Bàn về văn minh học thuật nước Pháp
Phạm Quỳnh
Văn minh học thuật một nước là biểu hiện của cái tinh thần nước ấy. Cái tinh thần ấy phát hiện ra nhiều cách, nhưng rút lại có mấy cái đặc tính nó phân biệt nước ấy với các nước khác, khiến cho nước ấy có một cái hình dung riêng trong vạn quốc, một cái địa vị riêng trong thế giới vậy. Phàm các nước lớn đời xưa đời nay, đã có
ảnh hưởng đến cuộc tiến hóa của nhân loại, đều có một cái tinh thần riêng như
thế cả. Cái tinh thần ấy cũng tức như cái nhân cách của từng người vậy.
Nhân cách mỗi người một khác, phát hiện ra cái cách tư tưởng, cảm giác, sự
cư xử, hành vi của mỗi người. Tinh thần một nước cũng vậy mà phản chiếu vào cái
văn minh học thuật của nước ấy. Vậy muốn lý hội được nghĩa sâu một cái văn minh
học thuật nào, tất phải hiểu cái tinh thần riêng của nước đã sinh thành ra cái
văn minh học thuật ấy.
Nay thử hỏi các nhà
tây học nước ta, sau khi đọc xong một quyển sách hay bằng chữ Pháp, sách văn chương hay sách
nghị luận, sách tiểu thuyết hay sách nhàn đàm, thì cái cảm giác ra làm
sao ? Tất ai ai cũng từng nhận rằng cái cảm giác ấy có nhẹ nhàng mà
thiết thực, thơm tho mà mặn mà; cái hương, cái sắc, cái điệu, cái tình nó
có một vẻ thiên nhiên mà đườm nhuận, thanh tao mà đậm đà, thực xưa nay ta chưa
từng được hưởng biết bao giờ. Cái cảm giác ấy tui không nói ra ra lời được,
nhưng phàm người nào đã hơi hiểu văn chương nước Pháp đều thấy phảng phất như
thế cả. Bởi đâu mà văn chương nước Pháp có cái sức cảm hóa sâu xa mà đặc biệt
như thế ?. Bởi cái tinh thần riêng của nước Pháp vậy.
Ngày nay người nước ta
đã quyết chí theo đòi văn minh học thuật nước Pháp để nhờ đấy mà noi lên đường
tiến bộ; vậy tưởng nên biết cái tinh thần ấy thế nào để khỏi hiểu nhầm
cái văn minh học thuật kia.
Giải rõ được cái tinh thần ấy, phát biểu được cái đặc tính của
nó, không phải là một việc dễ. Tất phải am hiểu tính tình tư tưởng người Pháp,
thông thuộc văn chương xã hội nước Pháp, lý hội lịch sử hiện tình dân Pháp, mới
có thể phát ngôn một các xác đáng được. Chúng tôi không dám tự phụ có đủ
tư cách như thế. Nhân mới được đọc một bài luận rất hay về « Văn minh nước
Pháp » (La civilisation française) của một nhà danh sĩ bên quí
quốc, VICTOR GIRAUD tiên sinh [1],
thấy nhờ nhẽ thực là ứng hợp với cái cảm giác lúc bình thời, tựa hồ như cái
mình vẫn ám giải một cách phảng phất xưa nay, nay có người đến chỉ thị,
diễn thích, phát minh cho rất tinh tường, khám phá được nhiều điều hay nhẽ thực
về văn minh học thuật nước Pháp. Vậy tưởng không gì bằng tóm tắt đại ý ra sau
này, bàn thêm vào, để giúp cho bọn ta hiểu rõ cái tinh thần một nước đã có
tiếng gọi là « ông thầy dạy nhân đạo » (la France, préceptrice
d'humanité) cho thế giới vậy.
Trong một bộ
tiểu thuyết chước danh của một nhà đại văn hào Pháp ngày nay, có kể truyện một
người thiếu niên châu Á tản (Alsace), trong bụng nhiệt thành yêu tổ quốc Pháp,
có cái chí cao thượng muốn thờ tổ quốc một cách đặc biệt, khiến cho người Đức
cũng phải cảm phục. Bèn quyết chí ở đất Á tản, không xin về nước Pháp, đến tuổi
binh dịch lại nhận đăng làm lính với Đức, tự nghĩ rằng: mình là con nhà Pháp lan, đại biểu một lối văn minh
cao thượng, lạc loài ở cùng với một giống người thô bỉ cường bạo, cái nghĩa vụ
của mình là phải ở chốn nhượng địa này, như người lính canh bờ cõi, để giữ cho
cái văn-minh tổ quốc, phát biểu cái văn minh ấy ra mà cảm hóa bọn thô bỉ kia.
Một năm giời ở trong trại quân Đức, thực là được lòng đủ mọi người, quan trên
yêu, bạn bè phục, sử với ai cũng rất mực nhã nhặn, đến lúc mãn khóa ra về, ai
nấy đều tiếc; khi từ giã viên đội Phổ già coi mình trước thì được tin con
gái lão vừa mới chết, bèn đi mua ngay một vòng hoa sắt đến viếng. Hai vợ chồng
lão đội thấy anh ta sắp biệt mình mà còn sử tử tế như thế, rất cảm động trong
lòng, mà nói rằng: «Phải chịu rằng người nước Pháp có nhiều nhân
đạo hơn người các nước khác.»...
Một câu của lão đội
già nước Đức ấy thực là tóm tắt được cái tinh thần, cái đặc sắc của văn minh
nước Pháp vậy.
Dân Pháp xưa nay vẫn
là dân có cái nhân đạo phong phú hơn các dân khác. Trong các dân quốc đời xưa
đời nay, có lắm dân còn hiển hách hơn dân Pháp nhiều. Nhưng chưa thấy dân nào
gồm được đủ cái tư cách chung của nhân loại bằng dân Pháp vậy.
Một nhà thi nhân Pháp
đã có câu thơ rằng:
Plus je suis Français,
plus je me sens humain.
(Tôi càng là người
Pháp bao nhiêu thì tôi càng thấy tôi là người bấy nhiêu).
Người các nước khá thì
thường càng gần cái quốc-tính bao nhiêu lại càng xa cái «nhân tính»
bấy nhiêu, vì quốc tính là cái đặc biệt, mà «nhân tính» là cái
thông thường vậy. Xem như nước Đức: người Đức càng là người Đức bao nhiêu
thì lại càng phản đối với nhân loại bấy nhiêu, vì cái nghĩa của người Đức không
giống cái quyền lợi chung của thế giới, càng sai biệt bao nhiêu thì lại càng
xa cách bấy nhiêu. Đến như người Pháp thì có cái đặc tính quan sát mọi sự mọi
vật theo cái phương diện chung hơn là cái phương diện riêng, theo cái
thông thường hơn là cái đặc biệt, thành ra người Pháp càng gần quốc tính bao
nhiêu lại càng gần « nhân tính » bấy nhiêu. Cho nên nói rằng người
Pháp có nhiều nhân đạo hơn các người khác là thế.
Nhân đạo là cái
gì ? Nhân-đạo tức là cái người ta sở-dĩ là người ta vậy. Muốn nói giản dị
hơn thì nhân đạo là cái cách làm người, cái thuật làm người theo một cái
lý tưởng thông thường. Như thế thì trong thế giới này không có dân nào thuộc
cái cách ấy bằng dân Pháp vậy.
Cả văn minh học thuật
nước Pháp đều là nhuần-nhiễm một cái chất nhân đạo ấy cả. Muốn minh chứng điều
ấy thì phải nghiên cứu bốn cái bộ phận lớn nó dựng thành ra nền văn minh một
nước: 1◦ là văn chương; 2◦ là triết-học; 3◦ là tôn-giáo;
4◦ là lịch-sử. GIRAUD tiên sinh xét lần lượt bốn cái bộ phận ấy một cách
rất tinh tế, diễn thích phân minh, luận chứng thâm thiết, lời văn bình dị mà
hùng hồn, nét bút tả thực mà văn hoa, người thuật tiếc không thể truyền được
cái hứng vị của của nguyên văn sang lời nôm sốc nổi.
Trước hết xét
văn chương. Tiên sinh nói :
«Văn chương là
cái hình ảnh cái tinh thần riêng, cái tính chất riêng của một dân một nước, mà
là cái hình ảnh tự nhiên hơn cả.
«Nói rằng
văn-chương nước Pháp có nhiều nhân đạo hơn các văn chương đời
nay thì thiết tưởng chỉ xét qua các văn chương khác ấy là đủ biết vậy. Như
văn-chương nước nga thì thiên-trọng cái thần-bí, văn chương
nước Anh thì nhiều thi liệu, văn chương nước Đức thì nhiều triết lý, văn chương
nước Tây ban nha thì nhiều tưởng tượng hơn văn chương Pháp. Nhưng so sánh với
các văn-chương ấy thì văn chương Pháp có nhiều nhân đạo hơn. Các nhà làm văn
Pháp chỉ tư nghị đến người ta trước nhất cả, chỉ chủ hình-dung tả-mạc con người ta trong cái tình cảnh, cái tâm tính, cái ý tứ của mỗi người. Phàm những vấn đề
xét đến là những vấn đề quan hệ với người ta cả, vấn đề thuộc về đạo lý hay vấn đề
thuộc về xã hội vậy. Bao giờ cũng là chủ ý về cái phép xử thế của người ta,
phép xử thế riêng của từng người hay phép xử thế chung của một đoàn thế. Mà các
nhà làm văn ấy chước thuật cũng là chỉ vị người ta, muốn trực tiếp với người
ta, mà chủ nhất là cái người hiển nhiên trông thấy, chớ không phải cái người
lỗi lạc đặc biệt, tức là người trung bình mà không phải người siêu việt. Vậy
nhời văn cốt bình thường cho người ta hiểu được, ý tứ cốt giản dị cho người ta
hội được. Nói rút lại thì cái mục đích cốt tử của các nhà làm văn ấy là dạy dỗ
khuyên răn người đời, truyền thụ cho người ta cái nhân đạo vậy. Cụ BOSSUET ngày
xưa có phê bình các nhà thi-nhân Hi lạp mấy câu rằng: «Sách vở của
các bực ấy vừa có cái vẻ vui thú mà vừa có cái vẻ nghiêm trang. Các
ngài chỉ tán tụng những công nghiệp có ích lợi cho đời người ta, chỉ vụ
việc công ích, ích nước nhà, ích cho xã hội, thực là có cái khí vị lương thuần
vậy. » Mấy câu ấy dùng để giải các văn-chương nước Pháp tưởng cũng không
phải là không đáng.
Tiên sinh đã giải cái
tính cách chung của văn chương nước Pháp như thế rồi, bèn cứ từng thời đại,
từng văn phái mà bàn cho rõ thêm mãi ra.
Hai thời đại
chước danh nhất trong văn học sử nước Pháp là thế kỷ thứ 17 cùng thế kỷ thứ 18,
Hai thế kỷ ấy có khác nhau mà có giống nhạu. Thế kỷ thứ 17 thì là đời cổ điển,
thế kỷ thứ 18 là đời cách mệnh. Các nhà làm văn đời cổ điển chỉ vụ
nghiên cứu cái tâm lý người ta. Lấy người ta là một « giống rất hư hoang,
uyển chuyển, tạp-đạp » (être merveilleusement vain, ondoyant et divers),
nên phải xét nghiệm nó thật kỹ, cho giải được hết cái khóe ăn ở của nó, để tìm
cách mà chữa dậy. Vì các nhà ấy đã thông tỏ cái tâm tính con người ta mà biết
rằng người ta tính bản ác, nếu không kiềm chế những cái dục tình sằng lại
thì xã hội không thể ở được. Bởi thế các nhà ấy lấy sự duy trì xã hội làm
mục đích, vì xã hội có duy trì được, lòng người có kiềm chết được thì người ta
cùng xã-hội mới được sung sướng. Nói rút lại thì vănchương thế-kỷ 17 là
văn-chương chữa đời, chủ sự ích-lợi cho người đời, tức là một pho tâm-lý, một
bài luân-lý thực-hành vậy.- Thế-kỷ thứ 18 cũng là vụ cho người đời được
sung-sướng. Các nhà làm văn đời cách mệnh cũng chỉ nghiên cứu một cái vấn đề về
sự hạnh-phúc của người ta, nhưng khác người đời trước, là đời trước lấy cái
hạnh phúc ở sự kiềm chế, đời này lấy cái hạnh phúc ở sự tự do, đời trước chủ sự
duy trì, đời này dùng kế phá hoại vậy. Đời trước dạy người đời tính vốn ác, đời
này xướng người đời tính vốn lành. Người đời đã tính vốn lành thì mọi sự khổ sở
ở đời là bởi xã hội cả, xã hội đã không ra gì thì phải phá đổ xã hội đi, mà
hồi phục lấy cái bản tính của người ta lúc mới sinh thành. Bởi thế mà các nhà
làm văn chỉ thấy công kích xã hội, mà tán-tụng đời cổ sơ là cái
« hoàng kim thời đại » của loài người. Xem thế thì cái hai cái tư trào
của thế kỷ thứ 17 cùng thế kỷ thứ 18 thực là trái ngược nhau vậy. Nhưng xét kỹ
có phải cái tôn chỉ cùng là giống nhau không ? Hai đời tuy xét người đời
ra hai phương diện khác nhau, song đều là chủ tìm cái cách cho người đời được
sung sướng, đều là vị cái nhân đạo vậy.
Đã cai quát hai thế kỷ lớn trong văn học sử, lại bắt đầu từ khi mới có văn-chương cho đến đời
cận thế, lục ra những sách nào là lưutruyền hơn cả mà xét xem sở dĩ làm sao mà
những sách ấy được lưu truyền như thế, thì thấy những sách ấy đều là diễn giải
cái nhân đạo một cách tuyệt phẩm vậy. Kể từ sách Roland anh hùng ca (La
Chanson de Roland) là nền văn chương cổ nhất của nước Pháp, đến bài tuồng Le
Cid của ông CORNEILLE, đến tập Tư tưởng lục (les Penséès) của ông
PASCAL, đến những bài hí kịch của ông MOLIÈRE, đến sách Vạn pháp
tinh lý (l'Esprit des lois) của ông MONTESQUIEU, cho đến thơ ông
LAMARTINE, cho đến tiểu-thuyết bà GEORGE SAND, cho đến những bài phê-bình của
ông SAINTE-BEUVE, tuy cái văn chương phong phú như thế, mà rút lại trong bấy
nhiêu sách cái tôn chỉ cũng là một, là tả con người ta ra đủ mọi cách, trong đủ
mọi cảnh: khi sướng, khi khổ, khi vui, khi buồn. - lúc khôn ngoan, lúc
khờ dại, - lúc khao khát những sự vô hạn, lúc mưu toan những việc trị bình - lúc khổ vì cái ái tình uốn éo, lúc than vì thế sự ngặt nghèo....
Xét như thế thì từ xưa
đến nay phàm những sách hay trong văn chương Pháp, được người đương thời
cảm phục, hậu thế suy tôn, chính là những sách có nhiều cái nhân đạo hơn cả.
Văn chương Pháp có nhiều nhân đạo vì văn chương Pháp chủ nghiên cứu người ta,
mà trọng nhất là những cái vấn đề quan hệ đến người ta, đến cuộc hạnh-phúc ở
đời, phép xử-thế cùng đường vận-mệnh. Nhà thi-nhân La-mã có câu thơ rằng :
« Tôi là người, phàm cái gì quan-hệ đến gười ta không phải là không
quan-hệ đến tôi. » Câu thơ ấy thực là cái biểu hiệu của các nhà làm văn
nước Pháp vậy.
Xưa nay người ta vẫn
khen văn Pháp có ba cái tính cách hay nhất: một là phân minh, hai là giản
gị, ba là thành thực. Ba cái tính cách ấy cũng là bởi cái nhân đạo trong
văn chương mà ra cả. Như người Anh, người Đức, người Ý, làm văn thường là để
sướng lấy một mình, để diễn lấy cái giấc mộng riêng ở trong lòng mà làm một mối
khóai lạc cho mình. Người Pháp làm văn vị người hơn là vị mình, cầm ngòi bút
viết là chủ nói cái gì cho người đời nghe. Vậy cốt nhất là cho người ta hiểu
mình.
Nên phàm xướng ra cái tư tưởng gì, không phải cứ mộc mạc thế mà đem diễn ra đâu; còn suy đi nghĩ lại, chắt lọc chung đức mãi, gạn lấy cái tinh hoa rồi mới diễn nó ra thành lời; cái lời văn ấy cũng không phải là cẩu thả, thực là chải chuốt chau ruã cho nó rất vắn tắt, rất giản dị, rất phân minh, khiến cho người đọc thấu giải được ngay, không phải mất công khó nhọc tí nào. Bởi văn Pháp có cái đặc tính như thế nên xưa nay đã được cái danh dự dùng làm văn chung cho vạn quốc trong việc giao tế các nước với nhau. [2] Cái danh dự ấy thực là xứng đáng vậy thay !
Nên phàm xướng ra cái tư tưởng gì, không phải cứ mộc mạc thế mà đem diễn ra đâu; còn suy đi nghĩ lại, chắt lọc chung đức mãi, gạn lấy cái tinh hoa rồi mới diễn nó ra thành lời; cái lời văn ấy cũng không phải là cẩu thả, thực là chải chuốt chau ruã cho nó rất vắn tắt, rất giản dị, rất phân minh, khiến cho người đọc thấu giải được ngay, không phải mất công khó nhọc tí nào. Bởi văn Pháp có cái đặc tính như thế nên xưa nay đã được cái danh dự dùng làm văn chung cho vạn quốc trong việc giao tế các nước với nhau. [2] Cái danh dự ấy thực là xứng đáng vậy thay !
Thứ chi đến triết học.
Muốn phát biểu cái
đặc tính của triết học nước Pháp, không gì bằng so sánh triết học Pháp với
triết học Đức. Nước Đức xưa nay vẫn tự phụ là nước chuyên trị triết học nhiều.
Cái triết học ấy hay dở thế nào, sự chiến tranh ngày nay đã chứng hiển-nhiên
cho thiên-hạn biết rồi. Nay cứ cái hình-thức mà xét thì triết-học Pháp thực là
trái hẳn với triết-học Đức. Nước Đức lấy triết-học làm khoa chuyên môn, chỉ một
bọn người chuyên trị, học riêng với nhau, bàn riêng với nhau, không trực tiếp
với người ngoài, mà không vụ cho cái tư tưởng của mình đối chiếu với nhẽ thực,
nhẽ phải thông thường. Bởi thế mà cái triết học của Đức bí mật, u ám, khi cao
thì siêu việt quá mà biến ra mây ra khói cả, khi thấp thì đê liệt quá, thô bỉ
mà cứng cỏi. - Triết học Pháp thì thực là khác. Người Pháp lấy triết học là một
món chung cho cả mọi người có học-vấn, có trí thức. Phàm làm người ai cũng có
cái tư cách biết suy nghĩ, biết tư tưởng, vậy thì ai cũng có thể lĩnh hội
phán đoán cái chân lý được. Nhà triết học nghiên cứu cái chân lý, sở đắc điều
gì, phải đem công bố ra cho mọi người biết, không phải là để nghiền ngẫm trong
một bọn chuyên-môn với nhau. Bởi thế mà phần nhiều các nhà triết học Pháp đều
là những nhà làm văn hay cả, vì muốn công-bố cái tư tưởng của mình cho đắc lực,
tất phải biết diễn giải nó ra cho người ta dễ nghe và dễ hiểu. Thực là trái với
những nhà triết học Đức, thường dùng một lối văn kỳ khu trắc trở, ngoài bọn nhà
nghề ai xem cũng phải chán. -Triết-học Pháp lại còn có một các đặc-tính nữa,
là nó thâm nhập cả các môn học khác. Các nhà triết-học thường kiêm văn học, các
nhà văn học cũng không mấy khi là không có tư cách nhà triết học. Những bực
văn hào như BOSSUET, VOLTAIRE, LAMENNAIS, TAINE, RENAN mấy tiên-sinh, thực có
thể liệt bằng-đẳng với những nhà triết-học chước-danh được. Không kể những bậc
ấy, đến những nhà thuần văn-chương như CORNEILLE, MOLIÈRE, RACINE các
tiên-sinh, mỗi nhà cũng có một cái « triết học » riêng, tức là một
cái quan-niệm về thế giới, về người ta, cái triết học ấy tán mạn trong khắp sách
vở của mỗi nhà. Triết học Pháp cũng thâm nhập cả khoa học nữa. Không những cái
lệ thường ở nước Pháp là những nhà triết học phải có một cái «cách trí
học vấn» rộng; lắm nhà đại triết học lại vừa là những bậc lý học
danh gia nữa, như DESCARTES, PASCAL, AUGUSTE COMTE, COURNOT, CLAUDE BERNARD,
HENRI POINCARÉ các tiên sinh. Khoa học triết học thâm nhập nhau như thế thì lợi
cả hai đằng. Nhà triết học trong khi quan sát các nguyên lý, lấy thực tế làm
căn cứ, không sợ tư tưởng những sự hoang đường. Nhà khoa học trong khi nghiên cứu
các vật chất, láy cái nguyên lý làm qui nạp, không sộ mê man những sự
phiền-toái. - Một cái đặc tính nữa của triết học Pháp, là cái triết học ấy
không ưa những lối độc đoán. Ngồi không mà kết cấu những « lâu đài
tư tưởng » không nương tựa vào cái gì chắc thực, không căn cứ vào cái gì
vững vàng, ấy là cái lối những nhà triết học Đức. Các nhà triết học Pháp thì
chỉ chủ sự thiết thực, không phải rằng không có tài kết cấu bằng người
Đức: DESCARTES nước Pháp có kém gì KANT nước Đức, AUGUSTE COMTE có kếm gì
HEGEL?. Nhưng người Pháp không lấy cái học-thuyết của mình mà làm như cái
ngục để tự giam mình vào đấy, không bao giờ dám ra ngoài mà xét sự vật ra cái
phương diện khác nữa. Người Pháp trọng sự tự do, biết rằng cái chân lý có năm
bảy đường tới được, đường nào cũng là chính đáng cả, không bắt ai phải theo một
đường nào. Bởi thế mà triết học nước Pháp có cái tính thiết thực hơn triết học
các nước khác.
Nói rút lại thì các
nhà triết học Pháp kỵ nhất là những lối tư tưởng hoang đường, mà trọng nhất là
những cái vấn đề thiết yếu cho người ta. Trong những sự bí quyết của trời đất,
các nhà ấy lấy cái bí quyết về tâm tính người ta là cái nên chủ ý mà nghiên cứu
trước nhất. Vì giải được cái bí quyết ấy, là giải được cái nghĩa đời nghĩa. Thế
chẳng hơn là lấy cái tư tưởng làm con cờ mà đem cái nọ chọi với cái kia trên
cái bàn cờ vô hình ư ? Thế chẳng hơn là lấy cái tư tưởng làm viên gạch,
chồng viên nọ lên viên kia mà sây cái lâu đài trên bãi cát ư ?.
Tiên sinh nói:
«Dạy cho người ta biết làm người, làm người cho rất hoàn toàn, rất
thâm thiết; cái bản tính con người ta thế nào thì coi nó như thế, đừng
quá trọng mà cũng chớ quá khinh, đừng suy tôn quá mà cũng chớ hạ miệt
hoài; phải nhận biết cái giới hạn của nó, phải phát đạt cái tiềm lực của
nó, phải điều hòa sự phản trái của nó; ấy là cái tôn chỉ của triết học
nước Pháp từ xưa đến nay, cái tôn chỉ ấy các nhà triết học Pháp đã truyền bá ra
khắp thế giới. Thiên hạ còn có cái lý tưởng kiêu căng hơn; đâu có cái
khôn ngoan, nhũn nhặn, mà quảng đại bằng ? »
Vị chi là triết học
Pháp cũng có cái đức tính thuộc về nhân đạo vậy.
Thứ chi đến tôn giáo.
Đại để có thể được
rằng triết học là tôn giáo của bọn trí thực, mà tôn giáo là triết học của người
thường dân vậy. Người dân là số nhiều trong một nước ; vậy thì tôn giáo là
cái biểu hiện chân chính nhất, đều đủ nhất của cái lòng hi vọng chung trong một
nước.
Nước Pháp từ xưa đến
nay vẫn lấy đạo « La mã Thiên chúa » làm quốc giáo. Đạo Thiên chúa
thực đã có một phần to trong sự gây dựng ra nước Pháp, trong sự giáo hóa người
dân Pháp, mà nước Pháp, người Pháp, từ đời Trung cổ đến giờ, cũng có công to
với giáo-hội, xưa đã được tiếng gọi « nước Pháp là con gái trưởng của
Giáo-hội ». Như thế thì đạo Thiên chúa thực là có thánh khí với người
Pháp, có cái nhân duyên sâu xa với dân Pháp vậy. Vậy thì đạo Thiên chúa ở
nước Pháp có cái đặc tính gì ? Chắc rằng cái giáo thống, cái qui tắc trong
đạo thì ở nước nào cũng vậy. Nhưng đại để cùng một đạo ở một nước cũng có khác
nhau nhiều. Như đạo Thiên chúa ở nước Ý đại lợi thì thiên trọng cái bề
mĩ thuật, đạo Thiên chúa ở Tây ban nha thì thiên trọng cái bề thần bí. Đến như
đạo Thiên-chúa ở nước Pháp, thì thiên trọng cái bề xã hội vậy. Cụ BOSSUET đã
giải đạo Thiên chúa là cái giây liên lạc trong xã hội, không những là liên-lặc
người một đời với nhau, mà lại liên lạc cả người đời này với người đời trước,
với người đời sau nữa; không những là liên lạc người một nước với nhau,
mà liên lạc cả người nước nọ với người nước kia, hết thẩy cả người trong
thế giới nữa. Cái hi vọng của đạo Thiên chúa ở nước Pháp không những là muốn
gây thành một cái đoàn thể thuộc về tinh thần ở trong cái đoàn thể
quốc-gia ; lại còn muốn khoáng-trương cái đoàn-thể ấy ra khắp thế giới mà
dựng lên như trong kinh thánh gọi là cái « thiên-quốc » (la cité
de Dieu) ở trong thiên-hạ. Cứ xem tổng-số những nhà truyền-giáo-sư của đạo
La mã Thiên chúa, ba phần đến hai phần là người Pháp, thì đủ chứng rằng cái
hi vọng ấy không phải là hư tưởng vậy.
