Thứ Bảy, 21 tháng 11, 2020

Đầu năm nói chuyện nhạc

Đầu năm nói chuyện nhạc

Bản Nhạc tiền chiến "Thu quyến rũ"
của Đoàn Chuẩn - Từ Linh. Ảnh Internet.
Trước hết xin nói ngay "nhạc" ở đây là có dính líu tí chút tới âm nhạc, về âm nhạc nói chung tôi cũng không rành rẽ gì cho lắm, tuy cũng có biết chơi chút đỉnh guitar classique. Chẳng qua tết ngồi nhà không biết làm gì, đọc được một bài báo trên một trang mạng của một nhà thơ, nhà văn trước năm 1975 ở Sài Gòn *, viết về Nhạc sến. Trong đó có đoạn ông viết:
Không biết do đâu, sau năm 1975 gu thưởng thức nhạc đã chia ra 3 loại hình âm nhạc: Nhạc đỏ, Nhạc vàng, và Nhạc "sến". Nhạc đỏ là những bản nhạc cách mạng với giai điệu hùng tráng, ca từ mạnh mẽ, lạc quan mang tính chiến đấu cao từ trong chiến tranh, phổ biến ở cả miền Bắc lẫn miền Nam (thời kỳ tạm chiếm). Nhạc vàng, được hiểu là nhạc "tiền chiến", là những sáng tác âm nhạc trước năm 1945, hầu hết là những ca khúc trữ tình, giai điệu nhẹ nhàng, trầm buồn, ca từ trau chuốt, lãng mạn thể hiện tình yêu đôi lứa. Nhạc "sến", phổ biến trong giai đoạn chiến tranh ở miền Nam trước năm 1975, hầu hết những ca khúc này từ ca từ đến giai điệu đều rất buồn, thể hiện tình yêu đôi lứa trong cảnh chia ly, tan vỡ hoặc nỗi buồn về thân phận, quê hương chia cắt, một số ca khúc nói về đời lính, tình yêu lính trong bối cảnh chiến tranh, nhìn tương lai u ám, nuối tiếc dĩ vãng, kỷ niệm...
Trong bài tác giả lý giải về Nhạc sến:
"Nhạc sến" được quy cho cái mác "nhạc não tình". Nhưng thế nào là "Nhạc sến"? Có nhiều cách giải thích, nhưng theo tôi cách giải thích thuyết phục nhất, do đây là dòng nhạc sáng tác cho đại chúng, theo giai điệu Boléro, Hambanera, Slow rock... mà hầu hết lấy điệu Boléro làm chủ đạo, ca từ dễ hiểu, dễ thuộc, từ trong sinh hoạt đời thường, mang nặng tâm trạng của số đông kể cả thành thị lẫn nông thôn, nên khi được các ca sĩ có chất giọng phù hợp phổ biến trên các phương tiện truyền thông thời bấy giờ, rất dễ đi vào lòng người, lan tỏa nhanh thành một xu hướng nhạc thị hiếu, tạo thành phong trào, gu âm nhạc đáp ứng cho số đông.
Phải nói rằng, gạn lọc từ trong dòng nhạc này cũng có nhiều ca khúc phù hợp với tâm trạng của nhiều người và chính vì thế nó được hát mọi lúc mọi nơi. Không chỉ với người lớn tuổi mà cả giới trẻ, đặc biệt là giới "bình dân". Giới "bình dân" thời đó là ai? Đó là giới có trình độ văn hóa thấp, xuất thân từ nông thôn, do chiến tranh loạn lạc rời bỏ quê nhà lên thành phố Sài Gòn làm nghề ở mướn, giúp việc cho các gia đình người Mỹ có vợ Việt, hoặc gia đình người Việt giàu có.
Trên đây là đoạn mở đầu bài viết bàn về "Nhạc sến" của tác giả. 
Trước năm 1975, sống ở Sài Gòn tôi nhận thấy có mấy khái niệm chính để phân biệt về tính chất của những bài hát lúc bấy giờ:
1. Nhạc tiền chiến:
Là những bài hát được sáng tác trước năm 1945 (nếu hiểu theo đúng nghĩa của từ "tiền chiến"), như của Văn Cao, Đoàn Chuẩn, Đặng Thế Phong, Nguyễn Văn Thương, Doãn Mẫn, Dương Thiệu Tước, Nguyễn Văn Tý, Hoàng Quý, Lê Trạch Lựu, Hoàng Giác, Thẩm Oánh, Văn Phụng, Nguyễn Thiện Tơ, Lưu Hữu Phước, Vũ Thành, Phạm Duy... Cũng có thể thêm một số ca khúc được sáng tác sau thời gian 1945 ít lâu (khoảng chừng 5, 10 năm). Nhạc tiền chiến như thế bao gồm cả loại nhạc kêu gọi lòng yêu nước của thanh niên, giai điệu mạnh mẽ, nhưng đa số là những ca khúc nghiêng về tình cảm lứa đôi, giai điệu nhẹ nhàng.
Nhạc tiền chiến được ưa thích và phổ biến trong giới trí thức thời đó, bao gồm giới trí thức lớn tuổi và giới sinh viên, học sinh. Vào khoảng nửa đầu của thập niên 1975 trên truyền hình có nhạc sĩ Vũ Thành **, đảm trách một chương trình nhạc có tên là Nhạc thính phòng, thường giới thiệu những chương trình nhạc tiền chiến.
Bìa bản Nhạc tiền chiền "Em tôi" 
của nhạc sĩ Lê Trạch Lựu. Ảnh Internet.
2. Nhạc sến:
Là loại nhạc như ta đã thấy giải thích bên trên, được giới bình dân ưa thích, đa phần là những bản nhạc dựa trên nền nhạc Boléro. Ngoài ca từ dung dị dễ hiểu, đặc điểm nổi bật nhất của dòng Nhạc sến, là ở "chất giọng" của người hát, hát cho ra chất "sến" ngày xưa chắc ai ở Sài Gòn cũng phải đồng ý, không ai qua được nam ca sĩ Chế Linh. Riêng về việc ưa thích Nhạc sến là giới "bình dân" có lẽ phải nói thêm, không chỉ là những cô giúp việc nhà mà thời đó người ta gọi là những cô "sen", hoặc "Mari sến" (thời nay gọi là ô sin), có lẽ đây là một từ khôi hài vì thời đó giới nhà giàu lắm tiền của thường có tên Tây bên cạnh tên Việt, như tác giả bài báo đã viết.
Thực ra những cô sen hay "Mari sến" thời đó chỉ là một thành phần của giới "bình dân" lúc bấy giờ. Giới "bình dân" ở thời đó nói chung là những người ít học, còn ở nông thôn hay đã ra thành thị (thường do hoàn cảnh chiến tranh), và những người đã ở lâu nơi thành thị. Nét chung ở giới bình dân nữa là họ thường làm những công việc tay chân, buôn bán lặt vặt ở chợ, nghề tiểu thủ công, thợ thuyền lao động...
Như vậy ta thấy Nhạc sến thời đó là loại nhạc được ưa thích trong quảng đại quần chúng.
Bìa của một bản Nhạc sến 
trước năm 1975. Ảnh Internet.
3. Nhạc phản chiến:
Ngoài hai loại Nhạc tiền chiến và Nhạc sến ghi trên, trước năm 1975 còn một loại nhạc nữa ta thường nghe nói tới, thậm chí loại nhạc này bị chính quyền thời đó cấm phổ biến, đó là Nhạc phản chiến. Nhạc phản chiến là loại nhạc nói lên cái vô lý, tàn bạo của chiến tranh, hoặc phản đối chiến tranh, kêu gọi hòa bình, loại nhạc kêu gọi "Dậy mà đi" trong giới học sinh, sinh viên... Điển hình lúc bấy giờ có "Ca khúc da vàng", "Kinh Việt Nam" của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, hoặc những ca khúc "phản chiến" được lưu hành trong giới học sinh, sinh viên của các nhạc sĩ Tôn Thất Lập, Trương Quốc Khánh... lúc bấy giờ...
Nếu Nhạc tiền chiến và Nhạc sến có những đối tượng ưa thích được phân biệt rõ ràng, thì Nhạc phản chiến lúc ấy không phân biệt rõ như vậy. Trong giới nào, trí thức cũng như bình dân cũng đều có người yêu thích Nhạc phản chiến, kể cả một giới ta tưởng là "chiến" thời đó là quân nhân, cũng có rất nhiều người thích dòng Nhạc phản chiến (đấy cũng có thể là một lý do nhỏ để làm nên Bên thua cuộc và Bên thắng cuộc).
Bìa tập nhạc Ca khúc da vàng của 
nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Ảnh Internet.
Ngoài ba dòng nhạc chính kể trên, ta không thể không kể đến một dòng nhạc thời thượng lúc bấy, được phổ biến ở miền Nam nhất là trong thập niên của thời Đệ nhị Cộng hòa (khoảng từ 1965 đến 1975). Đó là những ca khúc được giới trí thức ưa thích, dòng nhạc này không có tên gọi rõ ràng như ba dòng nhạc trên, tiêu biểu là những ca khúc của những nhạc sĩ gạo cội như Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Cung Tiến, Trịnh Công Sơn, Nguyễn Ánh 9... và những nhạc sĩ trẻ hơn như Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng, Vũ Thành An, những ca khúc của cặp đôi Lê Uyên & Phương... Những bài hát này được gọi là Tình khúc, đó là những bản nhạc về tình yêu đôi lứa, phảng phất một triết lý nhân sinh của xã hội bấy giờ, và dĩ nhiên thời gian này chiến tranh đang nổ ra ác liệt tại miền Nam, cho nên trong nhiều bài hát là Tình khúc vẫn luôn mang âm hưởng và những mất mát do chiến cuộc mang lại...
Bìa nhạc phẩm Hoài cảm 
của Cung Tiến. Ảnh Internet.
Cũng xin nhắc thêm trước năm 1975 tại miền Nam, cụ thể tại Sài Gòn cũng phôi thai một dòng Nhạc trẻ mà nổi bật hơn hết có ban nhạc  Phượng Hoàng, với Nguyễn Trung Cang, Lê Hựu Hà, ca sĩ Elvis Phương của nhóm Rockin' Stars, hoặc nhóm Strawberry Four gồm Tuấn Ngọc, Đức Huy, Tiến Chinh, Tùng Giang... Và một dòng nhạc nữa gồm những bài hát được hát trong các buổi sinh hoạt Hướng đạo, sinh hoạt tập thể của thanh niên, trong đó bao gồm cả những bài hát của nhóm Nhạc Du ca do Hoàng Ngọc Tuệ, Nguyễn Đức Quang... khởi xướng.
Như chúng ta đã thấy những dòng nhạc chính kể trên sau một thời gian bị cấm đoán, thì nay đã trở lại mạnh mẽ, được nhiều người ưa thích hiện nay... Những bản Nhạc sến Boléro một thời được cho là ủy mị, văn hóa đồi trụy... nay đã phổ biến trên truyền hình...
Tuyển tập Nhạc trẻ trước năm 1975 
tại Sài Gòn. Ảnh Internet.
Nhân đây tôi cũng xin nói về Nhạc đỏ, Nhạc vàng, và Nhạc Sến như tác giả bài viết đã đề cập. Nhạc đỏ và Nhạc sến tác giả nói đã rõ, riêng về Nhạc vàng có lẽ cũng xin nói thêm chút đỉnh. Theo trang Wikipedia, trước năm 1975 chia thành 2 dòng Nhạc vàng, một là dòng Nhạc vàng của miền Bắc (từ vĩ tuyến 17 trở ra), đại khái từ Nhạc vàng này bắt nguồn từ khái niệm "nhạc màu vàng" (Hán ngữ gọi là hoàng sắc âm nhạc), là loại nhạc tình phổ biến ở Thượng Hải vào thập niên 1930, và từ ngữ này du nhập vào miền Bắc vào thập niên 1950.
Còn từ Nhạc vàng gọi ở miền Nam (từ vĩ tuyến 17 trở vào) từ thập niên 1960, nhạc sĩ Phó Quốc Lân đã lập ban "Nhạc vàng" thuộc đài Truyền hình Việt Nam lúc bấy giờ. Sau từ Nhạc vàng được dùng để chỉ chung những ca khúc tình yêu đôi lứa, tình yêu quê hương, lính chiến, thân phận con người trong chiến tranh... nói chung ta có thể hiểu Nhạc vàng là để chỉ chung cho loại nhạc tình cảm, ủy mị, trong đó có Nhạc tiền chiến, Nhạc sến (phổ biến trong giới bình dân), những ca khúc phổ biến trong giới trí thức... ở vào thời điểm trước năm 1975 tại miền Nam.
Ghi chú:
* Bài có tựa Nhạc sến là nhạc gì? đăng trên trang Một Thế Giới ngày 08-02-2016 của tác giả Từ Kế Tường.
** Vũ Thành: theo trang Wikipedia, nhạc sĩ Vũ Thành sinh năm 1926 tại Hà Nội. Trước năm 1954 ông là công chức và là nhạc trưởng ban nhạc "Việt nhạc" của đài phát thanh Hà Nội. Sau năm 1954 vào miền Nam ông phối âm lại nhiều ca khúc thời bấy giờ, và có làm chương trình Nhạc thính phòng được nhiều người yêu thích trên đài truyền hình, cùng một chương trình ca nhạc khác được yêu thích không kém, là chương trình nhạc Tiếng tơ đồng của nhạc sĩ Hoàng Trọng.
11/2/2016
Phạm Ngọc Hiệp
Theo https://ngochieppham.blogspot.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mang mùa xuân về

Mang mùa xuân về Máy bay từ từ hạ cánh. Dòng chữ “Cảng Hàng không Phù Cát” in lồng lộng nổi bật trên bầu trời đêm khiến lòng tôi nôn nao k...