Chủ Nhật, 22 tháng 11, 2020

Từ Gió lạnh đầu mùa đến Hai đứa trẻ - Thạch Lam, ấm áp nghĩa tình

Từ Gió lạnh đầu mùa đến 
Hai đứa trẻ - Thạch Lam, ấm áp nghĩa tình

Thạch Lam sinh ngày 7.7.1910, mất ngày 28.6.1942, tên thật Nguyễn Tường Vinh, sau đổi thành Nguyễn Tường Lân, là cây bút viết truyện ngắn xuất sắc của dòng văn học Việt Nam 1930 -1945. Trong suốt cuộc đời cầm bút ngắn ngủi của mình, nhà văn đã lặng lẽ cống hiến cho văn học những tác phẩm đặc sắc như Gió lạnh đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938), Theo dòng (1941), Sợi tóc (1942), Hà Nội ba mươi sáu phố phường. Hiện hữu trong trang viết của ông là những kiếp đời bất hạnh tận đáy xã hội với niềm cảm thông sâu sắc qua những tác phẩm bàng bạc chất thơ, là sự kết hợp hài hòa dòng cảm xúc lãng mạn và hiện thực đã vẽ nên một bức tranh sinh động về những số phận hèn mọn trong cõi nhân sinh mà chan chứa nghĩa tình.
Xuất thân từ một gia đình công chức gốc quan lại, là em ruột của hai nhà văn nổi tiếng đương thời là Nhất Linh và Hoàng Đạo nhưng cái nhìn của Thạch Lam không phải là sự thương hại, ban ơn bố thí mà là sự sẻ chia những cơ cực trong cơm áo đời thường với những con người “đói nghèo trong rơm rạ“(Chế Lan Viên). Truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa cứ nhè nhẹ mà thấm sâu vào hồn người, nhen lên ngọn lửa yêu thương để tìm chút hơi ấm trong những ngày rét mướt. Tình huống truyện là sự đổi mùa đột ngột từ cuối thu sang đầu đông. Qua một đêm mưa rào, trời bỗng đổi gió bấc mang theo hơi lạnh tràn về. Trong một xóm chợ đìu hiu, những đứa trẻ con nhà nghèo vẫn phong phanh manh áo rách mà hồn nhiên nói chuyện về chiếc áo ấm. Nhà văn đã vẽ lên vẻ đẹp trong sáng, ngây thơ của những đứa trẻ không phân biệt sang hèn, đẳng cấp, chúng đến với nhau bằng tất cả trái tim tình người.
Dưới nét bút của Thạch Lam, thiên nhiên bên ngoài là cái cớ để khơi gợi thế giới nội tâm lung linh sâu lắng, thế giới của những cảm xúc vô bờ mà cứ nhè nhẹ thắm tình người. Trong tác phẩm Gió lạnh đầu mùa nhà văn đã miêu tả tinh tế và chính xác sự chuyển đổi mùa từ cuối thu sang đầu đông bằng những từ ngữ cô đọng, vừa tượng thanh, vừa tượng hình vừa khơi gợi cảm xúc: “cái nắng tháng mười làm nứt nẻ đồng ruộng và làm giòn khô những chiếc lá rơi …”, “ngoài sân đất khô trắng… cơn gió vi vu làm bốc lên những làn bụi nhỏ, thổi lăn những cái lá khô lạo xạo…”. Cái lạnh đó là cái cớ để mọi người trong nhà thu mình vào thế giới nội tâm se thắt.
Thạch Lam đã khéo quan sát tinh tường, chọn những chi tiết hết sức tiêu biểu từ màu sắc, âm thanh đến sự chuyển động của cảnh chuyển mùa trong cái lạnh đầu đông để hoài niệm. Cái lạnh đó là lý do để chị Lan khệ nệ ôm cái thúng quần áo cũ để hơi mốc của vải gấp lâu ngày như hơi thở của quá khứ phả vào hiện tại, chiếm lĩnh lấy tiềm thức con người một nỗi buồn mơ hồ xa xăm đang dần dần hiện về mang theo hình dáng của Duyên, đứa em gái đã mất, làm người vú già ngậm ngùi “lật đi lật lại ngắm nghía, tay mân mê các đường chỉ” trên cái áo bông đã cũ của Duyên; Sơn cảm động và thương em quá, còn mẹ Sơn chỉ yên lặng rơm rớm nước mắt. Cơn gió lạnh đã lật lại một kỷ niệm buồn để se thắt lại nỗi nhớ riêng của từng người trong gia đình. 
Chính những “cơn gió vi vu làm bốc lên những làn bụi nhỏ thổi lăn những chiếc lá lao xao” đã thổi qua miền quá khứ, đưa người đọc về lại hiện thực xã hội, cái hiện thực của xóm chợ nông thôn nghèo với biết bao cảnh đời cơ cực của những con người chân lấm tay bùn mà cái nghèo từ tiền kiếp chưa tan. Nhà văn khắc họa cuộc sống ấy qua hình ảnh xiêu vẹo của mấy cái quán “chơ vơ lộng gió”, bẩn thỉu với những đứa trẻ con nhà nghèo như thằng Cúc, thằng Xuân, con Tý, con Túc… Đám trẻ ấy đã giương mắt kinh ngạc trước áo ấm của Sơn. Đối với chúng cái áo ấm là điều xa lạ không tưởng. Một đứa tặc lưỡi thèm khát nói: “Chiếc áo này mặc thì nóng lắm! Chắc mua phải đến một đồng bạc chứ không ít”. Thạch Lam đã phơi trần hiện thực nghèo đói của đất nước trong những năm trước Cách mạng tháng Tám như Chế Lan Viên cũng đã từng viết:
“Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ
Văn chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi”.
Giữa cái lạnh làm cho da thịt chúng tím lại và thâm đi qua những chỗ rách, “mỗi cơn gió đến chúng lại run lên, hai hàm răng đập mạnh vào nhau” thế mà cậu bé xóm nghèo lại tưởng tượng mặc chiếc áo vào chắc “nóng” lắm. Đó là nỗi khao khát thèm muốn được mặc chiếc áo ấm chừng như còn sung sướng nào bằng, như một người bộ hành giữa sa mạc mênh mông nắng cháy thèm được ngả lưng vào bóng mát hàng cây, uống ngụm nước ngọt lịm. Thậm chí có đứa còn kể ngày trước thầy chúng cũng có một cái áo ấm nhưng sau đó bán cho ông cụ Lý một cách hồn nhiên vô tư làm cho người đọc không khỏi rưng rức xót xa. Bút pháp hiện thực thật tinh tế ấy đã thể hiện sự đồng cảm sâu sắc từ trong tận cùng sâu thẳm của trái tim quảng đại. Nói như Mộng Liên Đường trong lời tựa cho Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du có viết: “Nếu không có con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời thì tài nào có cái bút lực ấy”. Vâng, đó là tư tưởng nhân đạo là tình người bao la.
Cảm thông sâu sắc nỗi cơ cực của người dân, Thạch Lam đã xây dựng một thế giới con người xích lại gần nhau hơn, truyền cho nhau hơi ấm để xua đi gió lạnh đầu mùa. Những con người trong tác phẩm ấm áp nhân bản. Sơn và chị Lan đã động lòng thương cái Hiên đứng co ro bên cột quán với áo rách tả tơi. Chính Sơn đã xúc động như ban sáng “nhớ đến em Duyên ngày trước vẫn cùng chơi với Hiên đùa nghịch ở vườn nhà”. Tình thương chân thành ngây thơ trong sáng ấy đã khiến Sơn nảy ra ý nghĩ và bàn với chị Lan về nhà lấy áo bông cũ của Duyên đem cho Hiên. Trong niềm vui khi mình vừa làm được việc thiện, “Sơn đứng lặng yên đợi, trong lòng tự nhiên thấy ấm áp vui vui”. Đó là ngọn lửa của lòng nhân ái trong sáng, là tình cảm “thương người như thể thương thân”. Thật khéo léo, nhà văn khắc họa tâm trạng phơi phới niềm vui cứ lan tỏa thấm sâu dần, nó xua đi nỗi lạnh lẽo của gió lạnh đầu mùa không biết tự lúc nào không hay.
Thế giới nhân vật của Thạch Lam là những con người trong sáng hiền hòa, vô tư không vụ lợi, như Sơn khi trao áo cho Hiên, Sơn nào nghĩ đó là kỷ vật mà mẹ Sơn rất trân trọng nâng niu. Trong hồn nhiên tuổi thơ, Sơn nào có nghĩ gì ngoài việc giúp cho Hiên vượt qua cái rét, chỉ đến khi về nhà nghe người vú già nói, chị em Sơn đâm ra lo sợ. Thế là cả hai bỏ cơm đi tìm Hiên để đòi áo. Thật là tính cách trẻ con, vui đó, buồn đó, cho đó và đòi lại ngay sau đó. Những nhân vật của nhà văn có thế giới nội tâm rất đơn giản trong cuộc sống dung dị, nghĩ sao nói vậy, nghe vú già bảo đi đòi áo là vội vã đi ngay; rồi khi không tìm được Hiên, cả hai đã trách lẫn nhau. Đến xế chiều, hai chị em lẻn về nhà trong hoang mang lo sợ thì chính truyện đã mở ra một không gian ấm áp thân thương. Tình huống truyện thật bất ngờ thú vị, mẹ Hiên mang áo trả lại cho mẹ Sơn. Những con người trong Gió lạnh đầu mùa là những con người từ tâm, giàu tình cảm yêu thương. Sự phân biệt giàu nghèo chừng như không có chỗ tồn tại trong không gian truyện. Những đứa trẻ xóm nghèo vẫn cứ gần gũi nhau. Mẹ Hiên dù rất thương con cũng không lợi dụng lòng tốt ngây thơ dại dột của Sơn đã vội vàng đem áo bông trả lại. Mẹ Sơn chỉ mắng yêu hai con: “Kìa, cô cậu đã về kia. Thế áo bông của tôi đâu mà dám tự tiện đem cho đấy ?”. Rồi cũng chính mẹ Sơn đã cho mẹ Hiên vay năm hào để mua áo cho Hiên trong niềm san sẻ cảm thông. Một nghĩa cử đẹp hợp đạo lý của dân tộc Việt Nam. Truyện kết thúc trong vòng tay ấm áp của người mẹ nhân từ, cảm thông và tấm lòng nhân hậu của hai đứa con. 
Câu chuyện mở đầu bằng cái lạnh rét mướt và kết thúc trong hơi ấm tình người. Dẫu biết rằng với năm hào đó cũng không thể giúp mẹ con Hiên vượt qua cái nghèo, cái lạnh mùa đông, song nó vẫn ánh lên nghĩa tình “Miếng khi đói bằng gói khi no”. Đó là triết lý mà Thạch Lam muốn xây dựng.
Đến với Hai đứa trẻ, Thạch Lam kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố hiện thực và lãng mạn. Hai đứa trẻ có cốt truyện đơn giản, một kiểu truyện ngắn trữ tình để diễn tả tâm trạng nhân vật, qua đó, tác giả đã gửi gắm một cách kín đáo, nhẹ nhàng mà thấm thía niềm xót thương đối với những kiếp nghèo cơ cực quanh phố huyện nghèo nàn, xơ xác trong không gian ngày tàn, chợ tàn, những kiếp người tàn tạ nơi phố chợ chờ đợi một chuyến tàu đi qua, quét chút ánh sáng mơ hồ rồi cũng tàn lụi vào đêm đen.
Câu chuyện mở đầu trong giờ khắc ngày tàn ở một phố huyện nghèo với không gian một vùng ánh sáng đỏ rực ở phương tây, một áng mây hồng, những dãy tre làng in trên nền trời. và “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve”. Những âm thanh dường như cố nhỏ lại lịm dần đi thưa thớt, Đó là dấu vết còn lại của ngày tàn, là nhịp đời nhẹ trôi buồn bã, chậm rãi, tù đọng để điểm báo sự tàn lụi của một ngày. 
Theo Tiến sĩ Phan Huy Dũng: “Hình ảnh thiên nhiên trong truyện gây cho người đọc những ấn tượng sâu đậm. Sự êm ả, đượm buồn mà ta nhận thấy một phần là của thiên nhiên với tư cách chất liệu, vật liệu, một phần là của nhà văn. Những bức tranh nho nhỏ được gài xen kẽ với những mẩu đối thoại rời rạc, không hoàn chỉnh. Chúng lấp đầy những khoảng trống của lời nói và cầm giữ nhịp điệu của thiên truyện… Ở đây, thiên nhiên không thu hút toàn bộ thần trí con người để họ mê man trong đó. Nó gần gũi, vỗ về, khơi gợi những cảm xúc dịu dàng và bâng khuâng”.
Bên cạnh cảnh ngày tàn, chợ tàn là những kiếp đời tàn tạ. Một không gian tẻ nhạt, cứ tuần hoàn lặp đi lặp lại trong vô vị như cái vòng luẩn quẩn kết chặt những mảnh đời quanh phố chợ đìu hiu “Ngày, chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này dưới gốc cây bàng, bên cạnh cái mốc gạch. Để bán cho ai? Mấy người phu gạo hay phu xe, thỉnh thoảng có mấy chú lính lệ trong huyện hay người nhà thầy thừa đi gọi chân tổ tôm, cao hứng vào hàng chị uống bát nước chè tươi và hút điếu thuốc lào. Chị Tí chả kiếm được bao nhiêu, nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng, từ chập tối cho đến đêm”. Một chút ánh sáng của ngọn đèn chị Tý leo lét và tất cả chờ đợi một chút ánh sáng từ chuyến tàu đêm quét qua không gian nhỏ bé mang theo niềm hy vọng mơ hồ thắp lên rồi cũng vụt tắt theo hành trình của con tàu.
Truyện tạo cho người đọc cái cảm giác chập chờn, nửa mơ nửa thực, khắc khoải chờ mong hy vọng mơ hồ lan tỏa, chợt lóe lên rồi lại vụt tắt như ánh đèn của xe lửa quét qua sân ga xép bé nhỏ rồi tan biến để lại ngọn đèn dầu tù mù, leo lét của chị hàng nước vắng khách gợi cho người đọc cảm giác buồn man mác sâu kín.
Không gian và thời gian trong Hai đứa trẻ Hai đứa trẻ có sự hòa quyện giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn trữ tình. Không gian trong tác phẩm là không gian đa chiều với khung cánh xơ xác lúc chiều tàn của một phố huyện nghèo trước Cách mạng tháng Tám. Đây là một không gian thực. Bên cạnh đó, Thạch Lam đã khắc họa không gian hồi tưởng trong ký ức của chị em Liên khi còn ở Hà Nội và một không gian mơ tưởng nơi Hà Nội xa xăm, tấp nập, sáng rực, huyên náo và hạnh phúc. Đó chính là tư tưởng nhân văn của tác phẩm.
Chiều khép lại để nhường cho bóng tối của ban đêm. Thời gian và không gian cứ nhè nhẹ mà sâu lắng trong lòng người. Không dữ dội, mãnh liệt, không gân guốc, nét bút trữ tình tài hoa của Thạch Lam bàn bạc, bảng lảng như sương chiều mênh mang nửa thi vị mộc mạc, nửa khơi gợi nỗi nhớ nhung xa vắng, nhất là những người rời xa Hà Nội. Nhà văn diễn tả thời gian một đêm mùa hạ “Trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát. Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối. Các nhà đã đóng im ỉm, trừ một vài cửa hàng còn thức, nhưng cửa chỉ để hé ra một khe ánh sáng”. Chị em Liên hãy còn ngồi trên chõng để nhìn ban đêm. Những cánh hoa bàng khẽ rụng lên tóc Liên và xuống chõng thật thi vị mà đượm buồn. Sự tương quan giữa ánh sáng và bóng tối để cho thấy cuộc sống nơi đây khi đêm về. Ánh sáng của vòm trời hàng ngàn ngôi sao đua nhau lấp lánh, vệt sáng của những con đom đóm, ánh sáng hắt ra từ ngọn đèn leo lét của chị Tý, hay bếp lửa của bác Siêu không thể nào xua đi bóng tối kể cả ánh sáng của chuyến tàu đêm quét qua sân ga nhỏ. Những mảnh đời chắp vá, những cư dân nghèo lam lũ kiếm sống ban đêm như mẹ con chị Tí, gia đình người hát xẩm, bác Siêu, bà cụ Thi điên nghiện rượu, những người lính lệ... tất cả họ bước vào bóng tối với dáng vẻ liêu xiêu, lầm lũi như chính cuộc đời họ. Trong đêm tối ấy họ vẫn mong chờ một điều gì đó tươi sáng hơn trong cuộc đời mình. Họ chờ đợi khoảnh khắc ánh sáng của một chuyến tàu đêm đến. Và rồi khi luồng sáng quét qua nhanh, để lại những đốm than đỏ bay trong đêm tối. Một thứ ánh sáng thắp sáng niềm tin dẫu còn mơ hồ. Nhưng có niềm tin ấy cũng là điểm tựa trong hành trình của cõi đời. Nó khác với Tắt đèn của Ngô Tất Tố, hay Chí Phèo của Nam Cao kết thúc trong bi kịch.
Và cũng chính nguồn sáng ấy là nguồn sáng khơi gợi sự hồi tưởng về một Hà Nội còn trong ký ức của Liên về cuộc sống khá giả, đầy đủ của ngày trước “Liên nhớ lại khi ở Hà Nội chỉ được hưởng những thức quà ngon, lạ - bấy giờ mẹ Liên nhiều tiền - được đi chơi bờ hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ. Ngoài ra, kỷ niệm nhớ lại không rơ rệt, chỉ là một vùng sáng rực và lấp lánh. Hà Nội nhiều đèn quá!”. Và cũng như những người dân nơi đây mơ ước, chờ đợi một tương lai “Liên cũng trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất, như ma trơi. Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo gió xa xôi”. Nhưng hy vọng cũng chỉ là thoáng qua “Tiếng còi đã rít lên, và tàu rầm rộ đi tới. Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng. Rồi chiếc tàu đi vào đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Hai chị em còn nhìn theo cái chấm đỏ của chiếc đèn xanh trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre”, “Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua”.
Thạch Lam viết: “Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại, văn chương là một thứ vũ khí thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác; vừa làm cho lòng người thêm được trong sạch và phong phú hơn.” (Sách giáo viên Ngữ văn 11, tập 1). 
Thế giới nhân vật của Thạch Lam không bi thương dữ dội như lão Hạc của Nam Cao hay chị Dậu của Ngô Tất Tố. Thạch Lam ít nói đến những bế tắc, những bi kịch của mảnh đời oan nghiệt. Những con người cứ lặng yên, lặng yên như quán chợ chơ vơ đìu hiu, như cái nghèo triền miên đeo đuổi không rời. Và trong gian khổ ấy vẫn ấm áp tình người. Trái tim nhân hậu của nhà văn đã ước mơ con người xích lại gần nhau, gần nhau hơn nữa và đặc biệt tác giả đã có cái nhìn đầy trân trọng đối với thế giới tuổi thơ, những tâm hồn trong trẻo tuyệt vời, giàu tình thương, không phân biệt đẳng cấp xã hội. Nhà văn như thì thầm với chúng ta hãy bồi dưỡng và phát huy lòng nhân ái, hãy sống bằng tình người bao dung. 
Truyện ngắn Thạch Lam với một nghệ thuật tinh tế, nhẹ nhàng, trong bút pháp vừa tả thực, vừa lãng mạn đã khắc họa bức tranh cuộc sống để lại trong tâm hồn ta những dư vị đằm thắm của quê hương và một sự cảm thương man mác về những phận đời trong kiếp nghèo và ước vọng về tình người bao dung.
30/3/2020
Nguyễn Hoàng Quân Thụy
Theo https://vinhvien.edu.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...