Những gương mặt tiêu biểu thi ca Việt Nam
Phong trào thơ mới
Thơ mới là một trào lưu thơ Việt Nam xuất hiện từ
khoảng 1932 đến khi nổ ra cuộc cách mạng Tháng Tám 1945. Đó là nền thơ mang
phong cách hiện đại tương tự thơ phương Tây thế kỉ XIX và XX, khác hẳn thi ca
Việt Nam trong tất cả các thời đại quá khứ.
Như vậy, xét tổng thể
lịch sử thi ca Việt Nam thành văn (không kể ca dao và thơ ca bình dân) thì từ
xưa đến nay chỉ có ba nền thơ căn bản:
Một là thơ chữ Hán (ra đời khoảng thế kỉ XI), chịu ảnh hưởng nặng
của thơ Trung Hoa.
Hai là thơ Nôm – dòng thơ đích thực của dân tộc ta, được sáng tạo bằng ngôn ngữ
Việt - ra đời vào khoảng thế kỉ XII – XIII và phát triển trong suốt một thời
gian dài đến tận cuối thế kỉ XX. Sau khi chữ quốc ngữ được dùng phổ biến trong
toàn quốc thì dòng thơ Nôm này dần dần được viết bằng chữ quốc ngữ thay vì
bằng chữ Nôm (thi nhân đi đầu tiêu biểu cho cách viết mới mẻ này là Tản Đà).
Ba là Thơ Mới, ra đời vào năm 1932 với bài “Tình già” của Phan Khôi. Thơ Mới -
kết quả của cuộc hội nhập giữa nền thơ truyền thống dân tộc với nền thơ phương
Tây – có thể coi là một cuộc cách mạng ở nửa đầu thế kỉ XX, đã khép lại vĩnh
viễn thời đại thơ cổ điển và “thơ cũ” nói chung trong quá khứ.
Đối với danh từ THƠ MỚI:
Nếu hiểu theo nghĩa rộng - không chỉ là tên gọi của một trào lưu thơ Việt Nam ở nửa đầu thế kỉ XX, mà là một phương pháp sáng tác mới về căn bản - thì hầu hết thơ Việt Nam cho đến tận đầu thế kỉ
XXI này vẫn nằm trong khuôn khổ của Thơ Mới. Bởi vì, mặc dù có nhiều người cố
tình tìm cách sáng tạo ra những kiểu thơ khác với nó (như thơ “chôn tiền chiến”
của Trần Dần hay “thơ vụt hiện”…) nhưng đều hoặc là đi vào ngõ cụt, hoặc cũng
chỉ là hành động “vẽ rắn thêm chân” cho chính Thơ Mới mà thôi. Cho đến nay hoàn
toàn chưa xuất hiện mộtphương pháp sáng tác mới nào khả dĩ thay thế được Thơ Mới.
Từ nửa cuối thế kỉ XIX
đến đầu thế kỉ XX, cùng với cuộc xâm lược của thực dân Pháp, những nhân tố mới
của chủ nghĩa tư bản phương Tây, của nền văn minh phương Tây nói chung, đã dần
dần xâm nhập và ảnh hưởng đến xã hội Việt Nam. Nền khoa cử phong kiến dần dần
bị bãi bỏ, chữ quốc ngữ được thay thế cho chữ Hán và chữ Nôm. Văn xuôi hiện
đại, báo chí, ngành xuất bản xuất hiện. Một tầng lớp trí thức “Tây học” được
Pháp đào tạo để phục vụ trong bộ máy nhà nước thuộc địa, trong đó có một số
người được du học tại Pháp (như Nguyễn Tường Tam, Nguyễn An Ninh…). Tiếng Pháp
chiếm địa vị quan trọng hơn tiếng Việt trong các nhà trường và trở thành tiếng
nói khá phổ biến trong các xã hội thành thị, nhất là giới trí thức và giới công
chức. Nói một cách dễ hiểu, vì chính quốc là một nước tư bản lớn nên thuộc địa đương nhiên phải chịu ảnh hưởng về mọi mặt của chính quốc.
Trong thời đại “Âu hoá”
ấy, xã hội và con người Việt Nam, nhất là ở các đô thị, đã trải qua một sự biến
cải sâu sắc phản ánh tính tất yếu lịch sử (từ phong kiến tiến lên tư bản, cho
dù bị hạn chế rất nhiều tại thuộc địa). Từ những hoạt động kinh tế, những sinh
hoạt vật chất và tinh thần của con người, những giá trị tinh thần hết sức mới
mẻ như “tự do luyến ái”, vai trò của cái tôi nhân bản (sản phẩm đặc trưng của chủ nghĩa tư bản), tất cả đều khác xa với
thời đại phong kiến trước đó. Khuynh hướng thường được tô vẽ bằng cụm từ rất
kêu “văn minh Âu hoá” tỏ ra có sức cuốn hút mạnh mẽ không gì ngăn cản được. Sự
“đua đòi” theo lối sống “tân thời” đã khiến nhà thi sĩ “chân quê” Nguyễn Bính
lúc mới đầu phải hoảng sợ kêu van:
Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng,
Áo cài khuy bấm em làm khổ tôi!…
Nói ra sợ mất lòng em,
Van em em hãy giữ nguyên quê muà…
Trước ngưỡng cửa của một
thời đại mới, nền văn minh và văn hoá truyền thống của Việt Nam đã gặp gỡ, giao
thoa với nền văn minh và văn hoá phương Tây, tạo nên một nền văn minh, văn hoá
mới chưa từng có. Có thể nói, một cuộccách mạng văn hoá đã diễn ra trong nửa đầu thế kỉ XX trên mọi lĩnh
vực: thi ca, văn xuôi, âm nhạc, kịch nghệ, hội hoạ, kiến trúc, báo chí…
Thơ Mới xuất hiện trong
cuộc cách mạng văn hoá ấy, đăng đàn vào năm 1932 và bước vào thời kì hoàng kim
trong mười năm kế tiếp.
Cùng với các loại hình
văn hoá khác, Thơ Mới, mặc dù căn bản là thơ lãng mạn, vẫn phản ánh được thiên
nhiên và đất nước Việt Nam, đặc biệt phản ánh cái “không khí của thời đại mới”,
phản ánh số phận, đời sống vật chất và tinh thần của nhiều hạng người, phản ánh
bộ mặt xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX.
Thơ Mới xuất hiện với một
khí thế hào hứng, sôi nổi chưa từng có, tựa như một dàn hợp xướng của trí tuệ
và tâm hồn con người thời đại (với muôn màu muôn vẻ) nhất tề vang lên trong vẻ
đẹp của một nghệ thuật hoàn toàn mới mẻ và tuyệt vời. Chính vì vậy, ngay khi
mới ra đời, Thơ Mới đã mau chóng chiếm được tim óc của đông đảo người Việt Nam
từ thành thị đến nông thôn (riêng ở nông thôn, thơ Nguyễn Bính được quần chúng
ưa thích như một thứ ca dao mới). Phái “thơ cũ” của “các thầy đồ cổ” sau một
thời gian tỏ thái độ chống đối kịch liệt hoặc dè bỉu, hoài nghi… rốt cuộc đã
phải chấp nhận… cáo chung!
Trong một thời gian ngắn
(khoảng trên mười năm), thời đại Thơ Mới đã sản sinh ra hàng loạt nhà thơ nổi
tiếng, vĩnh viễn để lại tên tuổi trong lịch sử văn học nước nhà: Thế Lữ, Huy
Thông, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Huy Cận, Chế
Lan Viên, Vũ Hoàng Chương, Tú Mỡ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân, Anh Thơ…
Như trăm hoa đua nở, mỗi
nhà thơ là một loài hoa, hoàn toàn tự do bộc lộ bản sắc riêng, dường như không
chịu một gò bó nào của ngoại cảnh, trừ sự thôi thúc của chính cái “nhân bản”
trong con người họ và thiên hướng nghệ thuật của họ. Trong cuộc tìm tòi bản
sắc, phong cách riêng ấy, Thơ Mới đã tách ra thành nhiều trường phái, xu hướng
khác nhau, tạo nên sự đa dạng, phong phú của nền thơ đương thời. Sau đây là mấy
xu hướng chính:
Thơ hoành tráng về con người thời đại đầy chất lãng mạn trữ tình với Thế Lữ:
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài,
Giữa chốn thảo hoa không tên không tuổi.
(Nhớ rừng)
Hôm nay tạm nghỉ bước gian nan,
Trong lúc gần xa pháo nổ ran,
Rũ áo phong sương trên gác trọ
Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang.
(Giây phút chạnh lòng)
Thơ tình yêu với Xuân Diệu, Tế Hanh, Hồ DZếnh, T.T.Kh…:
Em vui đi, răng nở ánh trăng rằm
Anh hút nhuỵ của một giờ tình tự.
Yêu với chứ, vội vàng lên với chứ!
Em, em ơi! Tình non sắp già rồi…
(“Giục giã” – Xuân Diệu)
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi! Người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng?
(“Hai sắc hoa ti gôn” – T.T.Kh)
Thơ chân quê với Nguyễn Bính:
Láng giềng đã đỏ đèn đâu?
Chờ em ăn giập miếng giầu em sang.
Đôi ta cùng ở một làng
Cùng chung một ngõ, vội vàng chi anh?
Em nghe họ nói mong manh,
Hình như họ biết chúng mình với nhau…
(Chờ nhau)
Thơ sầu rụng với Lưu Trọng Lư:
Xin để gối nằm im chỗ cũ
Hãy lịm người trong thú đau thương.
Giờ đây ta đốt nén hương
Trên tay ta buộc dải tang cho tình.
(Thú đau thương)
Thơ điên với Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Chế Lan Viên:
Mây chết đuối ở dòng sông vắng lặng
Trôi thây về xa tận cõi vô biên.
Trong thuyền mơ bỗng nghe ai đằng hắng,
Thôi phải rồi: đích thị bóng ma điên.
Thơ phong tục, phong cảnh
nông thôn với Anh Thơ, Bàng Bá Lân,
Đoàn Văn Cừ:
Ngoài đồng vắng, trời đêm mà che nón?
Có hai người đi lẻn tới nương dâu.
Và lại có cả một đôi đom đóm
Bay dập dìu như muốn phải lòng nhau.
(“Đêm xuân” – Anh Thơ)
Tiếng chuông trống xen từng hồi lặng lẽ
Những bóng người trịnh trọng khẽ đi lên,
Những cánh tay áo thụng vái mơ huyền
Đang diễn lại cả một thời quá khứ
Mà đất nước, non sông cùng cây cỏ
Còn thuộc quyền sở hữu của Linh Thiêng…
(“Đám hội” – Đoàn Văn Cừ)
Thơ say với Vũ Hoàng Chương:
Hãy buông lại gần đây làn tóc rối
Sát gần đây, gần nữa, cặp môi điên
Rồi em sẽ dìu anh trên cánh khói
Đưa hồn say về tận cõi trời quên.
(Quên)
Thơ lịch sử, “thời xưa” với Nguyễn Nhược Pháp, Nguyễn Văn Cổn, Huy Thông:
Lòng sông nước đục lờ
Ngâm nga chàng đọc thơ
Thầy khen hay hay quá
Em nghe rồi ngẩn ngơ…
Thuyền đi, bến Đục qua
Mỗi lúc gặp người ta
Thẹn thùng em không nói
“Nam mô A Di Đà”…
(“Chùa Hương” – Nguyễn Nhược Pháp)
Thơ trào phúng với Tú Mỡ:
Làng kia có bác kì hào
Kể trong thứ vị cũng vào bậc trung.
Những khi đi họp hội đồng
Thường đeo cổ áo lòng thòng sợi dây…
Một anh ba rọi ỡm ờ
Kéo dây nửa thực nửa vờ đòi xem.
Kim tòng vừa mới kéo lên
Đầu dây chỉ thấy… đồng kền năm xu!
(Cái dây kim tòng)
Vì sao Thơ Mới lại phát
triển một cách mãnh liệt và đạt được những thành tựu rực rỡ như vậy? Chúng ta
hãy lí giải bắt đầu từ sự phân tích lịch sử:
Ở Việt Nam, chế độ phong
kiến được thiết lập vào năm 938 với Ngô Quyền, sau khi đánh tan cuộc xâm lược
của nhà Nam Hán. Trải qua các triều đại thịnh trị Tiền Lê - Lí - Trần – Hồ -
Hậu Lê – Nguyễn, chế độ phong kiến dần dần đi đến chỗ suy tàn, mặc dù từng lúc
từng nơi cũng có những sự kiện làm khởi sắc đất nước, ví như sự xuất hiện những
đô thị khá sầm uất (Phố Hiến ở Đằng Ngoài, Hội An ở Đằng Trong) hay việc mở
rộng lãnh thổ về phía nam của họ Nguyễn…
Trong suốt một thời gan
dài đến 4 thế kỉ (từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX), xã hội Việt Nam không những đã
không có một tiến bộ lịch sử nào đáng kể mà còn bị điêu tàn thảm hại bởi những
cuộc nội chiến liên miên. Có thể nói, cho đến thế kỉ XIX, lịch sử Việt Nam đã
đi đến chỗ sa lầy, bế tắc. Trong khi đó, nước láng giềng Nhật Bản đã nhạy bén
bắt chước phương Tây, kịp thời vươn mình theo con đường tư bản chủ nghĩa và đã
“thoát hiểm”. Chính vì tình trạng ngừng trệ, bế tắc, suy yếu, Việt Nam trở
thành miếng mồi ngon cho tư bản Pháp, không chống đỡ nổi cuộc xâm lược của
chúng và phải chấp nhận số phận là thuộc địa của Pháp. Ở vào tình thế bi đát
như vậy, Việt Nam đã hoàn toàn mất chủ quyền được lựa chọn con đường phát
triển. Nhưng chính lịch sử đã tạo ra một giải pháp. Vì là thuộc địa của một nước
tư bản (Pháp) đang phát triển mạnh, Việt Nam đương nhiên “được” tiếp nhận và
chịu ảnh hưởng của chính quốc cũng như của nền văn minh phương Tây nói chung.
Và Việt Nam đã có được một hướng đi nhất định, về đại thể phù hợp với qui luật
tất yếu của lịch sử: dưới sự bảo hộ của chính quốc, phần nào thoát li khỏi chế
độ phong kiến, tiếp tục vận động theo định hướng và khuôn khổ của chủ nghĩa tư
bản (áp dụng cho các xứ thuộc địa). Hướng vận động ấy người đương thời gọi bằng
từ “Âu hoá”. Như vậy, khách quan mà xét, trong cái bất lợi (phải làm nô lệ cho
nước Pháp) Việt Nam cũng “vớt vát” được một cái lợi căn bản là dựa vào nước
Pháp mà hội nhập vào hệ thống tư bản chủ nghĩa thế giới. Thực tiễn lịch sử đã
chứng minh: chỉ trong khoảng thời gian nửa thế kỉ, mặc dù vẫn là một nước “nửa
phong kiến” nhưng chỉ cần tính đến năm 1945 – với sự hiện diện của các thành
thị, các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường sông, đường biển, các loại
máy móc, điện khí, tàu thuyền, xe cộ và hàng hoá phương Tây, các hải cảng, chợ búa,
hầm mỏ, nhà máy, đồn điền, ngành “dây thép” (bưu điện), trường học, sự cáo
chung của nền khoa cử cũ (vào năm 1918), sự phổ biến chữ quốc ngữ (cấu trúc
theo mẫu tự Latin), sự phổ biến tiếng Pháp, văn học hiện đại (thơ, tiểu thuyết,
kịch), nghệ thuật (hội hoạ, âm nhạc…), ngành xuất bản sách và báo chí, nhà in,
nhà thương, ngành thể thao, sân vận động, rạp hát, các bãi biển (như Đồ Sơn,
Sầm Sơn…), các khu nghỉ mát như Sapa, Đà Lạt, Bà Nà (chủ yếu dành cho người
Pháp) và Âu phục, áo “tân thời” và đồ trang sức mới của phụ nữ… – tất cả đã nói
lên một sự thật: nước thuộc địa Việt Nam đã ít nhiều mang dáng dấp của một xứ
tư bản chủ nghĩa.
Nền Thi ca Việt Nam (hay
văn học nghệ thuật Việt Nam nói chung) cũng trải qua những diễn biến tương tự.
Suốt thời phong kiến cho đến tận thời Tản Đà, xét về đại thể, thơ Việt Nam chỉ
có một giọng điệu căn bản: đó là giọng điệu cổ điển, đại khái như:
Nước non nặng một lời thề,
Nước đi đi mãi không về cùng non.
Nhớ lời nguyện nước thề non,
Nước đi chưa lại, non còn đứng không…
(Thề non nước)
Bài thơ rõ ràng vẫn cùng
một giọng điệu với thơ Chinh phụ ngâm, Truyện
Kiều… Một vài phá cách của Tú
Xương hay Tản Đà không át được giọng điệu chung ấy.
Nhưng đến đầu thế kỉ XX,
khi giới trí thức Việt Nam được “nếm” hương vị chưa từng có của thơ phương Tây
(với Ronsard, La Fontaine, Lamartine, Vigny, Hugo, Musset, Baudelaire, Rimbaud,
Verlaine, Prévert…) thì họ hoàn toàn bị choáng ngợp. Cái hay của thơ phương
Đông (cũng như y phục dân tộc) không đủ để đáp ứng với nhu cầu thẩm mĩ của con
người thời đại mới, chưa kể đến tính chất “lỗi thời” của chúng. Thị hiếu của
con người luôn đòi hỏi cái mới lạ, cái tiến bộ. Chính vì vậy, nhu cầu cách tân thơ Việt Nam xuất hiện, giống hệt nhu cầu sáng tác
thơ quốc âm ở các thế kỉ XII – XIII và XV. Một phong trào sáng tác thơ bằng
tiếng Việt hiện đại (tân thời) mô phỏng phong cách thơ phương Tây nở rộ với
Phan Khôi, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Huy Thông, Xuân Diệu, J. Leiba, Thái Can… và
lập tức được quần chúng nhân dân nhiệt liệt hoan nghênh, được đưa vào chương
trình giảng dạy ở học đường. Thơ Mới ra đời với nhiều đặc tính ưu tú hơn thơ cổ
điển: tự do, phóng khoáng, vứt bỏ mọi thứ công thức cả về nội dung lẫn hình
thức, đi thẳng vào con người thực, đời sống thực, tâm hồn và cảm xúc thực, tính
nhân bản đậm đặc với cái tôi hiện đại, chân thực, đa dạng.
Thơ cổ điển thường khiến
người đọc rung cảm với “tha nhân” (một người nào đó), một nhà thơ hay một nhân
vật. Ví dụ: đọc Chinh phụ ngâm, Cung oán
ngâm, Truyện Kiều để cảm thương chinh phụ,
cung nữ, nàng Kiều; đọc Tú Xương, Tản Đà để thông cảm với ông Tú Xương, ông Tản
Đà…
Thơ Mới thì khác, thường
gợi cho người đọc phát hiện rachính bản thân họ, để người đọc tự thấy
yêu thích mình, thương mình… Thơ Mới đặc tả cái tôi của tác giả nhưng vô hình
trung đã đem cái tôi ấy tặng cho mỗi trái tim của người đọc, chính vì
vậy mà làm mê hoặc người đọc.
Tất cả thanh niên học
sinh thành thị lúc bấy giờ đều “chết mê chết mệt” với những câu thơ tình “thật
như máu thịt” của Xuân Diệu:
Mau với chứ, vội vàng lên với chứ,
Em, em ơi, tình non đã già rồi;
Con chim hồng, trái tim nhỏ của tôi,
Mau với chứ! Thời gian không đứng đợi...
Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai;
Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn.
Vừa xịch gối chăn, mộng vàng tan biến;
Dung nhan xê động, sắc đẹp tan tành…
(Giục giã)
Tất cả các tiểu thư thành
thị đều “ngơ ngẩn tựa mất hồn” với những lời tâm sự như rút ruột mà nói ra của
một cô nàng yêu một người này nhưng lại phải sống với một người khác:
Thuở ấy nào tôi đã hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh li
Cho nên cười đáp: “màu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy”…
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết, từng thu chết
Vẫn giấu trong tim bóng một người…
(“Hai sắc hoa ti gôn” – T.T.Kh)
Còn các cô gái ở nông
thôn thì đắm đuối với những vần thơ buồn thương da diết và đầy ma lực của
Nguyễn Bính:
Lòng thấy giăng tơ một mối tình,
Em ngừng thoi lại giữa tay xinh
Hình như hai má em bừng đỏ
Có lẽ là em nghĩ đến anh…
Chờ mãi anh sang anh chẳng sang
Thế mà hôm nọ hát bên làng
Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn
Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng!
(Mưa xuân)
… Chị từ lỡ bước sang ngang
Trời giông bão giữa tràng giang lật thuyền.
Xuôi dòng nước chảy liên miên
Đưa thân thế chị tới miền đau thương.
Mười năm gối hận bên giường,
Mười năm nước mắt bữa thường thay canh,
Mười năm đưa đám một mình,
Đào sâu chôn chặt mối tình đầu tiên…
Thơ điên của Hàn Mặc Tử, Bích Khê và Chế Lan Viên thì làm
“dựng tóc gáy”, làm “kinh hoàng, choáng váng” không biết bao nhiêu độc giả
thuộc mọi tầng lớp.
Tất cả các trường phái
thơ khác đương thời cũng đều gây ra được những hiệu quả tương tự.
Tóm lại, “thời đại Thơ
Mới” (theo cách gọi của Hoài Thanh) là một thời đại thi ca rực rỡ cổ kim chưa
từng có ở Việt Nam. Đó chính là kết quả do thơ Việt Nam tiếp thụ tinh hoa thơ
phương Tây tạo ra. Kể cả thơ “chân quê” của Nguyễn Bính cũng không nằm ngoài nguyên
lí ấy. Nguyễn Bính khai thác chất liệu “chân quê”, đặc tả cái “hồn quê Việt
Nam” nhưng không phải bằng một thứ “ca dao bình dân” truyền thống kiểu “Trèo
lên cây bưởi hái hoa, Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân”, mà sáng tác trên tầm vóc của một nhà thơ hiện đại với những cấu tứ “ngang thưng” với thơ phương Tây
và với thi pháp hiện đại, chẳng hạn những đoạn thơ sau đây:
Ai yêu như tôi yêu nàng
Họp nhau lại, họp thành làng cho xinh
Chung nhau dựng một trường đình
Thờ riêng một vị thần linh là Nàng.
(Lòng yêu đương)
Một nghìn cái cửa sổ
Đều khép vào đêm qua
Một nghìn bàn tay ngà
Đã thò qua cửa sổ.
…Đêm qua và đêm nay
Và nghìn đêm về trước
Tôi đi trên phố này
Tôi đi trên phố khác
Để mở những bàn tay
Của những nàng gái đẹp
Để muốn rằng đêm nay
Cửa ai buồn chẳng khép…
(Một nghìn cửa sổ)
Chính nhờ kết quả kì diệu
của sự “biến đổi gen thơ Việt Nam” đó mà Thơ Mới đã chiến thắng một
cách oanh liệt “thơ cũ” (tức phương pháp sáng tác thơ truyền thống), đến nỗi
các nhà thơ thuộc phái “cựu học” sau một thời gian điên cuồng chống chọi, rốt
cuộc đã buộc phải “buông… bút qui hàng” và rút lui về những nơi thôn ổ…
NGHỆ THUẬT CỦA THƠ MỚI
Nhìn nhận theo quan điểm
khoa học về lịch sử thì trong vài thế kỉ trở lại đây (khoảng từ thế kỉ XVIII),
“thế giới phương Đông” đồng nghĩa với “thế giới cũ”, còn “thế giới phuơng Tây”
đồng nghĩa với “thế giới mới”. Bởi một lẽ dễ hiểu: đó là thời đại chủ nghĩa tư
bản ra đời và phát triển trước tại phương Tây, tạo ra nền văn minh hiện đại. Mặc dù vẫn có những hạn chế, thậm chí những “bệnh
hoạn”, nhưng xét tổng quát, nền văn minh này hội được những tính chất ưu việt
mà không một nền văn minh nào trong quá khứ sánh nổi: sự phát triển đến mức
sung mãn về các phương tiện vật chất, khoa học kĩ thuật đạt đến đỉnh cao, văn
học và nghệ thuật nở rộ, sự thực thi nhân quyền của con người đạt được những
tiến bộ đáng kể, nhất là về quyền tự do. Chính vì tính ưu việt đó mà nền văn
minh này không còn mang tính khu vực nữa mà mang tính toàn cầu: đó chính là nền văn minh hiện đại của
toàn thể nhân loại. Sớm hay muộn, tất cả các
quốc gia cũng như các nền văn minh riêng lẻ đều phải hội nhập vào nền văn minh
chung ấy như một qui luật tất yếu.
Đó là nguyên nhân sâu xa
nhất về phương diện lịch sử, quyết định sự ra đời của Thơ Mới, quyết định tính chất “mới” (đồng nghĩa với tính chất ưu việt) về nghệ thuật của nó. Nói cách khác, Thơ Mới
chính là một sản phẩm của nền văn minh hiện đại toàn cầu, và với tính chất ưu việt không thể nghi ngờ được của nó, nó đã khiến cho
“thơ cũ” phải cáo chung, phải rút lui khỏi vũ đài của lịch sử hiện đại, chỉ tồn
tại với tính cách là “tinh hoa của quá khứ”.
Đề tài của Thơ Mới hết
sức rộng lớn, và trọng tâm không còn là chạy theo phản ánh những hoạt động,
cảnh huống, sự giao tiếp, kinh nghiệm… của tác giả như thơ cũ. Nếu mục tiêu cơ
bản của thơ cũ là “ngôn chí” (mục tiêu “thẩm mĩ” rõ ràng bị đẩy xuống hàng thứ
yếu) thì mục tiêu trước hết của Thơ Mới chính là là “ngôn mĩ”. Nghĩa là Thơ Mới
đặc biệt chú trọng khai thác phản ánh cái hay, cái đẹp, cái lạ của thế giới khách quan, cũng như thế giới
bên trong của nhà thơ, miễn là gây được cảm xúc, ấn tượng mạnh và thú vị cho
người đọc. Ví dụ:
Ta thích đứng lặng trên bờ ao
Lắng nghe trong bụi tiếng thì thào
Của hai luồng gió đang vương vấn,
Mà tiếng lòng ta cũng dạt dào.
Ta thích ngồi mơ dưới gốc đa
Chờ người năm ngoái có đi qua?
Yêu thương níu lại rồi tình tự
Tiếng lá vèo bay ta ngỡ là…
Ta thích len vào trong đám lau
Núp chờ trăng xuống để quàng nhau
Giả đò ân ái như năm ngoái,
Gió lại, ta ngờ nàng tới sau…
Trong Thơ Mới, cái “chí”
bị đẩy xuống hàng thứ yếu, hầu như không thể hiện, nhường chỗ cho những tình
cảm, những cảm nhận, phát hiện thú vị và những trăn trở suy tư của nhà thơ được
thể hiện triệt để. Có thể nói Thơ Mới không có cái “chí” nào khác ngoài cái
“chí” đạt tới một trình độ cao về thi tứ cũng như về nghệ thuật! Chính vì đặc
tính thiên về “duy mĩ” này mà các nhà lí luận của Thơ Mới tuyên bố chủ trương
“nghệ thuật vị nghệ thuật”!
Thơ cổ điển Việt Nam nói
chung chỉ đạt tới mức độ mô tả cái “hiện thực thứ nhất” (hiện thực nguyên bản)
của cuộc sống, của ý tưởng, tình cảm trong một hoàn cảnh cụ thể, vàthường
phải gắn với những sự vật, sự việc nào đó (như: núi, sông, đền chùa, làng, một nhân vật
lịch sử…; thi cử, từ biệt quê hương, nhậm chức, du ngoạn, tiễn bạn, gặp sự bất
trắc, chứng kiến một sự việc...). Thơ Mới vươn tới trình độ không chỉ mô tả cái
“hiện thực thứ nhất” ấy mà còn đặc biệt chú trọng mô tả cái “hiện thực thứ hai”
chỉ có trong tâm tưởng lãng mạn của nhà thơ, ở tầng cao hơn hiện thực thứ nhất, do hiện thực thứ nhất thăng hoa mà tạo thành.
Chúng ta hãy khảo sát bài
thơ “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư:
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô?
Tác giả không làm công
việc tả cảnh mùa thu (tức hiện thực thứ nhất chưa thăng hoa của mùa
thu) như thơ Nguyễn Khuyến với bài “Thu vịnh” (Trời thu xanh ngắt mấy tầng
cao, Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu…) mà đi vào chiều sâu để tìm kiếm, phát
hiện cái “hồn” của mùa thu. Đó chính là “tiếng thu” (cái điều mà mùa thu gợi
nên), là “cái đẹp đặc trưng, thấm đẫm nỗi sầu” của muà thu. Tứ thơ đạt tới tầng
cao của hiện thực thứ hai: mùa thu ở đây không còn là “mùa thu cụ thể” được
nhận thức bằng giác quan, mà là sự thăng hoa của mùa thu hiện thực, là “mùa thu
tượng trưng” đặc tả bản chất của tất cả các mùa thu trên thế gian. Để làm được
điều đó, chỉ có giác quan thôi thì không đủ, mà phải có biệt tài phát hiện và
tổng hợp được tất cả những gì ẩn náu trong đáy sâu thăm thẳm của mùa thu. Lưu
Trọng Lư đã phát hiện và mô tả mùa thu theo cái cảm quan linh diệu của ông chứ
không mô tả những cái ông “nghe nhìn” được. Chính cái nội dung huyền hoặc, linh
diệu ấy đã lay động và ám ảnh tâm hồn người đọc, để lại một dư vị tuyệt vời.
Sự sáng tạo ra cái “thế
giới thứ hai” ấy là thành tựu, là điều kì diệu của Thơ Mới. Chúng ta có thể tìm
thấy hàng trăm bài “thơ mới” có ma lực gây ra những ám ảnh như vậy, ví dụ các
bài Tì bà (Bích Khê), Chân quê (Nguyễn Bính),Điêu tàn (Chế Lan Viên), Phương xa (Vũ Hoàng Chương),Những giọt lệ (Hàn Mặc Tử), Chiều (Hồ DZếnh), Tình sầu(Huyền Kiêu), Ông đồ (Vũ Đình Liên), Nắng mới (Lưu Trọng Lư), Mùa đông (Nam Trân), Bến Mi Lăng (Yến Lan)…
Để nêu bật đặc trưng nói
trên của Thơ Mới, tôi xin phân tích một chút về bài thơ Chân quê của Nguyễn Bính:
Hôm qua em đi tỉnh về
Đợi em ở mãi con đê đầu làng,
Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng,
Áo cài khuy bấm…
Cô gái quê trong bài thơ
chỉ ăn mặc theo “mốt mới” một chút thôi, nàng vẫn là một con người đức hạnh như
xưa nay: nàng vừa đi chợ trở về làng, tâm hồn nàng hoàn toàn trong trắng, không
hề mang ý đồ phản bội, không hề muốn làm cho người yêu đau khổ. Đó là bộ mặt hiện thực thứ nhất của nàng.
Thế nhưng hiện thực ấy
không thể che mắt được Nguyễn Bính: ông đã phát hiện được ở người yêu một hiện
thực hoàn toàn khác và kêu lên “Khăn nhung quần lĩnh rộn
ràng, Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi!”. Giống như một viên cảnh sát chỉ cần nhìn thấy một
vết máu nhỏ mà biết được rằng có một vụ án mạng vừa xảy ra, nhà thơ của chúng
ta cũng chỉ cần nhìn thấy một vài thứ trang phục mới của người yêu mà biết được
rằng có một sự đổi thay ghê gớm trong tâm tính của nàng. Sợ thay: trông bề
ngoài thì nàng có vẻ vẫn ngoan hiền như xưa, nhưng trong đáy sâu bí ẩn của con
người nàng, nàng đang rắp ranh từ bỏ thuần phong mĩ tục ngàn đời của cha ông để
chạy theo lối sống Âu hoá! Không gì trên đời này kể cả người yêu của nàng có
thể ngăn cản được nàng lao theo lối sống ấy! Nhìn thấu cái sự thật đó, nhà thơ
đã vô cùng kinh hãi: “Nói ra sợ mất lòng em”. Và biết mình không có đủ uy lực để lay chuyển
nàng được (không khéo có thể mất nàng như chơi), nhà thơ chỉ còn biếtvan xin người yêu mà thôi. Người con gái quê hiền thục nết na của cuộc đời
tốt đẹp trong quá khứ đã bắt đầu có những ý đồ nổi loạn chống lại phong tục của
cha ông và chống lại người yêu chỉ vì sự cám dỗ của nền văn minh Âu hoá: đó chính là bộ mặt cái hiện thực thứ hai của nàng!.
Điều mà Nguyễn Bính muốn đi sâu đặc tả chính là hiện thực thứ hai đáng sợ đó. Cả bài thơ rền rĩ một khúc cầu nguyện thống thiết hòng ngăn chặn cái bi kịch “hương đồng gió nội bay đi” trong thời đại mới! Cái hay cái tuyệt cái thấm thía của bài thơ nằm ở chỗ đó!
Điều mà Nguyễn Bính muốn đi sâu đặc tả chính là hiện thực thứ hai đáng sợ đó. Cả bài thơ rền rĩ một khúc cầu nguyện thống thiết hòng ngăn chặn cái bi kịch “hương đồng gió nội bay đi” trong thời đại mới! Cái hay cái tuyệt cái thấm thía của bài thơ nằm ở chỗ đó!
Thơ Mới cũng có những
tiến bộ đáng kể về phương diệncấu trúc. Hầu hết Thơ Mới đều có cấu trúc
gọn gàng mạch lạc, tiết kiệm lời, tất cả các chi tiết đều tập trung xoáy vào
một chủ đề nhất định nhằm tạo ra một ấn tượng sâu sắc. Thay thế cho kiểu cấu
trúc “dàn nội dung theo chiều dài trang giấy” (chẳng hạn “Khóc Dương Khuê” của
Nguyễn Khuyến, “Hầu trời” của Tản Đà…), kiểu cấu trúc mới gồmnhững vòng tròn
đồng tâm (cấu trúc thái dương hệ):
mỗi chi tiết (thường là một khổ thơ) đều châu tuần xung quanh chủ đề để làm nổi
bật chủ đề. Ví dụ trong bài “Tiếng thu”, mỗi chi tiết (đặt dưới ba từ “Em không
nghe”) đều quây xung quanh một chủ đề là hồn thu.
Đó chính là kiểu cấu trúc
hiện đại nhất, đặc biệt thích hợp cho thơ trữ tình hoặc thơ triết lí. Chỉ riêng
trong chủng loại thơ tự sự, các tác giả mới sử dụng tới kiểu cấu trúc dàn theo
chiều dài (ví dụ bài “Chùa Hương” của Nguyễn Nhược Pháp).
Ngôn ngữ của Thơ Mới có
những tiến bộ vượt bậc. Các điển cố và từ ngữ ước lệ hoàn toàn bị loại bỏ. Tất
cả những ưu việt của tiếng Việt (trong sáng, đẹp đẽ, tinh tế, biểu cảm, uyển
chuyển và duyên dáng, hóm hỉnh, giàu tính tượng hình và tượng thanh, nhiều nhạc
tính, và mới lạ, táo bạo…) đều được các nhà thơ chú ý khai thác triệt để
khiến thơ đạt được cả hai yêu cầu “tân kì” và “hay”:
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào
ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét
khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như
sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc…
Đâu những chiều lênh
láng máu sau rừng,
Ta đợi
chết mảnh mặt trời gay gắt…
(“Nhớ rừng” – Thế Lữ)
Trăng nằm sóng soải trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi…
Ô kià bóng
nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe.
(“Bẽn lẽn” – Hàn Mặc Tử)
Trời cao trêu
nhử chén
xanh êm;
Biển đắng không nguôi nỗi khát thèm.
Nên lúc môi ta kề miệng thắm,
Trời ơi, ta muốn uống hồn em!
(“Vô biên” – Xuân Diệu)
Còn gì sướng cho bằng trông cặp mắt
Êm như nhung, sưng tím, lệ tràn trề;
Ngắm bộ
ngực tròn xinh đau quằn quại
Nặng nề buông từng hơi
thở đê mê!
Nguồn vui thú hãy tìm trong tiếng khóc
Rách đau thương như lụa xé tơi bời;
Trên cặp
môi đỏ tươi như vết máu
Kiếm nụ
cười héo hắt tựa hoa rơi…
(“Độc ác” – Tế Hanh)
Trong khi tiếp tục sử
dụng các thể thơ truyền thống như lục bát, song thất lục bát, thất ngôn, ngũ
ngôn… (riêng các thể thơ “thất ngôn bát cú” Đường luật, thơ liên hoàn, thơ yết
hậu v.v… hoàn toàn bị loại bỏ), Thơ Mới định hình được một thể thơ đặc trưng: thể thơ 8 chữ (ví dụ các bài “Nhờ rừng” và “Độc ác” đã dẫn).
Ngoài ra một “đột phá” của Thơ Mới là sự xuất hiện của thể thơ hoàn toàn tự do,
số từ ngữ trong mỗi câu không hạn định, miễn là khi đọc lên vẫn thấy có hiệu
quả về nhạc điệu (hay vần điệu):
Là bàng
Như lá vàng
Rụng.
Ô! đìu hiu
Cảnh chiều
Đông!
Ruộng ngập: mênh mông
Nước phẳng.
Cò bay, yên lặng
Quanh đồng.
Thi tứ viển vông:
Thần tưởng tượng
Như đàn cò đói lượn
Đồng không.
Nhiều bài thơ mới đạt
đỉnh cao của nghệ thuật, trở thành kiệt tác. Thành tựu đáng kể của Thơ Mới là
trong khi vẫn mang đầy đủ bản sắc đặc trưng của thơ dân tộc, được tất cả mọi
người Việt Nam chấp nhận, lại đồng thời bắt kịp và hội nhập được với nền thơ
chung của thế giới hiện đại, nghĩa là mang tính quốc tế. Ví dụ:
CÔ GÁI ĐỒNG TRINH
Hàn Mặc Tử
Đêm qua trăng vướng trong cành trúc,
Cô láng giềng bên chết thiệt rồi,
Trinh tiết vẫn còn nguyên vẹn mới,
Chưa hề âu yếm ở trên môi.
Xác cô thơm quá, thơm hơn ngọc,
Cả một mùa xuân đã hiện hình.
Thinh sắc cơ hồ lưu luyến mãi,
Chết rồi – xiêm áo trắng như tinh.
– Có tôi đây, hồn phách tôi đây!
Tôi nhập vào trong xác thịt này
Cốt để dò xem tình ý lạ
Trong lòng bí mật ả thơ ngây.
– Biết rồi, biết rồi! Thôi biết cả
Té ra nàng sắp sửa yêu ta!
Bao nhiêu mơ ước trong tim ấy
Như chực xuân về thổ lộ ra.
Tất cả các thế hệ nhà thơ
sau Thơ Mới đều kế thừa những thành tựu và tinh hoa của Thơ Mới. Cho đến đầu
thế kỉ XXI này, mặc dù thơ Việt Nam có thêm những sáng tạo, đổi mới ở từng khía
cạnh nhưng tựu trung vẫn không vượt hẳn được ra ngoài “bầu trời” của Thơ Mới.
Vẫn chưa hề xảy ra một cuộc cách mạng thơ nào thay thế Thơ Mới như cuộc cách mạng mà Thơ
Mới đã làm trong những năm 30 của thế kỉ XX thay thế nền thơ cũ. Một số nhà thơ
chủ trương đi tìm sự “tân kì” để thoát khỏi tầm ảnh hưởng của Thơ Mới, nhưng
“sản phẩm” của họ thường lại chỉ là thứ thơ kì bí, kì quặc, “dị dạng”, thậm chí
phản nghệ thuật, do đó không làm nên công trạng gì hoặc bị đào thải. Phải chăng
thơ Việt Nam trong tương lai vẫn chỉ là Thơ Mới được tiếp tục phát triển, trau
chuốt, cách tân và nâng cao hơn mà thôi?
Trong nền thơ Việt Nam
đương thời có một nghịch lí. Đó là sự “sống lại” của thơ cũ, đặc biệt là thơ Đường luật (tiếng Việt). Người mở màn cho cuộc “lội ngược
dòng” này có lẽ là Quách Tấn, nhà thơ đã nhập cuộc được với Thơ Mới một thời
gian nhưng rồi lại “rớt lại” với thơ cũ. Hiện tượng này phản ánh
qui luật đa dạng, song song tồn tại của nhiều dòng thơ, đáp ứng nhu cầu của nhiều
nhóm người trong xã hội, khác nhau về trình độ và thị hiếu. Trên thực tế “thơ
cũ thời hiện đại” đang làm một cuộc hành trình từ thơ bác học sang thơ bình dân
ở diện khá rộng (không có nữa những bài thơ “bác học” đích thực như thơ của bà
huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến v.v…). Nói chung các tác giả chủng loại thơ này
chưa tiến kịp với ngay cả trào lưu Thơ Mới nửa đầu thế kỉ XX, và càng ở cách xa
tầm của thơ hiện đại Việt Nam và thế giới. Tuy nhiên thơ của họ vẫn là món ăn
tinh thần cần thiết cho bản thân họ và vẫn hợp “khẩu vị” của một quần chúng khá
đông đảo.
Sự hiện diện của Thơ Mới
trong nửa đầu thế kỉ XX là một thành tựu rực rỡ của nền thi ca Việt Nam. Thơ
Mới là hiện tượng hiếm thấy chỉ xảy ra trong thời điểm có sự giao lưu của hai
nền văn hóa Đông – Tây, thuộc vào diện những hiện tượng đột phá mà lịch sử nhiều khi phải vận động hàng nhiều thế kỉ mới xuất hiện
một lần.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét