Cảm nghĩ về ca khúc Trịnh Công Sơn
Từ lâu
lắm Trịnh Công Sơn được giới ái mộ trao tặng danh hiệu là kẻ du ca về tình yêu,
quê hương và thân phận.
Họa sĩ Đinh Cường, nhà văn Bửu Ý, Siphani và
nhạc sĩ Trịnh Công Sơn -
Sài Gòn 1972
Anh lớn lên bằng tuổi chiến tranh đứt rồi lại nối, chiến tranh dai
dẳng và cùng khắp đến nỗi đứng ở tọa độ nào trên đất nước cũng thấy và sống
chiến tranh, từ đó người chiến sĩ dấn thân tự đề ra cách thế sống và hành động
phù hợp với sở nguyện mà vẫn đạt hiệu quả mong muốn. Thế đứng trước nay ở miền
Nam của anh, tối thiểu, không hại cho uy tín và sự nghiệp của anh. Lịch sử đất
nước lật hẳn sang một chương khác, trước sau anh vẫn an nhiên "Ðôi khi một người dường
như chờ đợi thật ra đang ngồi thảnh thơi" (Tự tình khúc) hay ít nhất
anh giữ an nhiên cho nghệ thuật của mình. Anh đi vào nhạc, anh bước xuống
đường, y như người ta hít thở. Và nói như thế, không có nghĩa anh phó mặc đời,
mà có nghĩa là anh gieo trồng vào những luống đã tự đào sẵn, không phải ngoái lui,
không cần xóa đi làm lại. Nay nhạc và lời của anh, nếu có chuyển đổi chẳng qua
vì tâm hồn đến tuổi đổi mùa. Cần nói thêm rằng cái an nhiên là món quà lưu chủ
của đời, sau khi khổ chủ đã hoàn trả cho người - người tình, người bạn, người
đời - những hơn thua, ngộ nhận, thị phi.
Nhạc của
Trịnh Công Sơn không tuyền là nhạc, bài hát không chỉ là bài hát. Mỗi bài là
một truyện ngắn, mỗi ca khúc là một chương khúc của truyện dài không có kết
thúc, vẫn mở ra như một vết thương, một vết thương người, một vết thương thời
đại, vết thương thiết thân, phải cưu mang và lưu truyền.
Nhưng không có đoạn truyện nào kết thúc có hậu như trong truyện cổ
tích, mà ngược lại đó là những loại Tình
sầu, Tình xa, Tình vơi. Không còn là cái đẹp của đối xứng, vuông
tròn, thủy chung. Bởi cùng nhau tắm gội trong biển bấp bênh của thời đại, con
người xót xa khám phá ra cái đẹp chông chênh, cái ma lực của chén đắng. Ðời
dành riêng cho kẻ nào đã lên tới đỉnh buồn và xuống tới vực thẳm, một đôi mắt
bên trong để nhìn ra những vẻ đẹp của mặt đất, của nghịch lý khiến cho y nhận
chân cái tất yếu của cô đơn, cái hào quang của thất bại, cái quyến rũ của triền
dốc. Con người sinh ra là đã thua cuộc, vấn đề còn lại của con người, vấn đề
hoàn toàn nguyên vẹn, là khoác lên sự thua cuộc ấy một gương mặt người do từng
cá nhân đắp dập lấy. Theo chiều hướng này, ta sẽ mục kích hàng hiên phô bày
toàn chân dung lập thể: hoặc thiếu mắt thừa môi, hoặc mặt lật vào trong mà dạ
để ra ngoài.
Nguồn
cảm hứng khơi mạch từ đó, rất dễ rơi vào chỗ sướt mướt, ê chề, rất dễ đưa tới
trạng thái buông thả, quy hàng... là những gì nhiều người từng quy nạp cho ca
khúc Trịnh Công Sơn. Ðành rằng vài tình cảm ấy không hoàn toàn vắng bóng, và
đậm nhạt khác nhau từng nơi, từng lúc, nhưng nghiễm nhiên được biến chế, vượt
qua, đủ để ta nhận ra đó không còn là những tình cảm hoàn cảnh mà là những tình
cảm bản chất cần được khẳng định và hóa kiếp thành đức tin, động lực phản kháng
những giới hạn của con người. Không những thế mà thôi, ta phải nhặt nhạnh những
tàn phai, tóc trắng, tan tành theo giọt mưa, hạt bụi, lăn lóc như hòn cuội,
không ngạc nhiên trước những tráo trở, lật lọng, chấp nhận gươm giáo, nọc độc,
gọt tỉa màu mun của đêm, vốc bùn sóng sánh, phải nâng niu những vết thương cùng
nét xanh xao, hao gầy, cám ơn những mối tình tơi tả, phải thương yêu nỗi
chết... dung nạp tất cả vào lòng và bện thành tấm áo giáp, thứ áo giáp mặc
trong.
Trịnh
Công Sơn là người khát sống. Anh muốn sống nhiều nơi cùng một lúc, ngồi nơi
này, nhớ nơi kia, muốn sống gấp đôi sợ không đủ thì giờ, lắm lúc không phân
biệt ngày với đêm. Anh thích những chuyến tàu xuyên suốt, những chuyến xe đỗ
rồi lại đi, anh thích rút ngắn không gian giữa rừng với biển, giữa đó anh tha
hồ sống với ghềnh, bãi, lũng sâu và núi, tháp, cánh đồng, anh muốn rút ngắn
thời gian giữa lạ với quen và xua tan những cánh dơi thù nghịch.
Hình ảnh phố phô mình phân rãi trong ca khúc anh: phố xưa (Khói trời
mênh mông), phố
hẹn (Khói trời mênh mông), phố xôn xao (Yêu dấu tan theo), phố rộng (Tưởng rằng
đã quên), phố thênh
thang (Quỳnh hương), phố
cao nguyên (Lời thiên thu gọi), phố nọ (Ðêm thấy ta
là thác đổ), phố xa lạ (Bên
đời hiu quạnh)... Phố như là nơi triển lãm của sự sống, một đại hội đời, một
nơi tập cư đủ mẫu người, một bãi thí nghiệm bao thế thái nhân tình làm thỏa
lòng con người nào muốn sưu tập con người. Do những hình ảnh phố xá như thế
này, có người bảo: Trịnh Công Sơn thích lui tới những nơi đô hội. Ðiều này đúng
một phần, bởi lẽ: anh thích những nơi có bóng dáng con người, anh thèm tiếng
người hơn là cõi vắng lặng, nhưng điều cần nói thêm, là: anh ước mơ hình ảnh xã
hội được đô hội hóa chứ không phải là sa mạc hóa, và được đô hội hóa thường
trực, sao cho ngày ngày hàng cây thắplễ lạc trên tầng lá xanh, lễ lạc trên từng
nẻo đường, khắp mọi nhà và trong mỗi con tim.
Trí óc
và cảm xúc của Trịnh Công Sơn phù hợp với tổng hợp hơn là phân tích, nghiêng về
kết hợp hơn là phân chia. Hình ảnh chiếc cầu đối với anh là một lời mời gọi cất
bước sang bên kia, đồng thời chuyển biến bên kia thành bên này và ngược lại.
Băng qua cầu là để sống với bên kia và nhớ bên này. Trong nỗi sống đã tượng
hình nỗi nhớ. Người đi trên cầu không những nhìn ôm cả hai phía mà có thể nhìn
cút bắt với những khuỷu sông thấp thoáng ẩn hiện, cấu tạo dần dần trong tâm
khảm cái dự cảm lìa xa, mất mát.
Tình
yêu. Quê hương. Thân phận. Làm sao nói về những vấn đề này bằng lời hát và
chuyên chở bằng nhạc, những ưu tư thường trực của mọi người và được mọi người
ít nhiều nói đến? Trịnh Công Sơn có cách nói riêng, bằng lời và bằng nhạc. Lời
tách riêng, đó là những đoạn thơ hoặc là truyện thơ tâm sự về giọt mưa, giọt
nắng, về một vùng biển đầy ắp sự vắng mặt... Nhạc tách riêng có khi nhún nhảy
như loại đồng dao hay thanh bình ca, có khi lại rất thích hợp với ánh đèn màu
và khói thuốc của vũ trường, cũng có khi dòng nhạc Trịnh Công Sơn gần gũi với
thánh ca thanh thoát...
Nhiều
nhạc sĩ viết về tình yêu và quê hương.
Tình
yêu, với Trịnh Công Sơn, là diễm tình. Trước hết là phải đẹp, đẹp trong từng
lời bội bạc, bước chân quay gót, trong dang dở và tan vỡ. Sẽ không có mối tình
rách rưới hay nhầy nhụa, sẽ không có mối tình than khóc lâm ly, sẽ không có
luôn cả đau khổ, hoặc nếu có chăng nữa thì đó là một nỗi đau khổ đã đành, dành
sẵn, và cần được siêu sắc nuôi dưỡng cái giống nòi tình.
Cái đẹp ở đây là cái đẹp siêu thực, tức là ít nhiều nhuốm màu sắc ý chí của kẻ chủ trương và đồng thời nhạt bớt hương vị của thường tình. Tình yêu lên ngôi. Một đỉnh chiêm ngưỡng đúng hơn là một điểm hẹn. Ðối tượng tình yêu trở thành ý niệm. Trịnh Công Sơn nguyện làm kẻ hái lộc chứ không phải hái trái. Lộc nõn và luôn cả lộc xoang ngọn tố trở trời. Tình yêu được thăng hoa để trở thành điểm ngắm. Nó vượt qua cái riêng tư, vị kỷ. Như Ðức Giáo hoàng của "ái tình giáo", người nghệ sĩ lớn tiếng hô hào mọi người "Hãy yêu nhau đi". Ðây là lời thần chú mở cửa địa đàng. Ðây mới thật là tình yêu cứu rỗi. Yêu trong một tình yêu rộng lớn, chung cùng. Như mỗi giai điệu trong đại hợp tấu. Yêu nghĩa là tỏa sáng. Phần nào giống như thủ pháp nhuộm mây nẩy trăng theo cách gọi của Thánh Thán (Vẽ mây đẹp để làm nổi trăng), Trịnh Công Sơn ca ngợi tình yêu bằng cách vẽ ra vùng ảnh hưởng của tình yêu qua giọt nắng thủy tinh, cây cầu, hạt mưa, hàng cây chụm đầu vào nhau... Khi vẽ ra áo xưa lồng lộng chẳng hạn, tác giả không vẽ vạt áo, mà vẽ kỷ niệm, vẽ không khí và hơi hám của áo.
Cái đẹp ở đây là cái đẹp siêu thực, tức là ít nhiều nhuốm màu sắc ý chí của kẻ chủ trương và đồng thời nhạt bớt hương vị của thường tình. Tình yêu lên ngôi. Một đỉnh chiêm ngưỡng đúng hơn là một điểm hẹn. Ðối tượng tình yêu trở thành ý niệm. Trịnh Công Sơn nguyện làm kẻ hái lộc chứ không phải hái trái. Lộc nõn và luôn cả lộc xoang ngọn tố trở trời. Tình yêu được thăng hoa để trở thành điểm ngắm. Nó vượt qua cái riêng tư, vị kỷ. Như Ðức Giáo hoàng của "ái tình giáo", người nghệ sĩ lớn tiếng hô hào mọi người "Hãy yêu nhau đi". Ðây là lời thần chú mở cửa địa đàng. Ðây mới thật là tình yêu cứu rỗi. Yêu trong một tình yêu rộng lớn, chung cùng. Như mỗi giai điệu trong đại hợp tấu. Yêu nghĩa là tỏa sáng. Phần nào giống như thủ pháp nhuộm mây nẩy trăng theo cách gọi của Thánh Thán (Vẽ mây đẹp để làm nổi trăng), Trịnh Công Sơn ca ngợi tình yêu bằng cách vẽ ra vùng ảnh hưởng của tình yêu qua giọt nắng thủy tinh, cây cầu, hạt mưa, hàng cây chụm đầu vào nhau... Khi vẽ ra áo xưa lồng lộng chẳng hạn, tác giả không vẽ vạt áo, mà vẽ kỷ niệm, vẽ không khí và hơi hám của áo.
Ðó là
những khối tình nở ra trong khói lửa, như những cánh hoa xương rồng giữa khô
cằn gai góc. Bóng đen chiến tranh càng làm cho tình yêu thêm phần gấp gãy.
Quê hương nổi bật ở hai nét lớn: nghèo và chiến tranh. Cái nghèo
của quê hương thì có lắm truyện để nói, để tả, để mủi lòng. Cái nghèo còn là
hậu quả của chiến tranh. Dứt chiến tranh là cứu giải cái nghèo. Và chiến tranh
diễn ra không phải ở chiến trường, không phải do những người cầm súng, nó diễn
ra ở bàn tròn, ở trong đầu óc những con người mua bán chiến tranh. Những bài
hát trong hai tập Ca
khúc da vàng và Kinh
Việt Nam, cũng theo phép nhuộm mây nẩy trăng như có nói ở trên,
nhưng ở đây được trưng dụng những màu sắc hoàn toàn điên đảo, không nhằm miêu
tả hay tường thuật chiến tranh, mà vẽ ra những phóng xạ của chiến tranh. Do đó,
đến khi chiến tranh kết liễu, nhạc anh vẫn tồn tại, vì nó vẫn còn công lực cảnh
giác. Hình ảnh người nô lệ da vàng, vốn làm phật ý những người quốc gia chủ
nghĩa, là một lối cưỡng từ đoạt ý rất kiến hiệu trong việc thiết lập đối thoại
ban đầu. Ðây là một bước lùi giữa hai bước tiến, gần như phương sách tự chuốt
nhục của con người muốn đối phó với tình hình đất nước nguy kịch đến độ chiến
tranh không đủ để tiêu diệt chiến tranh, vũ lực không đủ để tiêu diệt vũ lực,
mà trớ trêu thay phải có nghệ thuật hỗ trợ và nhất thiết là nghệ thuật trong
nghệ thuật. Lập trường như thế này dễ hứng lấy búa rìu dư luận. Ngay giữa chiến
tranh, anh đã vẽ ra thời buổi sau chiến tranh mà con người có quyền hưởng thụ
và có nghĩa vụ tô bồi. Những dự phóng này nảy nở trên nền tảng làm bằng những
ám ảnh mất mát, cái bấp bênh của những gì hiện có, nỗi bất lực không yêu được
bội phần.
Giữa một
nền trời như vậy, thân phận của con người là một vấn nạn. Ta nên nói ngay: đây
là một chủ đề tư tưởng, nếu không muốn nói là triết lý. Chủ đề được đề cập,
phân tích, lý giải từ Ðông sang Tây, nhưng là do những nhà tư tưởng, triết gia
và những nhà viết văn xuôi đề xướng.
Giữa cõi
vô thường, bị thường trực kềm kẹp bằng một nỗi khó sống, người nghệ sĩ trong
những phút xuất thần tự đồng hóa với các vật thể vạn thù trong đời sống: có khi
ta là mục đồng, là lá cỏ, cơn gió, có khi là giọt mưa tan giữa trời, là hòn
cuội, con sâu. Nhưng trong khi cỏ suốt đời là cỏ, cuội trọn kiếp là cuội, thì
con người mỗi phút mỗi chực vong thân.
Trịnh
Công Sơn chắp cánh cho tưởng tượng, và tưởng tượng len lỏi vào các hốc hẻm của
đời sống, khiến cho anh sờ mó đến sự vật nào là sự vật ấy dường như bớt thật và
trở nên lung linh bằng một quầng mộng ảo. Cho nên anh đi trước người khác một
bước: ngạc nhiên trước người khác, mừng reo hay tư lự cũng trước người khác.
Cái "có" đang nằm trong tay, anh đã sống với cái "mất" nó
rồi. Ðóa hoa nào đi qua lòng anh cũng trở thành đẹp hơn vẻ đẹp thật và đóa hoa
đương dộ lại nhuốm vẻ não lòng của héo úa.
Sự sống bước giật lùi mỗi phút giây như hình ảnh cuốn chiếu. Trịnh
Công Sơn quả quyết Chỉ có ta trong một đời và dứt khoát chọn lựa: Sống. Sống
hết mình. Không khất hẹn, không chờ đợi, không ủy quyền. Anh vâng theo cái mệnh
lệnh "Hãy tận hưởng ngày hôm nay" của thi sĩ Horace mà cố cách vặn
lùi thời gian, sống chong chóng, thu rút giấc ngủ, thót người trước cảnh Thành phố ngủ trưa (Ðêm
thấy ta là thác đổ), xem giấc ngủ như là một cái dợm chết: Hôm nay thức dậy, ôi ngẩn ngơ tôi (Xa
dấu mặt trời), tự ru mình bằng cách Mỗi
ngày tôi chọn một niềm vui và rêu rao cuộc đời đáng sống.
Phải ôm cho hết cuộc đời nhị nguyên cồm cộm này, bao gồm những cặp
phạm trù khó dung nạp nhau nhưng khó thể phân ly: sống chết (chết từng
ngày sống từng ngày, Buồn vui phút giây), buồn vui (Buồn vui kia là một, Nguyệt
ca), hạnh phúc khổ
đau (Hãy trao cho nhau hạnh phúc lẫn thương đau, Hãy yêu nhau
đi), tình yêu mật ngọt
mật đắng (Lặng lẽ nơi này)... cái mặt phải trái của sự vật sao
mà cận kề nhau đến thế, như đêm ngày, nhật nguyệt, như sum họp với chia phôi.
Khổ cho kẻ nào chủ phân biệt !
Phải quên đi những ám ảnh của tuổi tác (Chập chờn lau trắng trong
tay, Chiếc lá thu phai) và chuẩn bị tinh thần cho cái phút sau rốt của đời
người:
...một trăm năm sau mãi ngủ yên (Sẽ còn ai)
...mai kia chào cuộc đời (Những con mắt trần gian)
...một hôm buồn lên núi nằm xuống (Tự tình khúc)
...một lần nằm mơ thấy tôi qua đời (Bên đời hiu quạnh).
...một trăm năm sau mãi ngủ yên (Sẽ còn ai)
...mai kia chào cuộc đời (Những con mắt trần gian)
...một hôm buồn lên núi nằm xuống (Tự tình khúc)
...một lần nằm mơ thấy tôi qua đời (Bên đời hiu quạnh).
Trịnh
Công Sơn là nhạc sĩ đầu tiên viết về thân phận con người. Ðể phục vụ mục tiêu
ấy anh đã sai sử lời, nhạc và tư tưởng kết hợp thành một thể thống nhất và đã
thành đạt trong công cuộc thể nghiệm một dòng nhạc vốn không dễ nhập cảnh vào
lòng quần chúng trong buổi đầu. Có thể nói anh đã khẳng định thân phận bằng thơ
và bằng nhạc: đây là sự đóng đinh màu hồng cho con người thời đại.
Cùng một
trật, ta còn chứng kiến một công cuộc thể nghiệm của tiếng Việt trên những
chặng đường mới của ngôn ngữ với những kết hợp từ ngữ tài hoa, những góc độ thu
hình lạ lẫm, những tri giác dày dặn nhiều tầng, đồng thời làm sáng giá những sự
vật thông thường và tầm thường, khả năng tưởng tượng bay bổng.
Cuối những năm 50 và đầu những năm 60, xuất hiện một số ca khúc
với nhan đề lạ tai, như Lời
buồn thánh, Diễm xưa, Tuổi đá buồn, Vết lăn trầm, Biển nhớ, Dấu chân địa đàng...
Ðó là những cửa ngõ vào khu vườn siêu thực đang rộ lên những sắc hoa tươi mới
trong thời kỳ ấy: loài sâu ngủ quên trong tóc chiều... thương cho người rồi lạnh
lùng riêng... tiếng hát ru mình trong giấc ngủ vừa... hôm nay thức dậy không
còn thấy loài người... hãy nghe đời nghiêng... chiều đã đi vào vườn mắt em...
ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau...
Người
nhạc sĩ này đặc biệt sâu nặng với những tính từ: đời bồng bềnh, môi rồ dại,
bóng lung linh, tiếng hát lênh đênh, một vòng tiều tụy, bờ cỏ non mộng mị, phố
xá thênh thang, mắt xanh xao, hồn xanh buốt, đêm thần thoại, cành bão bùng...
Những hình dung từ này cùng chung một thể thái, hay còn gọi là đồng vị
(isotopie) và trở đi trở lại hơn một lần qua bài hát. Trong số này, có tần số
xuất hiện cao nhất là: "mong manh" (tình mong manh, gió mong manh, cỏ
lá mong manh, sống chết mong manh, tay gối mong manh, nụ cười mong manh...) như
thể là một ám ảnh lớn trong vũ trụ quan và nhân sinh quan của nhạc sĩ.
Lời
trong ca khúc Trịnh Công Sơn đã tạo ra tên tuổi Trịnh Công Sơn. Lời ở đây, như
đã nói, là truyện thơ, là hình ảnh siêu thực, nét chấm phá, những hoa gấm cho
sóng nhạc và có những giây lát cao độ, lời được đặc cách hóa kiếp thành kinh.
Kinh là những lời ước nguyện nhằm chuyển hóa thực tại. Kinh là tinh túy của lời
được kinh qua sản xuất, lặp đi lặp lại để cuối cùng kết tinh dưới hình thức đơn
khiết, cô đọng. Trong ca khúc Trịnh Công Sơn, ta nhận ra người mẹ cầu kinh gởi
gắm cho một Ðấng Vô Hình, Siêu Nhiên nào chăng? Không, đây là một loại kinh do
chính mình phát nguyện, dóng tiếng và gởi gắm lại cầu nguyện cho con ở chiến
trường có nghĩa là cầu nguyện cho mình có đủ sức mạnh đối phó với tình huống
bất trắc, và sức mạnh ấy phát sinh từ ngọn đèn thắp thì mờ giữa đêm khuya,
chẳng hạn; thiếu nữ cầu nguyện cho mối tình của mình ở bờ sông và lời kinh này
sẽ làm bằng im lặng, gió trời và kỷ niệm.
Trên đây
là một số cảm nghĩ về ca khúc Trịnh Công Sơn, những cảm nghĩ vụn rời, thiếu
thừa không rõ, vừa chắp nối vào những bài viết khác, vừa gợi mở những bài viết
về sau chung quanh đề tài này. Một đề tài tát không cạn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét