khi anh qua đời: “Xét cho cùng, Trịnh
Công Sơn là một nhà thơ. Một nhà thơ lớn. Nhạc là cái xe tải anh
lắp lấy để chở thơ anh đến với chúng ta” (Vũ Thư Hiên, Varsovie, 4/2001). Nhận
xét chưa chắc đúng nhưng tiêu biểu.
Dù cho rằng nhạc thuật
đơn điệu, thì cũng phải thừa nhận tài năng, có phần học tập, có phần thiên phú.
Hoa hồng đẹp là do cây hồng, nhưng cũng còn nhờ vào đất đai, phân tro, mưa
nắng, người chăm sóc, thậm chí cần cả người ngắm, hoa hồng mới có giá trị cái
đẹp hoa hồng. Dù ở đây chỉ là một đoá vô thường.
Ta thử nhớ lại thời đại
phát sinh tài năng Trịnh Công Sơn.
Năm anh 15 tuổi, 1954,
Hiệp Ðịnh Genốve chia đôi đất nước, cả hai miền Nam Bắc đều hoá thân trong hoàn
cảnh chính trị và văn hóa mới.
Ở miền Nam, văn hoá
phương Tây tràn ngập thị trường, nhất định phải ảnh hưởng mạnh mẽ đến tuổi mười
lăm.
Sách báo, đĩa nhạc Pháp
du nhập ồ ạt vào Việt Nam hằng ngày, giá thực tế rẻ hơn tại Paris nhờ trợ cấp
hối đoái, và đây lại là thời kỳ phát minh và phát triển của loại sách bỏ túi và
đĩa hát rảnh mịn (microsillon), phát hành rộng rãi, kèm theo những phương tiện
truyền thanh mới. Thời trước, tuy Việt Nam là thuộc địa Pháp, nhưng văn chương
Pháp chỉ du nhập qua nhà trường, giáo trình dừng lại ở cuối thế kỷ XIX: uyên
bác như Xuân Diệu mà không biết Apollinaire. Sau 1954, văn hoá Pháp , và phương
Tây , du nhập thẳng vào thị trường. Công chúng đọc Françoise Sagan tại Sài Gòn
cùng lúc với Paris. Trên hè phố, nhất là tại các quán cà phê, người ta bàn luận
về Malraux, Camus, cả về Faulkner, Gorki, Husserl, Heiddeger.
Nhà văn Bửu Ý, bạn Trịnh
Công Sơn – học trước Sơn hai lớp tại Lycée Français Huế – hát Lá Rụng (Les
Feuilles Mortes) một lần với Juliette Gréco, hát Ðời hồng tươi (La
Vie en Rose) một lần với Edith Piaff, hay Yves Montandá; trong khi Thanh Tâm
Tuyền dịch Barbara của Jacques Prévert, đăng trên Sáng Tạo và nhà văn trẻ
Nguyễn Xuân Hoàng cũng ngân nga Barbara. Nguyễn Trần Kiềm, bạn cùng lớp với
Sơn, đi cyclo che nắng bằng sách của Sartre.
Người ta thắc mắc về
những tên ca khúc Trịnh Công Sơn cầu kỳ như Mưa Hồng, Tuổi Ðá Buồn, trong khi
Thanh Tâm Tuyền viết Ðêm Màu Hồng, về sau trở thành phòng trà lừng danh, lại
viết thêm Lệ Ðá Xanh, được danh hoạ Ðinh Cường, bạn thân Trịnh Công Sơn, vẽ
thành tranh trừu tượng, v…v… .
Song hành với sách báo,
các cơ quan văn hoá tây phương mở cửa hoạt động: Phòng Thông Tin Hoa Kỳ, Pháp,
Trung Tâmvăn hoá Ðức … dĩ nhiên là với những động cơ chính trị , tuyên truyền,
tranh thủ, trong thời kỳ chiến tranh lạnh, mà chúng tôi không đề cập ở đây, chỉ
nhấn mạnh ở ảnh hưởng văn hoá phương Tây thời đó trên đời sống trí thức miền
Nam. Những Chiều Chủ Nhật Buồn nằm trong căn gác đìu hiu.. ô
hay mình vẫn cô liêu, rồi đếnNgày chủ nhật buồn còn ai, còn ai: …
Tuổi buồn Em mang đi trong hư vô, ngày qua hững hờ… Không thể không
nhắc đến bài Chủ Nhật Buồn, Sombre Dimanche của Seres Rejo, nghe nói đã có
người tự tử vì nó. Hay vì những hư vô, cô liêu, hững hờ, thịnh hành một thời.
Trong bài viết “Nỗi lòng của tên Tuyệt Vọng” anh đã tiết lộ “tôi vốn thích
triết học và vì thế, tôi muốn đưa triết học vào những ca khúc của mình”. Ví dụ
như: “Vết lăn trầm hằn lên phiến đá” mà anh gọi là di thạch: roche
errante, người hát không hiểu gì, nhưng vẫn thích hát! Nhưng nói là Rolling
Stones cũng không sai.
Ca khúc Trịnh Công Sơn gợi
suy tư, đáp ứng lại nhu cầu trí thức chính đáng ở một thiểu số và ảo tưởng trí
thức thời thượng ở một đa số, trong đó có các cô cậu, ở mục Tìm Bạn Bốn Phương
trên các báo, tự giới thiệu là “yêu màu tím và nhạc họ Trịnh” hay “nhạc TCS”
viết tắt.
Thời kỳ này, Nguyễn văn
Trung đã viết bài ảo ảnh Thanh Thuý. Nếu nói về “ảo ảnh Trịnh Công Sơn”, ông ấy
cũng có thể viết một bài hay.
Nhạc Trịnh Công Sơn đơn
giản: một đặc điểm tạo dựng thành công. Phạm Duy nhận xét về Trịnh Công Sơn “Bài
hát chỉ cần một chiếc đàn guitare đệm theo, nếu hoà âm phối khí rườm rà thì
không hợp với những bài hát soạn theo thể ballade này”. Lại là một yêu cầu
khác của thời đại: những Georges Brassens, Joan Baez lẫy lừng với cây đàn
ghi-ta. Ca khúc Trịnh Công Sơn, có thể hát cho vài người nghe, cho một nhóm,
hay trước quảng đại quần chúng. Nó đi vào quần chúng, nhất là giới thanh niên:
Nó khác với nhạc phòng trà, có giàn nhạc và do ca sĩ hát, và thính giả đi nghe
(và nhìn) ca sĩ nhiều hơn là nghe ca khúc.
Thời Trịnh Công Sơn cũng
là thời của các tác-gia-soạn-giả-trình-diễn (auteur compositeur interprète)
chẳng bao năm mà trở thành huyền thoại: Jacques Brel, Bob Dylan. Báo chí Mỹ gọi
Trịnh Công Sơn là Bob Dylan Việt Nam, vì nội dung phản chiến, mà còn vì phong
cách trình diễn.
Nhạc Trịnh Công Sơn
không phải là nhạc giao hưởng. Những soạn giả bậc thầy của nhạc lý Việt Nam
thời đó, như Vũ Thành, Văn Phụng, Nghiêm Phú Phi không có quần chúng.
Trịnh Công Sơn có tài
đặt nhạc, soạn lời, lại biết bắt mạch thời đại, sống đúng thế hệ của mình,
trong lòng đất nước, trong nhạc cảnh thế giới. Ngần ấy cái tài dồn lại, gọi là
thiên tài, cũng không quá đáng.
*
Phân chất những lớp phù
sa đã tấp vào dòng nhạc của mình qua những giao lưu văn hoá, Trịnh Công Sơn có
nói đến những ảnh hưởng ngoại lai: “Thưở nhỏ tôi rất thích nhạc tiền chiến và
có nghe một số nhạc nước ngoài.”Những năm 60, tôi có nghe nhạc Blues nói về
thân phận của người da đen ở Mỹ. Tôi rất thích nhạc của Louis Amstrong, D.
Ellington… Tôi thấy loại nhạc này gần gũi với mình và thấy có khả năng muốn lấy
nhạc này để nói lên tâm sự của mình”. [1]
Và cũng trên số báo Ðất
Việt đó, anh cho biết thêm về ảnh hưởng. Những năm 64-66, sáng tác có chất
Blues, những năm 67-72, lại mang nhiều chất dân ca.
“Chất dân ca” ở đây,
phải hiểu theo nghĩa folk songs của Bob Dylan và Joan Baez thịnh hành thời đó.
Cả hai danh ca đều hơn Sơn hai tuổi, cùng một thế hệ, cùng một lý tưởng chống
chiến tranh, cùng một cây ghi-ta, cùng một điệu hát. “Dân ca” ở đây không phải
là hò mái nhì, hò giã gạo của quê hương. Nhạc dân tộc trong thời gian đầu,
dường như không mấy ảnh hưởng đến anh. Những bài theo chủ đề ru con của Trịnh
Công Sơn không mấy âm hưởng những bài hát ru em Việt Nam.
Sau này, thỉnh thoảng
người nghe có nhận ra chút âm hưởng hò Huế, như trong Thuở Bống là Người,
hay điệu ru dân tộc, như Lời Mẹ ru Con thì cũng chỉ là đôi
biệt lệ, không tiêu biểu.
Gần đây, sách báo thường
trích dẫn câu Trịnh Công Sơn:
Lại phải hiểu chữ “hát
rong” theo nghĩa hiện đại: không phải là ông sẩm chợ, hát vè Thất Thủ Kinh Ðô ở
phố Ðông Ba mà Huy Cận đã mô tả, mà hình ảnh người du ca hiện đại, những
baladins itinérants trong ca khúc Bob Dylan, trong quan niệm Nhạc Du Bất Tận,
Never Ending Tour (1988). Nhà thơ Tô Thùy Yên, chuộng thuyết chính danh, nên đã
nói rõ điều này và gọi Trịnh Công Sơn là “người du ca chính hiệu”:
“Người du ca” là một
nghệ sĩ đặc biệt đứng giữa âm nhạc và thi ca, đúng hơn, người du ca là một thi
sĩ nhiều hơn là một nhạc sĩ.
Người du ca thường khi
xuất hiện và nổi bật trong những thời đại được coi là u uất nhiễu nhương, những
thời đại mà tiếng nói con người bị lấn át, tự do con người bị cưỡng chế, giá
trị con người bị hạ thấp, hạnh phúc con người bị tước đoạt và ước vọng con
người bị bao vây.
Thành thử những tác phẩm
du ca có thể là những tác phẩm yếu hơi, dễ dãi, sơ sài, những tác phẩm thành
hình trong một thoáng cảm hứng nhất thời, những tác phẩm như những ký tự ghi
chép vội vàng trên một trang giấy tình cờ, và thả bay ngay theo thời thế” ( Tô Thùy Yên) .
Trong Cõi Tạm,
ăn xổi ở thì này, nơi con người chôm liền chộp lẹ mọi cơ hội để mua lẻ và mua
rẻ chút hư danh, có người còn viết được những lời như vậy, là nghiêm túc và tâm
huyết. Nhất là viết cho một người vừa khác phe, vừa khác phái.
Văn Cao cũng là một
người sành chữ nghĩa. Trong câu chuyện thân mật, anh thường nói Sơn là một
troubadour (kẻ hát rong) có tài. Nhưng khi viết về Trịnh công Sơn, anh dùng chữ
chantre, trang trọng hơn, trong nghĩa “kẻ ngợi ca” bởi Sơn đã hát về quê
hương đất nước bằng cả tấm lòng của một đứa con biết vui tận cùng những niềm
vui, và biết đau đến tận cùng những nỗi đau của Tổ Quốc Mẹ hiền”.
Troubadour hát nhạc mua vui cho trần thế, chantre hát những Lời Buồn Thánh. Tuy
nhiên, Trịnh Công Sơn cũng chỉ tự xưng là troubadour, như tên đặt cho phòng
tranh anh triển lãm chung với Ðinh Cường, Bửu Chỉ tại Gallery Tự Do, tháng
8/2000.
Năm 1969, bạn anh, họa
sĩ Trịnh Cung, đã vẽ bức tranh đẹp, tên là Le troubadour = Kẻ du ca, để kêu gọi
hoà bình. Những chuyện này đều tương quan với nhau.
Khi Phạm Duy gọi ca khúc
Trịnh Công Sơn là những ballades, không cùng một nguồn gốc với chữ baladin,
cũng là có ý trang trọng.
Các vị ấy tài cao, ý sâu
mà lòng thì rộng rãi; cho nên lời cũng khoáng đạt.
Hôm qua trăng sáng lờ mờ
Em đi tát nước, tình cờ gặp Anh
Người con gái Việt Nam
da vàng, ngày xưa, đã hát như thế trong ca dao, là để che dấu khát vọng tình
yêu, chứ trong đời sống nông thôn thời ấy, làm gì có cái tình cờ.
Ðời sống thế giới hiện nay, nghĩ cho cùng, cũng vậy thôi. Những giai điệu
blues, nhạc phản kháng Bob Dylan, Joan Baez, thơ Prévert, Aragon, Eluard …
Trịnh công Sơn đã gặp gỡ, trên dòng nhạc, dòng thơ, dòng tâm tư. Và dòng lịch
sử, dân tộc và thế giới. Trong cao trào lớn của loài người, giữa lòng thế kỷ
hai mươi: cao trào giải phóng dân tộc, chủng tộc và giai cấp. Ðừng quên việc
giải phóng phụ nữá: người phụ nữ Pháp đã đi phá ngục Bastille từ 1789, mãi đến
1946 mới có quyền đầu phiếu.
Người phụ nữ Việt Nam
cũng vậy thôi: sau khi chờ chồng hoá đá, họ bước chân vào thế kỷ XX, thì ngồi
đan áo. TừBuồn Tàn Thu của Văn Cao, qua Bếp Lửa của
Thanh Tâm Tuyền, thơ hiện đại của nhà thơÝ Nhi, cho đến năm 2000, trong ca khúc Ðêm
Xanh của Bảo Chấn, cô ấy vẫn ngồi đan áo, trong khi dọc hè phố, áo
pull bán rẻ mạt.
Ðan áo là hình ảnh ẩn
nhẫn, thụ động mà người đàn ông đòi hỏi. Ðan áo cho ai đó, hay để tưởng nhớ,
chờ đợi ai đó. Ca khúc Trịnh Công Sơn, rất nhiều phụ nữ, nhưng không thấy họ
đan áo. Mà chỉ … ngồi chơi, khi nghiêng vai, khi nghiêng đầu, khi nghiêng sầu.
Ngồi chơi chán rồi thì Ðứng lên gọi mưa vào Hạ. Nếu
khóc, cũng chỉ khóc cho những Chiều mưa đỉnh cao… Mai kia, có ra
đi, thì cũng là Như những dòng sông nhỏ.
Người đàn bà trong Trịnh
Công Sơn đẹp dung dị và tự do bình thường. Tự do với cuộc đời, với tình yêu,
thậm chí với tình dục. Nhạc Trịnh Công Sơn không nói đến tình dục, vì nói đến …
làm gì?
Người phụ nữ nghe và hát
nhạc Trịnh Công Sơn thoải mái, vì chỉ hát, hay nghe, mà không phải làm gì cả,
không phải Hái Mơ, Lái Ðò, bán Hàng Cà Phê, Hàng Nước, không phải thay quần áo
làm cô Sơn Nữ, cô Láng Giềng hay mua lấy số phận Người Yêu của Lính. Và nhất là
không phải … đi lấy chồng: hạnh phúc không thấy đâu mà chỉ nghe oán trách dài
dài suốt nửa thế kỷ: Em đi trên xác pháo, anh đi trong nước
mắt… Em ơi tình duyên lỡ làng rồi, còn chi nữa mà chờ … Và,
ở một chân trời khác, họ cũng không phải ba đảm đang, ba sẵn sàng, làm Người
Mẹ Cầm Súng, xung phong đi gỡ mìn ở Ngã Ba Ðồng Lộc …
Sau 1975, khi “Em ở
Nông trường, em ra Biên giới” thì người nghe có cảm giác cô Tấm đã trở
thành cô Cám, và Trịnh Công Sơn sẽ gào gọi Bống hỡi Bống hời, cô
Tấm thỉnh thoảng có tái hiện, nhưng cũng đã tân trang nhiều lắm.
5.- Chứng từ cho giá trị
một tác phẩm nghệ thuật, là khả năng kết hợp rộng rãi và lâu dài của nó. Nhạc
Trịnh Công Sơn được hát rộng rãi ở Miền Nam trước 1975, chúng ta đã biết. Nhưng
trước 1975, Miền Bắc đã nghe và đã thích nhạc này, như Văn Cao đã kể lại.
Nguyễn Duy kể thêm rằng ở dọc Trường Sơn, bộ đội miền Bắc cũng đã nghe:
“Mặt trận Ðường Chín-Nam
Lào (1971)… trong căn hầm kèo bên dòng sông Sêbănghiêng… Nghe, nghe
trộm – vâng, lúc đó gọi là nghe trộm – đài Sài Gòn, tình cờ ‘gặp’ Trịnh Công
Sơn qua giọng hát Khánh Ly… Diễm Xưa… Mưa vẫn mưa rơi … làm sao em biết bia đá
không đau … Quỷ thật! giai điệu ấy và lời ca ấy tự nhiên ‘ghim’ lại trong tâm
tưởng tôi ngay từ phút bất chợt ấy. Rồi Như Cánh Vạc Bay… Quái thật! … Cảm nhận
bất chợt, những bài hát rất mượt mà, đắm đuối ấy… ừ thì có buồn đấy, đau đấy,
quặn thắt nữa đấy… nhưng còn là cái gì lành mạnh nảy nở trong đó. Hình như là
cái Ðẹp… Bảng lảng, lờ mờ, khó phân định cho đúng nghĩa, nhưng rõ ràng là đẹp,
đẹp làm sao… Và cũng hơi ma quái thế nào …” [1]
Người ác ý có thể ngờ
vực: Nguyễn Duy là nhà báo có quyền nghe đài, sau này là bạn rượu của Trịnh
Công Sơn, nên thêm thắt. Thì đây, một chứng từ khác đến từ một anh bộ đội,
không quen biết gì, không điếu đóm gì với Trịnh Công Sơn, nhà văn Nguyễn văn Thọ,
hiện ở Berlin:
“Năm 1972, khi ấy tôi
là bộ đội trong rừng Trường Sơn. Thằng bạn tôi, sau chiến dịch Lam
Sơn 719 vớ được cái đài
Ðêm Trường Sơn, chờ cho
mọi người đi ngủ hết, chúng tôi lén mở đài BBC và cả đài Sài Gòn. Ðấy là lần
đầu tiên tôi được nghe tiếng hát Khánh Ly với nhạc Trịnh Công Sơn.
Chúng tôi là lớp người
lớn lên từ Miền Bắc, thường quen với những khúc thức hùng tráng. Trong tiếng
chộn rộn rú rít của sóng vô tuyến, tôi vẫn thấy một giọng lạ của một thứ âm
nhạc mới. Một thứ nhạc da diết, đầy lãng đãng từ ca từ, tới khúc thức. Một thứ
nhạc xanh không giống bất cứ nhạc xanh nào mà tôi từng nghe, kể cả trong những
đĩa hát quay tay cổ mở suốt ngày rên rỉ ở đầu chợ trời những ngày sau hoà bình.
Rất lạ, với tôi khi đó
nhạc Trịnh Công Sơn như làn gió khởi từ xa xăm đâu đó, tách khỏi hận thù trận
mạc, tha thiết một tình yêu đồng loại, giống nòi, yêu bè bạn, hoà bình, đạo lý.
Nó lạ, vì lối ca từ phi tuyến tính, không giống cách viết truyền thống trên
những ca khúc của Hà Nội khi đó”.
Quý hoá hơn nữa, anh Thọ
đã ghi lại cảm giác khi tiến quân vào Sài Gòn, nghe nhạc Trịnh Công Sơn hát Nối
Vòng Tay Lớn, buổi trưa ngày 30/4/1975, trên đài Sài Gòn:
“Mặt đất bao la … anh
em ta về … gặp nhau trong bão lớn quay cuồng trời rộng …
Lời ca không phải là
tiếng thách thức tử thủ. Lời ca không phải là tiếng bể máu như kết cục thường
của chiến cuộc, lời ca khi ấy làm chùng xuống không khí thù hận và hằn học.
Chúng tôi tiến vào Sài
Gòn…
Nối Vòng Tay Lớn
Chiến tranh nào bao
giờ chẳng có mặt trái, nhưng tiếng hát kia, bản nhạc ấy, mở ra cho cả hai bên
nghe như một liều thuốc vô hình đã làm chùng xuống một thời khắc thường dễ nổi
cáu và nổi đoá.
Ðấy là kỷ niệm thứ hai
của tôi về anh.”
Tiếng hát làm chùng tay súng.
Một ngày, một giờ mà sinh mệnh của hằng triệu con người nằm trên đường tơ kẽ
tóc, một sự kiện như thế không trọng đại hay sao?
Văn học nghệ thuật Việt
Nam, đã bao nhiêu lần đóng vai trò đó?
Sau này, Thọ sang sinh
sống tại Ðức, theo diện xuất khẩu lao động, vẫn nghe nhạc Trịnh Công Sơn:
“Ngay cả sau này, đôi
khi tự an ủi mình, nâng đỡ mình, tôi khe khẽ hát ‘Tôi ơi đừng tuyệt vọng’… và
nhiều bài ca khác trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, nhưng tôi vẫn nhớ từng chi
tiết và cám ơn nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ở trưa phát thanh trên làn sóng Sài Gòn
ngày đó” [1]
Trịnh Công Sơn luôn là "cây đại cổ thụ lớn nhất" trong nền âm nhạc Việt Nam, đối với tôi là như vậy. Yêu các sáng tác của ông, cũng như con người, tính cách ông. Cám ơn Truong đã chia sẻ bài viết.
Trả lờiXóa------------------------------------
Truyền hình số HD - Xem tivi hơn 50 kênh miễn phí thuê bao tháng.
Chuyên phân phối: Dau thu DVB T2 chính hãng VTV, VTC, LTP...
Đầu thu nhiều người quan tâm: Dau thu DVB T2 VTC T201