Như thế thì
Thiên chúa giáo của nước Pháp còn vị chung cả loài người hơn là vị riêng một
nước mình. Thực là hớp với cái tôn chỉ trong giáo chủ sự « cứu-thế »
vậy.
Nói rút lại thì đạo
Thiên-chúa của nước Pháp có mấy cái đặc tính khác với đạo Thiên chúa của các
nước, mà hiểu cái tinh thần riêng của nước Pháp. Tiên sinh giải cái điều ấy
như sau này :
« Thiên chúa giáo
của nước Pháp bao giờ cũng chủ nhất một điều, là tăng tiến cái giá trị về
«phần-hồn», cái phẩm cách của người ta. Nên chuộng cái công nghiệp
hơn là sự «nguyền ngẫm», mà chuộng cái công nghiệp có ích cho xã hội
hơn là sự tu hành riêng cho từng người. Tu hành cũng không phải là tu hành lấy
một mình, bao giờ cũng là chủ lấy ích lợi cho nhân quần. Bởi thế mà các nhà
tôn giáo nước Pháp không hứng những sự biện nạn huyền bí về thần học, những sự
khảo cứu tỉ mỉ về thánh thư, những sự tôn sùng phiền phức mà cầu kỳ, như nhà
tôn giáo các nước khác. Nhà tôn giáo nước Pháp lấy cái nhẽ phải thông thường mà
vụ những điều cốt yếu; lòng tín ngưỡng bình dị mà không tần phiền ;
rất hiểu những cảnh thực trong lòng người; nhiệt thành muốn truyền cái
lòng tin của mình cho người khác; nhất là khao khát cái lòng từ bi bác ái
vậy ».
Gồm bấy nhiêu cái
đặc tính lại chẳng phải là trọn cái nhân đạo ư ?
Thứ chí đến lịch sử.
Một nước có văn chương,
triết học, tôn giáo hay cũng chưa đủ; phải có cái lịch sử hiển hách thì
mới đủ chứng cái hay ấy.
Lịch sử nước Pháp thực
là xứng đáng với văn chương, triết học, tôn giáo nước Pháp vậy. Nước Pháp
thành quốc sớm, sớm đã tự biết mình có cái tư cách một nước nhớn. Từ đời
Trung cổ cuộc nhất thống trong nước đã tiệm thành, tuy chưa được hoàn toàn,
nhưng cái cơ sở đã có. Gây được cuộc nhất thống ấy, phải nhiều phen
chiến tranh. Nước Pháp ngày xưa đã có tiếng là nước thượng võ, đã từng biết đủ
các lối chiến tranh: chiến tranh để giữ nước, chiến tranh để lấy đất,
chiến-tranh vị cái thế quân-bình, chiến tranh vì cái sức bành trướng,
chiến tranh để đổ đế quyền, chiến tranh để đi truyền bá. Nhưng đại để những sự
chiến tranh ấy chỉ chủ một mục đích: là làm cho vững bền cái vận nước
vậy. Nhân làm vững bền cái vận nước mình, mà vừa giữ được cái thế quân bình
trong Âu châu. Vì cái chính sách của nước Pháp xưa nay vẫn là cầm giữ ngăn ngừa
những nước nhớn khác không được sâm-phạm đến bờ cõi, đến quyền độc-lập của những
nước nhỏ, để chiếm lấy phần hơn trong Âu-châu. Cái chính sách ấy vẫn chủ lấy
nước nọ mà hạn-chế nước kia, khiến cho cái thế lực các nước ngang nhau, mỗi
nước được tự do mà phát siển cái quốc túy, theo đuổi cái vận mịnh riêng của
mình. Bởi thế cho nên khi nào có một nước hay một vua hùng cường khởi lên, muốn
đoạt các nước khác, để cướp lấy cái thế lực to hơn, thì nước Pháp cũng
can thiệp vào đánh, cố giữ lấy cái thế quân bình cho Âu châu. Xem như mấy phen
nước Pháp đánh nhau với nhà vua Tây Ban Nha cùng nhà vua Áo đại lợi thì đủ biết
vậy. Chắc rằng trong những trận ấy nước Pháp cũng có cái lợi riêng của
mình; nhưng bao giờ cái lợi riêng ấy cũng hợp với cái lợi chung của
Âu châu, nên lần nào nước Pháp được thắng trận là hồi ấy Âu châu được hưởng
hòa bình. Nước Pháp không những giữ cho các nước được quyền tự do, độc lập, mà
lại còn đem tiền đem người đi giúp nhiều nước để khôi phục lại cái quyền tự do
độc lập của mình đã bị mất. Nước Mĩ được độc lập cũng là nhờ có nước Pháp
cứu viện. Nước Ý được thống nhất thực là bởi công người Pháp nhiều. Nước Hi lạp
thoát ly được quyền áp chế người Thổ nhĩ kỳ, chẳng phải là may mà được người
Pháp can-thiệp và giúp ư ? Nước Pháp có công với vạn-quốc như thế, là bởi
nước Pháp vốn có cái tài khéo điều-hòa cái lợi riêng của mình với cái lợi chung
hoặc của Âu-châu hoặc của thế-giới. Cũng vì đó mà nước Pháp được hơn các nước
khác có cái tư cách biết quên mình mà vị người, hay cổ-võ những việc nghĩa-cử,
nhiệt-thành vì những tư-tưởng công-lý nhân-đạo vậy.
Hoặc có người chê nước
Pháp đi viễn-chinh để lấy thuộc-địa là trái với cái lý-tưởng trong nước. Chê
thế là không hiểu cái tình-thế một nước nhớn ở trong thế-giới đời nay. Nước
Pháp đi lấy thuộc-địa cùng là bởi vì cái địa-vị mình trong vạn-quốc nó khiến
như thế. Các nước khác đều có thuộc-địa mà mình không thì chẳng hóa ra đành
chịu phần kém phần thiệt, mà không giữ được cái thế quân-bình trong liệt cường.
Một đại quốc sao có chịu như thế ? Vả sự đi lấy thuộc địa không phải tất
nhiên là một sự phi nghĩa. Lấy đất, bắt người dân làm nô lệ cho mình, thế là
phi nghĩa. Nhưng bảo-hộ cho một dân hậu-tiến, bênh giữ quyền lợi cho người dân,
khai hóa cho, dạy-dỗ cho, đưa gi ên đường văn minh, thiết tưởng cái lối đi
lấy thuộc địa như thế không những là không phải là một sự phi-nghĩa, mà lại chính
là một việc đại-nghĩa vậy. Cái lối ấy thực là cái lối của nước Pháp xưa nay. Cứ
xét hiện trạng những thuộc địa của nước Pháp, từ hai châu Algérie, Tunisie, đến
đất Maroc, đến đảo Madagascar, cho đến cõi Đông dương ta này, thì đủ biết vậy.
Suốt lịch sử nước Pháp
cũng là minh-chứng rằng nước ấy từ xưa đén nay vẫn biết ham mê những việc
nghĩa, biết hỗn hợp cái nghĩa riêng của mình với cái nghĩa chung của văn-minh,
của thế-giới. Hồi giặc Hung-nô sang xâm nhập Âu châu, bấy giờ nước Pháp chưa
thành nước Pháp, mà đã ngăn ngữ được quân giặc phải lùi về, khiến cho
văn minh Âu châu khỏi phải chìm đắm trong cái sóng dã man theo chân quân
rợ mọi mà chàn sang vậy. Lại hai thế kỷ về sau, giặc Hồi hồi tiếng sang nam bộ
Âu châu, nước Pháp cũng phá tan được ở đồng bằng Poitiers, cứu được đạo
Thiên chúa khỏi cái nạn dị-đoan. Lại mới rồi giặc Đức chàn sang như nước lụt,
đến bờ sông Marne nước Pháp cũng ngăn cầm lại được, tự cứu cho mình mà lại vừa
cứu cho thế giới khỏi phải chịu cái dã man mới của giống Điêu đương.
Xét như thế thì cái
tính cách của lịch sử nước Pháp thực là rộng rãi, mà không phải khu khu vị một
mình. Không những là trong khi đối với ngoài mà có cái tính cách ấy;
những việc riêng trong nước cũng vậy. Tựa hồ như nước Pháp có cái sức
phản chiến ra ngoài rất mạnh, phàm mình cử-hành việc gì, dẫu chỉ quan hệ đến
một mình, cũng có ảnh hưởng ra ngoài, người khác nhân đấy mà lấy làm gương, mà
bắt chước... Cứ xét một cuộc Đại Cách mệnh năm 1789 thì đủ biết rằng cái
ảnh hưởng ấy sâu xa là chừng nào. Cái cáchmệnh ấy bất quá là chỉ chủ phá đổ
cái quân chủ chính thể cũ mà đặt dân chủ chính thể mới, tưởng cũng là một sự
nội biến tầm thường, không có quan hệ gì đến thế-giới. Bởi đâu mà mới nổi lên
đã kích-động cả toàn Âu ?. Chẳng phải là bởi cái cách mệnh ấy tui vị nghĩa
riêng một nước mà kiêm cả cái nghĩa chung của nhân loại, ư ? Sau khi phá
được nhà ngục Bastille, ngày 27 tháng 8 năm 1789, hội «Lập hiến»
(la Constituante) bá-cáo tờ «Nhân quyền tuyên ngôn », xướng lên rằng
phàm làm người ai cũng được tự do bình đẳng cả. Nhời tuyên ngôn ấy chỉ chung cả
nhân loại, không phải chỉ riêng một người nước Pháp. Bởi cái tính-cách đại đồng
ấy mà cuộc cách mệnh năm 1789 đã có cái thế lực to nhớn như thế, mà tờ
« Nhân-quyền tuyên-ngôn » năm ấy đã được một nhà sử-học gọi là
« cái kinh Phúc-ấm của thời-thế mới » .
Vị chi là lịch sử nước
Pháp cũng như văn chương, triết học, tôn giáo mà cùng thuộc về một cái lý tưởng
nhân đạo vậy.
Nói tổng kết lại thì
cái nhân đạo là cái đặc tính hiển nhiên, có thể gọi được là cái
« linh tính » của sự văn minh học thuật nước Pháp. Suy diễn ra cũng
một cái đắc tính ấy, qui nạp lại cũng một cái linh tính ấy.
Tiên sinh đã suy diễn
cái tư tưởng nhân đạo trong suốt một bài đại luận, lời lẽ nghiêm trang như
cái lâu đài cổ Hi lạp, tình tứ cảm động như bộ tiểu thuyết mới thời nay,
qui nạp lại mấy câu kết luận như sau này :
« Cái đặc nhiệm,
cái thiên chức của nước Pháp là phải xét mọi sự mọi vật theo cái phương diện
nhân đạo. Bởi đó mà văn chương, triết học, tôn giáo, lịch sử nước Pháp, đều có
cái cảm lực mạnh như thế. Nước Pháp đã mang cái lòng hiếu nhân đạo đến cực
điểm, đến bực nguy hiểm cho mình. Bình sinh đã từng lắm phen phải lừa phải hại
vì cái lòng nhân đạo ấy. Nhưng mà cái « dại » ấy cũng là vẻ vang, vì
dại là dại không biết ghen ghét ai, không biết nghi hoặc người đời, dại là dại
biết tróng quên những sự kinh lịch gian nan, những sự ghen ghét thâm trầm, những
sự tham lam quá độ. Nước Pháp không bao giờ để lòng tin được rằng muôn việc
trong thế giới chỉ dùng cái võ lực, cái võ lực kiêu căng tàn ngược,mà
giải quyết được. Nước Pháp không bao giờ chịu rằng cái cứu cánh mục đích của sự
học là chỉ để nghĩ thêm cho người ta những cách phá-hoại áp-chế lẫn nhau. Một
nhà văn-sĩ cổ của nước Pháp tên là RABELAIS đã từng nói câu tuyệt-ngôn
này: «Học vấn không có lương tâm chỉ là tai hại tâm tính» (Science
sans conscience n'est que ruine de l'âme). Nước Pháp không thể tưởng tượng
được rằng một dân, một lối tinh-thần riêng nào, lại có cái quyền đạp-đổ những
dân khác, những lối tinh-thần khác được. Cái lý-tưởng mà nước Pháp mong tới đến
được, không phải là cái lý-tưởng muốn biến sự tư-tưởng, sự sinh-hoạt của người
ta thành cái máy vô-hồn cứng-cỏi, thực là cái lý-tưởng muốn để cho cái
tinh-thần riêng của mỗi nước được tự do mà phát siển ra cho điều hòa. Một
thế giới chỉ thấy thịnh hành cái võ lực của bọn quân nhân, cái hình thức của
bọn ngụy nho, cái kiêu căng của bọn quan lại, chỉ thấy thiên trọng cái xấu xa
thô bỉ, cái to lớn quá độ, một thế giới như thế, thì nước Pháp lấy làm một nơi
địa ngục cực kỳ khả ố vậy. Kẻ khác gọi là cái « văn hóa », thì nước
Pháp gọi chính danh nó là cái dã-man vậy. Cái dã man càng có học bao nhiêu
lại càng dã man bấy nhiêu. Đối với cái dã man ấy thì cái văn minh của nước
Pháp thực là trái ngược hẳn. Nước Pháp là sự tự do, là cái vẻ ưu mĩ khả ái, là
sự biết điều độ, là sự lễ mạo văn nhã, là sự kín đáo, là sự tiêm tất;
nước Pháp là sự khoan dung, sự nhân từ, sự bác ái; nói rút lại một chữ
thì nước Pháp là nhân đạo vậy. Nếu nước Pháp mà biến mất đi thì đời người cũng
giảm mất một phần cao thượng, một phần phong thú vậy. »
Bọn ta nay đã biết cái
tinh thần của nước Pháp tốt đẹp là chừng nào, thì cái lòng cảm giác phảng phất
lúc nãy tất tỏ rạng dần ra mà biến thành cái bụng cảm phục sáng suốt.
1.
Tiên sinh
là một nhà «phê bình» có tiếng ở nước Pháp. Nguyên dạy văn chương
Pháp ở trường Đại học Fribourg, bên Thụy Sĩ. Tiên sinh làm bài luận về Văn minh
nước Pháp này, đã từng được hội Hàn lâm ban « thưởng hùng biện »
(prix d'éloquence) năm 1916.
2.
Hòa ước
Nhật Nga năm 1906, điều 25 nói rằng: « Hòa ước này làm bằng văn Pháp
cùng văn Anh. Hai bản thực giống nhau, nhưng hễ khi có dị nghị thì sẽ lấy bản
Pháp văn làm bằng.» - Một người Nga tên là J. Novicow mấy năm trước có
xướng lên cái nghị rằng các nước văn minh Âu châu, ngoài tiếng mình, nên dùng
tiếng Pháp làm tiếng giao thiệp chung.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét