Thứ Bảy, 2 tháng 5, 2015

Ảo giác Trịnh Công Sơn

Ảo giác Trịnh Công Sơn
Cây sậy TCS:
Nếu những người từng yêu mến TCS đã phải ít nhiều thất vọng về ông sau này thì lỗi ấy không phải do ông mà do người ta đã đánh giá ông sai lệch, đã kỳ vọng nơi ông nhiều quá. Ông không có khả năng đáp ứng những gì người ta trông đợi nơi ông, thậm chí lắm lúc ông còn đi ngược lại nữa là khác.
Có một câu nói quen thuộc của Pascal mà TCS vẫn hay trưng dẫn trong những bài viết ngắn của ông, "l'homme est un roseau, mais un roseau pensant", mỗi khi ông triết lý vặt về cuộc đời, về con người, về thế thái nhân tình... Trong một nghĩa nào đó, câu này có thể dùng được để mô tả tính cách con người ông.
TCS, ông chỉ là một "cây sậy", hơn thế nữa, là một cây sậy yếu hèn (cho dù có là "cây sậy biết suy nghĩ" tới đâu). Trong lớp vỏ của một cây sậy, của một thể chất yếu đuối, là một bản chất yếu đuối, đôi lúc bộc lộ thật rõ nét.
Là cây sậy, ông khó mà đứng thẳng trước những trận gió ào ạt, những trận cuồng phong. Ông phải cúi rạp xuống. Là cây sậy, ông cũng tham sống sợ chết, cũng thích ăn ngon mặc đẹp, cũng run sợ trước bạo lực, cũng lo âu trước những nỗi bất an, những mối đe dọa rình rập... "Tôi sợ...," ông nói, từ chối lời đề nghị của những người bạn muốn đưa ông sang Mỹ để điều trị căn bệnh khó chữa.
Ít có ai ngờ rằng, ẩn dấu bên trong con người từng viết những lời ca đầy khí thế cách mạng, rực lửa đấu tranh ấy lại là một trái tim yếu mềm, một tâm hồn mang thương tích, làm sao mà có thể"thoát yếu hèn, dựng thân cao lớn" nổi, như là câu hát trong một ca khúc "phản chiến" của ông (Chính Chúng Ta Phải Nói).
Một số ca khúc của ông, chưa nói đến nội dung, có khi chỉ cần nghe qua cái tựa là người ta có thể biết được tác giả là ai (Ru Ta Ngậm Ngùi, Cỏ Xót Xa Đưa, Bên Đời Hiu Quạnh, Nghe Những Tàn Phai, Im Lặng Thở Dài, Như Chim Ưu Phiền, Buồn Từng Phút Giây, Lặng Lẽ Nơi Này...). Trong những sáng tác về sau này, nhất là vào những năm cuối đời, ta nghe thấy ông gửi gấm những nỗi niềm mà ông gọi là "nỗi lòng của kẻ tuyệt vọng". Ở những ca khúc này (Rơi Lệ Ru Người, Ru Đời Đã Mất, Ru Đời Đi Nhé, Giọt Lệ Thiên Thu, Tôi Ơi Đừng Tuyệt Vọng...), người ta nghe thấy có nước mắt, có lệ rơi trong những câu hát...
Rơi lệ ru người từ đây... (Rơi Lệ Ru Người)
Tôi là ai mà còn khi dấu lệ... (Tôi Ơi, Đừng Tuyệt Vọng)
Từng dòng nước mắt sẽ tiếc cho ngày vui... (Còn Có Bao Ngày)
Giật mình nhìn tôi ngồi khóc bao giờ... (Bên Đời Hiu Quạnh)
Ông tự ví mình như con chim buồn, chim đau, chim bệnh, chim ưu phiền, chim vô vọng, thôi thì đủ loài chim chóc, chim nào nghe cũng sầu thảm, đủ thấy tay nhạc sĩ này quả là yếu đuối và cô đơn biết chừng nào:
Tôi như con chim bệnh
thiếu hạnh phúc trần gian
có những tháng mùa đông
ngồi khóc rất âm thầm...
trong tim tôi có lần
một mùa ôi rất lạnh

(Như Chim Ưu Phiền)

Ông nói về nỗi tuyệt vọng, ông muốn "tôi tìm lại tôi" (Tiến Thoái Lưỡng Nan), tìm lại chính mình. Tôi là ai, tôi là ai??? Câu hỏi như lời khẩn khoản, như niềm trăn trở, như nỗi khát khao muốn biết, muốn được trả lời. Là ai, là ai, là ai??? Những câu hỏi liên tiếp ném vào hư vô, lặp đi lặp lại nhiều lần, chỉ có những tiếng vọng dội lại từ những vách đá lạnh lẽo, những bức tường câm lặng, thay cho câu trả lời...
Như đá ngây ngô, ông có lần tự ví mình như vậy. Thế nhưng, thay vì chịu nằm yên một chỗ, ông lại cứ muốn làm hòn đá... lăn (như là "đá lăn, vết lăn trầm"), thế mới rầy rà. Thực ra, ông không cần thiết phải làm những gì người khác không buộc, không yêu cầu ông làm (trừ phi ông… cũng muốn làm). Ông đã có những bài hát rất hay về các bà mẹ ("Lời Mẹ Ru", "Ca Dao Mẹ"... chẳng hạn), ông không cần phải viết thêm "Huyền Thoại Mẹ". Ông đã có những câu hát thật dễ thương về các cô gái như là "em qua công viên mắt em ngây tròn..." (Nắng Thủy Tinh), ông không cần phải viết thêm "Em Ở Nông Trường, Em Ra Biên Giới". Ông cũng không cần phải viết "Khăn Quàng Thắp Sáng Bình Minh" khi mà ông có thể viết những bài hát thiếu nhi hay hơn thế nhiều ("Em Là Hoa Hồng Nhỏ" chẳng hạn), và chẳng ai có ý kiến gì được. Ông cũng không cần phải viết "Ngọn Lửa Mát-xcơ-va", ở vào một thời kỳ mà ai cũng biết rằng ngọn lửa ấy sắp sửa... lụi tàn. Ông cũng không cần, không cần... Tuy nhiên, như kẻ phóng lao phải theo lao và như "hòn đá lăn trên đồi" (Ngẫu Nhiên), ông cứ phải lăn thôi, lăn mãi lăn mãi đến tuột dốc... Ông không ngừng lại được nữa.
Cái yếu đuối và thiếu suy xét ở con người TCS còn biểu lộ ở những mặt khác. Ông thích "triết lý", thích đào xới, nghiền ngẫm những mảng triết học từ đông sang tây, mặc dầu vẫn biết cái món trang sức ấy chỉ là giả hiệu, chỉ là "những luận điệu phỉnh phờ". Ông cũng thích viện dẫn những triết lý tiềm ẩn trong trong tôn giáo, mặc dầu vẫn cho rằng "những đấng tối cao có lẽ đã ngủ quên cùng với chân lý". Ông như người tự đánh lừa mình, tự nhận chìm mình trong ảo giác bềnh bồng tìm được sự cứu rỗi và cõi an bình trong thế giới triết học và tôn giáo ấy. Không lấy làm lạ ông vẫn hay nói đến những an nhiên, những vô vi..., trong lúc cái "tâm" ông lại ít khi nào được yên tĩnh như mặt nước phẳng lặng mà chỉ là những"biển sóng, biển sóng đừng xô tôi, đừng xô tôi ngã dưới chân người..." (Sóng Về Đâu).

"Tôi đã mỏi dần với lòng tin," sau cùng ông đã phải thốt lên như vậy, "chỉ còn lại niềm tin sau cùng: tin vào niềm tuyệt vọng, có nghĩa là tin vào chính mình"(8). Tôi cho rằng ông chỉ nói là nói vậy, ngay cả "tin vào niềm tuyệt vọng" hoặc "tin vào chính mình", cũng chưa chắc ông đã chịu tin. Nếu quả là "tin vào chính mình" thật thì ông đã không đến nỗi phải... tuyệt vọng. "Tin vào niềm tuyệt vọng" chỉ là một cách nói. Chẳng qua ông hiểu rằng ông phải đương đầu, phải trực diện với nỗi tuyệt vọng ấy từng ngày từng giờ, và ông chẳng có cách nào khác hơn là phải thỏa hiệp, phải gắng gượng mà sống chung hòa bình với nỗi tuyệt vọng ấy để tìm cái vui, để thấy "tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa"(8), lại một cách nói khác của ông.
"Có những ngày tuyệt vọng đến cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau..."(8), ông nói, vẻ ngậm ngùi. Tôi thực tình không rõ cuộc đời đã làm gì, đã có lỗi gì với ông để ông phải... tha thứ(?). Trong những lời lẽ đầy vẻ "từ tâm" ấy, ta vẫn nghe có chút gì không thật, lẫn chút gì cay đắng.
Ông cứ phải lặp đi lặp lại, phải "triết lý" mãi về những "biên giới thù nghịch", những hờn oán, những thứ tha và tha thứ, những quên lãng và lãng quên..., đại khái "trong lòng tôi không có giây phút nào nuôi lòng oán hận đối với cuộc đời, dù có đôi khi nhân gian bạc đãi mình và con người phụ rẫy mình" (3), hoặc "ta biết tha thứ những điều nhỏ thì cuộc đời sẽ tha thứ cho ta những điều lớn hơn" (3), hoặc "mọi người đều cảm thấy mình thực sự hạnh phúc khi biết xóa đi cái biên giới thù nghịch trong lòng mình" (8)... vân vân. Không chừng đấy cũng lại là những "ám ảnh" thường trực nào khác nữa ngoài nỗi ám ảnh về cái chết của ông. Ám ảnh về "quên" chẳng hạn, thì thật... khó mà quên. Ông đã tập quên, tập tha thứ, để mong được quên, được tha thứ. Thế nhưng ông không dễ gì quên, không dễ gì tha thứ hay thôi hết oán hận chừng nào ông vẫn chưa thoát ra được những ám ảnh ấy.
Với những lời ngợi khen, ngưỡng mộ, ông đáp lại với vẻ khiêm tốn:"Tôi không bao giờ có tham vọng trở thành người viết ca khúc nổi tiếng, nhưng đời đã tặng cho tôi món quà ấy thì tôi không thể không nhận." (3) Với những lời chê trách, nguyền rủa, ông tỏ ra bất cần:"Tôi không quan tâm lắm đến dư luận, nhất là thứ dư luận không mang tính cách xây dựng. Vấn đề của người sáng tác là tập trung vào việc sáng tạo chứ không phải ngồi chờ nghe dư luận nói gì về mình... Phản ứng của tôi là im lặng và lãng quên những lời dị nghị. Người ta không thể đánh mãi vào khoảng không được." (3) Quả là phản ứng của con người tự chế và khôn ngoan. Những người oán ghét ông đã chỉ mong ông lên tiếng, nhưng ông đã làm họ thất vọng.

Dẫu sao, TCS, ông không cần phải đấm ngực vò đầu "đời tôi ngốc dại" hay "im lặng thở dài" mãi. Nếu ông có ngốc dại hay yếu hèn thật thì cũng chẳng phải mình ông. Ngay đến cái tội danh "làm mất nước" kia, ông cũng không dành lấy độc quyền được nữa. Nhiều năm sau cuộc đổi đời, ngày càng có thêm nhiều người, vì chút lòng tự trọng, đã thành khẩn tự thú "tôi làm tôi mất nước".
Con người TCS, qua cánh cửa hé mà tôi nhìn thấy được, nghĩa là cái phần mà ông cố ý cho thấy, có vẻ như ông muốn thể hiện hai điều: một mặt, ông như muốn tự phơi bày mình như con người phàm tục, yêu ghét, hay dở, tốt xấu lẫn lộn ("tôi là ai mà còn trần gian thế ") ; mặt khác, ông cho thấy nơi ông tấm lòng nhân ái bao la, yêu đồng loại, yêu đất nước yêu quê hương, như muốn ôm lấy hết cuộc sống trong tay vậy ("tôi là ai mà yêu quá đời này" ). Tôi không chắc lắm cách thể hiện nào thực sự phù hợp với ông, phản ánh tính cách con người ông hơn, có điều thể hiện cùng một lúc hai điều ấy không phải là dễ dàng.
Dù cách nào đi nữa, vào những năm tháng cuối đời, ta thấy ông như ngọn đèn lụn bấc, như đã mất hết khí lực, như đã vắt kiệt đời mình. Ông chỉ còn là cây sậy khô héo.
(1) Phạm Duy, Hồi Ký: Thời Phân Chia Quốc Cộng, nxb Phạm Duy Cường, California, 1991
(2) TCS, Trịnh Công Sơn, Rơi Lệ Ru Người, nxb Phụ Nữ, Hà Nội, 2001
(3) TCS, trả lời phỏng vấn, Trịnh Công Sơn, Một Người Thơ Ca, Môt Cõi Đi Về, nxb Âm Nhạc & TTVH Ngôn Ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2001
(4) TCS, tạp bút, Một Cõi Trịnh Công Sơn, nxb Thuận Hóa & TTVH Ngôn Ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2002
(5) Văn Cao, lời bạt, Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên, nxb Trẻ, TP.HCM, 1991
(6) TCS, trả lời phỏng vấn, Tạp chí Thế Giới Mới, TP.HCM, 2/1999
(7) Quỳnh Giao, Trịnh Công Sơn, Như Cánh Vạc Bay, Tạp chí Văn Học, California, 10&11/2001
(8) TCS, tạp bút, Trịnh Công Sơn, Người Hát Rong Qua Nhiều Thế Hệ, nxb Trẻ, TP.HCM, 2001
Những chữ in nghiêng trong bài là trích ca từ TCS.
Lê Hữu
Nguồn: tcs-forum.org 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chùm thơ dịch của Vũ Tuấn Hoàng

Chùm thơ dịch của Vũ Tuấn Hoàng “Ở một chừng mực nào đó, dịch giả cũng giống như một người đầu bếp. Từ nguyên vật liệu ngoại, cần phải nấu...