Huỳnh Kim Bửu và Tiếng hạc bay trên dòng sông Côn
|
Thoạt nhìn, tôi chú ý ngay đến tựa của hai tập sách: “Nơi
con Sông côn chảy qua”[1] và “Trong như tiếng hạc bay
qua”[2] - cả hai đều có một chữ qua - Có
thể đó chỉ là một tình cờ, có lẽ không phải là dụng công của tác giả, nhưng
tôi thấy thật thú vị vì hai chữ qua đó đều nói về quá khứ, về một
thời đã mất...
Thật thế, nhẩn nha đọc khi còn ở Milano (Ý) những trang viết
của Huỳnh Kim Bửu đã đưa tôi về hồi ức, lội ngược thời gian…
...Gần bốn mươi năm sống ở nước ngoài, khi bước vào
những trang sách của ông tôi như bất ngờ trở lại quê mình. Tôi như vừa nhìn
thấy một bụi chuối sau vườn, chợt bắt gặp một ánh trăng soi trên đỉnh tháp
hay có khi nghe tiếng gà gáy sáng… rồi có lúc lại tưởng như mình đang dạo bước
giữa không gian thoang thoảng hương sen, thần trí mơ hồ, không biết từ đâu vừa
vẳng lên một tiếng chuông chùa.
Chuông dội lại trong lòng, không lớn lắm, nhưng ngấm sâu và
đánh thức những kỉ niệm tuổi thơ. Như ngọn đèn mờ bỗng dưng loé sáng. Những
áp lực của cuộc sống trời Tây dường như không còn nữa. Những bon chen, phù
phiếm bay đi đâu hết. Trong tôi chỉ còn nghe một thứ rung cảm kỳ bí. Tình
quê.
Lật tiếp những trang sách, tôi thấy nhiều những đoạn văn
hay, những chi tiết thật thú vị bất ngờ về cuộc sống của một thời quá
vãng ngay trên chính quê hương mìmh mà tôi còn chưa biết... Những cô gái mài
vỏ ốc cẩn xà cừ, bôi một thứ phẩm xanh để ngừa nước ăn da nên ra đường phải
giấu hai tay trong nếp áo. Hay ông lão kỳ lạ, câu cá chỉ vì phải ăn để sống,
chứ bữa nào dùng không hết thì ông lại đem ra bến để trả cá về với sông. Huỳnh
Kim Bửu cảm nhận thời tiết qua phẩm vật mùa màng, dựa vào cây trái
và hoa lá để minh chứng là Bình Định quê ông cũng có đầy đủ bốn mùa chứ không
phải chỉ hai mùa mưa nắng. Mùa Xuân: chuối, bưởi cam; hoa mai, hồng, vạn thọ.
Mùa Hè: xoài, mít; hoa phượng, sen đầm; MùaThu: mận, nhãn lồng; hoa
cúc. Rồi Mùa Đông: lại quay về với chuối; còn các thứ hoa thì vàng úa, tàn tạ,
chỉ còn hoa giấy phất phơ trong cảnh gió mưa...
Nhẩn nhơ dạo chơi theo từng trang sách tôi không khỏi có cảm
giác như đang ngồi bên chiếc võng nghe ông đong đưa kể chuyện, rồi khi buông
xuống, chợt thẫn thờ vì cảnh và người trong chuyện đã vời vợi xa, không còn nữa.
Lòng vời vợi buồn vì những chuyện đổi thay hình như không theo lẽ tự nhiên,
kiểu làn sóng sau thay làn sóng trước... mà cảnh cũ mất đi vì những áp đặt của
con người. Thời buổi “toàn cầu”, lòng tham cũng theo đó được toàn cầu hóa, ai
nấy sục sôi chạy đua làm giàu bằng mọi giá, kỹ thuật được vận dụng tối đa,
tài nguyên được khai thác tận lực…Cảnh quan tươi đẹp của đất nước, của các
vùng quê thanh bình ngày càng bị xé nát, thay vào đó là sự hỗn độn, khô cứng
đến vô hồn, cuộc sống trở nên vật vờ và giả tạo.
Giọng kể của ông đều đều, như không quan tâm đến việc đổi mới
câu chữ. Ông viết như trải lòng, tâm tình với người đọc trong một đối thoại
thầm lặng mà không kém phần sôi nổi.
Giọng điệu ấy thật khác với rừng rừng chữ nghĩa, chạy theo
bút pháp này, trường phái kia, từng làm tôi hoa mắt trước nhiều quyển sách “lạ”,
tin theo những lời giới thiệu có cánh, những bài phê bình ngoại giao,
phe nhóm rồi mua về, đọc đi đọc lại mà không biết tác giả muốn nói gì. Ở đây,
trong hai quyển sách của Huỳnh Kim Bửu, tôi gặp lại những áng văn bình dị,
không cầu kỳ hay xun xoe chữ nghĩa… nhưng những câu chữ như có mang chút ánh
sáng lấp lánh, soi chiếu những miền ký ức, gợi nhớ những kỷ niệm tưởng đã
quên lâu và chìm khuất sau lớp bụi dày của thời gian.
Rõ ràng cách tân gì thì cách tân, văn học không thể chỉ chạy
theo bút pháp mới lạ, nhưng nghèo ý tưởng, duy lý đến khô cứng, rời bỏ cảm
xúc, thiếu đi nỗi lòng của con người khi nhìn thế sự đổi thay.
Thực ra trước đây tôi cũng đã từng đọc những bài viết riêng
lẻ của ông, thế nhưng giờ đọc lại một mạch trong toàn tập, cái nhìn tổng thể
càng tô đậm trong tôi một cảm giác man mác buồn, man mác nhớ về một thời quá
vãng, không chỉ là tâm lý hoài cổ, mà còn là nỗi băn khoăn về những giá trị của
một thời cần phải được lưu giữ nay đã không còn. Đọc tạp văn mà cảm giác như
mình đang đọc cổ thi, đang thả bước lang thang,
dạoquanh
khu thành quách hoang phế
của những trường thành Bình Định, nơi đã từng là vùng đất thiêng của hai
vương triều [3].
Ngôn ngữ của HKB giản dị, trong sáng, dùng nhiều từ địa
phương mộc mạc, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, pha trộn với nhiều từ ngữ và
hình ảnh cổ điển của Đường thi khiến văn ông vừa gần gũi dễ đọc vừa có chút
chiêm nghiệm, chất triết lý nhân sinh nhẹ nhàng khiến ta phải suy nghĩ. Điều
này cũng không lạ, nếu biết ông đã qua tuổi thất thập. Những vầng dương,
nhật nguyệt, bóng hạc, tà dương, hưng phế... trở đi trở lại nhiều lần...
tạo không khí hoài cổ của người có tuổi thường ngoái lại đằng sau hơn là nhìn
về phía trước.
Hãy nhìn qua mắt ông: “Không còn những ngọn khói lam chiều
toả lên từ những mái tranh, không còn những ngả ba sông mênh mông bát ngát với
những đò chiều tấp nập vì dòng sông mỗi ngày mỗi cạn..” (Kỷ niệm chiều). Hay
cảm theo ông giữa lúc hai màu vàng đen của bầu trời sắp hoà nhập, trộn lẫn
vào nhau khi chiều muộn:
“Chiều sẫm tối, có chàng trai trẻ
bách bộ trên đường phố, hồn trí bâng khuâng với cảnh trời chiều, bỗng nghe một
làn hương sực nức từ đâu đưa lại: mùi dạ hương sớm toả...”(Chiều)
Câu chữ giản dị nhưng không kém phần bóng bẩy. Bằng những
con chữ đơn giản nhưng ông diễn tả được những điều tinh tế
có sức lay động lòng người.
Trong hai quyển sách có không ít những đoạn làm người đọc
lâng lâng: “Người đứng trên cầu Phụ Ngọc nhìn ra xung quanh thấy mặt trời
đang lặn trên ngã ba sông; những hôm có ráng chiều màu nước sông Côn nhuộm
màu ráng đỏ, rồi cái màu ráng đỏ cùng sông mà trôi đi biền biệt...”
“Mỗi sáng sớm, chủ nhà thức dậy, đun ấm nước rồi ra trước
hiên lai, hái vài hoa hồng tường vi nở trong đêm. Cho trà búp Đài Loan, cho
hoa vào bình, rót nước sôi vào hãm giây lát là có được một bình trà ngon hảo
hạng. Bưng kỷ trà toả hương đặt trên chõng, ngồi ngó ra sân còn đặc sương
mai, uống trà với tâm thế người chào đón buổi bình minh.”(Chõng tre)
Thế nhưng những trang văn của ông không chỉ có cái nhìn
hoài cổ. Có lúc ông cũng dí dỏm, đang nói về chuyện “nhập tâm mắm” rồi bỗng
ví von, khen con gái có cái “duyên mặn mà.” Cái vị mặn của mắm tương
hoà với nét đẹp mặn mà của cô gái quê chân chất, hiền hoà, sống rất thực,
trọn đời hy sinh vì chồng con, gắn đời mình vào cuộc hôn nhân bền bĩ, thách đố
thời gian. Ông quan sát tinh tế đến từng chân tơ kẽ tóc về những điều thường
hằng hiện ra trước mắt mà với ta không lưu giữ chút gì trong trí nhớ. Hãy
nghe ông tả cô gái bán bánh mì trên đường Tăng Bạt Hổ, Qui Nhơn: “Tay
cô con gái thon búp măng, đeo nhẫn, cầm con dao Thái Lan thái chả, thái thịt
thái rau, rồi cũng bàn tay ấy rạch ổ bánh mì, kẹp thịt chả, kẹp dưa leo, cọng
hành ngò xanh, lát ớt cay màu đỏ tươi, xịt nước tương vào ổ bánh, rồi đặt ổ
bánh vào tờ giấy, cuộn lại, trao bằng hai tay hai mắt cho người khách đang
vui vẻ đợi. Tất cả các động tác của cô bán hàng đều rất thành thạo, rất lịch
sự, nhịp nhàng, khiến tôi nghĩ đến điều: cô ta đang làm theo một điệu nhạc rất
du dương trong lòng mình”.(Ổ bánh mì nóng giòn).
Chao ôi! Phải có một tấm lòng yêu thương cuộc sống và con
người biết bao mới khiến ông có thể trải lên giấy những trang văn đẹp đẽ và
thiết tha đến thế về con người, về những công việc hết sức bình thường.
Trên những trang sách của HKB người ta còn bắt gặp mùi và vị
quê hương. Kinh nghiệm khứu giác thật mạnh khiến người đọc có cảm giác
như đang cùng ông cắn chiếc bánh, rồi hồi ức và tình cảm được gợi lại giúp ta
“đi tìm thời gian đánh mất” như Marcel
Proust “nhìn thấy” bầu trời thơ ấu của
mình. Ta gặp đủ thứ, từ vị thiền trà trong sương sớm, vị mắm cua đồng đếnmùi
bùn đất, mùi mồ hôi của những bác nông phu, mùi hăng hăng rơm rạ đến mùi khói
đốt đồng, mùi gió biển quanh năm tanh tanh mặn mặn.
Người lưu giữ và qua từng ấy thời gian có thể dễ dàng truyền
lại một cách tươi nguyên những mùi vị đó chắc hẳn phải là người có cảm xúc dạt
dào và mang trong lòngmột tình yêu quê hương nồng thắm.
Có lẽ vì thế mà sau khi đọc Nơi con sông Côn chảy
qua, một bạn văn của tôi đã không đắn đo gọi HKB là một Sơn Nam của Bình Định?
Cũng như bạn, đọc HKB, tôi có cảm giác là tình yêu quê
hương Bình Định của ông, vác trên vai 70 năm qua, như một phần xương thịt của
chính mình. Những vùng đất, những con người, tập tục, những màu sắc và mùi vị
của những đồ vật sắp sửa biến đi... ông câm lặng nhìn, câm lặng nghe rồi đêm
đêm, câm lặng chong đèn viết lên tiếng kêu luyến tiếc cho chính mình nghe. Tiếng
kêu ấy bây giờ vọng lại, từ trang giấy chuyển tải đến chúng ta, đi tìm người
đồng cảm.
Tôi tin có rất nhiều người đồng cảm với ông dù họ ở đâu
trên thế giới này, miễn họ là người Việt. Và tôi hẳn nhiên là một trong số ấy.
Người ta nói và đã nói rất nhiều về một thời vang bóng, nhắc
đến những cuộc phế hưng qua thời gian, qua bao năm chiến tranh và giờ đây đau
buồn nhìn thấy nền văn hoá đang tụt dốc. Thế nhưng đọc tản văn của HKB, tôi vẫn
cảm thấy có cái gì khác, sâu thẳm hơn, tê tái hơn, ngậm ngùi hơn những gì tôi
đã thường nghe, thường đọc. Có lẽ sự mộc mạc, ngôn ngữ không chút gì cầu kỳ,
bí hiểm và đượm mối nhân tình ấy đã làm mới cảm xúc trong lòng
chăng?
Theo dòng sông Côn, những trang viết lặng lẽ của HKB đưa
người đọc trở về chốn yên bình của một thời. “Mấy mươi năm rồi, tôi còn
nhớ như in hình bóng lão Thận ngồi câu quẹt ở gần bến sông… Bữa nào cá nhiều,
ăn không hết, chiều xẩm ông đem ra bến sông thả xuống gọi là “phóng sanh”, để
rồi sáng hôm sau lại ra bến sông câu lại từng con một trong cảnh chim trời cá
nước. Tôi nhớ ông như nhớ một con người kỳ lạ, có lòng từ tâm, còn chuyện đi
câu chẳng qua là vì miếng ăn của ông bị thiếu…” (Những con sông quê ơi!)
Một bạn văn khác của tôi, khi đọc hai tập tản văn, bút ký
nhận định HKB là một nhà văn chuyên về Bình Định học... Rất đúng,
vì qua những trang văn ông đã lưu giữ cái hồn cốt tinh túy của tập tục, đời sống,
con người và thiên nhiên của vùng đất quê mình. Nhưng tôi thấy một danh xưng
như thế vô hình chung đã “khoanh vùng” văn hóa và không nói lên được tính
khái quát về những trang viết của ông. Đúng là ông viết về Bình Định nhưng những
hình ảnh mà ông vẽ lên, ghi lại... người đọc không khó khăn nhìn thấy rải rác
trên khắp mọi miền đất nước.
Vì vậy, tôi thích gọi HKB là nhà văn Việt Nam, không chỉ viết
riêng cho Bình Định; dù cả đời mình HKB ít có dịp đi xa, “nhích” đến những
vùng đất lạ. Cả đời mình hầu như ông chỉ quanh quẩn “Nơi con sông Côn chảy
qua”, hoàn cảnh cá nhân buộc ông phải thuỷ chung sống chết với vùng đất ấy;
mà vùng đất ấy cũng chính là đất thiêng, đất của nghĩa khí Tây Sơn “áo vải cờ
đào”… Ông yêu người dân “thàng hậu” quê ông tha thiết, tình yêu đó
tan chảy vào máu thịt đến độ khả kiến mà bất kỳ ai, là con dân “Xứ Nẫu” hay
không, đọc ông viết về những gì đã qua hơn nửa thế kỷ cũng đều dễ dàng nhận
thấy phong cách và lòng yêu đó.
Đề tài trong hai tập sách của HKB thật đa dạng và phong
phú. Tôi không biết là để chắt chiu nhặt nhạnh từng hình ảnh, từng chi tiết
và kỷ niệm để tập hợp lại rồi “bắt nó nằm lại” trên những trang giấy… ông đã
làm việc cần mẫn bao nhiêu năm nhưng tôi tin chắc là ông đã chẳng hoài công.
Ông đã níu giữ được một thời. Bằng những rung động chân thành, cảm nhận sâu sắc
và chắt lọc chi tiết, gọt dũa qua ngôn ngữ nghệ thuật theo cách của mình, ông
đã để lại những trang văn gợi cảm, có sức lan toả và tạo những dư ba trong
tâm hồn người đọc.
Xã hội hôm nay có quá nhiều sản phẩm, kể cả văn chương, để
người tiêu dùng ăn ngấu nghiến, ăn vô tội vạ và rồi nhanh chóng vứt bỏ như
xóa “1 file” trong bộ nhớ. Những kẻ háo danh chỉ muốn làm điều lập dị, cố gây
đình đám... để mau nổi tiếng, mấy ai bỏ thời gian để viết những điều chẳng mấy
“thời thượng” này. Vì thế tôi nghĩ sự xuất hiện của những quyển sách quý,
giúp ta lưu giữ những kỷ niệm và giá trị truyền thống, rất đáng nghiêng mình
kính trọng.
Vì không ai hình dung được một xã hội sắp đến sẽ quái gỡ ra
sao nếu chỉ toàn những người làm kinh tế lừa đảo, chộp giật, mánh mung hay những
người cầm bút viết lên những trang văn vô cảm, nhạt nhẽo, không hề quan tâm đến
người đọc. Hay chỉ quan tâm đến những tin lộ hoàng, khoe thân xác... để kích
động lòng tham muốn thấp hèn. Khơi dậy bản năng xấu nhất. Để đánh thức phần
CON, bóp chết phần người...
Nếu văn chương là tiếng nói của cảm xúc, là bày tỏ thái độ
trước những vấn đề trong cuộc sống, là sự giải bày nội tâm để tìm kiếm những
đồng cảm tri âm của người đọc... thì tôi nghĩ là HKB đã thành
công trong cuộc tìm kiếm đó.
[3] Thế kỷ X là thành Đồ Bàn,
kinh đô Chiêm Thành, sau đổi tên là thành Hoàng Đế, đế kinh của vua
Thái Đức, Nguyễn Nhạc, triều Tây Sơn.
|
Thứ Hai, 1 tháng 6, 2015
Huỳnh Kim Bửu và Tiếng hạc bay trên dòng sông Côn.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Một chuyến hoa xuân
Một chuyến hoa xuân Nhà văn trẻ Trác Diễm vừa trở thành hội viên mới Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Chị sinh năm 1988 ở Quảng Bình, bắt đầ...
-
Vài nét về văn học Đông Nam Á Đặc điểm của văn học Đông Nam Á (ĐNA) Nói đến văn học Đông Nam Á là phải nói đến sức m...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét