Đặc sắc nghệ thuật và cá tính sáng tạo
của thơ Xuân Diệu trước
cách mạng tháng Tám 1945
I. Xuân Diệu - Cây đời mãi xanh tươi:
“Cha
đàng ngoài, mẹ ở đàng trong”, Xuân Diệu đã từng sống ở cả ba miền đất nước. Từ
khi còn là một học sinh trung học hay là một viên chức, Xuân Diệu luôn lao động
sáng tạo say mê, bền bỉ. Với hơn nửa thế kỉ cầm bút, ông đã để lại một khối lượng
tác phẩm đồ sộ: khoảng 50 tác phẩm thuộc nhiều thể loại: thơ, văn, phê bình,
nghiên cứu phê bình văn học và dịch thuật... Ở lĩnh vực nào tài năng Xuân Diệu
cũng được ghi nhận, nhưng thơ vẫn là bộ phận sáng tác có giá trị nhất của ông.
Xuân Diệu là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện
đại.
Cả cuộc
đời sáng tạo nghệ thuật, Xuân Diệu đã nêu một tấm gương cho các thế hệ cầm bút
về sự cần cù, say mê, không mệt mỏi, đã để lại sự ngưỡng mộ, khâm phục với bao
thế hệ độc giả.
Khi
Thơ mới bắt đầu thắng thế, nếu Thế Lữ được coi là ngôi sao sáng nhất của bầu trời
Thơ mới buổi đầu, thì chỉ vài năm sau, ở giai đoạn thứ hai, Thế Lữ phải nhường
ngôi “đệ nhất thi sĩ” cho Xuân Diệu. Trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh khi
nhận xét (và có ý so sánh) một số phong cách các nhà Thơ mới đã tinh tường khái
quát: “Hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như
Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên và thiết
tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu…”. “Thiết tha, rạo rực, băn khoăn”, phải
là ba tính từ (chứ không phải một) đã thâu tóm đúng thần thái thơ và đời Xuân Diệu.
Các nhà phê bình, các nhà thơ, bạn đọc trong và ngoài nước đã không tiếc lời ngợi
ca thơ ông, Với Thế Lữ thì Xuân Diệu là “một tâm hồn đằm thắm và rất dễ cảm
xúc”, là “nhà thi sĩ của tuổi xuân, của lòng yêu, và của ánh sáng”, còn thơ
Xuân Diệu “không phải là văn chương nữa; đó là lời nói, là tiếng reo vui hay tiếng
năn nỉ, là sự chân thành cảm xúc, hoặc là những tình ý rạo rực biến lẩn trong
những thanh âm”. “Xuân Diệu là người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu
thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”. Cả Hoài Thanh và Vũ
Ngọc Phan đều có chung một đánh giá: “Xuân Diệu mới nhất trong các nhà Thơ mới”
và “Xuân Diệu đã đem đến cho thơ ca Việt Nam nhiều cái mới nhất”.
Hoài Thanh - tác giả của “Thi nhân Việt Nam” dường như đã giành những tình
cảm đặc biệt của mình cho thi sĩ của tình yêu thương bằng những lời có cánh:
“Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng
lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống
quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn,
người đều nồng nàn tha thiết. Nhưng sự sống muôn hình thức mà trong những hình
thức nhỏ nhặt thường lại ẩn náu một nguồn sống dồi dào. Không cần phải là con hổ
ngự trị trên rừng xanh, không cần phải là con chim đại bàng bay một lần chín vạn
dặm mới là sống. Sự bồng bột của Xuân Diệu có lẽ đã phát biểu ra một cách đầy đủ
hơn cả trong những rung động tinh vi”.
Không
thể kể hết những ý kiến, những đánh giá của độc giả giành cho “thi sĩ rất giàu
lòng yêu dấu” ấy. Tất cả nói lên rằng Xuân Diệu đã có một vị trí khó thay thế
trên thi đàn Việt Nam hiện đại. Khi ông xuất hiện, Thế Lữ đã từng reo
mừng: “Thế là từ nay, chúng ta đã có Xuân Diệu”. Và khi nhà thơ qua đời, “thế
là từ nay chúng ta không còn Xuân Diệu nữa”, “Một cây lớn đổ xuống làm cho cả một
khoảng trời trống vắng” (Hà Xuân Trường). Tuy nhiên, sự nghiệp mà Xuân Diệu để
lại sẽ còn sống mãi trong lòng người yêu thơ, trong lòng dân tộc, bởi “sự sống
còn của một nhà văn là ở tác phẩm”.
II. Phong cách nghệ thuật Xuân Diệu trước CMT8 1945:
Trong
“Bài thơ tuổi nhỏ” sáng tác năm 1933 - khi Xuân Diệu mười bảy tuổi, thi sĩ đã
dõng dạc bày tỏ tuyên ngôn sống của mình:
Giơ
tay muốn ôm cả Trái đất
Ghì
trước trái tim, ghì trước ngực
Cho
đầy trước mắt khoảng cô đơn
Bao
la muôn trời, sâu vạn vực…
Đây
chính là nét nổi bật trong phong cách nghệ thuật của ông: niềm khát khao giao cảm
với đời, cuộc đời hiểu theo nghĩa chân thật và trần thế nhất. Khát khao giao cảm
- có thể hiểu là những mong ước, mong muốn, hi vọng một cách thiết tha, cháy bỏng
được hòa nhập, được tiếp cận, được tâm sự, giãi bày, được cảm thông, chia sẻ.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định: “Có thể nói trên đời này có bao
nhiêu cách để tiếp xúc với đời, để tâm sự giao cảm với đời, Xuân Diệu đều không
bỏ qua và khai thác triệt để... Đây là một trái tim nóng bỏng, trái tim của một
con người sinh ra để yêu thương, để ca ngợi sự giao cảm tràn đầy tính nhân bản
kia, để bày tỏ tình yêu thiết tha của mình đối với cuộc sống và kêu gọi tình
yêu của cuộc sống đối với mình” (Tư tưởng và phong cách một nhà thơ lớn).
1. Xuân Diệu sáng tác nhiều và khỏe:
Đây là
một cách để được giao hòa, gặp gỡ, tâm sự, giãi bày. Suốt cuộc đời lao động bền
bỉ của người nghệ sĩ, Xuân Diệu đã để lại một sự nghiệp sáng tác lớn lao với
nhiều thể loại. Ở cả hai chặng sáng tác, Xuân Diệu đều có những cống hiến đáng
kể đối với nền văn học hiện đại Việt Nam. Ông đã viết gần năm mươi cuốn
sách, bình thơ trên bốn trăm cuộc, ngoài ra còn làm biên tập sách báo, viết
báo, làm báo,… thì không kể hết. Quả thực là “một khối lượng khổng lồ” (Mai Quốc
Liên). “Bài học lớn nhất, tấm gương sáng nhất mà Xuân Diệu để lại cho các thế hệ
cầm bút về sau là tấm gương lao động nghệ thuật cần cù, nhẫn nại, tỉ mỉ, say mê
và liên tục” (Hà Xuân Trường).
Trước
Cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Với
hai tập “Thơ thơ” (1938) và “Gửi hương cho gió” (1945), Xuân Diệu trở thành một
trong những nhà thơ xuất sắc nhất và điển hình nhất của phong trào Thơ mới, có
nhiều đóng góp vào việc cách tân các thể loại thi ca dân tộc và phát triển ngôn
ngữ dân tộc. Nhà thơ Tế Hanh khi được hỏi nếu chọn năm nhà thơ tiêu biểu nhất của
phong trào Thơ mới đã trả lời sau khi suy nghĩ: “Kể cũng khó, nhưng theo tôi
thì phải kể đến Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mạc Tử”. Lại hỏi
tiếp: nếu chọn một người tiêu biểu nhất thì là ai? Tế Hanh đã trả lời ngay:
Xuân Diệu. Như vậy, công lao của Xuân Diệu trong phong trào Thơ mới thật không
nhỏ.
Sau
Cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu thuộc số ít người ở hàng đầu của nền thơ ca cách
mạng, trở thành một trong những người đầu tiên xây dựng nền móng cho thơ ca
cách mạng Việt Nam.
2. Xuân Diệu - nhà thơ của tình yêu:
Sinh
thời, Xuân Diệu đã tự nhận mình là “kẻ uống tình yêu dập cả môi”, thơ viết về
tình yêu là mảng đặc sắc nhất của thơ Xuân Diệu. Thơ tình của ông có tới vài
trăm bài, có những bài về tình yêu hay nhất trong số những bài thơ tình hiện đại.
Một danh hiệu cao quý mà Xuân Diệu được phong tặng ngay từ thời “Thơ thơ” và “Gửi
hương cho gió” và mãi sau này ông vẫn bền bỉ vun đắp bằng cả cuộc đời sáng tạo
của mình; đó là danh hiệu “ông hoàng của thơ tình” hoặc thân thiết hơn là “thi
sĩ của tình yêu”… Các nhà nghiên cứu đã đánh giá cao những đóng góp của Xuân Diệu
trong địa hạt thơ tình: “nhà thơ tình bậc nhất” (Hà Minh Đức), “nhà thơ tình kiệt
xuất” (Lê Đình Kỵ), “có ai vượt được Xuân Diệu trong lĩnh vực thơ tình” (Tố Hữu).
Chính Xuân Diệu, những năm cuối đời nhìn lại suốt chặng đường dài sáng tạo của
mình cũng tự hào rằng “đặc sản của tôi là thơ tình”, và nhấn mạnh: “Đã làm thơ
tình là phải làm thơ tình nguyên chất”. Xuân Diệu là nhà thơ của niềm giao cảm
hết mình với cuộc sống, nên cũng là nhà thơ thật sự của tình yêu; nói cách
khác, Xuân Diệu mượn tình yêu để giao tiếp với đời vì tình yêu là một trong những
niềm giao cảm mãnh liệt nhất, sâu sắc nhất, toàn vẹn nhất - niềm giao cảm tuyệt
vời của tuổi trẻ. Đó là sự hòa hợp tuyệt diệu giữa hai tâm hồn, hai trái tim,
hai thể xác, vừa rất mực trần thế, vừa hết sức cao thượng. Tình yêu là tình cảm
người nhất. Có thể nói, khát vọng yêu đương nồng nàn và da diết thường thấy ở
Xuân Diệu cũng chính là biểu hiện đầy đủ nhất của lòng say mê yêu đời. Đối với
ông, tình yêu là biểu tượng tràn đầy rực rỡ nhất của tuổi thanh xuân và là hạt
nhân của sự sống. Tư duy nghệ thuật của Xuân Diệu được hình thành và phát triển
trên cơ sở nguồn cảm xúc yêu đương ấy.
Đi sâu
vào thế giới tình yêu của Xuân Diệu, ta bắt gặp ở đây mọi cung bậc tình cảm yêu
đương muôn thuở của con người. Từ những tâm trạng nhớ nhung bâng quơ, những hẹn
hò xa xôi đến những thứ tình như mây đưa gió thoảng, từ những tình cảm vu vơ đến
thứ tình cho không như “Gửi hương cho gió”, như “Phấn thông vàng”, từ những
phút say nồng cực lạc đến những khoảng trống vắng lạnh lùng… nghĩa là có đủ mọi
trạng thái bâng khuâng, hồi hộp, đắm say, giận dỗi, hờn ghen, hi vọng, tuyệt vọng…
của tình yêu. Nhiều nhà thơ chọn tình yêu làm tiền đề cho cảm hứng sáng tạo
nhưng có lẽ chỉ Xuân Diệu là đạt đến độ si mê đắm đuối nhất của cảm xúc yêu
đương, là người phát ngôn đầy đủ nhất cho tình yêu của thời đại.
Đến với
tình yêu, Xuân Diệu muốn khám phá thực chất ý nghĩa của nó và đồng thời qua đó,
bộc lộ quan niệm sống của mình. Có thể coi Xuân Diệu là người đầu tiên đã đưa
vào thơ Việt Nam tình yêu thật sự là tình yêu, nghĩa là sự giao cảm
tuyệt đối, tuyệt đỉnh, sự hòa nhịp giữa linh hồn và thể xác. Tình yêu phải thực
sự là tình yêu của con người trần tục chứ không phải thứ tình Biêlinxki từng chế
giễu “chỉ làm đẹp lòng các vị bảo hộ hậu cung vua chúa phương Đông” mà thôi.
Tuy nhiên cái đích mà tình yêu nhằm đạt tới phải là sự hòa hợp cao độ của tâm hồn,
là trái tim đỏ thắm của em, tâm hồn xanh thẳm của em, là phút giây giao cảm tuyệt
vời của những con người “Trời ơi, anh muốn uống hồn em!”.
Với tình yêu, con người sinh ra để mà yêu ấy luôn sôi nổi cuồng
nhiệt:
Yêu
tha thiết, thế vẫn còn chưa đủ,
Phải nói yêu, trăm bận đến nghìn lần,
Phải mặn nồng cho mãi mãi đem xuân,
Đem
chim bướm thả trong vườn tình ái
(Phải
nói)
Xuân Diệu ý thức được ý nghĩa cuộc đời nằm trong vòng tuổi trẻ,
ý nghĩa tình yêu nằm trong vòng khoảnh khắc, thơ Xuân Diệu ghi lại rất nhiều những
khoảnh khắc ngưng đọng của tâm hồn với một cường độ cảm xúc mạnh mẽ: khoảnh khắc
gặp gỡ:
Ấy là hồn giăng rộng khắp không gian
Để
đánh lưới những duyên hờ mới mẻ
Ấy những cánh chuyển trong lòng nhẹ nhẹ
Nghe xôn xao rờn rợn đến hay hay
(Xuân
không mùa)
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu!
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,
Bằng mây nhẹ nhẹ, gió hiu hiu
(Vì sao)
Khoảnh khắc chợt bùng lên nỗi nhớ:
Anh nhớ tiếng! Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm! em ơi
(Tương tư chiều)
Uống xong lại khát là tình
Gặp rồi lại nhớ là mình của ta
Rồi khoảnh khắc vội vàng, giục giã, được giao cảm chiếm lĩnh
và khao khát vươn tới cái vô biên, tuyệt đích:
Mau
lên chứ, vội vàng lên với chứ
Em, em ơi, tình non sắp già rồi
(Giục giã)
Em
vui đi, răng nở ánh trăng rằm
Anh hút nhụy của mỗi giờ tình tự
Vì luôn khát khao vô biên, tuyệt đích, nên:
Biển
đắng không nguôi nỗi khát thèm
Nên
lúc môi ta kề miệng thắm,
Trời ơi, ta muốn uống hồn em
(Vô biên)
Với Xuân Diệu, tất cả đều là tình yêu thứ nhất, là mùa xuân đầu:
Xuân
đã sẵn trong lòng tôi lai láng
Xuân không chỉ ở mùa xuân ba tháng;
Xuân là khi nắng rạng đến tình cờ,
Chim trên cành há mỏ hát ra thơ
Xuân là lúc gió về không định trước
(Xuân không mùa)
Mặt trời vừa mới cưới
trời xanh
Duyên đẹp hôm nay sẽ tốt lành
Son sẻ trời như mười sáu tuổi
Má hồng phơn phớt, mắt long lanh
(Rạo rực)
Sau này, khi đã chiều tà bóng xế, tình yêu trong thơ ông vẫn
luôn nồng nàn:
Tôi
đã yêu từ khi chưa có tuổi
Lúc chưa sinh, vơ vẩn giữa dòng đời
Tôi sẽ yêu khi đã hết tuổi rồi
Không xương vóc, chỉ huyền hồ bóng dáng
(Đa
tình)
Cho đến lúc sắp giã biệt cuộc đời, nhà thơ vẫn khao khát:
Hãy
để cho tôi được giã từ
Vẫy chào cõi thực để vào hư
Trong hơi thở chót dâng trời đất
Cũng vẫn si tình đến ngất ngư
Thơ tình Xuân Diệu thực sự là thơ tình, tình yêu của những người yêu. Trong
“Thơ thơ” có cái rạo rực thiết tha, nồng cháy, “Gửi hương cho gió” có cái da diết,
đằm thắm xen lẫn vị đắng cay. Vì hướng tới sự giao cảm về phương diện tinh thần
và tâm hồn nên tình yêu trong thơ Xuân Diệu rất mãnh liệt và cũng rất trong
sáng, lành mạnh. Xuân Diệu yêu đời tha thiết và khao khát được đáp lại:
Và
hãy yêu tôi một giờ cũng đủ
Một giây cũng cam, một chút cũng đành
Nhưng
do không gặp gỡ những tâm hồn đồng điệu, chân thật, nên hầu hết những bài thơ
tình của Xuân Diệu là nỗi đau của một trái tim đắm say, nồng nhiệt mà không được
đến đáp xứng đáng và thường thấm đẫm nỗi buồn cùng mặc cảm cô đơn. Có lúc sự thờ
ơ, hờ hững của người đời khiến trái tim thi sĩ không tránh khỏi sự tủi hổ:
Lòng
ta là một cơn mưa lũ
Đã gặp lòng em là lá khoai
Mưa biếc tha hồ rơi giọt ngọc
Lá
xanh không ướt đến da ngoài
(Nước đổ lá khoai)
Thậm chí, “chết ở trong lòng một ít” bởi:
Vì
mấy khi yêu mà chắc được yêu
Cho rất nhiều song chẳng nhận bao nhiêu
Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết
(Yêu)
Càng yêu, càng thấy “dại khờ”:
Người
ta khổ vì thương không phải cách
Yêu sai duyên, và mến chẳng nhằm người
Có kho vàng, nhưng chẳng tặng tùy nơi
Người ta khổ vì xin không phải chỗ
Ta hiểu vì sao trong thế giới nghệ thuật của Xuân Diệu, mùa
xuân và bình minh đi liền với những chiều thu và những đêm trăng lạnh, sự nồng
nàn đi liền với cảm giác bơ vơ...
Trong
tình yêu, Xuân Diệu đã đi đến tận cùng của sự thành thực: thành thực nói lên nỗi
khát tình dằng dặc của đời mình; thành thực can đảm nói lên những mặt trái của
tình yêu. Nếu như trong văn chương truyền thống, nguyên nhân của những mối
lương duyên trắc trở là do khách quan, thì Xuân Diệu thấy nguyên nhân sự phản bội
là ở phía chủ quan, đó chính là những góc khuất trong tâm hồn những đôi tình
nhân đang say sưa kia:
Linh
hồn ta còn u uẩn hơn đêm,
Ta chưa thấu, nữa là ai thấu rõ
Kiếm mãi, nghi hoài, hay ghen bóng gió
Anh muốn vào dò xét giấc em mơ
Nhưng anh giấu em những mộng không ngờ
Cũng như em giấu những điều quá thực
(Xa cách)
Khoảng cách về tâm hồn mới là điều đáng sợ nhất, bởi:
Em
là em, anh vẫn cứ là anh
Có thể nào qua Vạn lý trường thành
Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật
Nhưng
dù tình yêu có được đền đáp hay không, trái tim yêu của Xuân Diệu vẫn nồng nàn
say đắm, vẫn khát khao gặp gỡ, tâm hồn vẫn “giăng rộng khắp không gian - Để
đánh lưới những duyên hờ mới mẻ”, bởi với thi sĩ của tình yêu, “Tình yêu không
tuổi, và xuân không ngày tháng”.
3. Quan niệm thẩm mỹ:
Trong các nhà thơ hiện đại, Xuân Diệu đã đem lại cho thơ một
quan niệm thẩm mỹ hết sức mới mẻ, góp phần tạo nên một cuộc cách mạng trong thi
ca: cuộc đời trần thế là đẹp nhất, con người - đặc biệt là người thiếu nữ - là
tuyệt diệu nhất, là chuẩn mực cho mọi vẻ đẹp trên đời.
Xuân
Diệu chịu ảnh hưởng của trường thơ tượng trưng Pháp. Trường thơ này quan niệm
vũ trụ là một thế giới huyền bí mà mắt thường không nhìn thấy được, cái mà con
người nhìn thấy chỉ là dấu hiệu tượng trưng của bản thể ấy. Vì vậy, các nhà thơ
theo trường phái này không chủ trương miêu tả thế giới rõ rệt, hữu hình mà cố gắng
miêu tả những biến thái tinh vi, mong manh, huyền diệu của vũ trụ, lòng người.
Trường thơ tượng trưng đề xướng thuyết tương giao và coi trọng tính nhạc. Điều
này dẫn tới đặc điểm cơ bản của thơ Xuân Diệu: đấy là một thế giới tràn đầy
xuân sắc, xuân tình, mà chuẩn mực của cái đẹp là con người giữa tình yêu tuổi
trẻ. Quan điểm mỹ học mới mẻ này đã khiến thi sĩ sáng tạo được nhiều hình ảnh mới
mẻ, độc đáo, đẹp một cách khỏe khoắn đầy sức sống.
Bài
thơ “Vội vàng” được coi là tuyên ngôn về quan niệm sống của Xuân Diệu, một triết
lý nhân sinh được thể hiện bằng hình tượng thơ thấm đẫm cảm xúc. Với Xuân Diệu,
cuộc sống trần thế đầy hấp dẫn, đó là một thiên đường trên mặt đất, một khu vườn
tràn đầy xuân sắc, một không gian tươi thắm tràn ngập lá nõn, hoa thơm, trái ngọt...
mà vạn vật ở độ lên hương rực rỡ nhất, đều say đắm xuân tình: ong bướm như
trong tuần tháng mật; hoa phải là hoa của đồng nội xanh rì; lá phải là lá của
cành tơ, chồi biếc; yến oanh rộn rã khúc tình si... Vì vậy, không việc gì phải
tìm kiếm thiên đường ở tận đâu, mà hãy yêu mến, gắn bó tận hưởng hết mình ngay
trong cuộc đời này.
Từ
quan niệm coi con người là chuẩn mực cho mọi vẻ đẹp, nhà thơ nhìn trời đất, cỏ
cây, hoa lá, núi sông... đầy vẻ tình tứ:
Hơi
gió thở như mặt người yêu mến
Mây đa tình như thi sĩ đời xưa
Thời tiết bốn mùa thì: “Xuân: người ta vì ấm mà cần tình,
Thu: người ta vì lạnh sắp đến mà cũng rất cần đôi; Nắng hạ đốt người một cách cực
lạc và tiết đông khỏa vào da thịt làm dây cả máu xương”. Mùa xuân được thi sĩ
hình dung, liên tưởng như làn môi căng mọng của người thiếu nữ “Tháng giêng
ngon như một cặp môi gần” - một câu thơ hay vào loại hiếm thấy trong lịch sử
văn học dân tộc. Xuân Diệu đã khái quát lên thành toàn bộ thế giới xuân tình.
Nhìn phấn thông bay, thi sĩ như thấy ái tình tản mạn, ôm ấp không gian, hoa thì
không phân biệt được là hoa hay là những thiếu nữ đa tình. Biển thì như một người
tình say đắm, một trái tim yêu không bao giờ mệt mỏi... Có thể nói, làm nên những
câu thơ đầy cảm xúc, cảm giác ấy, một phần quan trọng là nhờ cách dùng từ ngữ của
Xuân Diệu: độc đáo, táo bạo, có giá trị gợi cảm mạnh mẽ. Tuy nhiên, thơ Xuân Diệu,
về bản chất vẫn kế thừa phát huy cái nhạc điệu riêng, linh hồn riêng của thơ ca
truyền thống. Chính vì vậy, kinh nghiệm Đông và Tây, truyền thống và hiện đại,
kết tinh ở một tâm hồn nghệ sĩ khát khao giao cảm với đời đã giúp Xuân Diệu
khám phá được những biến thái tinh vi của thiên nhiên cũng như của nội tâm con
người và thể hiện được trong những vần thơ “ít lời, nhiều ý, súc tích như đọng
lại bao nhiêu tinh hoa” (Thế Lữ).
4. Xuân Diệu rất ý thức về sự chảy trôi của thời gian:
“Trong
các nhà thơ hiện đại, Xuân Diệu là người có năng lực cảm nhận tinh tế bước đi của
thời gian. Có lẽ cũng do lòng yêu tuổi trẻ, muốn ngăn sự già nua tàn tạ, nên
nhà thơ luôn cảnh giác với thời gian và kịp thời báo động với chính mình” (Vũ
Quần Phương). Với Xuân Diệu, thời gian trở thành “nỗi ám ảnh”, thành “kẻ thù
đáng gờm”, là “đại lượng tiêu cực, thù địch với hạnh phúc và tuổi xuân”. Xuân
Diệu quan niệm thời gian mang trong lòng nó sự trôi chảy mà mỗi khoảnh khắc qua
đi là mất đi vĩnh viễn:
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
(Vội vàng)
Đây là một quan niệm hết sức mới mẻ, tiến bộ về thời gian -
thời gian tuyến tính. Thời trung đại, với quan niệm thời gian tuần hoàn với chu
kỳ bốn mùa, nên con người rất ung dung, bình thản trước thời
gian:
Sen
tàn, cúc lại nở hoa
Sầu dài, ngày ngắn, đông đà sang xuân
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Thời gian trung đại tính theo chiều vĩ mô: ngàn đời, vạn năm,
thiên thu... nên chết chưa phải là hết, còn có kiếp sau. Còn ở thời hiện đại,
người ta không yên tâm với điều đó. Đời người hữu hạn, ngắn ngủi vô cùng, cho
nên con người không thể thờ ơ với cuộc sống, không nên lãng phí thời gian, phải
sống năng suất hơn gấp nhiều lần trong cùng một thời gian được sống, hãy tìm
cách đốt cuộc đời mình lên để nói trôi qua thì không phải luyến tiếc. Cho nên,
ta bắt gặp những khoảnh khắc thi sĩ “cảnh giác với thời gian và kịp thời báo động
với chính mình”:
- Tình thổi gió, màu yêu lên phấp phới
Nhưng đôi ngày, tình mới đã thành xưa
... Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết
Trong
gặp gỡ đã có mầm li biệt
(Giục giã)
- Sự thật ngày nay, không thật đến ngày mai
(Phải
nói)
- Cái trôi không đợi cái bay
Từ tôi phút ấy, sang tôi phút này.
Ý thức về sự trôi chảy của thời gian cũng là cách không chấp
nhận cuộc sống mù tối, vô danh vô nghĩa, tẻ nhạt, và cội nguồn sâu xa của nó
chính là niềm khát khao giao cảm với đời.
Vô
cùng nhạy cảm trước sự đổi thay “nổi nênh, xiêu đổ, tan tác” của cuộc đời, Xuân
Diệu luôn nhìn thấy sự đối lập nghiệt ngã giữa thời gian vô tận của vũ trụ và
thời gian quá ngắn ngủi của kiếp người. Càng tha thiết với cuộc đời, ông càng
nhìn thấy thời gian trôi với nhịp độ chóng mặt: “rồi đi”, “cứ thế mà bay” những
ngày những tháng.
Thong
thả chiều vàng thong thả lại
Rồi đi… đêm xám tới dần dần
Cứ thế mà bay cho đến hết
Những ngày, những tháng, những mùa xuân
(Giờ tàn)
Chưa có nhà thơ nào luyến tiếc thời gian đến xót xa như Xuân
Diệu, bởi ông ý thức được rằng thời gian trôi là tuổi trẻ mất và tuổi già đang
chờ đón. Do vậy, cảm nhận về sự vận động của thời gian trong thơ Xuân Diệu xuất
phát từ ý thức về sự mất mát. Cùng với ngày tháng trôi qua, Xuân Diệu chỉ nhìn
thấy sự vật đang bị bào mòn, tàn tạ:
Hoa
nở để mà tàn
Trăng
tròn để mà khuyết
Bèo hợp để chia tan
Người gần để ly biệt
Hoa kia không nắng cũng phai màu
Trên
mặt người kia in nỗi đau
(Hoa nở để mà tàn)
Đằng sau một loạt những “vội vàng”, “giục giã”, “mau với chứ”,
“gấp đi em”… ta hình dung ra điệu bộ cuống cuồng của thi nhân cùng nỗi ám ảnh
lo sợ: muộn màng, không kịp, lỡ làng, lỡ thì… Nhưng vốn là người ham sống, Xuân
Diệu không cam lòng chịu để cho ngày tháng trôi qua trong mòn mỏi, vô vị, ông
tìm cách chống đỡ, ngăn cản không cho thời gian cướp đi những lạc thú của tuổi
trẻ, tình yêu.
Có thể
nói rằng, với Xuân Diệu, thời gian là một chất xúc tác đặc biệt tạo nên những
luồng rung động đặc biệt trong cảm hứng sáng tạo, thôi thúc thi sĩ viết nên những
câu thơ vừa có sức khái quát, vừa sinh động gợi cảm.
5. Xuân Diệu là nhà thơ rất có ý thức khẳng định cái “tôi” cá
nhân.
Thơ ca
muôn đời vẫn là sự bộc lộ cảm xúc của chủ thể sáng tạo trước con người và tạo vật.
Song nếu như trong thơ ca trung đại, quan niệm “thi dĩ ngôn chí”, “văn dĩ tải đạo”
đã lấn át cái bản ngã thì Thơ mới ra đời đồng nghĩa với sự khẳng định cái “tôi”
cá nhân. “Ngày thứ nhất, ai biết đích ngày nào, chữ “tôi” xuất hiện trong thi
đàn Việt Nam. Nó thực sự bỡ ngỡ như lạc long nơi đất khách bởi nó mang
theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này: quan niệm cá nhân” (Hoài Thanh).
Xuân
Diệu là một nhà Thơ mới tiêu biểu nhất, vì thế rất có ý thức khẳng định cái
“tôi” của mình. Không phải ngẫu nhiên ông được coi là người phát ngôn đầy đủ nhất
cho tư tưởng cá nhân của phong trào Thơ mới. Với Xuân Diệu, cái “tôi” cá nhân
được ý thức sâu sắc khi lần đầu tiên trên thi đàn, cái “tôi” tiểu tư sản mạnh dạn
bày tỏ những tâm tư thầm kín, những xúc cảm yêu đương tuôn trào, những khát vọng
được hưởng thụ không dứt, không nguôi hoa thơm trái ngọt của cuộc đời trần thế.
Vì thế, Xuân Diệu không chỉ hoàn toàn mới lạ so với các thế hệ trước mà còn mới
lạ so với các nhà thơ cùng thời. Chỉ có Xuân Diệu mới có đủ độ nồng nàn say đắm
nhất của chủ nghĩa lãng mạn phương Tây, với một cách cảm nghĩ nói năng rất
phương Tây và một triết lý hưởng thụ cũng rất phương Tây:
Hái
một mùa hoa lá thuở măng tơ
Đốt muôn nến sánh mặt trời chói lọi
Thà
một phút huy hoàng rồi chợt tắt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm
(Giục giã)
Thơ mới là thơ của cái “tôi”, viết về cái “tôi”, nhưng chỉ với
Xuân Diệu, sự tồn tại của cái “tôi” mới được đẩy lên với ý nghĩa tuyệt đối của
nó. Thơ ông tràn ngập chữ “tôi”, nó được khai thác và biểu hiện ở nhiều cấp độ
khác nhau. Nó có thể là sự phô diễn bức chân dung tự họa của nhà thơ, nhiều khi
nhỏ bé, yếu đuối:
Tôi
chỉ là một cây kim bé nhỏ
Mà vạn vật là muôn đá nam châm
(Cảm
xúc)
Tôi
là con chim đến từ núi lạ
(Lời thơ vào tập “Gửi hương”)
Tôi
là con nai bị chiều đánh lưới
Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối
(Khi
chiều giăng lưới)
Tôi
là kẻ qua sa mạc
Nhưng cũng có lúc cái “tôi” ấy trở nên mạnh mẽ, quyết
liệt:
Tôi là một kẻ điên cuồng
Yêu những ái tình ngây dại
(Thở
than)
Tôi
kẻ đưa răng bấu mặt trời
(Hư vô)
Cũng
có thể là sự bộc lộ đến tận cùng khát vọng khi thi nhân xoáy vào bên trong chiều
sâu tâm hồn mình. Đằng sau cái “tôi” trữ tình đứng ở ngôi thứ nhất là một hệ thống
những động từ chỉ hành động và tư thế cảm xúc rất Xuân Diệu: Đó là ý thức
chiếm lĩnh hương sắc cuộc đời (nắng, gió, không chờ nắng hạ mới hoài xuân…), hoặc
lúc không còn tự chủ được nữa: “Tất cả tôi run rẩy tựa dây đàn”, “tôi run như
lá, tái như đông”. Rồi tôi nhớ; tôi buồn; tôi đã yêu; tôi sung sướng; tôi sẽ chết…
Tuy nhiên, khẳng định cái “tôi” tích cực, cái “tôi” thấm đẫm màu sắc cá thể
trong thơ Xuân Diệu không chỉ căn cứ vào tần số xuất hiện của chữ “tôi” hoặc
vào sự đề cao quá đáng của bản ngã cá nhân thành đỉnh Hy Mã Lạp Sơn ngất ngưởng,
mà cơ sở chính của nó là sự thành thật của xúc cảm. Thơ Xuân Diệu là niềm khát
sống, khát yêu đến cuồng nhiệt. Con người ấy muốn uống cạn, một cách vồ vập
“cái ly tràn đầy sự sống”. Trong thơ Xuân Diệu, toát lên một nhu cầu mãnh liệt:
được cảm thông. Con người rất có ý thức về bản ngã ấy không phải là cái “tôi”
khép kín mà là cái “tôi” luôn phơi trải, luôn mở ra trước cuộc đời, là một tâm
hồn khao khát tìm gặp những tâm hồn. Với Xuân Diệu, dù vui hay buồn, sung sướng
hay đau khổ, hi vọng hay thất vọng… nghĩa là tất cả những rung động tinh vi của
đời sống tâm hồn đều được Xuân Diệu thành thật bày tỏ. Sự chân thực của tình cảm
là một phẩm chất tiêu biểu của thơ trữ tình nói chung, đến trào lưu Thơ mới được
chú trọng khai thác và mở thêm nhiều ngóc ngách, phức tạp, tinh vi hơn để làm
phong phú thêm khả năng tự biểu hiện và sức mạnh hướng nội của thơ. Dù ở phương
diện nào, ta đều thấy ở hồn thơ Xuân Diệu những phẩm chất nổi bật tiêu biểu cho
khát vọng được khẳng định cái “tôi” như một tâm điểm nghệ thuật của thơ lãng mạn
1932-1945.
III. Kết luận:
Sinh
thời, Xuân Diệu vẫn tìm đến sự giao cảm với cuộc đời bằng thơ, bằng tâm hồn của
một nhà thơ thiết tha yêu sự sống. Sự nghiệp mà ông để lại là một di sản thơ vô
giá mà từng ý thơ, từng lời thơ vẫn tiếp tục nảy sinh, đánh thức dậy niềm vui,
nỗi buồn và bao xôn xao trong lòng tuổi trẻ hôm nay. Ở giai đoạn trước Cách mạng
tháng Tám, Xuân Diệu được coi là gương mặt tiêu biểu nhất của trào lưu thơ ca
lãng mạn; là nhà thơ “mới nhất” trong các nhà Thơ mới. Ông đã mang đến cho thi
đàn Việt Nam một nguồn cảm hứng yêu đời dào dạt, một luồng rung động mới mẻ trước
tình yêu, một nhịp sống hoàn toàn mới lạ và một cái tôi giàu bản sắc. Ông cũng
là người tìm ra nhiều kiểu cấu trúc hiện đại cho câu thơ Việt Nam và
làm phong phú thêm hình thức thơ bằng những hình ảnh độc đáo và những nét nhạc
điệu tân kỳ. Có thể nói, sự cộng hưởng giữa khát vọng sống và khát vọng đổi mới
thơ ca là nguồn động lực thúc đẩy mọi sự tìm tòi sáng tạo và tạo ra sức mạnh cảm
hóa đặc biệt của thơ Xuân Diệu trước Cách mạng Tháng Tám.
Với nửa
thế kỷ hành trình sáng tạo, Xuân Diệu đã để lại cho các thế hệ độc giả và nhất
là những người cầm bút bài học thấm thía về tài năng và bản lĩnh thi sĩ. Con đường
đi của Xuân Diệu từ một nhà thơ lãng mạn thành một nhà thơ Cách mạng là con đường
tiêu biểu cho thế hệ Thơ mới 1932-1945. Ở cả hai chặng đường ấy, Xuân Diệu đều
có những cống hiến hết sức to lớn. Vị trí của ông trên văn đàn dân tộc là một vị
trí không ai có thể thay thế được. Cùng với khát vọng sống thiết tha sôi nổi,
thơ Xuân Diệu sẽ tiếp tục hành trình trong cuộc sống hôm nay và mai sau.
10/1/2019
10/1/2019
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét