Thứ Tư, 30 tháng 9, 2020
Âm nhạc Việt Nam - Từ xưa đến nay
Là một thành tố quan trọng cấu thành văn hóa, âm nhạc Việt
Nam từ mang bản sắc truyền thống cho đến hội nhập trào lưu âm nhạc thế giới đã
góp phần không nhỏ làm phong phú thêm về nhiều mặt trong đời sống văn học nghệ
thuật. Âm nhạc Việt Nam phản ánh những nét đặc trưng về văn hóa, con người của
đất nước Việt Nam, trải dài xuyên suốt chiều dài lịch sử của dân tộc.
Thực hư dòng sông trong bài Tràng Giang
Thực hư dòng sông Một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của nhà thơ Huy
Cận là bài Tràng Giang. Khí thơ u hoài, cổ kính, khiến không ít người nghĩ đó
là Huy Cận viết về con sông Ngàn Sâu (thượng nguồn sông La) quê hương ông.
Nhưng thực chất, bài thơ có một điều kiện xuất xứ khá đặc biệt…
Cảm hứng từ sông mùa lũ
Huy Cận có thơ đăng báo từ 1936. Khi tập thơ đầu tay Lửa Thiêng của ông xuất bản
năm 1940, ông trở thành một trong những tên tuổi hàng đầu của phong trào Thơ mới
lúc bấy giờ.
Hàng ngàn thế hệ học sinh từng mê đắm bởi những vần thơ lai láng trong bài
Tràng Giang: Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp/ Con thuyền xuôi mái nước song
song/ Thuyền về nước lại sầu trăm ngả/ Củi một cành khô lạc mấy dòng. Lơ thơ cồn
nhỏ gió đìu hiu/ Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều/ Nắng xuống, chiều lên sâu chót
vót. Sông dài, trời rộng, bến cô liêu/… Không ít người yêu thơ Huy Cận, say mê
bài thơ Tràng Giang của ông, nghĩ rằng, đó là những lời thơ tưởng nhớ của nhà
thơ về dòng sông Ngàn Sâu ở quê hương ông, dòng sông gắn bó suốt những năm
tháng tuổi thơ. Nhưng tất cả đều đã nhầm. Đó là những lời thơ ông viết về con
sông Hồng đỏ nặng phù sa.
Nhà thơ Huy Cận tên khai sinh là Cù Huy Cận; sinh ngày 31/5/1919, mất ngày 19/2/2005. Ông là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào Thơ mới. Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho dưới chân núi Mồng Gà, bên bờ sông Ngàn Sâu (thượng nguồn sông La) ở làng Ân Phú, huyện Hương Sơn, sau đó thuộc huyện Đức Thọ (nay là xã Ân Phú, huyện Vũ Quang), tỉnh Hà Tĩnh.
Theo chính lời nhà thơ Huy Cận thủa sinh thời từng kể với bạn
thơ, thì hồi đó vào năm 1939, khi Huy Cận đang học năm thứ 2 trường Cao đẳng
Nông lâm tại Hà Nội và "luôn luôn bị một mối sầu lớn vò xé tâm hồn"
(Huy Cận). Thời bấy giờ, Hà Nội còn mênh mông, rậm rạp cây cối, hồ nước thì nhiều
mà thưa thớt người ở nên thường gợi cho người ta cảm giác mông quạnh, cô liêu.
Mỗi lần thấy trống vắng trong lòng, chàng sinh viên Huy Cận thường đạp xe lên
đường đê Nhật Tân, con đê nằm giữa sông Hồng và Hồ Tây. Gặp mùa nước lũ, sông Hồng
đỏ ngầu lên, lòng sông mở rộng ra mênh mông. Huy Cận lặng người đứng ngắm dòng
sông mẹ hùng vĩ mà hoang vắng đến rợn người ấy. Những dải bèo, những đám rác
rêu, tre gỗ, củi mục... trôi bồng bềnh trên dòng nước lũ. Phía xa xa là một làn
sương mờ dâng lên mơ hồ trên mặt nước. Chỉ có nước lũ, khắp dòng sông không một
bóng người. Chỉ có đôi ba cánh chim chấp chới giữa một vòm trời về chiều nhạt
nhòa, u ám. Theo lời Huy Cận kể lại, khung cảnh thiên nhiên ấy đã tác động mạnh
mẽ đến ông...
Trời rộng nhớ sông dài
Sự tác động ấy khiến ông lẩm nhẩm câu thơ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông
dài". Đó chính là cảm giác đầu tiên bao trùm tâm trạng nhà thơ. Nhưng, khi
làm bài thơ, Huy Cận lại viết câu thơ đầu tiên là "Sóng gợn tràng giang buồn
điệp điệp". Cái ý "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" lúc ban đầu
lại biến thành Sông dài trời rộng bến cô liêu. Xong bài thơ rồi, ông vẫn tiếc
cái câu thơ bao trùm cả tâm trạng lúc ban đầu, thế là ông giữ luôn câu này làm
đề từ cho bài thơ. Vậy là bài thơ Tràng Giang được Huy Cận sáng tác vào một chiều
tháng 9/1939, khi đạp xe thơ thẩn trên đê sông Hồng mùa nước lũ.Nhưng theo nhiều nhà thơ, thì đó chỉ là cái cớ cho tứ thơ
tuôn trào theo dòng chảy tâm hồn. Hoài niệm của ông về những dòng sông, về sự
mênh mang, hiu quạnh của sông mùa lũ có thể còn khởi nguồn từ chính tuổi thơ của
ông. Ấy là những con sông quê như Ngàn Phố, Ngàn Sâu, sông La, sông Lam và cả
sông Hương từng gắn bó với ông thời còn học ở Huế. Và như một nhà thơ từng nói
trên văn đàn, thì có thể xa hơn, đó là dư âm những dòng sông trong câu thơ Đường
nổi tiếng "Quê hương khuất bóng hoàng hôn/Trên sông khói sóng cho buồn
lòng ai". Có lẽ vì thế mà Huy Cận đã kết bài Tràng Giang bằng hai câu vừa
mang âm hưởng cổ kính của Đường thi mà lại rất tinh tế, gợi cảm của ngôn ngữ tiếng
Việt: Lòng quê dờn dợn vời con nước/ Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Cả bài
thơ Huy Cận không hề nhắc tới tên một con sông nào, bởi dòng sông đó chính là
Tràng Giang, một con sông dài khiến cho mỗi người đọc có thể liên tưởng tới một
dòng sông u hoài trong kỷ niệm, hồi ức của riêng mình.
Không chỉ là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào Thơ mới mà những
ngày đầu Cách mạng tháng Tám, Cù Huy Cận còn là một trong ba thành viên của
phái đoàn Chính phủ Lâm thời (gồm Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận)
đi vào Huế để tiếp nhận lễ thoái vị của Vua Bảo Đại. Sau đó, khi mới 26 tuổi,
ông đã là Bộ trưởng Bộ Canh nông trong Chính phủ liên hiệp lâm thời Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh đứng đầu Chính phủ. Ông còn là người bạn thơ, bạn
tâm giao với "ông hoàng thơ tình" Xuân Diệu. Kể cả sau khi Huy Cận
chia tay với người vợ đầu tiên, bà Ngô Xuân Như - em gái Xuân Diệu - hai người
vẫn là một cặp thơ gắn kết không rời.
Lúc nhỏ, Huy Cận học ở quê, sau vào Huế học trung học, đậu tú tài Pháp; rồi ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông. Trong thời gian học Cao đẳng, ông ở phố Hàng Than cùng với Xuân Diệu. Từ năm 1942, ông tham gia phong trào sinh viên yêu nước và Mặt trận Việt Minh. Huy Cận đã tham dự Quốc dân đại hội ở Tân Trào (tháng 8 năm 1945) và được bầu vào Ủy ban Giải phóng (tức Chính phủ Cách mạng lâm thời sau đó). Sau Cách mạng tháng 8, Huy Cận xuất bản một loạt các tập thơ như: Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời (1963), Hai bàn tay em (thơ thiếu nhi, 1967, Những năm sáu mươi (1968), Chiến trường gần đến chiến trường xa (1973), Họp mặt thiếu niên anh hùng (1973), Những người mẹ, những người vợ (1974), Ngày hằng sống ngày hằng thơ (1975), Ngôi nhà giữa nắng (1978), Hạt lại gieo (1984).
Huy Cận đã được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I - năm 1996). Tháng 6 năm 2001, Huy Cận được bầu là viện sĩ Viện Hàn lâm Thơ Thế giới.
13/6/2010Lã Xưa
Thơ Haiku - Sự tinh tế của tâm hồn Nhật Bản
Thơ Haiku - Sự tinh tế Thơ Haiku của Nhật Bản là một phần tài sản trong kho tàng văn
hóa Á Đông vĩ đại và giàu sang. Chúng ta là người thừa tự nền văn hóa ấy nhưng
còn chưa khai thác di sản của nó đúng mức như nó xứng đáng. Nhiều thành quả và
tinh hoa của nó còn chờ đợi chúng ta.
Thơ Haiku dung hợp và kết tinh nhiều giá trị trong những dòng
văn hóa thấm sâu của phương Đông từ Ấn Độ đến Nhật Bản. Vì vậy ta thấy trong thể
thơ có dạng nhỏ nhắn ít lời này tinh thần Phật giáo, hơi thở Thiền mà ta vẫn bắt
gặp trong thơ văn Lý Trần của ta. Ngoài ra, Haiku còn phảng phất hương sắc của
nghệ thuật cắm hoa ikebana và
không khí trà đạo chanoyu phát triển từ thế kỷ mười bốn với tinh thần căn bản là
chân phương, hòa điệu và thanh tịnh. Haiku chừng như cũng dấu trong nó vẻ u huyền
của kịch
mặt nạ Noh.
Thơ Nhật truyền thống thường dựa trên các câu 5-7. Dựa theo
nhịp căn bản này, xuất hiện hình thức thơ nối (ren-ga) cuối thời trung cổ. Lối
làm thơ này giống như liên ngâm của ta. Người ta soạn renga khi ở thăm một ngôi
đền, trong tiệc ngắm trăng, trong khi uống ượu sakê và cả lúc nghỉ ngơi, giữa
hai cuộc chiến đấu.
Để làm thơ nối, thông thường có vài ba người tham dự. Họ luân
phiên soạn các đoạn thơ. Cứ một đoạn ba câu, một đoạn hai câu. Đề tài do đoạn
đi trước qui định, như mùa xuân hoặc mùa đông, như một cuộc hành trình, sự
nghèo khó, tình yêu… Chẳng hạn như:
Giọt sương buồn phiền
Và cũng đau cho nỗi
Bông hoa ở lại sau mình
(Sôgi)
Trong sương mờ bóng tối
Tia nắng cuối lung linh
(Shôhaka)
Trong những renga này thì đoạn mở đầu là quan trọng nhất và
được gọi là Hokku. Hokku dần dần trở nên độc lập, tạo thành một thể thơ riêng
biệt, đổi tên là Haiku (Haiku).
Toàn bài Haiku chỉ có ba câu, bao gồm 17 âm tiết (5-7-5). Tiếng
Nhật lại là tiếng đa âm nên cả bài chẳng có được mấy từ. Ví dụ như chim cu
trong tiếng Nhật gọi là hototogisu đã chiếm mất năm âm tiết của bài, có thể
riêng mình trở thành một câu thơ.
Hototogisu
Naki naki tobu zo
Isogawashi
Ôi cánh chim cu
Tưng bừng bay lượn và ca hát
Bận rộn siết bao!
(Bashô)
Và ngay cả trong hình thức độc lập này, tính chất nối kết giữa
hai người dùng thơ để giao cảm vẫn còn. Có thể minh họa tính chất này qua câu
chuyện về nhà thơ nữ nổi tiếng thế kỷ mười tám là Chiyô. Cô sống cô đơn trong
những hồi tưởng về người chồng và đứa con đã mất nên một người bạn sánh cô với
cây liễu quạnh hiu:
Không có hoa trên mình
Đời sao mà thầm lặng
Cây liễu xanh
Chiyô nhận bài thơ, chỉ thay đổi một hàng:
Không có hoa trên mình
Thân không còn hệ lụy
Cây liễu xanh
Tính chất ấy còn nói lên điều này: Haiku đòi hỏi người đọc phải
đọc thơ như đang trò chuyện âm thầm với nhà thơ, như thể cùng nhà thơ sáng tạo
tiếp tục. Tưởng đó là thái độ cần có khi đi vào thế giới rất tinh tế của Haiku.
Với thái độ này, người đọc sẽ bớt bỡ ngỡ khi lần đầu tiếp xúc với Haiku, một
trong những thể thơ nổi danh là ngắn gọn nhất thế giới.
Đặc điểm đầu tiên của Haiku là cô đọng. Thơ ca Á Đông nói
chung là cô đọng. Hình thức ngắn gọn của Haiku, tanka, tứ tuyệt, ca dao Việt
Nam… lại có một sức chứa rất đáng kể cho ý tình của con người. Đấy là những nắm
tay nắm rất chặt nên có sức mạnh lớn lao. Haiku tiêu biểu cho phong cách cô đọng
ấy, cho ý ở ngoài lời. Haiku bao giờ cũng biết cách để trống, nghĩa là tạo một
khoảng chân không trong thơ. Khoảng chân không này có thể nói là rất cần thiết.
Trong một bức tranh đơn sơ, làm sao vẽ được tiếng gió thổi? Thế mà người họa sĩ
tài giỏi phải làm được điều đó. Họ chỉ vẽ có cành thôi nhưng ta nghe được tiếng
gió thổi (năng họa nhất chi phong hữu thanh).
Đến đây xem! Để thấy
Chỉ còn một lá cô đơn
Trên cành kiri đấy
(Bashô)
Bashô, bậc thầy Haiku, không vẽ tiếng gió, nhưng người đọc cảm
thấy hồi hộp và lo sợ cho chiếc lá cuối cùng ấy.
Căn cứ vào đặc điểm này, Tagor đưa ra nhận xét về Haiku rất
chính xác: “Nhà thơ chỉ giới thiệu đề tài, rồi bước tránh sang bên”(1).
Ở đây, ta thấy nhà thơ Haiku (Haijin) rất tôn trọng người đọc.
Trên con đường thơ, các Haijin nhường lối cho người đọc, không lấn chiếm không
làm nghẽn đường. Người đọc đi cùng nhà thơ và vẫn còn đi tiếp khi nhà thơ dừng
lại. Nhưng muốn thế, người đọc không có quyền thụ động. Nhà thơ không nói hộ ta
tất cả. Cuộc nói chuyện hết lời cạn ý nào mà chẳng chán. Trò chuyện với thơ lại
càng không thể để cho niềm chán ngán ấy nổi dậy.
Tagor còn giải thích thêm rằng: “Lý do khiến nhà thơ rút lui
nhanh chóng thế vì người đọc Nhật có quyền năng tinh thần về tưởng tượng rất lớn”.(2)
Lời nhận xét của thi hào Ấn Độ ấy có thể làm nản lòng những
người đọc không phải là Nhật Bản. Thực ra thì khả năng đó không phải là đặc quyền
của người đọc Nhật. Bất kỳ ai yêu thơ đều có thể đọc Haiku, và sau một thời
gian tìm hiểu đều có thể cảm nhận Haiku như đã cảm nhận nhiều thể thơ khác. Hơn
nữa, thơ ca không chỉ nói riêng với dân tộc mình. “Người phát” là Nhật nhưng
“người nhận” có thể là người thuộc bất kỳ dân tộc nào. Đã là thơ hay thì phải
có quyền năng truyền đi tín hiệu của cái đẹp.
Có người yêu cầu Bashô soạn một bài Haiku về tám cảnh hồ Ômi.
Quả là một trò đùa vì có một bài thơ dài vịnh tám cảnh đã kể hết tên ra cùng với
trăng thu, tuyết chiều, hoàng hôn, thuyền buồm, bầu trời, mưa đêm, ngỗng trời
và tiếng chuông đền Mii. Hãy thử dồn tất cả thứ đó vào một bài Haiku ba câu. Thế
mà Bashô đã thoát chiếc bẫy giăng đùa nghịch ấy như sau:
Hồ Ômi tám cảnh
Sương mù dấu bảy rồi
Còn chuông đền Mii thôi
Cái một ở đây nói thay cho tất cả, dường như ta thấy cả thế
giới trong tiếng chuông đền Mii. Gần gũi với tinh thần này, lssa nhìn vào đôi mắt
con chuồn chuồn:
Thăm thẳm núi non
Đang hiện hình lấp lánh
Trong mắt con chuồn chuồn
Khi nhà thơ Haiku nhìn thấy núi non trong đôi mắt hết sức nhỏ
bé của con chuồn chuồn thì nhà thơ cổ điển Anh Uyliơm Blâyk nhìn thấy thế giới
trong một hạt cát:
Nhìn thấy thế giới trong một hạt cát
Và Thiên đàng trong một bông hoa dại
Giữ vô tận trong lòng bàn tay
Và vĩnh cửu trong một giờ đồng hồ
Để diễn tả cái toàn thể đó, cái một đó, ta thấy hai bài thơ
khác nhau nhiều trong cách thể hiện. Nhà thơ Haiku sau khi nêu lên hình tượng
đôi mắt con chuồn chuồn, đã vội vã rút lui. Chỉ có sự gợi ý. Issa để khoảng trống
cho người đọc. Người đọc sẽ tự ý lấp đầy khoảng trống theo cách của mình. Còn
giọng thơ Tây phương thì phô ý rõ ràng, khai triển và tăng cấp dồn dập: Thế giới
– Thiên đàng – Vô tận – Vĩnh cửu.
Đem so với thơ ca Tây phương, ta thấy tính cô đọng hàm súc của
Haiku hiện lên rất rõ.
Có khi Haiku cô đọng đến mức chỉ có một chi tiết đếm hoa rơi
như trong bài thơ của Shiki:
Một đóa rơi
Hai đóa rơi…
Hoa trà đang rơi
Không muốn rườm lời, các haijin muốn dùng niềm im lặng, âm
thanh âm thầm nhất và ngôn ngữ kết tinh nhất để khơi dậy những cảm thức sâu xa
nhất ở người đọc.
Lời đã đành là tinh giản, các haijin còn muốn tinh giản cả cảm
xúc (đúng ra là sự bày tỏ cảm xúc) và như thế Tagor gọi là “Sự tinh giản của
tâm hồn”. Sự tinh giản ấy đem lại cho Haiku một vẻ đơn sơ hiếm thấy trong thơ
ca. Vì vẻ đơn sơ lạ thường của nó, có người không nhận ra Haiku là thơ. Thiếu
trang sức, có người tưởng rằng nó không đẹp.
Về điểm này, R.H. Blyth trong bộ sách Haiku vĩ đại của mình
có viết:
“Đó là ngón tay chỉ mặt trăng. Nếu nói đó chỉ là ngón tay, và
thường không phải là ngón tay lộng lẫy thì đúng thế. Nếu mà bàn tay lộng lẫy và
đeo đầy trang sức, e ta quên mất điều mà ngón tay chỉ tới”. (3)
Nghe chim hót, nhà thơ nữ Chigetsu viết:
Tay ngưng việc làm
Bên chậu nước
Tiếng chim chích vang
Thử so sánh bài này với bài tứ tuyệt “Tức cảnh ngày xuân” của
Sư Huyền Quang đời Trần, ta sẽ hiểu hơn về tính đơn sơ của Haiku.
Nhị bát giai nhân thích tú trì,
Tử kinh hoa lạ chuyển hoàng ly
Khả liên vô hạn thường xuân ý
Tận tại đình châm bất ngữ thì.
(Đường kim bỗng chậm lại trên tay cô nàng đẹp mười sáu xuân
xanh
Mấy chú oanh vàng thỏ thẻ trong lùm tử kinh hoa rộ,
Thương quá đi bao nỗi lòng thương xuân vô hạn
Đang trút cả vào giây phút ngừng kim và im phắc)
(Bản dịch văn xuôi của giáo sư Đặng Thai Mai)
Cả hai bài thơ đều diễn tả cô gái ngừng tay làm việc nghe
chim hót mùa xuân (chim chích uguisu trong Haiku là chim của mùa xuân). Trong
bài Haiku, ta thấy cô gái chỉ là cô gái. Không biết cô đẹp hay xấu, tuổi bao
nhiêu và đang làm gì. Còn trong bài tứ tuyệt thì các chi tiết ấy hiện lên rất
rõ (đẹp, tuổi đôi tám, đang thêu thùa). Con chim chích của Haiku chỉ hót chứ
không phải hót trong lùm hoa tử kinh. Bài Haiku cũng không bộc lộ cảm xúc như
hai câu cuối trong bài tứ tuyệt.
So sánh để thấy tính đơn sơ của Haiku là một đặc điểm chứ
không phải rút ra sự hơn kém nào. Vì mỗi thể thơ của mỗi dân tộc có đặc trưng
và phong cách riêng. Mỗi bản sắc có cái đẹp của nó. Bài tứ tuyệt của Huyền
Quang là bức tranh tuyệt đẹp của mùa xuân, của tuổi xuân. Bài Haiku không có
màu sắc ấy.
Đơn sơ như vậy, Haiku không phải là thơ quí tộc. Có thể nói
Haiku mang dáng dấp người nhà nghèo, chỉ giàu sang cái sang giàu của thiên
nhiên, cái sang giàu mà ngay cả người ăn xin cũng có thể có:
Người ăn xin hạnh phúc
Có cả đất và trời
Làm áo xiêm mùa hạ
(Kikaku)
Ngay cả các thiên thần mà Swedenborg kể trong “Thiên đàng và
địa ngục”, thật tình mà nói, không mặc áo xiêm nào. Thì Haiku cũng “trần truồng”
như thế.
Sự trần truồng của Haiku lấy đất và trời làm áo xiêm cho
mình. Thế mà trái tim của Haiku vẫn ngời ánh sáng.
Tâm tôi ngời ánh sáng
Vầng trăng hẳn tưởng lầm
Đây là ánh trăng trong
(Myôê)
Đây là sự giàu sang tột bực mà chỉ có tâm hồn con người mới đạt
tới, chỉ có Haiku mới thể hiện rõ ràng hơn cả.
Cố gắng nhìn thấy vẻ đẹp trong những sự vật bình thường của đời
sống là một trong những nguyên lý thẩm mỹ căn bản của Haiku.
Trong Haiku, nhất là Haiku của Bashô ta thấy nguyên lý ấy được
phản ánh qua các cảm thức mà người Nhật gọi là Sabi wabi và Karumi.
Sabi
Đây là đặc tính mà Bashô lưu ý nhất trong Haiku, là cảm thức
về sự tịch mịch sâu xa vô hạn của sự vật, nhìn thấy sự vật tự bộc lộ một cách kỳ
diệu. Sabi nghĩa là cô đơn nhưng là “niềm cô đơn huy hoàng”. Đây là một cảm thức
hùng vĩ chứ không phải là nỗi cô đơn cá nhân. Sabi không dính gì đến tính bi lụy
cá nhân.
Cảm thức Sabi được thể hiện sâu thẳm nhất trong bài Haiku nổi
tiếng sau đây của Bashô:
Cánh quạ ô
Trên cành héo hắt
Chiều thu
Ở đây, sự vật tự bộc lộ đến mức trở thành chính tâm trạng. Có
một bức tranh do chính Bashô vẽ trình bày một con quạ đậu trên cây mùa thu xơ
xác tiêu điều. Bài thơ được xem như là kiệt tác của Haiku. Với nó, Bashô được
xem như là đã “sáng tạo” ra Haiku. Nghĩa là nói đến Haiku, người ta hình dung
nó theo dáng dấp tinh thần của bài thơ nầy, theo cảm thức sabi (sabishisa) của
nó.
Cảm thức này cũng thể hiện rõ trong một bài thơ của Ransetsu:
Nửa đêm thăm thẳm
Dòng sông Ngân
Dời đổi chỗ nằm
Nửa đêm thức giấc và nhìn lên trời, nhà thơ thấy Ngân Hà
không còn ở chỗ cũ mà đã dời sang hướng khác. Nhà thơ dưới đất và sông Ngân
trên trời, cả hai đều chìm sâu vào cái thăm thẳm của đêm khuya.
Tuy nhiên, Sabi vẫn là vẻ đẹp có chất văn chương. Đề tài con
quạ trên cành không đặc biệt mới đối với thơ ca và hội họa. Hình ảnh sông Ngân
vẫn còn mang vẻ “quí phái”.
Wabi
Cảm thức Wabi mới thật sự liên can đến sự vật bình thường.
Wabi cũng có nghĩa là cô đơn nhưng nó ám chỉ đến điều kiện sống, đến tình cảnh
trong khi Sabi gần gũi với cảm xúc thẩm mỹ.
Đấy là sự nhận thức bất ngờ về cái “như thế” của sự vật, những
sự vật bình thường nhất.
Cảm thức Wabi này có thể nhìn thấy qua một bài thơ về con ốc
của Issa:
Trên cổng bụi cây
Nằm thay cho ổ khóa
Con ốc nhỏ này
Nhà giàu đóng cổng bằng then khóa chắc chắn, còn cổng nhà thi
sĩ đã được con ốc nhỏ nhắn “khóa” hộ. Thực ra thì nhà thơ bỏ ngõ cho con ốc. Cuộc
sống nghèo nàn đơn sơ ở đây hiện ra như một niềm giao cảm của con người với vạn
vật. Hình ảnh con ốc tự nhiên đối lập với ổ khóa phiền tạp gợi ra nhiều ý nghĩa
triết lý về cuộc sống.
Cảm thức Wabi này cũng có thể dùng để diễn tả linh hồn của
trà đạo. Trong trường hợp ấy, gọi là Wabi-cha.
Karumi
Từ này bắt nguồn từ chữ Karushi nghĩa là nhẹ nhàng thanh
thoát. Từ này được Bashô nhắc đến nhiều lần trong các tiểu luận về thơ ca của
ông. Karumi dung hợp tính chân phương trong phong cách và sự tinh tế của nội
dung.
Hoa đào như áng mây xa
Chuông đền Uênô vang vọng
Hay đền Asakusa
(Bashô)
Ta cùng ngồi với Bashô trong ngôi lều của ông ở Fubagawa vào
buổi chiều mùa xuân. Những áng mây do hoa đào làm thành bềnh bồng mờ ảo ở cả
hai nơi Uênô và Asakusa. Rồi tiếng chuông vọng đến. Có cần gì biết nó phát xuất
từ ngôi đền nào? Hoa thì mờ ảo như mây, tiếng chuông thì mơ hồ trong gió Haiku
cố gắng diễn tả cái không rõ cái không thể diễn tả.
Có thể thấy điều đó đậm nét hơn trong bài thơ sau đây:
Khi nhìn kỹ
Tôi thấy nazuna nở hoa
Bên hàng giậu!
(Bashô)
Nazuna là loài hoa tím nhỏ khó nhận ra. Nó rất thường bị bỏ
quên trong cát bụi. Đã vậy, nó không hề được ai nâng lên như đóa hoa nào xưa
kia đức Phật đã nâng lên trước mắt mọi người. Mà đóa hoa vàng ấy cũng chỉ được
một đệ tử nhận ra bằng nụ cười im lặng (Thế Tôn niêm hoa, Ca Diếp vi tiếu).
Bashô không chỉ có cái nhìn của đôi mắt mở to trước thực tại,
nhìn kỹ, cái nhìn “Lại đây xem lại cho gần”, nhìn với một ý thức thường trực mà
còn biểu lộ một niềm ngạc nhiên hân hoan trước sự vật.
So sánh thái độ của Bashô với nhà thơ Anh Tennyxơn trong bài
“Bông boa trong kẽ tường”, ta thấy thực khác nhau. Trước tiên, Tennyxơn hái
bông hoa trong kẽ tường, cả mình hoa lẫn rễ, rồi giữ trong bàn tay mà triết lý:
Bông hoa nhỏ ơi - nếu như tôi hiểu ra
Em là gì, rễ và toàn thân, tất cả trong tất cả
Thì tôi sẽ biết Thượng đế cũng như con người là gì.
Với cái nhìn kề cận nhưng khiêm tốn, nhà thơ phương Đông đạt
được tri kiến thực thụ. Còn nhà thơ phương Tây lấy sự chiếm hữu làm trọng đã
đánh mất vẻ đẹp của hoa. Cảm thức chiếm hữu ấy đưa đến sự khảo sát thô bạo. Bashô
chỉ thốt lên tiếng kêu ngạc nhiên hân hoan ở cuối bài (Kana – a!), còn Tennyxơn
thì tìm cách “giải quyết” vấn đề mà rốt cuộc chỉ làm cho bông hoa bị đánh vồng
lên như một trái cầu.
Không chỉ nhìn hoa, có khi người Nhật còn lắng nghe tiếng hoa
nở. Bên một hồ sen, họ sẽ ngồi chờ búp nở. Cuối cùng một âm thanh nhẹ sẽ bật
lên đúng vào khoảnh khắc cánh hoa tách ra và hoa mở mắt nhìn cuộc sống. Hành động
lắng nghe trở thành một kinh nghiệm tâm linh mà trong đó mỗi âm thanh đều có ý
nghĩa. Để ngăn hoa nở quá sớm, người làm vườn sẽ quấn chặt một mạng nhện quanh
búp sen. Khi khách sắp tụ tập bên hồ, mạng nhện sẽ được cắt đứt để sửa soạn cho
hoa lên tiếng.
Nhưng nghe hay không nghe, hoa vẫn lên tiếng khi búp sen tự mở
cánh ra:
Đã ra khơi
Ngư phủ - Bên bờ biển
Anh túc nở hoa tươi
(Kyôrai)
Không còn nhìn hoa, không còn nghe hoa. Chỉ còn một mình hoa,
chỉ còn tịch mịch của sự vật. Nhưng vẫn có sự liên hệ thầm lặng giữa hoa và người.
Hoa thì nở, ngư phủ thì ra khơi.
Nằm trên Thái Bình Dương, Nhật Bản ở gần lục địa đủ để tiếp
thu văn hóa Á châu, nhưng cũng ở xa đủ để tránh xâm lăng, kể cả xâm lăng văn
hóa. Vì vậy đối với văn minh Trung Quốc, Nhật Bản xưa nay vừa hấp thụ vừa chối
bỏ nó. Haiku xét về cội rễ không chịu ảnh hưởng của văn chương Trung Quốc.
Nói thế không có nghĩa là nó không mang dấu vết gì từ văn hóa
lục địa.
Mở đầu nhật ký du hành “Đường lên phương Bắc” (Oku no
Hosomichi) Bashô đã trích dẫn Lý Bạch: “Tháng ngày là khách du hành của thiên
thu”. Bashô cũng hay nhắc tới những thắng cảnh Trung Quốc nổi tiếng mà ông chưa
bao giờ nhìn thấy như sông Chiêng Giang hồ Động Đình. Hay mượn cả hình ảnh người
đẹp tiêu biểu Tây Thi để trình bày một cảnh Nhật Bản:
Vịnh Kisagata:
Nàng Tây Thi trong mưa nằm ngủ. Thấm ướt hoa mimôsa.
Bởi vì nàng Tây Thi mắc mưa hay nhíu mày đều đẹp hơn bình thường.
Bài này chịu ảnh hưởng của bài “Hồ thượng ẩm” của Tô Đông Pha:
Thủy quang liễm diễm tình phương hảo,
Sơn sắc không mông vũ diệu kỳ
Dục bả Tây hồ tỉ Tây tử
Dạm trang nùng mạt tổng tương nghi.
(Nước lấp lánh nhảy múa - trong thời tiết tươi sáng, mới đẹp
làm sao!
Cả trong mưa sương, núi non vẫn đẹp diệu kỳ
Có thể sánh Tây hồ với nàng Tây Thi Dù trang điểm sơ sài hay trau chuốt đều
đáng mê)
Trong “Đường lên phương Bắc” ta còn thấy Bashô nói tới màu sắc
của gió:
Trắng hơn đá trắng
Của ngôi Đền Đá
Là gió mùa thu
Mùa thu trong thi ca Trung Quốc đôi khi được gọi là “mùa thu
trắng” (tố thu).
Bashô đôi khi dùng văn liệu Trung Quốc nhưng vẫn giữ được
tinh thần của Haiku mà không bao giờ biến nó thành phiên bản của thơ Tống thơ
Đường.
Đọc Haiku, ta luôn bắt gặp các hình ảnh hoa đào, chim cu,
trăng, tuyết, bùn, cỏ… Haiku luôn luôn gắn bó với thiên nhiên. Ở bài Haiku nào,
ta cũng gặp những từ chỉ thời tiết và mùa.
Thời tiết và mùa là yếu tố rất quan trọng của thơ Haiku. Ai
không từng cảm nghiệm sự thay đổi của tiết? Thậm chí niềm vui nỗi buồn của ta
cũng phần nào chịu ảnh hưởng của mùa. Trong sự hình thành tính cách con người
cũng như một nền văn hóa, khí hậu là một yếu tố đáng kể. Bầu trời trong sáng của
Địa trung hải, sa mạc khô khan Ả Rập, mùa mưa ở Viễn Đông… đều góp phần làm nên
phong cách dân cư vùng đó. Theo Watsuji, có thể nói đến “tính cách bão tố” của
dân tộc Nhật, tính cách có nhiều mâu thuẫn trong đường lối suy nghĩ và cảm xúc.
Hình ảnh cây tre Nhật uốn mình dưới tuyết nói lên tính tổng hợp của khí hậu này
thì cũng cho thấy được những nghịch lý trong tâm hồn Nhật Bản.
Để giúp người đọc dễ liên hội với thiên nhiên, với cuộc sống
cụ thể nhất chung quanh mình, các Hai jin luôn đưa mùa vào thơ. Hầu như bài
Haiku nào cũng chứa đựng một từ là tên mùa hay gợi lên được mùa mà bài thơ đang
biểu hiện. Từ ấy gọi là từ mùa: Kigo.
Mùa xuân với tuyết đang tan với chim uguisu là một loại họa
mi Nhật và đặc biệt là với hoa anh đào mà khi các Haijin nói hoa, ta có thể hiểu
là họ nói hoa đào của mùa Xuân. Mùa hạ với mưa tháng năm, đom đóm bay và những
bông hoa anh túc. Mùa thu với gió thu, với dòng sông Ngân, và đặc biệt với
trăng thu mà khi các Haijin nói “trăng đêm nay”, ta hiểu là trăng trung thu.
Mùa đông với lá rơi, sương mù, mưa đá và những bông hoa trà…
Cách dùng Kigo như thế trở thành quy luật và hầu hết các tuyển
tập Haiku đều sắp xếp các bài thơ theo từng mùa.
Nói thế không có nghĩa là thiên nhiên trong Haiku lấn mất con
người. Thực ra, hiện tượng thiên nhiên ở đây được dùng để gợi nên tâm trạng và
cảm xúc của con người.
Thiên nhiên đi đôi với con người và thậm chí có thể nói họ hòa
quyện vào nhau.
Chúng ta than tiếc
Mùa xuân ra đi
Cùng với những người Ômi
(Bashô)
Nhấn mạnh đến yếu tố mùa, Haiku. Muốn cho thấy con người
trong thiên nhiên cũng như thiên nhiên trong con người. Con người là thành phần
của thiên nhiên, là thành phần của một Toàn thể.
Haiku không cô lập con người vào chính thân phận của nó, mà gợi
cho ta thấy mối tương quan không gì cắt nổi giữa con người và sức sống của vũ
trụ.
Ngày đầu năm mới!
May sao! May sao!
Trời xanh xanh màu!
(Issa)
Con người trong Haiku không chấp nhận thụ động cuộc sinh tồn.
Con người không bị ném vứt, không bị kết án vào sinh tồn như các triết lý suy đồi
đặc tả. Trái lại, con người trong Haiku mang sức mạnh của vũ trụ trong bản thân
mình có thể đi trên vực thẳm như một nhánh hoa tươi:
Cầu treo vực thẳm đời
Quanh dây thừng quấn quýt
Những nhánh thường xuân tươi
(Bashô)
Bashô cùng người học trò là Etsujin một hôm du hành qua núi
Kisô. Bên trái là hẻm núi mà dưới sâu nghìn bộ đang cuồn cuộn một dòng sông chảy
siết. Họ dò từng bước một và đến chiếc cầu dây thừng giăng ngang hẻm núi phải
vượt qua. Và bài Haiku của Bashô thành hình.
Con người trong Haiku thường xem các thiên thể trên cao là bạn
đồng hành của mình và có khi trở nên hùng vĩ đến đáng kinh ngạc:
Tôi đem treo vầng trăng
Lên cành thông, và một lúc nào đó
Lại gỡ trăng ra nhìn
(Hôkushi)
(Trên là một bài Haiku biến thể, có hình thức bất thường: 6,
9, 3).
Có thể nói bài Haiku trên viết theo một “thủ pháp kỳ ảo”, kỳ ảo
hơn cả các thủ pháp hiện đại. Bài thơ đem lại cho ta một cảm thức huy hoàng chưa
từng có. Con người ở đây có một quyền uy thần thoại, mà đấy chính lại là quyền
uy của con người. Tựa như một bài ca dao Việt Nam cho thấy con người không biết
đặt tình yêu bát ngát của mình ở đâu trong sông núi, bèn đem đặt nó vào trong
chính chiếc túi áo của mình!
Thương em chẳng biết để đâu
Để trong túi áo lâu lâu lại nhìn
Haiku bao giờ cũng cố gắng qua một sự việc cụ thể, nhỏ nhoi
diễn tả cái tinh diệu của vận động thiên nhiên:
Trên bãi biển triều lui
Những gì nhặt lên được
Động đậy bồi hồi
(Chiyô)
Trong bàn tay Chiyô, bàn tay người phụ nữ, không chỉ động đậy
các con vật bị sóng hắt lên bờ bãi, mà còn động đậy có lẽ một điều gì đó lớn
lao như chính đời sống:
Trong cảnh xuân này
Những cành hoa đang mọc
Nhánh ngắn, nhánh dài
Cành hoa xuân trên biểu hiện sự hòa điệu với đời sống, biểu
hiện cuộc sống toàn vẹn tự nhiên như nhiên, sống trong từng khoảnh khắc một, sống
đầy đủ trong cảm thức toàn bích tuyệt vời.
Haiku có nguồn gốc từ thế kỷ mười ba. Đến thế kỷ mười bảy,
thì nó phát triển rực rỡ, lên đến đỉnh cao trở thành một nghệ thuật quan trọng
của Nhật và cho đến tận bây giờ, nó vẫn không hề lạc hậu, mà còn được xem là một
nghệ thuật rất hiện đại. Nó là thứ thơ cổ điển có ảnh hưởng đáng kể đối với thơ
ca hiện đại thế giới.
Người đầu tiên thổi vào nó luồng sinh khí thiên tài, người đầu
tiên nhặt nó lên và sáng tạo cho nó một vẻ đẹp vinh quang là một thiền sư có
dòng máu võ sĩ Samurai: Matsuô Bashô (1644 – 1694). Nhưng sống giữa cảnh Thái
Bình của thời Tôkugawa, Bashô không cần chi múa kiếm mà du hành vào nghệ thuật
thi ca.
Haiku của Bashô bao giờ cũng “thanh thản bơi trong biển Thiền”,
nhưng là cái thanh thản được tìm kiếm ngay giữa cuộc đời của đường đi đầy sự sống
hoạt động chứ không phải cuộc đời của Thiền thất âm u. Bashô tin rằng mình sẽ
chết trên đường và quả đúng như thế.
Dang dở cuộc hành trình
Chỉ còn mộng tôi phiêu lãng
Trên những cánh đồng hoang
Mọi người đều đồng ý rằng bốn bực thầy vĩ đại nhất trong nghệ
thuật Haiku là Bashô, Buson, Issa và Shiki. Họ được xem là bốn cột trụ hùng vĩ
của đền đài Haiku. Lướt qua họ, ta cũng hiểu được phần nào con đường phát triển
của Haiku.
Yôsa Buson (1716 - 1783) sinh sau Bashô một thế kỷ, là người
có công đầu đưa Haiku ra khỏi sự suy đồi mà nó rơi phải sau khi mất Bashô. Vốn
là một họa sĩ lỗi lạc, Buson còn mang đến cho Haiku mầu sắc lãng mạn mà trong
thơ Bashô hãy còn thiếu. Không ai đã thành tựu một lượt hai nghệ thuật thơ ca
và hội họa đến mức kỳ tài như Buson.
Đồng cải nở hoa vàng
Phương tây mặt trời lặn
Phương đông vầng trăng lên
Trên cánh đồng vàng rực mùa xuân của con người lao động, ở
hai phương trời của hai thiên thể đẹp đẽ… tất cả là mùa xuân phong nhiêu, là
tháng ngày bắt đầu vòng quay mới. Yôsa Buson nổi danh là thi sĩ của mùa xuân. Một
danh hiệu đẹp đẽ và xứng đáng.
Nhưng có lẽ khuôn mặt đáng yêu nhất của Haiku là Issa, nhà
thơ nhân bản hơn cả.
Kobayashi Issa (1763 - 1827) có cuộc đời vô cùng đau buồn. Mẹ
mất sớm, năm đứa con của ông đều chết trẻ, và người vợ yêu cũng qua đời trước
ông.
Issa không ưa giai cấp thống trị, không bao giờ tỏ ra thân
thiện với các lãnh chúa muốn thu nạp ông. Sớm ý thức về sự bất công (trong tuổi
trẻ phải xa quê hương vì bà mẹ ghẻ), thơ Issa đầy tình yêu dịu dàng đối với vạn
vật:
Trong vườn cánh bướm
Đứa bé bò theo, bướm bay…
Em bò theo bướm, nó bay…
Sau Issa, trong một thời gian dài, Haiku lại trở nên trầm trệ.
Cần một Haijin lỗi lạc mới cứu vãn nổi. Và nhà thơ xuất hiện đúng lúc ấy là
Masaoka Shiki (1867-1902). Đối với việc soạn Haiku ông kêu gọi hãy tự nhiên. “Cần
hết sức cắt bỏ các trạng từ và động từ!”
Shiki là người đầu tiên đưa khuynh hướng hiện thực (Shasei)
vào Haiku. Cho đến nay, Haiku vẫn còn chịu ảnh hưởng của ông.
Đêm; và một lần nữa
Trong khi tôi chờ em
Gió lạnh thành mưa rền
Từ Shiki, ta đã bước sang thời hiện đại.
Viết Haiku là một công phu tu Iuyện. Quây quần bên nhau, các
haijin bàn về phương pháp, về nguyên lý. Họ cũng hay tương thoại quanh một đề
tài, sự chọn lọc một hình ảnh.
Nếu cần, một bậc thầy Haiku sẽ phủ định hẳn tinh thần một bài
thơ như Bashô đã làm đối với bài thơ về con chuồn chuồn của Kikaku. Trong bài
Haiku của mình, người học trò đầu tiên của Bashô đó đã đòi vặt đôi cánh con chuồn
chuồn ra để cho nó thành quả ớt nhỏ. Bashô không công nhận đó là Haiku do sự hủy
diệt vô ích đời sống, trong khi Haiku và thi ca nói chung phải hiến tặng cho đời
sự kỳ diệu bất ngờ. Tại sao không thêm cánh vào quả ớt cho nó thành con chuồn
chuồn có phải tuyệt diệu hơn không?
Có trường hợp họ bàn về nghệ thuật soạn bài Haiku từ một sự
việc bình thường nhất, nhỏ nhặt nhất như chuyện bị con bọ chét đốt!
Kyôrai (cũng là học trò Bashô) khen rằng Kikaku là một người
viết thông minh. Ai từng nghĩ chuyện soạn một bài thơ về việc bị một con bọ
chét đốt kia chứ? Bashô đáp: “Đúng thế! anh ấy đề cập tới những chuyện nhỏ nhặt
theo một lối lỗi lạc nhất”.
Bài của Kikaku như sau:
Bị đâm chết!
Giấc mơ tôi có thành?
Này dấu con bọ chét
Một hình ảnh có thể gợi lên những ý nghĩa mà chính tác giả
cũng không ngờ. Khi Kyôrai viết:
Bên ghềnh đá
Có bóng một con người
Khách của vầng trăng đó
Thì bóng người mà anh nghĩ tới là một thi sĩ khác đứng bên
vách đá mà anh nhìn thấy vào một đêm đi dạo trong núi dưới trăng. Nhưng Bashô
nói: “Sẽ thú vị hơn biết bao nếu bóng người đó không là ai khác mà là chính
anh. Anh phải là đề tài của vần thơ trên”.
Thi pháp dễ nhận thấy ở Haiku là một bài Haiku thường trước
tiên nêu lên đề tài, rồi sau đó dựa theo liên hội ý tưởng mà cho một đối đề xuất
hiện. Đề và đối đề thường tạo lập một tình thế, một kết quả làm nẩy sinh ở người
đọc một cảm thức mới mẻ về sự vật.
Tất nhiên, không phải bài Haiku nào cũng theo phương pháp này
và quá trình soạn bài Haiku cũng không hề xảy ra theo một trình tự luận lý nào
cho dẫu các nhà phê bình có cố công tìm ra nguyên lý.
Thử lấy bài Haiku nổi danh nhất của văn học Nhật:
Xưa cũ một bờ ao
Con ếch tung mình xuống
Và vang tiếng nước xao
(Bashô)
Trong bài thơ có đề (ao cũ) và đối đề (con ếch) và tiếng vang
của nước là tình thế mà nhà thơ bắt gặp. Thực ra, “ếch nhảy, nước vang” là câu
Bashô buột miệng nói ra khi nghe tiếng động dưới ao trong khi ngồi trong vườn
nhà ở Êđô. Câu đầu bài thơ “ao cũ” lại là câu được soạn sau sùng. (Có tài liệu
cho rằng bài thơ này Bashô soạn ra trong khi theo Butchô học Thiền để trả lời
cho thầy về tiến bộ tu tập của mình).
Có khi Haijin dùng một thủ pháp gây bất ngờ trong hàng cuối
bài Haiku, như Issa:
Tuyết đang tan mùa
Khắp thôn làng tràn ngập
Đọc đến đây, ta chờ đợi một tai họa do tuyết tan gây ra.
Nhưng câu kết mới thật bất ngờ:
Một bầy trẻ thơ
Các Haijin còn dùng cả thủ pháp chuyển đổi cảm giác:
Lắng nghe vầng trăng
Nhìn tiếng ếch kêu vang
Trên cánh đồng lúa
(Buson)
Có thể nói Buson đi trước Bôđơler và Ranhbô về việc làm cho
người ta thấy sự phong phú và huyền diệu của cảm quan.
Bôđơler với ý muốn “giao hưởng cảm giác” (correspondances des
sensations) từng viết rằng:
Hương thơm, màu sắc và âm thanh cùng nhau giao hưởng.
Còn Ranhbô thì chủ trương “xáo trộn cảm giác” (dérèglement
des sens) từng nhìn thấy “đồng cỏ của âm thanh” (Le pré des sons) và nhiều ảo
giác khác.
Nhưng Haiku không phải là những thủ pháp làm thơ, và cũng
không chỉ là một hình thức thi ca, mà đối với người Nhật nó còn là một cách thế
sống, một con đường đi.
Haiku làm cho ta nhìn nhận cuộc sống hơn, hân thưởng cuộc đời
hơn, sống giản dị, có niềm vui thâm trầm và thân mật nẩy sinh trong giao tiếp với
vạn vật với mọi người chung quanh.
Cũng như Haiku luôn nối kết cái nhỏ nhoi và cái lớn lao,
trong khi đọc Haiku, ta đọc cả tâm hồn Đông phương, giúp ta đọc lại tâm hồn ta.
Sau đó, có lẽ tâm hồn và đời sống sẽ trở nên phong phú hơn.
Cái đẹp của Haiku cũng nối kết với cái đẹp của thơ ca cổ điển
Việt Nam trong kho tàng thơ ca Đông phương.
Tiếp thu có chọn lọc Haiku, ta sẽ có tầm nhìn sâu rộng hơn.
Nếu có thể đối chiếu thơ Haiku với thơ Việt Nam trên tinh thần
văn học so sánh một cách đầy đủ, ta sẽ rút ra được nhiều điều bổ ích biết bao.
Khi đã bước vào thế giới văn học, người ta không thể không ý thức về văn học thế
giới như một chính thể có phần đóng góp của mọi dân tộc.
10/8/2020
Nhật Chiêu
Theo http://redsvn.net/
Nhật Chiêu
Theo http://redsvn.net/
Người đi vắng của văn chương
Trong làng văn Việt, Nguyễn Bình Phương là một cây bút tiểu
thuyết âm thầm, lặng lẽ, thuộc tuýp tác giả một mình một ngựa một con đường.
Thật thì đến tận hôm nay, những gì về con người Nguyễn Bình
Phương như tuổi tác, nhà cửa, gia đình…, tôi vẫn mù mờ dù đã quen anh đến hơn
hai chục năm có lẻ và gắn với nhau không ít kỷ niệm. Phương là nhà văn hiếm hoi
kiệm lời, lẩn mình, tránh mọi đám đông và giao tiếp thông thường thậm chí nhiều
lúc tôi nghĩ anh không hề có bạn. Tất nhiên là bạn văn. Dạo mới quen Phương tôi
thấy anh hay đi cặp với Nguyễn Lương Ngọc, một tài năng thơ đoản mệnh chết vì
tai nạn giao thông. Nguyễn Lương Ngọc là bạn đồng học viết văn Nguyễn Du khóa
4, một khóa sản sinh ra nhiều tài năng cho văn đàn đất nước. Bản thân Ngọc lúc
bấy giờ đã nổi tiếng với những bài thơ rất riêng về thi pháp. Thi thoảng Nguyễn
Bình Phương cũng có giao du với đám nhà văn kỳ cựu cả văn lẫn rượu như Trung
Trung Ðỉnh, Bảo Ninh...
Bấy giờ vào đầu thập niên 90 thế kỷ trước Phương còn độc thân
và cư ngụ tại một căn hộ nhỏ tầng 4 ở khu Thành Công. Ðó là giai đoạn duy nhất
Nguyễn Bình Phương sinh hoạt cởi mở theo cánh bợm nhậu. Ðôi lần say tôi được
Phương đưa về tổ chim của anh để cư ngụ qua đêm. Lúc đó Phương chưa thật sự nổi
danh dù anh đã có các tiểu thuyết “Bả giời”, “Vào cõi” và “Những đứa trẻ chết
già”. Tiểu thuyết “Những đứa trẻ chết già” là một bước tiến vượt bậc của anh
nhưng chỉ được giới văn chương tiếp nhận dè dặt, đặc biệt là sự im tiếng của
cánh phê bình. Cánh này chỉ khi Nguyễn Bình Phương thành danh với một loạt tiểu
thuyết không lẫn vào ai thì họ mới ào ạt tiếp cận với đủ chủng loại lý luận gán
vào thậm chí là phong thánh cho tác giả một mình một ngựa một con đường này.
Tôi gặp Nguyễn Bình Phương khi anh đang làm biên tập viên Nhà
Xuất bản Quân đội Nhân dân. Bấy giờ đầu những năm 90 không khí văn chương vui lắm,
ngày nhậu nhộn nhịp đêm về chong đèn cày cuốc. Bản thảo cứ ụn lên căng chật bàn
viết. Cánh nhà văn đi đến đâu ào ạt đến đấy. Mâm rượu xôm trò đủ món cả ẩm thực
lẫn văn vẻ. Bấy giờ văn đàn chịu ảnh hưởng của một loạt truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp và bộ ba tiểu thuyết giải thưởng Hội Nhà văn là “Nỗi buồn chiến tranh” của
Bảo Ninh, “Bến không chồng” của Dương Hướng và “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của
Nguyễn Khắc Trường. Ra đời sau thời điểm này “Những đứa trẻ chết già” của Nguyễn
Bình Phương lặng lẽ như chính con người anh. Nó không tạo ra một ngọn sóng nào
đối với dư luận song có một điều ai đọc cuốn tiểu thuyết này cũng đều vì nể tác
giả. Tôi nghiền ngẫm nó với sự say mê khám phá về một giọng tiểu thuyết chững
chạc, một lối hành văn ma mị dẫn nhập đến quái đản. Nói công bằng tôi bị cuốn
tiểu thuyết chinh phục hoàn toàn. Thứ văn huyền ảo sệt đậm tâm linh phương Ðông
với thủ pháp phân thân hồn ma bóng quỷ áp vào mọi nhân vật của Nguyễn Bình
Phương luôn là cái đích tôi hướng đến trong sáng tác của mình sau này. Ðặc biệt
là tiểu thuyết “Tàn đen đốm đỏ” viết về thế giới vong hồn của tôi. Không ai
khác chính Nguyễn Bình Phương là nguồn cơn, là nguyên cớ cho cuốn tiểu thuyết
đó ra đời. Như một cái duyên.
Nguyễn Bình Phương không có mặt trong hầu hết các cuộc
ra mắt sách, từ chối những gì liên quan đến bề nổi của một nhà văn. Nhưng khi
nhận giải Hội Nhà văn Hà Nội trao cho cuốn “Mình và họ”, anh soạn hẳn một diễn
từ công phu và đọc nó trang trọng với sự xúc động của một người đoạt giải. Có lẽ,
anh đã được an ủi bởi số phận long đong đứa con mình. Thế nên anh đã công khai
chấp nhận nó.
Trại viết do Nhà Xuất bản QÐND tổ chức ở Ðại Lải năm 1994.
Tôi ở một phòng không ai dám ở bởi theo đồn đại phòng đó có ma. Tôi vốn là lính
chiến, ngổ ngáo chẳng sợ hãi gì ma quỷ nên bất chấp. Nguyễn Lương Ngọc cũng là
người mạnh mẽ thấy thế cũng ở cùng. Ðược một tối, Ngọc lẳng lặng dọn đồ chuồn
sang phòng khác không một lời giải thích. Phương thì khác, sáng tác của anh bất
cứ trang văn nào cũng ma cũng hồn cũng mộng cũng mị.
Tôi từng nói đùa Phương cũng là một con ma sống lần mò chẳng
có quy luật chi cả bởi vậy nên anh dọn đến cùng phòng tôi. Có điều chi đó rất
bí hiểm khi tối tối đích thân nhà văn Dương Duy Ngữ trại trưởng khóa ngoài cửa
phòng tôi và giao cho Phương giám sát tôi rất chặt. Vậy mà một đêm không hiểu
sao tôi lại lẳng lặng đi thẳng xuống hồ. Lúc đó tôi đã uống rượu say say. Chỉ
láng máng nhớ có người rủ đi dạo ở hồ nước. Phương và anh Ngữ kịp tóm được tôi
lôi lên khi tôi đã lội xuống nước ngang đầu gối. Trưa sau, đang ngủ ở phòng,
Phương ú ớ kêu không thành tiếng, người ríu lại, tay lần lần móc bằng hết các
túi đưa ra đến tận đồng lẻ cuối cùng. Hóa ra trong giấc ngủ Phương bị một đám
trẻ con quây trói trấn lột tiền. Tỉnh lại mặt Phương tái dại, bảo phòng này có
ma thật anh ạ, đấy, đêm qua không kịp lôi anh lại thì anh đã bị ma dẫn dìm xuống
hồ rồi, giờ anh đã tin là có cái thế giới ấy chưa. Hỏi ra, đã lâu tại đây có
người phụ nữ thắt cổ chết và chính khu nhà này từng có nhân viên bị mất con. Ðến
nước đó thì thằng tôi chuồn chuồn có cánh. Căn phòng đó sau này nhà nghỉ cũng bỏ
chỉ làm phòng chứa đồ.
Nhân chuyện đó tự nhiên Phương bảo tôi anh là lính trận sao anh không viết một
cuốn tiểu thuyết về ma nhỉ, ma chiến tranh ý. Tôi bảo hồn ma, điên dại thì ai
viết hay bằng chú được. Nói thế nhưng từ lúc đó tôi khôn nguôi nghĩ ngợi về gợi
ý của Phương. Và một cốt truyện chiến tranh hình thành rất nhanh. Tôi bỏ luôn
hơn trăm trang tiểu thuyết đang viết dở để chính thức đăng ký viết cái mới. Tiểu
thuyết “Tàn đen đốm đỏ” được tôi viết rất nhanh chỉ chừng 3 tháng. Chương cuối
cùng tôi viết ở một quán thịt chó Nhật Tân khi đang nhậu nhưng sự câu thúc khiến
tôi ngừng nhậu viết hối hả một mạch và ngay đêm đó tôi gõ cửa nhà Phương đưa tập
bản thảo viết tay. Phương đọc và biên tập cũng rất nhanh. Ngay trong năm 1994,
“Tàn đen đốm đỏ” ra đời. Và đến giờ nó là cuốn sách hiếm hoi viết về thế giới
vong hồn, thế giới do tôi tưởng tượng ra dành cho những người chết trận
vô danh, không mồ, không mả, không tên, không tuổi, không hương, không khói,
không được thừa nhận. Thẳm sâu tôi biết ơn Nguyễn Bình Phương đã giúp tôi không
nhỏ để có được cuốn tiểu thuyết này.
Nguyễn Bình Phương xuất thân lính. Thi đậu
trường viết văn Nguyễn Du khóa 4 anh vẫn mang quân phục lính. Ra trường chuyển
về đoàn kịch quân đội, và sau đó là Nhà Xuất bản QÐND. Ở cương vị này Nguyễn
Bình Phương là bà đỡ cho nhiều nhà văn với mảng văn học chiến tranh. Một ngày đẹp
giời, Phương chuyển về Tạp chí Văn nghệ Quân đội và chỉ ít thời gian sau điều rất
không ngờ với nhiều người là Nguyễn Bình Phương chững chạc ngồi vào ghế tổng
biên tập tạp chí.
Nguyễn Bình Phương xuất thân lính. Thi đậu trường viết văn
Nguyễn Du khóa 4 anh vẫn mang quân phục lính. Ra trường chuyển về đoàn kịch
quân đội, và sau đó là Nhà Xuất bản QÐND. Ở cương vị này Nguyễn Bình Phương là
bà đỡ cho nhiều nhà văn với mảng văn học chiến tranh. Một ngày đẹp giời, Phương
chuyển về Tạp chí Văn nghệ Quân đội và chỉ ít thời gian sau điều rất không ngờ
với nhiều người là Nguyễn Bình Phương chững chạc ngồi vào ghế tổng biên tập tạp
chí. Hãy nhớ, tổng biên tập tạp chí văn chương lừng danh này đều là những nhà
văn nổi tiếng, không ít người đeo hàm tướng và Nguyễn Bình Phương xứng đáng.
Sau “Những đứa trẻ chết già”, Phương tiếp tục cho ra đời một
loạt tiểu thuyết cùng một phong cách không lẫn vào người khác như “Người đi vắng”,
“Thoạt kỳ thủy”, “Ngồi”…và mới nhất là cuốn tiểu thuyết có số phận kỳ lạ, “Mình
và họ”. Ðây là cuốn tiểu thuyết được Phương viết xong năm 2010 nhưng bị các nhà
xuất bản trong nước từ chối in ấn và nó được xuất bản ở Mỹ dưới cái tên “Xe lên
xe xuống”. Mãi đến năm 2014 nó mới được nhà xuất bản Trẻ chấp nhận. Ngay lập tức
“Mình và họ” nhận được hoan nghênh hưởng ứng của giới văn chương và độc giả. Có
thể nói về tư tưởng và nghệ thuật đây là cuốn sách đỉnh cao của Nguyễn Bình
Phương. Anh lấy nguyên cớ trận chiến biên giới với Trung Quốc năm 1979, 1984 để
chuyển tải một thế giới con người Việt hiện đại, đa dạng và sinh động. Những
con người dần mất đi cảm xúc trước các vấn đề cuộc sống kể cả cái ác. “Mình và
họ” được Hội Nhà văn Hà Nội bỏ phiếu tuyệt đối trao giải thưởng thường niên.
Cũng rất khác biệt ở cuốn tiểu thuyết này khi nó được bạn đọc ở Mỹ tán thưởng,
điều rất khó chấp nhận khi tác giả là một sĩ quan quân đội và thường thì rất ít
tác phẩm trong nước được độc giả ở Mỹ chào đón. Khác biệt nhưng tôi nghĩ không
có gì là lạ bởi đây đích thực là một cuốn tiểu thuyết hay, có thể là cuốn đỉnh
của tiểu thuyết Việt vốn lâu nay bình lặng không xuất hiện những cuốn xứng tầm.
Những ai biết và chơi với Nguyễn Bình Phương đều thấy ở con
người này luôn có sự trầm tĩnh và suy lắng ở cả hành động lẫn hình thể. Khuôn mặt
như thường trực đeo trên đó một nghĩ suy nào đó với cặp mắt nheo nheo
tinh anh nhưng xa lạ với người đối diện. Phương rất ít khi đàm đạo tâm sự với
ai. Tôi chơi lâu nhưng thân thì không. Từ khi Phương về VNQÐ chúng tôi không hề
gặp lại dù chẳng ít lần điện thoại hẹn nhau. Có lẽ mọi thứ về cuộc sống của
Phương đều dành hết cho văn chương. Gia đình của Phương thì tôi chịu không có bất
cứ một thông tin nào. Nói đến gia đình lại nhớ cú vấp hy hữu của Nguyễn Bình
Phương đúng hôm làm lễ cưới với Hoàng Tố Mai, ái nữ của nhà phê bình văn học
Hoàng Ngọc Hiến. Hôm đó báo Văn nghệ trẻ in truyện ngắn “Ði” của anh. Bạn bè
trong lễ cưới rất vui đã cùng nhau ký vào trang có truyện ngắn để tặng vợ chồng
Phương làm kỷ niệm. Ngay đó, truyện ngắn “Ði” bị phê phán nặng. Số báo in truyện
ngắn bị thu hồi. Phương bị kỷ luật hạ quân hàm. Tờ báo thất lạc không đến được
tay chủ nhân. Hôm rồi nhà thơ Nguyễn Thành Phong xác nhận đang cầm tờ báo đó.
Dạo này thấy thi thoảng Nguyễn Bình Phương xuất hiện ở một
vài đám bạn bè. Tính Phương không thích đông người chỉ chấp nhận nếu ngồi thì
chừng vài ba người. Cũng lạ, một nhà văn không lấy internet làm phương tiện giao
tiếp cũng như tìm hiểu xã hội đương đại, không lấy bạn bè để san sẻ nhưng tác
phẩm của anh lại ăm ắp kiến thức của đời sống hiện đại. Một sự trải nghiệm có lẽ
chỉ có ở một nhà văn có tầm. Với tôi, Nguyễn Bình Phương luôn tạo ra những bất
ngờ thú vị. Tỷ như khi nghe tin anh trúng Ban Chấp hành Hội nhà văn khóa rồi
tôi mới ớ ra. Hóa ra Phương đã vào Hội Nhà văn từ bao giờ. Tôi cứ nghĩ Phương
không thích hội hè, không thích cả quản lý mà chỉ chuyên tâm làm văn chương. Thật
thú vị người luôn đi vắng ở mọi đám đông ở văn đàn giờ lại ở nơi đông nhất với
vị trí Tổng biên tập tạp chí VNQÐ và Ủy viên Ban Chấp hành Hội nhà văn.
Gặp lại Nguyễn Bình Phương ở lễ trao giải Hội Nhà văn Hà Nội
hôm rồi, lại thêm một bất ngờ nữa với tôi. Phương soạn hẳn một diễn từ công phu
và đọc nó trang trọng với sự xúc động của một người đoạt giải. Thái độ này là rất
khác biệt với tính cách của anh. Nguyễn Bình Phương có lẽ là người duy nhất từ
chối mọi sự vinh danh mình. Anh không có mặt trong hầu hết các cuộc ra mắt
sách, từ chối những gì liên quan đến bề nổi của một nhà văn. Có lẽ ở giải thưởng
này, Nguyễn Bình Phương đã được an ủi bởi số phận long đong đứa con mình. Thế
nên anh đã công khai chấp nhận nó. Ðiều đó thật xứng đáng. “Mình và họ”, tôi
tin quyển tiểu thuyết này nếu bước ra thế giới nó sẽ có một số phận oanh liệt với
những gì nó đang có. Tôi tin cũng như tin sau Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Nguyễn
Bình Phương sẽ là một nhà văn đưa văn học Việt ra được ngoài biên giới. Biết
đâu những gì các nhà văn đàn anh không làm được thì Nguyễn Bình Phương có thể.
Biết đâu…
Phạm Ngọc TiếnNguồn: Trang web chính thức củaNXB Hội nhà văn vào ngày: 18/9/2019
Làng Mới
Làng Mới Làng Mới dựng ven suối dưới chân thác Voi Trắng. Núi rừng mênh mông thả sức phá phách, chẳng ma nào dòm ngó. Lửa khói ngập trời. ...

-
Lời kỹ nữ - Xuân Diệu A.TÁC GIẢ: I. Cuộc đời: Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh là Trảo Nha, quê quán làng T...
-
Hoa muộn - Nơi mùa xuân đi qua Vũ trụ này không có bắt đầu và không có kết thúc. Hay nói đúng hơn, con người không biết nó bắt đầu từ đâu ...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...