Rất nhiều người Việt Nam, dù ở nơi đâu, trong những ngày này,
đều hướng lòng mình về Hà Nội. Với bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, nhớ tới mảnh đất ngàn
năm văn hiến "phố xưa nhà cổ, mái ngói thâm nâu" là ông lại nhớ đến một
người. Người ấy khá đặc biệt đối với riêng ông và cũng không xa lạ với mọi người,
đó là học giả nổi tiếng Nguyễn Hiến Lê. Qua những câu chuyện kể, những bức thư
trao đổi giữa vị học giả này và tác giả- được sắp xếp một cách khéo léo- người
đọc nhận ra ẩn sau những con chữ ấy là nỗi lòng của một người con Hà Nội, dù phải
cách xa mảnh đất thiêng liêng ấy suốt nửa thế kỷ, nhưng lòng vẫn canh cánh khôn
nguôi...
"Hà Nội mùa thu, cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ, nằm
kề bên nhau, phố xưa nhà cổ, mái ngói thâm nâu... Hà Nội mùa thu... Mùa thu Hà
Nội... Nhớ đến một người..." (TCS).
"Nhớ đến một người" đó, với tôi, là nhớ Nguyễn Hiến
Lê, một người Hà Nội, một học giả, một nhà trí thức chân chính ngày nay được cả
nước biết đến. Nhưng nói Nguyễn Hiến Lê người Hà Nội chỉ đúng... một phần ba,
vì tuy sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, lúc mới 22 tuổi, ra trường Công chánh, ông
đã khăn gói vào Nam nhận nhiệm sở để rồi sống luôn ở đó suốt nửa thế kỷ cho đến
ngày mất, năm 1984, khi vừa 72 tuổi. Nửa thế kỷ dằng dặc đó của một đời người,
ông đã chẳng lúc nào nguôi quên Hà Nội của tuổi thơ ông.
Còn nhớ năm 1978, ba năm sau ngày thống nhất đất nước, tôi có
dịp lần đầu tiên ra Hà Nội dự một hội nghi về y học. Hà Nội không hề xa lạ với
tôi. Tôi như thuộc lòng từng ngõ ngách, từng phiến đá, từng mái tranh gốc rạ, từng
phố xá thân quen... cũng nhờ từ nhỏ đã sống với tác phẩm của Thạch Lam, Nguyễn
Tuân, Nhất Linh, Khái Hưng... những buổi chiều vàng, những gánh hàng hoa, những
anh phải sống... rồi với cả những người xa Hà Nội như Mai Thảo, như Vũ Bằng...
Hà Nội với tôi còn là "Cùng ngước mắt về phương Thăng Long thành cao đứng..." của
Lưu Hữu Phước, rồi "Hà Nội ơi, hướng về thành phố xa xôi, ánh đèn giăng mắc
muôn nơi, áo màu tung gió chơi vơi..."...
Tôi lẻn khỏi hội nghị đến thăm Văn Miếu, lòng lâng lâng như
đi giữa ngàn xưa và bỗng nhớ Nguyễn Hiến Lê, nhớ một câu ông viết từ những năm
50 rằng bằng cấp không phải là thước đo giá trị của một con người. Có những người
có tên trong văn bia tiến sĩ ở Văn Miếu mà chẳng mấy ai còn nhớ, trong khi những
Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Tản Đà, Tú Xương... luôn được
người đời nhắc đến... Tôi đến Bưu điện Hà Nội gởi ngay cho ông một tấm bưu thiếp.
Chỉ viết mấy dòng vắn tắt. Cũng chẳng hy vọng gì nó đến được trong thời buổi đầy
khó khăn này. Vậy mà hơn một tháng sau, Nguyễn Hiến Lê nhận được bưu thiếp và
ông trả lời:
Saigon 3/11/78
Thân gởi cháu Ngọc,
Hôm qua tôi được bưu thiếp của cháu gởi từ Hà Nội ngày 29/9.
Cảm động nhất là câu: "Cháu đến thăm Văn Miếu, nghĩ đến bác nhiều".
Tôi hiểu rồi chắc cháu nhớ một đoạn cuối tập Bí quyết thi đậu của tôi. Cảm ơn
cháu nhiều lắm. Cháu hiểu tôi. Cháu làm tôi nhớ hồi trẻ tôi học ở trường Bưởi
(Chu Văn An) ngoài đó quá. Cháu có xem Hồ Tây, chùa Quan Thánh, đường Cổ Ngư
(nay là đường Thanh Niên?) không? Trường Bưởi của tôi ở bên bờ Hồ Tây đấy. Mà
trường Yên Phụ (tiểu học) của tôi ở trên bờ hồ Trúc Bạch trông ra đường Cổ Ngư
đấy.
Đứng trên đường này nhìn về phía Bắc sẽ thấy núi Tản Viên,
quê tôi ở gần chân núi đó. Nhớ quá đi. Cháu có đi thăm đền Ngọc Sơn, đền Voi Phục,
chùa Láng... không? Toàn những cảnh mà hồi trẻ tôi mê.
Mê nhất là cái sắc trời, cái không khí trong trẻo, những làn
sương lam nhẹ là là mặt đất, ngọn gió hây hẩy, những lá vàng, làn nước xanh,
hương lúa của mùa thu ngoài đó. Toàn là những teintes douces, gợi những tình cảm
buồn buồn mà nên thơ, nên thơ lắm (...).
Nhớ lại trước đó nữa, đầu năm 1974, tôi gởi tặng ông bài thơ
mới viết: Đi cho đỡ nhớ, ghi lại cảm xúc của mình trong ngày đầu tiên trên chuyến
xe lửa nối liền Sài Gòn - Biên Hòa mà mơ một chuyến tàu thống nhất... Ông trả lời:
Saigon 30/1/74
Cháu Đỗ Hồng Ngọc,
Tôi mới ở Long Xuyên lên. Bài "Đi cho đỡ nhớ" cảm hứng
mới mẻ đấy, mà thú. Đọc hoài thơ yêu nhau và nhớ nhau, với thơ chiến tranh,
ngán quá rồi. Nhưng cháu làm cho tôi thèm đi quá. A, bao giờ Saigon mới được nối
với Hà Nội bằng xe lửa đây? Lúc đó tôi sẽ bỏ hết các công việc, nhờ cháu làm
revision générale cho bộ máy của tôi, rồi lên xe lửa thăm non sông Nam, Trung,
Bắc một lần cuối cùng. Sẽ uống dừa Tam Quan, ăn cam Xã Đoài, rồi ăn nhãn Hưng
Yên, hồng Bạch Hạc, cốm Vòng v.v... Thèm không cháu? (...).
Ông thường nhắc trong thư cảnh núi Tản hùng vĩ, cảnh ngã ba Bạch
Hạc mênh mông mùa nước lớn, cảnh đồng ruộng văng vẳng tiếng sáo diều và thoang thoảng
hương lúa, cảnh chợ quê lèo tèo mấy gian cột tre mái rạ với những quán chè
tươi... làm tôi cũng nhớ quá!
Cơ hội đã đến với ông. Năm 1979, ông được mời đi dự Hội nghị
khoa học toàn quốc về vấn đề Giữ gìn sự trong sáng trong tiếng Việt tại Hà Nội,
thế nhưng lần đó ông không đi được vì bệnh. Rồi thôi, không còn dịp nào nữa!
22.10.79
Cháu Ngọc,
Tôi đã bỏ ý ra Hà Nội rồi. Cơ hội tốt, đáng tiếc thật. Nhưng
ngại chỗ ở và ăn lắm, cũng ngại cuối Oct. thời tiết lạnh đau bao tử và rhinite
trở lại. Cũng còn lý do: ông Trương Văn Chình không được mời ra, không hiểu tại
sao. Đi một mình, buồn.
(Ghi chú: Trương Văn Chình là người cùng hợp soạn với ông cuốn Khảo
luận về Ngữ pháp Việt Nam. NXB Đại học Huế, 1963).
Rồi ông về ở hẳn Long Xuyên, quê hương thứ hai của ông ở miền
Nam, ráng viết cho xong các tác phẩm triết học Trung Quốc mà ông nói là
"hy vọng còn có giá trị trong vài mươi năm nữa" - và "cũng để bắt
đầu óc phải làm việc" cho nó đừng sớm "lão hóa". Cũng trong thời
gian này, ông nói ông băn khoăn không biết có nên viết hồi ký hay không, và, nếu
có thì sẽ viết những gì. Trong các thư riêng gởi tôi, ông tâm sự như thế và
nghĩ rằng có lẽ cũng nên viết chút gì đó chừng trăm trang... Thế rồi Hồi ký
Nguyễn Hiến Lê cũng đã hình thành như ta được biết hôm nay.
Những năm cuối đời, ông thường ưu tư buồn bã, mà vẫn khôn
nguôi nỗi nhớ quê xưa:
Nhớ lại hồi đó, mới đây thôi mà đã đúng như câu thơ cổ:
"Vạn sự tan như mây khói" cả rồi. Cả cái mong đi một tua thăm Nam,
Trung, Bắc cũng tan luôn nữa.
Tôi chưa về thăm ngoài đó...
(Long Xuyên 30.7.79)
TP. Hồ Chí Minh có con đường mang tên Nguyễn Hiến Lê. Một
cách ghi nhận công lao của một "người Hà Nội" đã sống và làm việc miệt
mài suốt nửa thế kỷ ở miền Nam và đã để lại một di sản đáng quý góp một phần
không nhỏ vào nền văn hóa nước nhà.
Và với riêng tôi, Nguyễn Hiến Lê còn để lại biết bao niềm
trân trọng và trìu mến để tôi được "Nhớ đến một người" giữa mùa hoa sữa
về thơm từng ngọn gió của Hà Nội hôm nay.
Đỗ Hồng Ngọc
Theo Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét