Thứ Bảy, 21 tháng 11, 2020

"Thế giới ngủ trong đường viền" và giấc mơ con chữ

"Thế giới ngủ trong đường viền"
và giấc mơ con chữ

Đó là tập thơ thứ 5 của Trần Thị Huê, hội viên Hội Văn học nghệ thuật Quảng Bình, giáo viên Trường Mầm non Hiền Ninh, huyện Quảng Ninh (Quảng Bình). Tập thơ do Nhà phê bình văn học Hoàng Thụy Anh viết lời tựa, với 52 bài thơ đề cập nhiều mối quan hệ siêu nhiên, tự nhiên, hiện tượng, sự vật trong đời sống…
Ngổn ngang tâm trạng trước em bé trong bức tranh, tác giả mời ta đi từ bìa rừng, con đường già, cuộc sống của em…/ Bức tranh này nói với tôi có lửa, cả những đồ ăn của em có lửa. Thì ra, em là đứa con của rừng là thần mặt trời, hiện thân của sức mạnh sáng tạo mà người thơ luôn vươn tới. Trở lại hiện thực, chị như nói với chính mình: Thế giới lớn vô cùng nhưng em là đứa trẻ/ Đứa trẻ biết mọi thứ nghèo nhất/ Đứa trẻ biết khổ là gì khi mới sinh ra (Đứa trẻ biết khổ là gì khi mới sinh ra). Biển luôn là niềm tin vô tận của con người, là nơi hứng chịu và chia sớt sự cuồng nộ của bão tố. Lòng biển chấp nhận phũ phàng nhưng rồi xanh biếc, tươi trong, sáng niềm hy vọng: Em vẽ lên trang giấy những mảng màu khác lạ…/ Màu nguyên gốc tựa như ánh bình minh lớn lên từ biển/ Nhẫn nại trước phong ba/ Và biết cõng cánh chuồn trong nắng… (Ngày mới không tên). Khi thế giới ngủ trong đường viền của chiếc túi xách/ Nó chưa hề ăn và chưa hề va chạm/ Chưa hề yêu nhưng chị đã chiêm nghiệm Chừng ấy năm đi dưới bàn chân/ Nghe xát và êm khoảng khuyết/ Chân viết hẳn một nét huyền chảy dài mi mắt/ Tóc khâu hoài niệm/ Trăng ngọt nằm nghiêng (Thế giới ngủ trong đường viền). Không ai níu giữ được thời gian nhưng nó đã chuyên chở cho ta niềm vui, nỗi buồn, dại khờ, khổ đau, hạnh phúc… ví không có thời gian tất cả đều đông cứng. Với Huê, mỗi ký tự của chị đều cho thấy giọng điệu của ý nghĩ, ý nghĩ bung nở hết mình trước thời gian: Níu dại khờ năm trước biết mọi thứ để dành không thuộc về mình nhưng ấm lòng con sông hẹp/…Thương tấm áo nâu sờn vai/ Thương chuyến tàu đi muộn trong đêm có một cụ già nhớ về cảnh nghèo năm trước/ Phía ấy lên đèn đã nói với chính em/ Xuân đã về/ Sưởi ấm con đường chỉ đỏ/ Mẹ gánh cả niềm vui theo triền cát đi về/ Nụ hồng khoe sắc dày thêm sau tấm áo/ Mưa phùn rơi thắp ngọn lửa ngày đông/ Xuân lại về ta nắm bàn tay (Ý nghĩ nhiều hơn thời gian đã nghĩ). Đọc bài “Người đàn ông của chị”, tôi muốn làm điều gì đó có thể, giúp “chị” san vợi những u buồn: Người đàn ông của chị…/ Đường đi chìm vào khoảng lặng im/ Trời chiều nghe mọi thứ chờ đợi mọi thứ/ Cánh cửa mở ra lặng ngắt/ Chị ngồi chong mắt/ Khêu lên/ Mặt trời quay về hướng núi/ Chị cuốn mái tóc dài che khuôn mặt/ Che số phận của mình và người đàn ông giấu mặt/ Chị đã cưới sau mưa. Tôi tin nhiều bạn đọc rất cảm bài thơ này, chỉ với khổ thơ thứ hai: Trời chiều nghe mọi thứ chờ đợi mọi thứ/ Cánh cửa mở ra lặng ngắt/ Chị ngồi chong mắt/ Khêu lên đủ làm ta dứt day khó tả. Chị khêu thêm ngọn đèn, khêu thêm ánh mắt kiên nhẫn đợi chờ và khêu lên cả niềm hy vọng. Để hoàng hôn xuống chị cuộn mái tóc dài che khuôn mặt…/ Chị đã cưới sau mưa, đám cưới của riêng chị và cơn mưa của những ngày cách xa, cơn mưa của tháng năm mòn mỏi đợi mong, cơn mưa của những buổi chiều chong mắt/ khêu lên.  
Vẫn chủ đề “Mẹ”, đề tài muôn thuở của thi ca: Mới hôm qua mẹ ngồi nhìn chùm khế…/ Lưng còng sát chân ôm trọn một đời eo/ Mẹ nhìn lên tiếng gáy ban trưa/ Con gà kiến tật nguyền tìm mồi trong luống cải. Từng câu thơ được kết ghép tài tình, đan xen giữa tả, gợi và kể khiến người đọc rưng rức tình mẫu tử: Vạt áo cũ một thời mẹ không làm dơ bẩn…/ Con chữ trời cho nguệch ngoạc nhưng nghĩa đủ để làm thơ/ Nghèo đói bao nhiêu cũng đừng bán đi con nhé. Ai từng bên mẹ những ngày cuối đời, ắt sẽ khó kìm giọt lệ ứa ra: Giờ mẹ nằm im đau lắm với cơn đau/ Nếp nhà nghiêng về đâu mẹ không còn nhớ. Cơn đau dập dồn, bám riết lấy cái lưng còng sát chân của mẹ và câu ngọt ngào thưa dần trộn đều vào lưng cháo, đâu khác hoa khế hôm nào lặng vào trong tiếng gà trưa (Hoa khế). Những ngữ cảnh được chị dọn bày, xua đi ám ảnh buồn, gieo niềm tin vào đời mẹ, đời ta: Thuở bé mẹ nói với tôi bằng nỗi buồn/ Nỗi buồn cỏ xước đồng khô/ Mẹ đã đi suốt chiều dài bằng đường cong tuổi tác/ Mẹ lau nỗi buồn bằng chiếc lá màu xanh…/ Mẹ chưa bao giờ nghe một lời khác tình yêu/ Dẫu có lệch hướng mặt trời dẫu dòng sông ngược nước/ Và tôi vẽ lên tường giúp mẹ những lòng tin (Một lời khác của tình yêu).      
Tâm sự cùng mẹ và cứ thế ta đi, đi sâu vào sự quăng quật của đời người, một lúc nào đó, nỗi nhớ người cha thân yêu lại đưa ta trở về tắm mình trong ký ức, hình ảnh ta gặp đầu tiên ngay trên đồng quê: Bố nhọc nhằn ngồi bên bó rạ nhìn mưa. Bố cày ruộng trong ngày mưa và điệp khúc của đường cày chẳng khác nào khuông nhạc quấn lấy tâm hồn con: Dẫu phố thị có cuốn con vào cuộc sống/ Nhưng đường cày vẫn hiện hữu/ Thành điệp khúc mùa đông/ Màu lấp lánh của rơm lại nở trên đồng (Điệp khúc đường cày). Là đứa con miền Trung, người thơ đã bao lần chứng kiến cảnh ngập ngụa, trôi dạt, xót xa… Đêm nhủ em nhặt hết những giọt nước mắt không còn thấm ướt/ Xóa hết hàng chữ nghiêng giấu mặt/ Mười một giờ đồng hồ treo ngược nước lũ tràn qua/ Côn trùng đi nhầm vào ổ kính chui qua lan can bay lên khoảng trống…/ Miền Trung những tháng thương nghiệt ngã. Trong cảnh tiêu điều, Hạnh phúc trên tay đọng lại những giọt buồn, người ta vẫn hy vọng vươn tới Thế giới mon men theo chùm hoa đang nở. Có một loài hoa, biểu tượng sức sống mãnh liệt, bất chấp mọi khắc nghiệt của thiên nhiên nhưng Cây xương rồng úp mặt/ Kiến bò ngang hồn nhiên. Ta thử hỏi có nơi nào tốt hơn cho lũ kiến trong hành trình “chạy lũ”, mà chúng không len lỏi trong gai góc của nhánh xương rồng? Và đây, một sự liên tưởng độc đáo về biển của Huê: Phía ấy ngọn nắng thẳng tắp trôi theo dòng xoáy/ Phía ấy sóng trào bến vắng xóa hết mầm cây. Biển gồng mình gánh hết bão giông, những sợi nắng hiếm hoi như đường kẽ xuyên qua phiến mây dày, sóng ào ạt trào lên bến vắng, vắng cả những mầm cây. Song người thơ chẳng hề bi lụy, nhẫn nại khâu lại con thuyền cầu trời bình yên…/ Và, Đêm nghe nắng thở gấp…/ Cây xương rồng nở hoa trong mưa ướt nỗi lòng (Cây xương rồng).
Dạy trẻ, tác giả rất khéo khi vận dụng hình tượng người chèo thuyền, thay vì lâu nay ta vẫn nói “người đưa đò”: Người chèo thuyền bằng sông/ Vào đêm trở gió/ Ngọn gió trái với khuôn mặt phủ đầy lọn tóc…/ Người chèo thuyền bằng mái chèo/ Một đêm trở gió…/ Phả xuống đáy sông những dại khờ. Con thuyền của chị Người chèo thuyền bằng tâm, chỉ muốn gạt phăng sóng gió, đưa lại những ban mai tươi đẹp, cắm vào đó những cánh hoa cho bình minh càng thơm mát: Chở lớp sóng xô qua bên kia núi/ Chỉ ước cắm vào bình minh những cánh hoa thơm (Ước).
Thơ chị thường gieo cho người đọc những bất ngờ thú vị, một chút nhíu mày để rồi ta nở nụ cười với từng con chữ. Bạn đọc quý mến chị, một người viết không dễ dãi, luôn tìm tòi đổi mới thơ, mạnh dạn bứt phá những gò bó tiềm thức để đến với thơ đương đại, góp phần mang sự tươi mới cho văn học tỉnh nhà. Điều làm chúng ta yêu quý chị hơn, sau khi tìm hiểu đời sống đồng bào Ma Coong ở Bản Troi xã Thượng Trạch, huyện Bố Trạch (Quảng Bình). Chị đã quyết định, nhờ một số đồng nghiệp phối hợp phát hành 1000 bản “Thế giới ngủ trong đường viền” để gây quỹ “Giấc mơ con chữ”, giúp trẻ em dân tộc Bru-Vân Kiều có cơ hội được đến trường. Qua 5 tập thơ, nhất là với “Thế giới ngủ trong đường viền”, người đọc không khỏi khâm phục bản năng thơ của chị. Cùng với ước mơ giản dị được “đứng lớp ổn định”, chị còn ấp ủ niềm đam mê đến với thi ca bằng những khát khao cháy bỏng. Chính đó đã tiếp sức giúp chị vượt qua những khó khăn để dạy trẻ, làm thơ, in thơ và dùng thơ để giúp học trò nghèo…
Trang bìa tập thơ “Thế giới ngủ trong 
đường viền” của Trần Thị Huê
Nguyễn Tiến Nên
Nguồn: Tạp chí Quê hương ngày nay
Theo https://newthoidai.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Lần mừng thọ ấy của ông tôi  Không biết có tự bao giờ, song từ khi còn nhỏ, tôi đã thấy ở làng tôi có lệ những người bắt đầu bước vào tu...