Những kỷ niệm với Hàn Mặc Tử
Lâm Bích Thủy sưu tầm, giới thiệu
Dường như tất cả những cuộc gặp gỡ
trên thế gian đều do trời sắp đặt? Có cuộc gặp lảng mạn, sau đó
trở thành một nửa của nhau, và có những cuộc gặp thú vị để rồi thành băng,
nhóm v.v…. Xin giới thiệu cùng bạn đọc bài viết của nhà thơ Yến
Lan về buổi gặp mặt đầu tiên với Hàn Mặc Tử, và những liên quan giữa họ sau
này..:
Vào khoảng giữa những năm 1930,
tôi sống với cha tôi trong lòng thị trấn Bình Định. cha tôi là người có lưng
vốn chữ nho kha khá, nguyên do một thời xa trước đó, Bình Định có trường thi
hương, cha đã theo nghiệp sách đèn, nhưng ông đã không gặp vận may, hoài công
tập tễnh công danh giữa lúc tàn cuộc bút nghiên.
Từ khi lấy mẹ tôi, cha theo học
nghề của mẹ, làm thợ may. Ông thuê một cửa hàng nhỏ ở một góc ngã ba thị trấn,
ngày ngày còng lưng dệt từng đường chỉ mủi kim. Rồi đến một thời, giữa thị trấn
vang lên tiếng cạch cạch rè rè của đôi cổ máy may mang nhản hiệu Sin-ger thì
nghề cầm kim của cha tôi bị chết hẳn. Cha trả cửa hàng lại cho chủ và xin vào
làm từ thừa ngôi đền thờ Quan Thánh. Ông chăm bón, sửa sang các
mảnh sân và vườn đền thành một nơi có vườn cảnh tốt tươi, không ngờ dần về
sau thu hút được nhiều du khách.
Bình Định ngày đó không đông đúc
như bây giờ. Tỉnh lỵ đã dời xuống Qui Nhơn, việc buôn bán giao lưu cơ hồ như
co thắc lại, không khí buồn tênh, sinh hoạt chìm sâu trong im lặng. Phố chính
nằm dọc theo quốc lộ, gồm hai dãy nhà lợp tranh, thỉnh thoảng nổi lên vài mái
ngói trệt và lêu nghêu mấy căn nhà gác như ngẩn ngơ nhớ tiếc những gì. Phía
Tây là thành Bình Định rộng lớn, trầm mặc với bốn dải tường đá ong rêu
phong., tĩnh mịch, lác đác những ngôi nhà nhỏ thường ngày hé mở cửa ra, không
biết tìm đâu một chân trời để ngóng. Những trưa im ắng vọng lên tiếng chim rời
rạc trên những cành gòn…
Chùa Ông - nơi cha con tôi cư ngụ -
là một ngôi đền lớn bị ngăn cách quốc lộ một bờ thành cao. Mặt tiền đền
bên hai góc là cây đa, cây bàng cổ thụ tỏa bóng rợp một khoảng sân, lũ chim
thường về làm tổ mỗi sớm, mỗi chiều. Vườn đền không rộng nhưng kín đáo. Ông cụ
cất một ngôi nhà nhỏ riêng trong một góc vườn. Bên cạnh ngôi nhà tranh của
gia đình tôi là dãy nhà lợp ngói âm dương, gọi là nhà nghĩa tự thuộc cơ ngơi
của đền, làm nơi hội họp của các chức sắc mỗi khi có việc lễ bái. Trong phòng
có một bộ ván gõ kê ở một góc. Ngay chính giữa phòng đặt bộ tràng kỷ: hai chiếc
ghế đặt hai bên chếc bàn. Đó chính là nơi tôi được phép hàng ngày mở cửa tự
do ra vào sinh hoạt theo sở thích riêng của một thời tuổi trẻ. Hằng ngày ghi
chép, tiếp bạn trao đổi tâm tình, và có khi ngã lưng xuống tràng kỷ ngủ những
giấc ngon lành trong cái im ắng dạt dào đầy nắng trưa và hương hoa phảng
phất.
Một sáng chủ nhật, khoảng
giữa năm 1930, tôi đang chép lại bài thơ mới làm hôm qua, thì nghe tiếng gọi
ngoài cổng chính. Tôi nghĩ: chắc là có khách lạ muốn đến thăm đền (vì người
quen tất phải biết ngõ phụ luôn mở rộng ở phía Bắc của góc tường thành)
Tôi bước ra, nghe tiếng
của hai trang nam tử. Biết là người xa đến vãn cảnh, tôi chào, rồi chỉ hướng
cho họ vào đền. Khách mặc âu phục sang trọng: Một, hơi lớn tuổi, nói giọng Bắc,
rất chỉnh tề trong bộ Tropical, một là thanh niên mặc nguyên bộ tơ De-ligaon,
đội mũ Panama. Đang đi, người trẻ tuổi bỗng ngoặc sang phải, lối hàng rào
chè, rẽ sang một góc sân. Ở đó có cây lựu lớn đang nở hoa đỏ rực. Anh níu bẻ
một nụ rồi tặng cho người bạn đồng hành, miệng đọc câu Kiều:
Ngoài
hiên quyên đã gọi hè
Rõ ràng là những vị
khách thuộc loại hào hoa, ít gặp ở đây. Vừa lúc ấy cha tôi bước ra, hướng dẫn
họ đến bên tấm bia đá và mở cửa mời vào chính điện. Tôi trở lại tràng kỷ, làm
tiếp công việc bỏ dở. Được một chốc hai người đi xuống. Cha tôi đưa họ
vào nghĩa tự, mời ngồi trên tràng kỷ và đưa mắt bảo tôi xuống nhà lấy bộ bình
trà bằng sứ chuyên dùng tiếp khách quí. Có lẽ tờ giấy mà tôi còn bỏ ngỏ trên
bàn có những dòng chữ và cách trình bày giống dạng một bài thơ đã làm cho người
trẻ tuổi chú ý. Anh hỏi tôi:
- Cậu đang chép thơ à? Tôi bẽn lẽn gật đầu:
- Dạ, vâng.
- Thơ của bác hay thơ của cậu đấy?
- Dạ thơ của tôi. Im lặng một chốc, anh lại hỏi:
- Cậu làm thơ lâu chưa? Đã đăng ở đâu chưa?
- Tôi mới võ vẽ, cũng có bài được đăng báo.
- Cậu lấy bút danh là gì?
- Tôi ký Xuân Khai. Người trẻ tuổi vui hẳn lên, anh cười:-
Vậy tôi với cậu là đồng nghiệp với nhau. Xin tự giới thiệu, tôi là Phong Trần,
là Hàn Mặc Tử. Anh quay sang người trung niên, vẻ quí trọng:
- Vị này là nhà văn, tác giả “Kép Tư Bền”, tập truyện ngắn
vừa mới xuất bản đang được cả nước hoan nghênh. Tôi thốt lên một tiếng “À”
vui vẻ:
- Hóa ra ông là nhà văn Nguyễn Công Hoan. Tôi đã đọc và đã
biết nhiều về ông, nhất là trong cuộc bút chiến với báo Phong Hóa, Ngày Nay về
tập chuyện dài “Lá ngọc cành vàng “của ông
Lúc ấy nhà văn Nguyễn Công Hoan
như tự nhiên có thêm những cảm xúc không ngờ. Ông nhìn tôi một cách triều mến.
Hàn Mặc Tử thì gật đầu thích thú, anh tiếp lời:
- Trong cuộc bút chiến ây, nhà văn thắng lợi. Nhân đây ông
làm một cuộc viễn du từ Bắc vào Nam để tạ lòng ủng hộ của tác giả mà mình hâm
mộ. Hôm nay tôi đưa ông lên thăm một vài cảnh đẹp ở đây, rồi sẽ lên Phú
Phong, mảnh đất lịch sử của quê ta. Nhân dịp này ta làm quen với nhau vậy.
Tôi đang sống với gia đình tại 20 đường Khải Định-Qui Nhơn. Có đi Qui Nhơn mời
cậu ghé chơi, chúng ta là đồng nghiệp với nhau mà.
Chúng tôi gắn bó với
nhau từ buổi ấy. Tôi kể chuyện này với Chế. Chế cho biết đã quen với Tử rồi
và cũng muốn có dịp nào đó sẽ giới thiệu tôi với anh.
Thỉnh thoảng có dịp đi Qui Nhơn,
tôi và Chế Lan Viên thường ghé thăm anh. Tử ở trong một ngôi nhà gạch-kiểu
nhà của công chức, có gia đình bề thế cũ, thường là có bỗng lộc. Buồng, chái
bố trí kín đáo và có ngăn nắp. Mặt tiền mở ra một cánh cổng nhỏ để vào mảnh
sân con thoáng rộng , có tường hoa ngăn với bên hàng xóm.
Mỗi khi chúng tôi đến, Tử từ căn
phòng con ở sau phòng khách đi ra đón, vẻ vui mừng. Tử đưa hai đứa tôi vào
nhà, mời ngồi vào bộ Salon đan
bằng mây, lòng ghế to bè được quét qua một lớp sơn màu ngọc thạch đã cũ.
Chúng tôi trò chuyện đủ thứ rồi đọc thơ cho nhau nghe. Riêng tôi chưa được anh
kể cho nghe đầy đủ về một chuyện tình nào của riêng anh. Mỗi khi cao hứng,
Tử thường ngồi xếp bằng theo kiểu kiết già, người lọt thỏm vào lòng ghế, hai
tay chống trên hai gối, đôi mắt lim dim vời
vợi, xa xăm, rồi đọc thơ. Giọng anh ngâm nga như người lên đồng.
Những phú im lặng, nhìn nhau,
chúng tôi nghe rõ tiếng tích tắc thời gian của chiếc đồng hồ treo trên
tường như đã quên theo một nhịp hàng ngày cố hữu.
Cũng có khi tôi đến thăm anh một
mình, nhưng thường thì người nhà ra dấu anh đang mệt, tôi lẳng lặng ra về, lần
sau gặp lại anh, và xem như đã mất đi một dịp trút bớt đi nỗi cô quạnh nặng nề
đang đè xuống tâm tư
Có một lần, ấy là lần đầu tiên Qui
Nhơn chiếu phim màu có quãng cáo tận trên Bình Định. Tôi còn nhớ đó là các
phim «Vogue 38» (Thời thượng 38), Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn, Báo động ở Ấn
Độ (Alerte aux
Indes). Phim chiếu hàng mấy tuần rồi mà vẫn đông khách. Tôi cũng cố gắng đi
xem một lần cho biết, và đã xuống Qui Nhơn. Vì đến sớm, rạp chưa chiếu, tôi
ghé nhà Hàn Mặc Tử chơi. Tử biết tâm tư tôi đang bận phim ảnh nên rất tế nhị
không gợi chuyện về thi ca. Anh chỉ giục tôi và cũng tự nhiên tỏ ý : Cậu
có công quá nhỉ ? cậu thích cái thứ nghệ thuật đó à ? Mình ở gần rạp
Morin mà chưa biết cái phim màu nó ra sao, ngay cả phim thường cũng không ham
lắm.
Qua giọng anh, tôi biết Tử ít hâm
mộ điện ảnh và dường như cái chính là sức khỏe đang hạn chế anh với
các cuộc tiếp xúc bên ngoài. Tử bắt đầu chớm bệnh và tất cả tháng ngày
sau đó, anh hòa nhịp tâm hồn vào thi ca để làm phương thuốc chửa
dịu nỗi đau thể xác.
Sống giữa lòng Bình Định, những chiều
hiu hiu nắng quái, tôi và Chế Lan Viên thường lên lầu cửa Đông mà hai đứa tôi
gọi là lầu tư tưởng, phóng tầm mắt nhìn bao quát thị trấn, rồi vọng đến những
chân trời xa tắp, lòng ngậm ngùi cho mảnh đất quê hương đã trải qua lắm cuộc
đổi thay. Có lúc chúng tôi nghĩ xa hơn đến các triều đại của quá khứ, từng nối
tiếp nhau đến sự thăng trầm biến thiên của lịch sử, rồi bàn nhau cùng viết về
cảnh điêu tàn, những cuộc đời dâu bể. Hoan đi sâu vào sự đau thương, tàn tạ,
thịnh vượng, làm sống lại những lễ hội, sinh ca của các hệ tộc quyền quí, rồi
binh biến máu lửa thay cho một thuở thanh bình. Tập thơ của Chế, tên “Điêu
tàn”.
Thành Đồ Bàn cũng thôi không nức nở
Trong sương mờ huyền ảo lắng tai nghe
Từ một làng xa xôi bao tiếng mõ
Tập thơ của tôi là “Giếng
loạn”. Nghe tôi đôi lần đề cập đến “Giếng loạn” Tử rất muốn xem (lúc này anh
đang bệnh). Tôi mang xuống cho anh. Khoảng một tuần sau, Tử đưa trả bản thảo
và nói:- Tôi đã xem hết tập thơ rồi. Có một số xúc cảm nên cố làm một bài
riêng tặng cậu. Anh lấy ở túi áo ra trao cho tôi và trân trọng nói:
- Đây cứ coi như một
bài bạt sơ khảo; mà tôi thấy cái nhan đề không ổn. Sao cậu không viết là “Giếng
lạng” lại viết là “Giếng loạn”? Tôi đáp: “Có vấn đề về ngôn ngữ tôi muốn thảo
luận với anh đấy.”
Rồi tôi và Tử bàn nhau hồi
lâu, sau cùng thống nhất là “Giếng loạn”. Loạn ở đây là loạn lạc, đầy đủ ý
nghĩa hơn, lạng là bỏ hoang. Bài thơ Tử tặng tôi chính là bài “Trăng tự tử”
mang dáng dấp của một bài bạt cho cả tập thơ. Tôi đã có chủ ý sẽ in nó vào tập
“Giếng loạn” khi xuất bản. Nhưng bản chép tay ấy với cả tập thơ bị thất
lạc, lúc đi sơ tán, ngày Pháp mở chiến dịch Át-lăng đánh vào Qui Nhơn. Bản in
trên các sách hiện nay là bản lưu từ trong xấp di cảo do anh Quách Tấn giữ.
Buổi sáng hôm ấy, tôi nhớ
dường như sáng 28 Tết âm lịch, năm 1938. Tôi và Chế Lan Viên đến thăm anh.
Khi ấy bệnh Tử đã nặng! Mới bước vào cổng nhà, tự dưng tôi có cảm giác căn
nhà hiu quạnh quá. Thấy chúng tôi, mẹ Tử bước ra thềm hè, rơm rớm nước mắt:
- Trí đi rồi các anh à! Cò
bót không cho nó ở nhà nữa, vì sợ lây bệnh, bắt phải đưa vào Qui Hòa, Tết nhất
đến nơi rồi, nếu đưa nó vào trong ấy thì tội lắm. Nhà cập rập quá, nên lén gửi
tạm nó vào trong xóm Động. Các anh có đi thăm thì em Hành đưa đi. Nó vừa chạy
đâu đó.
Đợi lâu không gặp
Hành, hai đứa tôi hỏi thăm vào xóm Động. Đấy là cái xóm nhỏ của những người
lao động nghèo, nằm trên một bãi cát rộng mênh mông, thuộc khu VI Qui Nhơn
bây giờ. Nhà ở chỉ là những túp lều dựng tạm bợ trên cát, không có nền. Đồ đạc,
giường, tủ, bàn, ghế cứ đặt nguyên trên cát. Đường đi vào cũng quanh quất cơ
hồ khó tìm ra.
Chúng tôi vào một cái chòi
lợp tranh nhỏ hơn một cái chái bếp. Nóc chòi được chống lên bằng hai cây cột
tre. Một tấm phên ngắn dọc theo chiều dài của nóc, ngăn chòi làm hai: nửa trước
sinh hoạt bình thường, nửa sau hình như có đặt một chiếc chõng tre với lỉnh kỉnh
những thúng mủng..
Trước tấm phên là cái
bàn ọp ẹp, chỉ còn lại một chân trước nối với một khúc củi đẻo từ chảng ba,
hai chân sau cột vào hai cọc tre chống mái nhà, Tử đang ở trong ấy (đây là
nhà của một phu kéo xe). Nghe tiếng chúng tôi, Tử chậm rãi bước ra, vẻ mệt nhọc:
Hoan và tôi ngồi trên
ngạch cửa làm bằng một khúc tre, xoay lưng ra ngoài, trò chuyện với anh. Tử gầy,
trông hốc hác lắm. Anh không vui như mọi khi.
Đang nói chuyện thì có bà cụ
đem cho anh hai quả keo chín, Tử nhìn hai đứa tôi:- Thứ này mình thích lắm. Mấy
năm còn khỏe, mình thường xách ná cao su đi bắn. Có khi đạn rớt vào nhà Tây,
mình ba chân bốn cẳng chạy nhanh như sóc. Thế mà bây giờ .!.Anh thở
dài.
Chúng tôi nói chuyện cho tới
giờ tan tầm, thì có một em bé trai xách làn cơm vào (chắc là em Hành) Khi cái
xách cơm đặt nghiêng nghiêng trên bàn, em bé lẫn ra phía sau. Tử vẫn giữ cái
vẻ thản nhiên, gợi thêm một vài ý nhỏ về thi ca sách vở. Sợ anh mệt và cũng
quá giờ chúng tôi đứng lên tạm biệt. Tử nhìn, đôi mắt anh buồn vời vợi
Sau này, mới biết sau cái Tết ấy, gia đình còn cố giấu
anh ở mấy nơi nữa rồi mới vào Qui Hòa.
Khi Tử mất, mỗi lần nhớ tới
anh, tôi lại ngậm ngùi đọc “Những giọt lệ” của anh
Trời hởi! Bao giờ tôi chết đi
Bao giờ tôi hết được yêu vì
Bao giờ mặt nhật tan thành máu
Và khối lòng tôi cứng tựa si?
Họ đã xa rồi khôn níu lại
Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa
Người đi, một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ
Tôi vẫn còn đây hay ở đâu?
Ai đem tôi bỏ xuống trời sâu
Sao bông phượng nở trong màu huyết
Nhỏ xuông lòng tôi những giọt châu!
Tôi không biết anh viết
bài thơ này để nói đến một tình huống nào. Có người bảo là anh viết để than
thở về một mối tình trong bao nhiêu mối tình dang dở của mình. Nhưng tôi cứ
nghĩ cảm xúc đó bắt nguồn từ buổi sáng hôm ấy, buổi sáng mà tôi và Hoan còn
ngồi bên Tử, trong túp lều đơn sơ ở xóm Động…
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét