Trước khi Sài Gòn sụp đổ, tôi đã có một thời gian dài sống tại
Lăng Cha Cả, gần nhà thờ Tân Sa Châu. Để đến được trung tâm Sài Gòn, từ Lăng
Cha Cả phải đi qua những con đường Trương Minh Ký - Trương Minh Giảng (Nay là
đường Lê Văn Sĩ). Ở đoạn chân cầu Trương Minh Giảng có một cái chợ mang cùng
tên và sau này, ở bên kia đường, Đại học Vạn Hạnh của Phật giáo được xây dựng.
Có một thời, đây là nơi nhà thơ Bùi Giáng thường xuất hiện. Phan Nhiên Hạo
trong bài viết Bùi Giáng như tôi thấy có nhiều chi tiết khá lý thú:
Ông là một nhân vật khá nổi đình đám ở khu vực cầu Trương
Minh Giảng. Có những buổi chiều đông đặc xe cộ, tôi ngồi uống cà phê bên đường
nhìn ông đứng làm cảnh sát giao thông nơi đầu cầu Trương Minh Giảng. Ông đội một
chiếc quần lót đỏ chói trên đầu, áo quần te tua, tay cầm chiếc roi tre dài,
xoay ngang xoay dọc chỉ đường cho xe cộ. Người ta đi qua, cố gắng tránh xa ngọn
roi tre dài, nhưng không ai chú ý đến ông. Ông loay hoay như vậy giữa dòng xe cộ
hàng giờ liền, rồi chán, bỏ đi.
Có lần tôi thấy ông mặc một chiếc áo chim cò rộng thùng
thình. Chiếc áo rất mới có vẻ hàng ngoại đắt tiền, chắc ai đó ở nước ngoài về tặng
ông. Nhưng chỉ vài hôm đã thấy chiếc áo trở nên cũ bẩn. Ðôi khi tôi bắt gặp ông
ngồi dưới hành lang trong sân Vạn Hạnh, chỗ gần cổng. Ông nửa ngồi nửa nằm, tựa
lưng vào cột. Dưới bóng cây phượng xanh mát, những lúc như vậy trông ông có vẻ
tỉnh và buồn. Ông ngồi một mình, ánh mắt sau cặp kính cận dày nhìn xa xăm ra
dòng xe cộ bên ngoài cổng trường.
Hình như Bùi Giáng không chỉ lang thang trong "lãnh địa"
chợ Trương Minh Giảng và trường Vạn Hạnh. Một lần tôi thấy ông ở một chỗ khác,
khá xa "nhà". Hôm đó trời mưa to, tôi đứng chơi trên lầu nhà một anh
bạn ở đường Nguyễn Thiện Thuật, đối diện một cái chợ, không nhớ rõ là chợ Vườn
Chuối hay chợ Nguyễn Thiện Thuật. Trước chợ có một đống rác cao nghệu, đen xì,
bục ướt và rất hôi thối. Bùi Giáng đang đứng cãi nhau với một bà bán hàng ngay
cạnh đống rác.
Chắc ông phá phách gì nên bị bà này mắng xối xả, còn ông thì
chỉ la ó những câu vô nghĩa để đáp lại. Nhưng ông cũng hoa tay múa chân vẻ khá
hung hăng. Cuối cùng người đàn bà xô mạnh Bùi Giáng. Ông ngã chỏng gọng vào đống
rác đen, miệng la bai bải. Cặp kính cận dày và cái thân hình lèo khoèo trong tư
thế nằm ngửa khiến ông trông giống một con bọ ngựa bị bẻ chân. Dưới trời mưa tầm
tã, ông có vẻ không gượng dậy được vì đống rác quá nhão. Còn người đàn bà vẫn
tiếp tục chửi bới.
Tôi cũng đã thấy Bùi Giáng trong một trường hợp khác, rất
đáng nhớ. Một buổi sáng chỉ mới khoảng 6 giờ, sinh viên ký túc xá bỗng nghe tiếng
la hét từ phía dãy phòng các sinh viên nữ. Thỉnh thoảng chúng tôi vẫn nghe những
tiếng la như vậy khi có trộm lẻn vào bên khu nữ. Tôi vội chạy ra hành lang.
Nhìn qua bên dãy nữ, thấy các mái tóc dài thò ra rồi thụt vào, hết người này đến
kẻ khác. Tiếng la oai oái vẫn không ngớt, nhưng bây giờ xen lẫn tiếng cười
khoái trá của các sinh viên nam. Nhìn xuống, tôi thấy giữa sân trường, Bùi
Giáng đang trong tư thế trồng chuối, nhưng hoàn toàn... khỏa thân, quần áo cởi
hết ra để bên cạnh. Mấy sinh viên bảo vệ từ ngoài cổng vội chạy đến, nhét quần
áo vào tay ông lôi ra khỏi sân trường. Thật là một buổi "điểm tâm" đặc
biệt cho cả ký túc xá.
Theo thầy Thích Nguyên Tạng (chùa Pháp Vân, Gia Định, Sài
Gòn), Bùi Giáng tự ghi tiểu sử của mình cho thầy trong cuốn sổ tay vào buổi
trưa ngày 10/11/1993 như sau:
• 1926 - được bà mẹ đẻ ra đời
• 1928 - bị té bể trán, vết sẹo còn nguyên kỷ niệm, hai năm
trời chết đi sống lại
• 1933 - bắt đầu đi học a, b, c... trường làng tại Thanh Châu
với Thầy Cù Đình Quý
• 1936 - học trường Bảo An với thầy Lê Trí Viễn
• 1939 - ra Huế học tư thục với những thầy Cao Xuân Huy, Trần
Đình Đàn, Hoài Thanh Nguyễn đức Nguyên, Đào duy Anh, vân vân
• 1940 - về Quảng Nam chăn bò
• 1942 - trở ra Huế, vì nhớ nhung gái Huế
• 1949 - nhập ngũ, bộ đội công binh. Hai năm sau giải ngũ
• 1952 - vào Sài gòn, 1955 (57) khởi sự viết về Nguyễn Du và
một vài nhận xét về Truyện Kiều và một vài nhận xét về Bà Huyện Thanh Quan, một
vài nhận xét về Chinh Phụ Ngâm ...(TÂN VIỆT xuất bản)
• 1957 - TÂN VIỆT xuất bản: giảng luận về Tản Đà Nguyễn Khắc
Hiếu, giảng luận về Chu Mạnh Trinh, giảng luận về Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị....
• 1969 - Bắt đầu điên rực rỡ
• 1970
• 1. Lang Thang Du hành Lục Tỉnh (Khách sạn Long xuyên Bà Chủ
cho ở đầy đủ tiện nghi không lấy tiền)
• 2. Gái Châu Đốc Thương yêu và Gái Long Xuyên Yêu dấu
• 3. Gái Chợ Lớn Khiến bị bịnh lậu (bịnh hoa liễu)
• 1971 - 75 - 93
• Điên rồ lừng lẫy chết đi sống lại vẻ vang
• Rong chơi như hài nhi (con nít)
• Được gia đình ông Phó Chủ Tịch (482) Lê Quang Định, Hội đồng
Thành phố đối xử thơ mộng thênh.
• Kính dâng Kim Thúy, Kim Hồng, Kim Hoa, đôi lời rốt cuộc.....
• Bình sinh mộng tưởng vấp phải niềm thương yêu của Kim Cương
Nương Tử, Hà Thanh Cố Nương và Mẫu Thân Phùng Khánh (tức Trí Hải Ni Cô)
• Do đâu mà ra được như thế ?
• Đáp: Có lẽ đầu tiên kỳ tuyệt là do ân nghĩa bốn bề thiên hạ
đi về tập họp tại Già Lam, Vạn Hạnh và Long Huê và Tịnh xá Trung Tâm và Pháp
Vân và xiết bao chùa chiền miền Nam nước Việt, không biết nói sao cho hết.
Trong tiểu sử tự ghi, ông có nhắc đến đích danh một vài người.
Tuy nhiên, những người phụ nữ này được Bùi Giáng tôn vinh như là 'mẫu thân sinh
đẻ ra mình', tuyệt không có chút gì là quan hệ nhục thể của tình yêu nam nữ, nhớ
mong, hờn ghen, đau khổ, hẹn hò, mộng mơ như trong thơ tình của những nhà thơ
khác.
Em vui - nước ngọt xuôi dòng
Em buồn - toàn diện đèo bòng buồn theo
Em vui - tinh thể bọt bèo
Em buồn - toàn diện thu vèo sang đông
Ngổn ngang gò đống chất chồng
Em về vĩnh viễn đêm mồng một giêng
Em đi thanh thản ngọc tuyền
Anh ngồi nốc rượu nốc phiền thiên thu
Kim Cương Nương Tử tuyệt trù
Thơ thần chất vấn dặm cù tình điên
(Kim Cương Nương Tử)
Ngày xưa, nghệ sĩ Kim Cương được giới hâm mộ gọi là 'Kỳ nữ'
và Bùi Giáng cũng là một trong những người đã 'mê Kim Cương như điếu đổ'.
Nói về mối tình si của Bùi Giáng dành cho mình, Kim Cương đã thổ lộ:
Đúng hơn đó là mối tình thơ, như một thi sĩ cần một nàng thơ,
mà nàng thơ thì bao giờ cũng nên là một hình ảnh không chạm tới được. Thi hứng
được nuôi sống bằng tình yêu bị bỏ đói là vậy. Bùi Giáng là một thiên tài,
nhưng ngô nghê say say tỉnh tỉnh. Nói là yêu thì bảo sao yêu được ông nhà thơ
liêu xiêu, mình treo trái cây tòng teng. Hôm nào vui thì làm thơ tặng, tôi còn
giữ cả chục bài, hôm thì ổng qua ổng... chọi đá. Thơ thì tôi cất giữ, người thơ
tôi trân quý. Ngày ổng mất tôi chỉ biết cám ơn anh đã là một thi sĩ thiên tài,
và đã cho tôi một mối tình đơn phương chung thủy suốt 40 chục năm trời.
Kỳ nữ Kim Cương và Bùi Giáng
Đối với Bùi Giáng, mối tình si của ông mang một sắc thái Tiên
chứ không phải Tục:
Kính thưa công chúa Kim Cương,
Trẫm từ vô tận ven đường ngồi đây.
Tờ thư rất mực móng dày,
Làm sao định nghĩa đêm ngày yêu nhau?
(Kính thưa)
Kim Cương biết Bùi Giáng lúc khoảng 19 tuổi khi còn theo đoàn
cải lương của bà Bảy Nam. Thật ra, ông chú ý đến KC trong một đám cưới của đôi
bạn Hạnh - Thùy. Sau đám cưới, một hôm Thùy bảo KC: "Có một ông giáo
sư Đại học Văn khoa, đi học ở Đức về, ái mộ chị lắm, muốn đến nhà thăm chị".
KC trả lời: "Ừ, thì mời ổng tới".
Hóa ra là Bùi Giáng, lúc ấy đang dạy học, cũng áo quần tươm tất
chứ chưa có "điên điên" như sau này. Bùi Giáng lui tới, mời KC lên xe
đạp ông chở đi chơi, rồi lại cầu hôn... Bởi sau vài lần tiếp xúc, bà thấy ở ông
toát lên cái gì đó "kỳ kỳ", bất bình thường, nên bà sợ.
Đeo đuổi mãi không được, Bùi Giáng thở dài nói: "Thôi,
chắc cô không ưng tôi vì tôi lớn tuổi hơn cô (Bùi Giáng lớn hơn KC mười mấy
tuổi), vậy cô hứa với tôi là sẽ ưng thằng cháu của tôi nhé. Nó trẻ, lại đẹp
trai, học giỏi". Kim Cương ngần ngừ: "Thưa anh, chuyện tình cảm
đâu có nói trước được. Tôi không dám hứa hẹn gì đâu, để chừng nào gặp nhau hẵng
tính...". Ý bà muốn hoãn binh. Nhưng Bùi Giáng đã đùng đùng dắt cháu
tới. Trời ơi, hóa ra đó là thằng nhỏ mới... 8 tuổi. KC hết hồn. Thôi rồi, ổng
đúng là không bình thường!.
Kim Cương thời son trẻ
Bùi Giáng cũng bày tỏ lòng thương kính ni sư Trí Hải (1938 -
2003), có tên đời là Tôn Nữ Phùng Khánh, nên thường gọi bà là 'Mẫu thân Phùng
Khánh'. Sau khi ông mất, Ni Sư Trí Hải có giảng cho Tăng Ni Phật tử về thâm
nghĩa trong thơ ca của Bùi Giáng trong nhiều buổi giảng.
Con về giũ áo đười ươi
Nực cười Trí Hải ngậm ngùi mẫu thân
Đẻ con một trận vô ngần
Mẹ còn đẻ nữa một lần nữa thôi
Mẫu thân Phùng Khánh tuyệt vời
Chiều xuân thơ mộng dưới trời bước đi
(Thơ điên)
Có lần ông nói: "Phùng Khánh Mẫu Thân là mẹ Việt
Nam, tôi là con dân Việt Nam. Vậy thì tất nhiên Phùng Khánh là mẹ của tôi vậy.
Nếu tôi không nhận Phùng Khánh là mẹ, thì chẳng ra tôi là người Lào? Hoặc là
người Cao Miên? Hoặc con dân Âu Mỹ ư? Huống nữa là: Phùng Khánh là bà mẹ loài
người. Vậy Phùng Khánh là mẹ của tôi. Nếu tôi không phải là con của Phùng
Khánh, thì chẳng ra tôi chẳng phải con người? Chẳng ra tôi là con vật?" (Đặng
Tiến, Bùi Giáng Thi Sĩ Kỳ Dị, http://www.thanhnien.com.vn).
Thương quý ni sư Trí Hải, ông thương lây qua các ni cô khác,
nhất là các ni cô ở chùa Dược Sư, nơi mà ông thường lui tới nghỉ chân, được ăn
cơm chay lại còn được lì xì tiền tiêu vặt. Cảm nghĩa, cảm tình ông đã coi chùa
Dược Sư là thơ mộng nhất, các ni cô là người hiền thục nhất, đẹp nhất trong giới
nữ lưu.
Đi tu thứ nhất ở chùa,
Thứ nhì ở tận cuối mùa lang thang
Dược Sư thơ mộng vô vàn,
Sầu lên vút tận mây ngàn tần thân
Hai chữ 'tần thân' nhiều người không hiểu. Tự điển Hán Việt
giải thích: Tần là luôn luôn và Thân là rên rỉ. Đọc bốn câu
thơ lục bát của ông, mới thấy được cái tài hoa, cái xuất khẩu thành thơ, cái
uyên bác trong tứ thơ của ông. Có lẽ chỉ thi sĩ 'Bùi Bàng Giúi' mới
có thể giảng giải hết thâm ý của chính mình.
Theo Võ Đắc Danh, hồ sơ lưu trữ tại nhà thương điên Biên Hoà
ghi nhận Bùi Giáng nhập viện hai lần. Lần thứ nhất vào năm 1969, lần thứ hai
vào năm 1977, thời gian này Nguyễn Ngu Í vẫn còn trong bệnh viện, hai người
cùng ở khu 3. Bệnh án của Bùi Giáng có đoạn ghi:
"Bệnh tái phát từ tháng 4/1969, có hôm thức suốt đêm để
viết, nói huyên thuyên, chơi chữ, có khi la thất thanh, ý tưởng tự cao tự đại.
Hay phát biểu ý kiến về những vấn đề chính trị, văn hóa trọng đại, có ý nghĩ bị
người ta phá hoại sự nghiệp văn chương. Tháng 3/1969 bị cháy nhà và cháy tất cả
sách vở quý báu nên đương sự bị bệnh mỗi ngày một nặng hơn..."
Cung Tích Biền kể: "Khoảng đầu thập niên 70 người
ta đưa ông vào nhà thương điên Biên Hòa chữa cái bệnh 'đứng ngã ba nhìn ra ngã
bảy'. Từ nhà thương điên trở ra, bữa gặp nhau thấy ông rất tỉnh. Bèn hỏi một
câu thường tình: 'Nhà thương Biên Hòa trị cái tẩu hỏa hay nhỉ!'. Ông trả lời tỉnh
queo: "Chữa trị quái gì đâu. Chẳng là ở ngoài mình thấy mình điên số một,
khi vô nhà thương điên mới hiểu ra mình là đồ bỏ, điên nhí, điên tiểu thủ công
nghiệp; trong nhà thương điên nhiều cha điên thượng thừa, điên vĩ đại hơn mình
nhiều. Do vậy mà mình tự động thôi điên".
Uống và say nói lăng nhăng
Miệng mồm lí nhí thằn lằn đứt đuôi
Tâm can chân thể chôn vùi
Mặt trời không mọc với người lem nhem
Còn đâu nguyệt tỏ bên thềm
Ôi người uống rượu còn thêm điên rồ
(Người điên uống rượu)
Ông điên từ bữa hôm qua
Tới hôm nay nữa gọi là ba hôm
Thanh thiên về dự hội đàm
Thành thân thiên hạ muôn vàn mai sau
Ông điên từ một lần đầu
Tới lần đuôi đứt ruột rầu rĩ đau
Tuyệt mù biển cạn sông sâu
Bụi hồng tản mác trước sau bây giờ
(Ông điên)
'Ông Điên' đã tự viết về mình như sau: "Nó điên?
Vâng nhưng điên một cách vui vẻ. Bạ đâu gọi đó là mẫu thân bát ngát của con.
Người ta bảo rằng nó không điên. Có kẻ bảo rằng nó giả vờ điên. Muốn biết nó
điên hay không điên, hay giả vờ điên, thì trước hết phải đáp vào câu hỏi: Sao gọi
là điên? Nhưng mà? Nhưng mà đó là một câu hỏi chưa hề có một lời giải đáp dưới
gầm trời và suốt xưa nay vậy".
Nỗi buồn nỗi khổ đời xưa
Nỗi sung sướng đến móc mưa bất ngờ
Đời xưa đất đá đều đờ đẫn điên
Đời này đất đá cằn khô
Điên duỗi dọc, điên ngửa nghiêng
Điên là hạnh phúc thần tiên ở đời
Điên rồi rốt cuộc hỡi ôi
Cũng đành chấm dứt lìa đời hết điên
Bùi Giáng
Qua nét vẽ của họa sĩ Đinh Quang Tỉnh
Tiên hay Điên? Phải chăng Điên là một cách hành Thiền của Bùi
Giáng? Và Điên cũng là cách né tránh đối diện với thực tại, thực tại thời chiến
tranh Việt Nam, trước và sau 1975? Ta không thấy Bùi Giáng bày tỏ bất cứ chính
kiến nào về thực tại đó như thơ văn đương thời. Bài thơ Về Quảng Nam được viết
bằng ngôn ngữ đời thường thể hiện rõ thái độ né tránh ấy:
Chiêm bao tôi thấy tôi về Quảng Nam
Rong chơi Đại Lộc, Điện Bàn
Duy Xuyên, Tiên Phước, Hoà Vang, Thăng Bình...
Tìm người bạn cũ không ra
Còn phong cảnh cũ khác xa những ngày...
Xóm làng đồng ruộng lạ thay
Chỉ còn dáng núi chạy dài xa xa
Giữ nguyên hình ảnh đậm đà
Còn trong kỷ niệm bao la tuổi nào...
Ngắm nhìn. Tim máu xôn xao
Tôi rời đất Quảng trở vào miền Nam
Tâm hồn bao xiết hoang mang
Bài thơ viết vội, dở dang lạ lùng
(1995)
Nguyễn Minh Vương viết về Bùi Giáng: "Vậy Bùi Giáng
là ai? Và ai là Giàng Búi? Câu trả lời đã được các bậc nguyên lão, những người
đã cùng lăn lộn với lão trong cõi trần ai khổ lụy này giải mã. Lý lẽ của các vị
thật hợp tình hợp lý. Với 'người thơ', tác giả đã nói lên cái tính bình dân của
Lão Bùi, với 'Cuồng Bồ tát', tác giả khác đã nói lên tầm mức cứu độ chúng sinh
của Giàng Búi thị hiện trong hình tướng của người điên, với 'thi sĩ kỳ dị', tác
giả cho thấy sức sáng tác kinh hồn bạt vía cũng như những chiêu thức (ngôn từ)
mà ông dùng trong thơ thì xưa nay chưa có ai nghĩ bàn đến. Có thể nói, Lão Bùi
đã được nói rất nhiều, viết cũng rất nhiều, bàn cũng chẳng thiếu, thậm chí nhà
văn Phạm Thị Hoài còn đề xuất một giải thưởng văn học mang tên Bùi Giáng trên
talawas.org để tôn vinh. Như thế, kẻ hậu sinh này [Nguyễn Minh Vương] muốn
nói, muốn viết về ông, cũng chỉ là múa rìu qua mắt thợ, thấy người sang bắt
quàng làm họ".
Nhà nghiên cứu Bùi Văn Nam Sơn nói: "Viết đôi lời
hay nhiều lời về Bùi Giáng không bằng đọc Bùi Giáng. Đọc Bùi Giáng không bằng
giao du với Bùi Giáng. Giao du với Bùi Giáng không bằng sống như Bùi Giáng. Mà
sống như Bùi Giáng thì thật vui mà thật khó vậy!".
(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 10 – Thời xuống lỗ)
Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:
1. Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
2. Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
3. Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
4. Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh
ngữ Quân đội)
5. Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
6. Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
7. Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
8. Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
9. Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc
gia và lãnh thổ)
Tác giả còn dự tính viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang
tên... Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!
Trả lờiXóamáy bay eva air
vé máy bay đi mỹ eva air
hãng hàng không korean air
vé máy bay đi mỹ rẻ
đặt vé máy bay đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Du Lich Tu Tuc
Tri Thuc Du Lich