Tự Lực văn đoàn
Văn học và cách mạng
1- Ngòi bút đứng lên
Chỉ cái chết của ý tưởng là đáng sợ... là đáng phàn nàn...
Còn cái chết của người! |
|
Tới ngày nào bị bắt buộc phải gác bút thì lúc đó nhà văn sẽ
phải cầm súng. |
Bìa Phong Hóa số
1
Bìa Phong Hóa số 14
"Người ta không viết cho kẻ nô lệ. Nghệ thuật văn xuôi
liên hệ với một thể chế duy nhất mà nó còn giữ được ý nghĩa trọn vẹn: đó là dân
chủ. Khi cái này bị đe dọa, thì cái kia cũng bị đe dọa theo. Tranh đấu bằng
ngòi bút, nhiều khi cũng chưa đủ. Tới ngày nào bị bắt buộc phải gác bút thì lúc
đó nhà văn sẽ phải cầm súng. Như thế, bất cứ anh đến với chữ nghĩa bằng phương
tiện gì, dù anh có những tư tưởng như thế nào, văn chương cũng vẫn dồn anh ra mặt
trận. Viết tức là một cách nào đó muốn có tự do, và nếu anh đã bắt đầu, thì dầu
muốn dầu không, anh phải dấn thân (1)".Những lời Jean-Paul Sartre viết năm 1948 trên đây tại Paris, phản ảnh thực tại của phong trào văn học và cách mạng duy nhất ở Việt Nam: Tự Lực văn đoàn.
Khởi đầu, họ chỉ là những thanh niên yêu văn chương nghệ thuật, mới tập viết văn hoặc đang học vẽ, nhưng chỉ trong vài năm, họ đã trở thành những tên tuổi hàng đầu của nền văn học và hội họa nước nhà. Họ đã tạo được một phong trào đổi mới văn chương tư tưởng, cải tiến xã hội chưa từng thấy. Ẩn dưới chiều sâu của cuộc cải cách văn chương và xã hội là mục đích giải phóng dân tộc khỏi vòng nô lệ.
Khi chính quyền thực dân dùng sự kiểm duyệt khắt khe để triệt hạ sức phản kháng bằng ngòi bút, những người cầm đầu Tự Lực văn đoàn đã bỏ văn nghệ để cầm súng. Đó là lịch sử của nhóm Tự Lực, quy tụ chung quanh bốn thành viên chính: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo và Nguyễn Gia Trí. Đây cũng lịch sử của một tình bạn lạ lùng giữa Khái Hưng và Nhất Linh, từ những bước đầu thành lập Tự Lực văn đoàn. Nguyễn Gia Trí là người ra đi cuối cùng, sau khi các bạn đã lần lượt nằm xuống.
Ta thử tưởng tượng: dưới thời Pháp bị Đức đô hộ, Paris có một tờ báo trào phúng hàng tuần, kiểu Le Canard enchainé (Con vịt bị xích) ngoài những tiểu thuyết của Stendhal, Balzac... còn in tranh hài hước của Picasso, Braque... kèm với những bài xã luận chính trị nẩy lửa bàn về quyền làm người, để chống lại chế độ Đức quốc xã đang thống trị trên nước Pháp.
Tờ báo tưởng tượng này chính là ảnh thực của hai tờ tuần báo Phong Hóa Ngày Nay, trong thời điểm 1932-1940, tại Hà Nội, đã quy tụ những ngòi bút tài ba nhất của thế hệ: Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam... và của các họa sĩ hàng đầu: Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân... cùng những tác giả nổi tiếng khác, hợp lực cộng tác để xây dựng một nền văn nghệ quốc ngữ mới, đưa dân tộc ra khỏi hai vòng nô lệ: nô lệ hủ tục và nô lệ thực dân, với những mục đích chính:
- Phát triển và đổi mới nền văn học Quốc ngữ.
- Phê bình đạo lý Khổng Mạnh, chống chế độ đại gia đình, loại bỏ hủ tục, mê tín, dị đoan.
- Xây dựng một xã hội tân tiến.
- Tranh đấu chống thực dân, đòi tự do dân chủ.
Họ đã liên kết văn chương với hội họa vào cuộc tranh đấu chống chính quyền thuộc địa, trên bình diện văn hóa, trước. Khi cuộc chiến bằng ngòi bút bị bức tường kiểm duyệt chận lại, họ quay sang cầm súng, sau. Đó là thực chất của phong trào Tự Lực văn đoàn.
Trong tám năm, từ 1932 đến 1940, Tự Lực văn đoàn hoạt động không ngừng trên khuôn khổ của hai tờ tuần báo:
Phong Hóa, số 1 (ra ngày 16-6-1932), do Trần Khánh Giư (Khái Hưng) chấp bút từ số 1 đến số 13 (8-9-32). Từ Phong Hóa số 14 (22-9-32) Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh) làm Giám đốc tới số 190 (5-6-36) thì bị rút giấy phép, phải đình bản hẳn.
Ngày Nay từ số 1 (30-1-35) đến số 224 (7-9-40) do Nguyễn Tường Cẩm, Nguyễn Tường Tam, Trần Khánh Giư, Nguyễn Tường Lân (Thạch Lam) thay phiên nhau làm Giám đốc.
Ngày Nay số 1
Ngày Nay số 16
Con đường đấu tranh của Tự Lực văn đoàn, thể hiện trên ba
bình diện: Chính trị, trào phúng và văn chương, từ Phong Hóa số
14 (22-9-1932) đến Ngày Nay số 224 (7-9-1940), là số cuối cùng.
Toàn bộ sưu tập Phong Hóa Ngày Nay đã được công bố,
từ ngày 12-9-2012, trên một số website trong và ngoài nước, qua các thư viện điện
tử: Người Việt Online, Diễn Đàn.org, Viện Việt Học... ở hải ngoại, và thư
viện một số đại học trong nước. Nhờ cố gắng của năm người: Phạm Phú Minh, chủ
biên báo mạng Diendantheky, Nguyễn Trọng Hiền, con trai họa sĩ Le Mur Nguyễn
Cát Tường, Nguyễn Tường Giang, nhà thơ, con trai nhà văn Thạch Lam; Phạm Thị Thảo
bút hiệu Phạm Thảo Nguyên, con dâu nhà thơ Thế Lữ và Thành Tôn, nhà thơ.2
Nhờ bộ sưu tập này, không những chúng ta có thể đọc trực tiếp
những tác phẩm văn chương của Khái Hưng, Nhất Linh, những bài nghiên cứu chính
trị của Hoàng Đạo, xem tranh hài hước châm biếm khuynh đảo của Nguyễn Gia Trí,
để hiểu rõ công lao xây dựng văn chương quốc ngữ và tranh đấu cách mạng của Tự
Lực văn đoàn.
Năm 1938, Mặt trận bình dân (Le Front populaire) do Léon Blum
cầm đầu, mất quyền lãnh đạo nước Pháp, chính sách cai trị ở thuộc địa khe khắt
hơn, Nhất Linh cùng Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nguyễn Gia Trí, lập đảng Hưng Việt,
sau đổi thành Đại Việt Dân Chính.
Tháng 9 năm 1939, đại chiến thứ hai bùng nổ, chính quyền thực
dân bắt giam những người đối lập và phát động chính sách kiểm duyệt nghiệt ngã. Ngày
Nay không còn đất vẫy vùng, những người cầm đầu Tự Lực văn đoàn quyết định
bỏ bút, cầm súng.
Năm 1940, tổ chức cách mạng của họ bị phát giác. Những người
chủ chốt bị truy nã. Ba thành viên nòng cốt: Nguyễn Tường Long (Hoàng Đạo),
Nguyễn Gia Trí và Trần Khánh Giư (Khái Hưng), lần lượt bị bắt trong tháng 9 và
tháng 10/1941. Riêng thủ lãnh Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh) trốn thoát sang Tàu.
Cho tới nay, khi viết về Tự Lực văn đoàn, các tác giả thường
chỉ chuyên chú đến khía cạnh văn chương, không mấy ai để ý đến khía cạnh chính
trị và trào phúng, là hai địa bàn quan trọng khác, tạo thành thế chân
vạc trong chiến lược giải phóng dân tộc bằng ngòi bút của Tự Lực văn đoàn.
Đặc biệt phần trào phúng, bắt đầu trên Phong Hóa từ số
14 (22-9-1932) và trở thành căn cước thứ thứ ba của tờ báo, bên cạnh chính
trị và văn chương. Khi Phong Hóa bị rút giấy phép phải đình
bản hẳn sau số 190 (5-6-1936), toàn bộ ban biên tập chuyển sang báo Ngày Nay số
16 (12-7-36), và trên đầu tờ báo (exergue) này, Nhất Linh chia nội dung làm hai
phần:
1- Ngày Nay Tiểu Thuyết
2- Ngày Nay Trông Tìm.
Gần hai tháng sau, tới Ngày Nay số 25 (3-9-36), Nhất Linh lại
đổi exergue một lần nữa, ông chia báo làm ba phần:
1- Ngày Nay Trông Tìm.
2- Ngày Nay Trào Phúng
3- Ngày Nay Tiểu Thuyết.
Chữ Trông tìm tuy có nghĩa tìm kiếm khoa học, mở rộng
hiểu biết, nhưng ở đây thầm ngụ ý chính trị. Mục Trông tìm do
Hoàng Đạo phụ trách, với những bài chính luận, trình bày cho độc giả hiểu thế
nào là tự do và dân chủ, và ông viết những bài xã luận quyết liệt,
đòi các quyền: tự do ngôn luận, tự do lập đảng và quyền làm người.
Điều này chứng tỏ kể từ tháng 9 năm 1936, Nhất Linh
đã đưa vị trí tranh đấu chính trị, do Hoàng Đạo phụ trách, lên hàng đầu.
Ông đặt châm biếm, trào phúng, do Nguyễn Gia Trí phụ trách, sang hàng
thứ nhì, và đưa văn chương tiểu thuyết... của Khái Hưng, Nhất Linh xuống
hàng thứ ba. Không phải ông coi thường văn học, mà do đòi hỏi của tình thế: Sự
thay đổi này gắn bó mật thiết với tình hình chính trị: Ngày 3-5-1936, Mặt Trận
Bình Dân (Le Front Populaire) lên cầm quyền ở Pháp, có chính sách cởi mở đối với
những nước thuộc địa, quyền tự do báo chí được nới rộng hơn, bỏ cơ quan kiểm
duyệt; Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo và Nguyễn Gia Trí bèn lợi dụng tình thế, viết
và vẽ mạnh hơn, trực tiếp phê bình chính sách đàn áp của thực dân và cương
quyết đòi tự do dân chủ. Báo Ngày Nay trong giai đoạn này, đã thực hiện
những số "để đời" với bút vẽ trào phúng của Nguyễn Gia Trí.
Tự Lực văn đoàn đã đạt những thành quả không thể chối cãi được
trong thời điểm 1932-1938:
Về mặt văn học, khai phá nền văn chương quốc ngữ: giới thiệu
và phổ biến Thơ Mới, đặt nền móng cho Tiểu thuyết và Truyện ngắn Việt
Nam, trên báo Phong Hóa.
Về mặt tranh đấu chính trị, nổi trội nhất là ba năm, từ 1936
đến 1938, trên báo Ngày Nay: khi Hoàng Đạo, trở thành lý thuyết gia của Tự Lực
văn đoàn và Nguyễn Gia Trí, công khai vẽ tranh châm biếm với bút hiệu RIGT (trước
đó vẽ không ký tên hoặc ký nhiều tên khác nhau), chủ ý kết hợp ý nghĩa châm biếm
trong tranh với nội dung chính trị của Hoàng Đạo. Từ đó, Nguyễn Gia Trí phụ
trách toàn bộ hý họa và minh họa tờ Ngày Nay. Phải nhận rõ công việc này mới
có thể hiểu tại sao Nguyễn Gia Trí bị đánh đập tàn nhẫn khi bị Pháp bắt năm
1941, và vai trò quan trọng của ông trong Tự Lực văn đoàn.
Thế Lữ, rút dần khỏi Tự Lực văn đoàn, ra làm kịch với Đoàn
Phú Tứ từ năm 1937. Tháng 10-1938, ông lập ban kịch Thế Lữ.
Sang năm 1939, Nhất Linh, Khái Hưng vì hoạt động chính trị,
viết ít hơn trước, Nguyễn Gia Trí bận công tác đảng, vắng mặt, Tô Ngọc Vân thay
thế. Chất lượng tranh hài hước trên Ngày Nay kém sút đi nhiều, bởi vì
Tô Ngọc Vân là họa sĩ tài ba, nhưng ông vẽ tranh châm biếm không sắc bén như
Nguyễn Gia Trí.
Cuối năm 1939, sau khi chiến tranh thế giới bùng nổ, chính
quyền thuộc địa thay đổi thái độ, truy lùng và bắt bớ đối lập, gia tăng kiểm
duyệt. Ngày Nay bị cắt nhiều đoạn, nhiều bài.
Các thành viên chính của Tự Lực phải lui vào bóng tối, chỉ
còn một mình Thạch Lam xoay sở, ít người viết, tờ báo nghèo nàn đi. Đây là thời
kỳ Tự Lực văn đoàn bắt đầu tan rã.
Ngày 7-9-1940 Ngày Nay ra số 224, số báo cuối cùng.
Mùa thu năm 1940, Nhất Linh chạy sang Tàu.
Ngày 16-9-1941, Hoàng Đạo và Nguyễn Gia Trí bị bắt.
Ngày 31-10-1941, Khái Hưng bị bắt. Cả ba bị giam ở Vụ Bản đến
năm 1943.
Ngày 27-6-1942 Thạch Lam mất vì bệnh lao.
Hoạt động văn học của Tự Lực văn đoàn chấm dứt. Nhưng hoạt động
cách mạng còn kéo dài thêm một thời gian nữa.
Từ trước đến nay, sự nghiên cứu Tự Lực văn đoàn thường chỉ
xoay quanh và đề cao Nhất Linh, coi ông là người đã "sáng tạo" ra Tự
Lực văn đoàn, nhất là sau khi ông tự vận, sự độc tôn Nhất Linh không còn giới hạn.
Sự thực, Tự Lực văn đoàn là một tập hợp bẩy người: Nhất Linh,
Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nguyễn Gia Trí, Thạch Lam, Thế Lữ, và Tú Mỡ, nhưng chỉ có
bốn cột trụ: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nguyễn Gia Trí. Nếu thiếu một
trong bốn người này thì Phong Hóa Ngày Nay, không thể là Phong Hóa Ngày Nay như chúng ta đã biết.
Trong cuốn sách này, chúng tôi dựa vào những điều
đã viết và vẽ trên hai tuần báo Phong Hóa Ngày Nay, trong tám năm, từ
tháng 9-1932 đến tháng 9-1940, và trên báo Ngày Nay kỷ nguyên mới từ số 1
(5-5-1945) đến số 16 (18-8-1945), một phần những số báo Việt Nam chúng tôi có
được và trọn bộ báo Chính Nghĩa, cùng những tài liệu rời khác, để thử tìm lại:
- Hành trình của Tự Lực văn đoàn, con đường văn nghệ và cách
mạng.
- Làm sáng tỏ vai trò của Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo và
Nguyễn Gia Trí.
- Giới thiệu các tác phẩm cuối cùng của Khái Hưng, sau khi Tự
Lực văn đoàn tan rã.
- Sự bôn ba hải ngoại của Nhất Linh, Hoàng Đạo và Nguyễn Gia
Trí từ 1946 đến 1950.
Khi nói đến Tự Lực văn đoàn hay Phong Hóa Ngày Nay, là chúng
ta phải nói đến một tổ chức văn nghệ nhất quán của một nhóm người có tư tưởng đổi
mới xã hội và giải phóng dân tộc.
Nhất Linh Nguyễn Tường Tam là người lãnh đạo Tự Lực văn đoàn
và đảng Hưng Việt, sau đổi thành Đại Việt Dân Chính, sau cùng hòa nhập với Việt
Nam Quốc Dân Đảng.
Khái Hưng là cột trụ chính, quán xuyến tất cả những tờ báo
Phong Hóa, Ngày Nay, Ngày Nay kỷ nguyên mới, Việt Nam, Chính Nghĩa. Ông cũng là
người xây dựng nền móng tiểu thuyết và truyện ngắn hiện đại Việt Nam.
Hoàng Đạo là người khai trương lý thuyết dân chủ, nhân quyền
một cách có hệ thống và toàn diện, lý thuyết của Hoàng Đạo vượt xa Phan Châu
Trinh, bởi ông thâm hiểu Tây học và luật học.
Thạch Lam khích động lòng yêu nước, nhưng không trực tiếp hoạt
động. Thế Lữ và Tú Mỡ không tham gia chính trị, giữ khoảng cách với văn đoàn,
khi hiểm nguy. Xuân Diệu chỉ là thành viên từ cuối năm 1938, năm 1939 góp bài
ít hẳn đi, năm 1940, ngừng hẳn.
Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí ở trong tổ chức văn hóa và chính trị
này từ lúc phát sinh đến hồi kết thúc cùng với Nhất Linh và Hoàng Đạo, là bốn cột
trụ xây dựng Tự Lực văn đoàn, một tổ chức tranh đấu giải phóng dân tộc bằng con
đường nghệ thuật và tư tưởng.
1. Jean-Paul Sartre, Qu'est-ce que la littérature, Folio
Essais, 1993, t. 72.
2. Theo Phạm Phú Minh trong bài Việc điện toán hóa
báo Phong Hóa Ngày Nay: Những ý nghĩ lãng mạn giữa một ngày mùa đông, in
trong Kỷ yếu Triển lãm và Hội thảo về báo Phong Hóa Ngày Nay và Tự Lực văn
đoàn, Nxb Người Việt, Cali, 2014, trang 290-295.
2- Sự thành lập Tự Lực văn đoàn và Phong Hóa
Phần IBìa Phong Hóa số 154
Nhất Linh hầu như không trực tiếp đem đời sống thực vào tác phẩm, ngược lại
Khái Hưng viết một số tiểu thuyết, truyện ngắn phản ánh những biến cố đã xẩy
ra, nhờ đó, chúng ta có thể tìm lại được những mảnh đời trôi nổi của ông và các
bạn, trong đó có giai đoạn đầu tiên thành lập Tự Lực văn đoàn.
Nhưng trước khi đi xa hơn, chúng ta nên biết qua những mốc
chính:
- Phong Hóa số 1 ra ngày 16-6-1932.
- Phong Hóa số 14 ra ngày 22-9-1932, hoàn toàn đổi mới. Số
báo này được Nhất Linh và Hoàng Đạo công nhận là số báo đầu tiên của Tự Lực văn
đoàn.
- Phong Hóa số 190 ra ngày 5-6-1936, sau đó bị rút giấy phép,
phải đình bản hẳn.
- Ngày Nay số 1, ra ngày 30-1-1935.
- Ngày Nay số 16 (12-7-1936) ra đời sau khi Phong Hóa bị đóng
cửa một tháng, Tự Lực văn đoàn đã đưa toàn bộ biên tập Phong Hóa sang Ngày Nay.
- Bốn năm sau, Ngày Nay ra số 224 (7-9-1940) là số báo cuối
cùng.
Việc nghiên cứu Tự Lực văn đoàn bắt buộc phải khởi đi từ hai
tờ Phong Hóa và Ngày Nay. Nhưng trước hết phải trả lời những nghi vấn:
- Tự Lực văn đoàn thành lập từ bao giờ?
- Trước hay sau khi Phong Hóa xuất hiện?
- Tôn chỉ của văn đoàn là gì?
- Ai viết lại lịch sử tờ Phong Hóa?
Đó là những câu hỏi mà chúng tôi tìm cách trả lời trong phần
I này.
Tự Lực văn đoàn có trước Phong Hóa số 14
Bốn chữ Tự Lực văn đoàn được in lần đầu trên báo
Phong Hóa số 56 (ra ngày 21-7-1933), trong hai khung quảng cáo, ở trang
5: Tự Lực Văn Đoàn sắp ra Hồn bướm mơ tiên và Tự Lực Văn Đoàn sắp
in Vàng và Máu.Lần đầu tiên xuất hiện bốn chữ Tự Lực văn đoàn trên PH số 56Trên báo Phong Hóa số 87 (ra ngày 2-3-1934), trang 2, có
bài Tuyên ngôn Tự Lực Văn Đoàn, nội dung như sau:
Tự Lực Văn Đoàn
Tự Lực Văn Đoàn họp những người đồng chí trong văn giới; người
trong đoàn đối với nhau cốt có liên lạc về tinh thần, cùng nhau theo đuổi một
tôn chỉ, hết sức giúp nhau để đạt được mục đích chung, hết sức che chở nhau
trong những công cuộc có tính cách văn chương.
Người trong Văn Đoàn có quyền để dưới tên mình chữ Tự Lực Văn
Đoàn và bao nhiêu tác phẩm của mình đều được Văn Đoàn nhận và đặt dấu hiệu.
Những sách của người ngoài, hoặc đã xuất bản, hoặc còn là bản
thảo, gửi đến để Văn Đoàn xét. Nếu hai phần ba người trong Văn Đoàn có mặt ở hội
đồng xét là có giá trị và hợp với tôn chỉ thì sẽ nhận đặt dấu hiệu của Đoàn và
sẽ tùy sức cổ động giúp. Tự Lực Văn Đoàn không phải là một hội buôn xuất bản
sách.
Sau này nếu có thể được, Văn Đoàn sẽ đặt giải thưởng gọi là
Giải thưởng Tự Lực Văn Đoàn để thưởng những tác phẩm có giá trị và hợp với tôn
chỉ của Đoàn.
Tôn chỉ của Tự Lực Văn Đoàn
1- Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ
không phiên dịch sách nước ngoài, nếu những sách này chỉ có tính cách văn
chương thôi: mục đích để làm giàu thêm văn sản trong nước.
2- Soạn hay dịch những cuốn sách có tư tưởng xã hội chủ ý làm
cho Người và cho Xã hội ngày một hay hơn lên.
3- Theo chủ nghĩa bình dân, soạn những cuốn sách có tính cách
bình dân và cổ động cho người khác yêu chủ nghĩa bình dân.
4- Dùng một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho, một lối văn
thật có tính cách Annam.
5- Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có trí phấn đấu và tin ở sự
tiến bộ.
6- Ca tụng những nét hay vẻ đẹp của nước mà có tính cách bình
dân, khiến cho người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân. Không có tính
cách trưởng giả, quý phái.
7- Trọng tự do cá nhân.
8- Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa.
9- Đem phương pháp khoa học thái tây ứng dụng vào văn chương
Annam.
10- Theo một điều trong chín điều này cũng được, miễn là đừng
trái ngược với những điều khác.
Tự Lực Văn ĐoànVậy ta có thể xem ngày 21-7-1933 (ngày bốn chữ Tự Lực
văn đoàn được in lần đầu trên báo Phong Hóa số 56) hay ngày 2-3-1934 (ngày
công bố bản tuyên ngôn Tự Lực Văn Đoàn trên Phong Hóa số 87) là ngày
Tự Lực Văn Đoàn thành lập được không?
- Câu trả lời là Không.
Bởi vì, Tự Lực văn đoàn có trước hai số báo này.
Phong Hóa số 154 (20-9-1935) xác nhận hai lần rằng: Tự Lực
văn đoàn chủ trương báo Phong Hóa, như ta sẽ thấy dưới đây:Phong Hóa số 154, 20-9-1935
1- Phong Hóa số 154, trang 2, trong bài viết tựa đề: 22-9-32 Kỷ niệm ngày
báo ra 22-9-35, có câu:
"Có một điều ai cũng nhận thấy là vào thời kỳ báo Phong
Hóa ra đời (kể từ số 14 trở đi, lúc Tự Lực văn đoàn bắt đầu chủ trương báo
P.H.) [chúng tôi in đậm] trong làng báo có một khuynh hướng mới về mặt
nhà nghề: tờ báo viết để quần chúng xem và tờ báo mong sống vì độc giả"1.
Bài này ký tên Phong Hóa, chắc Nhất Linh viết chứ không phải
Khái Hưng (bởi vì Khái Hưng đã làm báo Phong Hóa từ số 1, như ta sẽ thấy ở dưới),
và câu: kể từ số 14 trở đi, lúc Tự Lực văn đoàn bắt đầu chủ trương báo
P.H. có nghĩa rằng: Tự Lực văn đoàn chủ trương báo Phong Hóa từ số
14. Nói khác đi, Tự Lực văn đoàn đã có trước Phong Hóa số 14 và Tự Lực
văn đoàn nhìn nhận Phong Hóa số 14 là số báo khởi đầu của văn đoàn.
2- Vẫn trên PH số 154, trang 2, dưới tấm hình chụp báo PH số 14, ghi câu: "Đây
là ảnh chụp số báo 14 (số bắt đầu thời kỳ Tự Lực văn đoàn đứng chủ trương báo
Phong Hóa [chúng tôi in đậm] ra đúng ngày tứ ly là ngày mọi việc đều
không nên). Vì khổ to dễ nhầu nát, khó giữ nên đến số 20 thì thu lại bằng khổ
bây giờ)".
Phong Hóa số 154, 20-9-1935
Lời ghi dưới hình chụp số PH 14, in ở PH số 154, trang 2
Câu này xác định một lần nữa việc Tự Lực văn đoàn chủ trương báo Phong
Hóa.
Tóm lại: Tự Lực văn đoàn có trước Phong Hóa số 14,
và Tự Lực văn đoàn chủ trương Phong Hóa từ số 14.
3- Vẫn Phong Hóa số 154, trang 2, trong bài Bên đường dừng bước, Tứ Ly viết:
"Cách đây ba năm, một đêm thu giá lạnh, tôi và Nhất Linh
từ biệt Khái Hưng ở báo quán, nện gót trên đường vắng mà về. Lúc đó, vào khoảng
hai giờ sáng (...) chúng tôi thấy trong lòng nhẹ nhàng vui vẻ... Sáng hôm ấy,
số đầu (tức là số 14) Phong Hóa ra đời (...) [chúng tôi in đậm].
Ba năm qua... Hôm nay tạm dừng chân đứng lại, chúng tôi nhìn
con đường đã đi; chúng tôi ra báo ngày 22 tháng 9 năm 1932, là một ngày rất
xấu: ngày tứ ly. Không phải là một sự vô tình, chính là định ý cưỡng lại
cái thuyết số mệnh nó bắt dân ta nằm dí một nơi, đương lúc mọi người cùng tiến" (2)
Câu: "Chúng tôi ra báo ngày 22-9-1932, là một
ngày rất xấu: ngày tứ ly, chứng tỏ cái tên Tứ Ly cũng phát xuất cùng
với sự "ra đời" của báo Phong Hóa, kể từ số 14, và phải đến báo Ngày
Nay, mới đổi thành Hoàng Đạo.
Nhà in báo Phong Hóa
Vẫn trên Phong Hóa số 154, trang 3, trong bài Nói chuyện
cũ, Nhất Linh mô tả nhà in, in báo Phong Hóa như sau:
"Cái nhà in in báo Phong Hóa lúc đó cũng là "Một sự
lạ chưa từng thấy" trên hoàn cầu. Nó có cái tên nhũn nhặn là Imprimerie
Moderne, dịch nôm là "nhà in tân thời". Cái nhà in tân thời đó nói
cho đúng ra nó là cái bếp, hay cũng na ná như cái bếp. Những lúc chúng tôi xuống
chữa bài, luôn luôn có hơi khói mầu lam đưa thoảng qua: nhà in trông mờ ảo như
một bức tranh thủy mặc Tàu. Nhiều khi những mùi thịt bò xào, mùi chả trứng cũng
theo gió bay vào thơm nức cả. Những mùi thơm quý hóa đó chỉ vào quãng mười, mười
một giờ mới có. Lúc đói bụng vừa chữa bài, vừa ngửi những hơi thơm đó, có phần
cũng dễ chịu.
Mùa rét đến thì cái nhà bếp đó biến thành bắc băng cực. Gió
lùa vào các cửa sổ đã vỡ hết mặt kính làm cho chúng tôi không thể nào chữa bài
được một cách cẩn thận. Chúng tôi không thể nào quên được cái đêm trước ngày số
báo Tết năm 1934 xuất bản. Lúc đó vào quãng mười hai giờ đêm. Chúng tôi ở nhà
báo sắp sửa về đi ngủ, thì có giấy nói gọi báo tin máy không thể in được nữa.
Xuống nhà in mới biết vì trời rét quá mực đỏ in bìa số Tết đóng cục lại.
Chúng tôi thấy giá cả chân tay, và trông cái máy in mà thương
hại. Mỗi lần người cai cho máy chạy thử, là nó cứ rung rung như người rét run cầm
cập. Sau cùng ông chủ nhà in bảo lấy ra một cái hỏa lò đầy than hồng đặt xuống
gầm máy để sưởi cho nó. Quả nhiên máy lại chạy được. Chúng tôi lấy làm lạ rằng
máy cũng biết ấm như người; trông cái buồng máy lúc đó y như hệt cái buồng đàn
bà đẻ".
Đó là diện mạo nhà in Imprimerie Moderne, rất nghèo
khổ lúc ban đầu, nhưng sau sẽ thay dổi, chúng tôi sẽ nói đến những biến chuyển
của nhà in này trong một chương sau.
Tôn chỉ của Tự Lực văn đoàn
Bản Tôn chỉ của Tự Lực văn đoàn có 9 điểm, chỉ hai
điểm đầu là quan trọng nhất, tiếc rằng không mấy ai chú ý, đó là:
1- Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ
không phiên dịch sách nước ngoài, nếu những sách này chỉ có tính cách văn
chương thôi: mục đích để làm giàu thêm văn sản trong nước.
2- Soạn hay dịch những cuốn sách có tư tưởng xã hội chủ ý làm
cho Người và cho Xã hội ngày một hay hơn lên.
Nói khác đi, Tự Lực văn đoàn chủ trương không dịch sách
văn chương nước ngoài, chỉ dịch hay soạn những sách có tư tưởng, làm
cho Người và Xã hội, ngày một hay hơn lên, tức là chỉ nên dịch sách triết
học, lý luận và khoa học. Đó là điểm rất quan trọng mà Tự Lực văn đoàn đã
nghĩ ra từ đầu và họ đã giữ đúng quy ước này: Trên Phong Hóa Ngày Nay chỉ có một
vài bài thơ dịch và hầu như không dịch truyện ngoại quốc nào trừ Dòng
suối xuân của Tourguenev. Quyết định này nằm trong chủ đích tự lực,
không chỉ tự lực vật chất, tức là không nhận tiền trợ cấp của chính quyền
thuộc địa mà còn phải tự lập cả tinh thần, tức là nhà văn phải lấy nguồn
gốc văn hóa dân tộc làm căn bản để sáng tạo ra một nền văn chương quốc
ngữ mới, không sao chép các tác giả ngoại quốc được dịch sang tiếng Việt.
Vì Tự Lực văn đoàn không dịch truyện Pháp sang tiếng Việt,
nên người Việt muốn viết văn phải tự đào sâu và khám phá tiếng mẹ đẻ của
mình.
Nhờ quan niệm này, Tự Lực văn đoàn trở thành đầu tầu kéo theo
một thế hệ nhà văn lớn nối tiếp như Nguyên Hồng (Bỉ vỏ, 1937; Bẩy Hựu 1940)
Vũ Trọng Phụng (Giống tố, 1937; Số đỏ 1938), Nguyễn Tuân (Vang bóng một
thời, 1940)...
Về phía hội họa, cũng nhờ giáo sư Victor Tardieu, giám đốc
trường Mỹ thuật Đông Dương, dạy học trò phải dựa trên nền móng văn hóa dân
tộc để sáng tác, mà ông đã đào tạo nên một thế hệ họa sĩ tài ba, như Mai
Thứ, Lê Phổ, Vũ Cao Đàm, Lê Thị Lựu, thành danh tại Pháp; Nam Sơn, Nguyễn Phan
Chánh, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí... thành danh ở Việt Nam. Khác hẳn với chính
sách của người Anh ở Ấn Độ, dạy học trò bỏ hẳn nghệ thuật Ấn Độ để học mỹ thuật
Tây phương, nên đã không đào tạo được những danh họa người Ấn. Bây giờ, trên
các sàn đấu giá "quốc tế" người ta tranh nhau mua tranh (giả hay thật)
của các danh họa Việt Nam, bởi vì cả Á Châu, chỉ có trường Mỹ thuật Đông dương
là "sản xuất" ra những họa sĩ có tình cách đặc thù.
Văn học miền Nam, thời kỳ phát triển 1954-75, mặc dù có nhiều
sách dịch, nhưng những nhà văn tên tuổi như Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Dương
Nghiễm Mậu, Nguyễn Thị Hoàng... cũng không hề mô phỏng văn chương Pháp, họ tự tạo
con đường riêng bằng cách khai phá tiếng Việt và văn chương Việt. Thanh Tâm Tuyền
học Nguyễn Du. Dương Nghiễm Mậu, nhà văn "mới nhất" về cấu trúc truyện
cũng như tư tưởng, đã coi Khái Hưng là thầy.
Văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới cũng vậy: Nguyễn Huy Thiệp,
Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài... là những người tự tìm tòi, tự khám phá, làm giàu tiếng
Việt, họ không sao chép văn chương ngoại quốc, nhờ đó, tác phẩm của họ mới có
giá trị lâu dài.
Hiện nay, tình hình thay đổi hẳn, người viết văn Việt Nam đứng
trước một rừng tiểu thuyết ngoại quốc dịch sang tiếng Việt, họ bối rối, hoang
mang, hoặc tự hào là mới, cứ thế phỏng theo, từ cách viết, cách dàn xếp câu
chuyện đến văn phong (đôi khi ngờ nghệch vì dịch ẩu). Cả đến cái gọi là tân kỳ
cũng thế: không hiểu chúng ta có thể học được gì ở sự tân kỳ của một
Houellebecq, nhà văn "lớn" của Pháp hiện nay, ngoài sự kiêu kỳ, thô bạo
và sex? Sự hướng ngoại thái quá và sự khinh thường văn chương Việt Nam, vì
không biết hoặc không thèm đọc các tác giả Việt, là trở ngại không nhỏ cho việc
phát triển văn chương.
Qua tình trạng này, ta lại thấy Tự Lực văn đoàn đã nhìn rõ vấn
đề từ thập niên 1930.
Báo Tiếng Cười
Trước khi làm Phong Hóa, Nhất Linh chủ trương báo Tiếng Cười.
Vẫn trong bài Nói truyện cũ, trên Phong Hóa số 154,
Nhất Linh, kể lại rằng:
"Đầu tiên muốn trống [chống] lại cái vẻ đạo mạo,
già khụ của các tờ tuấn báo quốc ngữ, chúng tôi định cho ra một số báo lấy tên
là "Tiếng Cười". Tờ "Tiếng Cười" đó đã được giấy phép xuất
bản của chính phủ, nhưng không thể ra đời được, vì một lẽ giản dị là không kịp
thu xếp xong trước ngày hết hạn giấy phép. "Tiếng Cười" vì thế đổi
thành Tiếng khóc."
"Lúc chúng tôi sắp nhận làm báo Phong Hóa thì các tuần
báo không có vẻ thịnh vượng, ít tờ xuất bản được tới hai nghìn số. Chúng tôi
lúc đó mong ba nghìn và đã tự cho là "tham lam vô độ".
Sau này trong bài tiểu sử Nhất Linh, do Nguyễn Ngu Í soạn ở
Sài Gòn, năm 1966, có câu: "xin ra tờ báo trào phúng "Tiếng Cười",
nhưng vì gặp cảnh không tiền nên "tráng sĩ đành năm co". Quá hạn, bị
rút giấy phép" (3)
Vậy báo Tiếng Cười không ra được vì không có
tiền, chứ không phải vì chính quyền thuộc địa không cho phép như lời Tú Mỡ
viết trong hồi ký Trong bếp núc của Tự Lực văn đoàn4 được nhiều người chép lại.
Nhưng nếu không có tiền làm báo Tiếng Cười, thì lấy tiền đâu
ra để làm báo Phong Hóa? Tại sao "tự nhiên" lại có tiền? Đó là vấn đề
cần tìm hiểu, chúng tôi sẽ trả lời trong kỳ tới.
Một điều lạ là trong số báo Phong Hóa 154 này, chỉ có Hoàng Đạo và Nhất Linh
lên tiếng, còn Khái Hưng? Không thấy ông tuyên bố gì cả. Tại sao?
Vì thắc mắc muốn tìm hiểu lý do, nên chúng tôi đã đọc kỹ những
số Phong Hóa đầu tiên, từ số 1 đến số 13 (mà từ trước đến nay thường được coi
là tờ báo của ông Phạm Hữu Ninh, vì ít người đọc, sắp chết, nên bán lại cho
Nguyễn Tường Tam).
Việc đọc này dẫn đến kết quả bất ngờ:
Khái Hưng bao biện hầu hết các trang báo Phong Hóa, từ số 1 đến
số 13, với những bút hiệu khác nhau. Việc này rất khó hiểu. Nếu ta tin những điều
được truyền tụng, đại ý: Nhất Linh mua lại tờ báo của ông Phạm Hữu Ninh
đang gặp khó khăn sắp đóng cửa, mà báo Phong Hóa lại do Khái Hưng viết từ
số 1. Tại sao người ta lại bảo đó là tờ báo của ông Phạm Hữu Ninh, và không nhắc
nhở gì đến Khái Hưng? Rồi Khái Hưng cũng không giải thích gì thêm về sự ra đời
của Tự Lực văn đoàn trong số báo Phong Hóa đặc biệt 154 đã nói ở trên.
Phải đọc hay đọc lại báo Ngày Nay số 16 ra ngày
12-7-1936, mới thấy xuất hiện truyện dài Những ngày vui trong đó Khái
Hưng đã tiểu thuyết hóa việc thành lập Tự Lực văn đoàn và báo Phong Hóa qua lối
viết hóm hỉnh của ông, với những chi tiết hiếm quý, chưa từng thấy.
Ngày Nay số 16 (12-7-1936) là một số báo quan trọng, tương tự như Phong
Hóa số 14 trước đây. Bởi vì, sau số 190 (5-6-1936), Phong Hóa bị đình
bản hẳn, Tự Lực văn đoàn dồn toàn lực vào Ngày Nay số 16, như một sự phản hồi.Kịch Chết trên Ngày Nay số 16 Ngày Nay số 16, trang đầu in vở kịch chính trị ngắn tựa đề Chết của
Khái Hưng do Nguyễn Gia Trí minh họa, như một bài xã luận, xác định lập trường
sau khi Phong Hóa chết. Khái Hưng viết rất kín đáo nên ty kiểm duyệt không hiểu
để... kiểm duyệt.
Tác phẩm mô tả cái chết của Lực (tượng trưng cho tờ Phong
Hóa). Trước khi chết Lực dốc sức tàn, trăng trối với các bạn:
"Công việc chúng ta cùng nhau theo đuổi... trong bốn năm
ròng... anh em đều hiểu rõ... hiểu rõ như tôi... Nay đã có cơ sở vững bền... và
nó sẽ vững bền vì chúng ta muốn thế (...) Điều quan trọng mà tôi... mà anh em
nhiều lần nhắc đến... hẳn anh em còn nhớ. Là công cuộc chúng ta theo đuổi... vẫn
tiến hành như thường... dù xẩy ra việc gì mặc lòng... dù một người trong bọn ta
chết đi... người chết đi là ai cũng vậy (...) Chỉ cái chết của ý tưởng... là
đáng sợ... là đáng phàn nàn... Còn cái chết của người!"
Thông điệp thật rõ ràng và quyết liệt: trong bốn năm ròng [từ
PH số 1 (16-6-1932) đến PH số 190 (5-6-1936)] chúng ta đã tranh đấu, đã có cơ sở
vững vàng, nay tờ báo chết, mọi việc phải tiếp tục tiến hành như thường. Kịch Chết chồng
chất hai ý nghĩa: tờ báo chết hay chính một người trong chúng ta có chết đi,
thì người khác vẫn phải tiếp tục. Và Phong Hóa liền được thay thế bằng Ngày
Nay. Kịch Chết mang lời di chúc có tính cách triết học của bậc đàn anh:
"Chỉ cái chết của ý tưởng là đáng sợ... còn cái chết của con người!" (có
nghĩa lý gì.).
Cùng với những dòng chữ quyết liệt này, Khái Hưng đã ghi lại
lịch sử sự thành lập báo Phong Hóa trong tiểu thuyết Những ngày vui, mà
chúng tôi sẽ trình bày trong kỳ tới.
Kịch Chết trên Ngày Nay số 16
Chú thích:
1. Trích
bài: 22/9/32 Kỷ niệm ngày báo ra 22/9/35, tiểu đoạn Hai thời kỳ,
in trên Phong Hóa số 154 (20-9-35), trang 2.
2. Tứ Ly, Bên đường dừng bước, Phong Hóa số 154, ra
ngày 20-9-1935, trang 2-3.
3. Trích Sống
Và Viết với... của Nguyễn Ngu Í, do Ngày Xanh (chữ của Nguyễn Ngu Í) xuất bản
năm 1966, tại Sài Gòn, Xuân Thu chụp và in lại tại Hoa Kỳ, không đề năm.
4. Bài hồi ký này in trong Tạp chí Văn học số 5-6/1988 và
số 1/1989); in lại trong Tự Lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân tộc, Nxb
Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, 2000, trang 125-158.
2- Sự thành lập Tự Lực văn đoàn và Phong Hóa
Phần II
Những ngày vui của Khái Hưng
Trở lại Ngày Nay số 16 (12-2-36) là tờ báo mà Tự Lực văn đoàn
dồn toàn lực vào sau khi Phong Hóa bị đóng cửa vĩnh viễn, như để chứng tỏ: Chúng
tôi chưa chết đâu. Trên tờ báo này, liền theo kịch Chết của Khái
Hưng đăng ở trang nhất thay bài xã luận, là hai tiểu thuyết Những ngày vui của
Khái Hưng và Lạnh lùng của Nhất Linh (1).
Lạnh Lùng là một trong những tác phẩm chủ yếu của Nhất
Linh, chúng tôi sẽ có dịp trở lại. Những ngày vui là tác phẩm thứ yếu
của Khái Hưng, được viết trong bối cảnh Phong Hóa bị đe dọa đóng cửa; chắc hẳn
với mục đích ghi lại "sự tích" Tự Lực văn đoàn, nếu một mai, tờ Ngày
Nay cũng bị đóng cửa nốt.
Những ngày vui đăng trên Ngày Nay từ số 16 (12-7-1936) đến
số 29 (11-10-1936), được nhà xuất bản Đời Nay in thành sách năm 1941. Nhà Phượng
Giang tái bản ở Sài Gòn năm 1958. Bản in trên Ngày Nay số 20, Nguyễn Gia
Trí vẽ cảnh Leung-Fat-Fa đang đứng bán hàng.
Việc Nhất Linh cho in lại tác phẩm thứ yếu này của Khái Hưng,
dường như ngoài ý ghi ơn ân nhân Leung-Fat-Fa Nguyễn Văn Tiên đã thầm
kín giúp vốn để cải tổ Phong Hóa, còn muốn tưởng niệm Khái Hưng, vinh danh Nguyễn
Gia Trí và nhớ lại những ngày vui thành lập Tự Lực văn đoàn thủa trước.
Những ngày vui khi đăng trên báo Ngày Nay năm 1936, do
Nguyễn Gia Trí minh họa. Bản Phượng Giang sửa vài chỗ, nhưng việc sửa chữa
này có từ năm 1941, trên bản Đời Nay hay là Nhất Linh sửa năm 1958? Nhưng
những chỗ sửa không quan trọng mấy. Tóm lại, Những ngày vui đã được
ba nhân vật chính: Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí và Nhất Linh viết, minh họa và in
lại, có thể với mục đích để lại dấu vết việc "khai sinh" Tự Lực
văn đoàn cho đời sau.Những ngày vui, NN số 20
Tóm tắt cốt truyện Những ngày vui
Phương [Khái Hưng] là con trưởng một gia đình giàu, Lan vợ
chàng, con quan, nhà giàu chẳng kém gì nhà chàng. Những năm 1928-1930, ai về
chơi đồn điền của Phương cũng phải kinh ngạc, đường đi rộng rãi, nhà cửa cao
ráo, sáng sủa, bởi Phương đã cải tiến đời sống của dân làng. Nhưng cuộc khủng
hoảng kinh tế xẩy ra, dân quê túng thiếu, vợ chồng chàng tìm cách giúp đỡ để
nâng cao đời sống của họ. Thấy việc buôn sơn do người Tầu và người Nhật độc quyền,
Phương nghĩ ra cách kinh doanh mới: trồng cây sơn và lập xưởng pha sơn để lấy lại
nguồn lợi cho dân. Phương chuyển những nơi trồng mía, khoai, sắn, sang trồng
sơn, lập nhà máy chế tạo. Chàng bỏ ra gần mười vạn bạc vốn, nhưng vì chưa có
kinh nghiệm lại bị sự cạnh tranh kịch liệt của người Tầu và Nhật. Kết quả, bốn
năm sau, đồn điền cùng các xưởng thợ, nhà máy của chàng đều bị chủ nợ tịch biên
bán đấu giá. Phương khánh kiệt gia tài, phải về sống nhờ trong từ đường nhà vợ
tại Lũng Thượng (2).
May được người bạn minh hương là Nguyễn Văn Tiên Léang fat Houa (khi
in thành sách sửa là Leung-Fat-Fa) giúp đỡ. Leung-Fat-Fa Nguyễn Văn Tiên
- khi còn nghèo khổ đã được Phương giúp cho mấy trăm bạc- muốn trả ơn chàng.
Leung-Fat-Fa có một cuộc đời đầy thăng trầm, sóng gió, nhưng cuối cùng được hưởng
gia tài của cha, người Tàu, chủ một hiệu tạp hóa lớn ở Hà Nội. Anh mượn Phương
làm sổ sách, lương 30 đồng. Phương nhận lời, đưa gia đình rời Lũng Thượng về Hà
Nội.
Đến Hà Nội, Phương đang đi lang thang tìm nhà thuê, thì gặp lại
Duy họa sĩ [Nguyễn Gia Trí] bạn thân, Duy cho biết đã thuê nhà sẵn cho Phương rồi. Nhà
có 5 phòng, thuê 40 đồng một tháng. Hiện đã có Điển, thầu khoán, đến ở
cùng.
Sở dĩ Duy có tiền, vì chàng đang làm đại lý bán xe hơi
cho một hãng ô tô lớn, lương 50 đồng, cộng thêm hoa hồng mỗi chiếc xe bán
được khoảng hai, ba chục bạc. Mỗi tháng Duy kiếm được từ trăm rưởi trở
lên, hơn tiền bán tranh nhiều, vì thế Duy mới có tiền thuê nhà cho bạn ở để
làm báo (3).
"Ngoài công việc bán ô tô, nếu còn thừa thời giờ Duy vẽ
tranh. Còn Điển và Phương -tuy Phương bận bán hàng tạp hóa- sẽ cùng nhau theo
đuổi công việc soạn văn, dịch sách, gửi đăng các tạp chí trước khi cho xuất bản" (4),
Phương và Điển viết văn, dịch sách, Duy vẽ. Nhưng thức suốt
bao đêm mà tác phẩm của hai "nhà văn" chẳng được báo nào đăng.
Một hôm Duy dõng dạc tuyên bố: "Bài vở các anh cứ để đấy,
sẽ có chỗ đăng". Duy đã dụ được ông chủ hãng xe hơi ra một
tờ báo nhà để quảng cáo các loại ô tô, khỏi cần gửi đăng quảng cáo ở các báo
khác. Ông chủ bằng lòng, cho anh mỗi tháng 200 đồng tương đương với số
tiền ông phải bỏ ra đăng quảng cáo trên báo.
"Thế rồi ngày mồng một tháng mười, như lời "kính
cáo" gửi cho các bạn đồng nghiệp. Tự Động ra số đầu "chào
quốc dân". Báo "Tự động" là tờ báo đầu tiên bọn Phương làm
với số tiền trợ cấp của ông chủ hãng ô tô. Nhưng báo Tự Động không
khá được, mặc dù Duy đã hết sức trổ tài "hùng biện", đi các tỉnh để
thuyết phục những vị chức sắc có tiền mua báo.
Bỗng Phượng [Nhất Linh] xuất hiện (trong sách đổi tên
là Phúc). Phượng là giáo sư cử nhân mới ở Pháp về, nổi tiếng với
những "projet" dựng báo rất "hoành tráng" được chàng rao giảng
khắp Hà thành. Phượng thuyết phục Leung-Fat-Fa Nguyễn Văn Tiên. Phượng
thao thao bất tuyệt với Duy. Nhưng vì không có tiền để lăng-xê, Tự Động vẫn
hoàn toàn bế tắc, nếu không có biến cố bất ngờ xẩy ra: Leung-Fat-Fa Nguyễn
Văn Tiên bị bệnh nặng, thầy thuốc bó tay. Tiên gọi hai bạn Phương, Duy đến đề
nghị biếu một vạn để làm báo. Phương từ chối. Tiên bèn nghĩ cách khác:
"… Tôi biết tôi sắp chết. Vậy trong chúc thư tôi nói cho
các anh vay số một vạn bạc, bao giờ có tiền thì các anh trả lại cho vợ con tôi.
Không bao giờ có tiền thì coi như món nợ ấy không có... Vậy các anh bằng lòng
như thế nhé?"
Duy sợ Phương từ chối liền trả lời:
- Như thế thì có lẽ được.
Tiên vui mừng giơ hai tay ra bắt tay hai người...
Hai tuần lễ sau, báo Con Người của bọn Phương, Duy
ra đời (sđd, trang 166).
Đây là tiểu thuyết, vậy có phần hư cấu. Nhưng chúng ta có thể
loại bỏ dễ dàng những điều hư cấu để chỉ giữ lại những điểm phù hợp với thực tế:
1- Khoảng 1928-1930, có thể Khái Hưng đã giúp dân cải tổ lại
làng mình theo lối mới. Ông viết lại kinh nghiệm này trong 7 bài xã luận in
trên Phong Hóa, từ số 80 (5-1-1934) đến số 87 (2-3-1934), tựa đề Một bản
chương trình, chủ trương xây dựng lại nông thôn.
2- Việc Khái Hưng buôn sơn là có thật, ông buôn với người bạn
Nhật, việc này ông kể lại trong truyện ngắn Kong-Ko Đai-Jin, in trên Phong
Hóa số 14 (22-9-1932).
3- Về căn nhà Duy thuê cho Phương: Nhà có 5 phòng, thuê
40 đồng một tháng. Có thể là trụ sở đầu tiên của Phong Hóa, ở phố Đường
Thành, như Khái Hưng có nhắc lại ở một chỗ khác trong Những ngày vui; mà
cũng có thể là căn nhà số 1 Boulevard Carnot, trụ sở chính thức của báo Phong
Hóa từ số 1 (16-6-1932) đến số 126 (30-11-1934) khi tòa soạn và trị sự chuyển về
số 80 Avenue du Grand Bouddha (Quan Thánh).
4- Việc Duy dụ được ông chủ bán xe hơi, bỏ tiền ra làm báo,
phù hợp với việc ông Phạm Hữu Ninh (hiệu trưởng trường Thăng Long) hay ông Nguyễn
Xuân Mai (Giám đốc sáng lập tờ Phong Hóa) "trợ cấp" cho bọn Phương
200 mỗi tháng để làm báo.
5- Có tiền 200 đồng, Phương Duy làm tờ Tự Động. Chữ Tự
Động này có hai nghĩa: chỉ tờ Phong Hóa từ số 1 đến số 13, khi Khái Hưng một
mình tự biên tự diễn, và Tự Động cũng chính là Tự Lực, hạt nhân
đầu tiên của Tự Lực văn đoàn.
6- Bỗng Phượng xuất hiện, Phượng là giáo sư cử nhân ở Pháp về,
với những dự định làm báo lớn lao, thì đúng là Nhất Linh. Nhưng chưa có tiền,
phải đợi đến khi Leung-Fat-Fa Nguyễn Văn Tiên, để di chúc cho một vạn, thì
báo Con người mới ra được. Con người chính là tờ Phong
Hóa từ số 14 trở đi. Số tiền 10.000 đồng là cái vốn để Nhất Linh cải biến
hoàn toàn tờ Phong Hóa.
Nếu cái chết đột ngột của Leung-Fat-Fa Nguyễn Văn Tiên và việc
anh để lại số tiền lớn lao cho Tự Lực làm báo, không được tự nhiên mấy,
khiến ta có thể nghi ngờ. Thì tôi xin đưa ra giả thuyết thứ nhì: tiền này phải
chăng là tiền riêng của bà Khái Hưng, vì gia đình cụ thân sinh ra bà, Tuần phủ
Lê Vân Đính, rất giàu, có biệt thự ở Sầm Sơn; bà lại được mẹ cho một số ruộng ở
Hải Hậu? (5). Kể cả việc Khái Hưng thuê biệt
thự 80 Quan Thánh làm cơ sở cho Phong Hóa, Ngày Nay (và trụ sở Việt Nam Quốc
Dân Đảng sau này) có thể cũng do vốn của bà Khái Hưng chăng? Dù sao chăng nữa,
việc Phong Hóa có tiền để cái tổ tờ báo, là do nguồn Khái Hưng.
Theo Những ngày vui thì Tự Động số 1, in 5.000 số,
tiền in: 75 đồng, lương tòa soạn kiêm trị sự bốn người hết 100 đồng. Linh tinh:
50 đồng. Tổng cộng, chi: 225 đồng.
Tiền bán báo (trừ hoa hồng): 30 đồng. Tiền phụ cấp của hãng ô
tô: 200 đồng. Tổng cộng: thu 230 đ. Lãi: 5 đồng (sđd, trang 112).
Việc Tự Động số đầu ra 5.000, chắc là hư cấu, sự thật chắc chỉ
có 3.000 số, vì Nhất Linh, trong bài Nói truyện cũ, trên Phong Hóa số 154,
đã trích dẫn trong phần I, cho biết: "Lúc chúng tôi sắp nhận làm báo
Phong Hóa thì các tuần báo không có vẻ thịnh vượng, ít tờ xuất bản được tới hai
nghìn số. Chúng tôi lúc đó mong ba nghìn và đã tự cho là "tham lam vô độ".
Còn tiền chi tiêu được kê khai có thể đúng với Phong Hóa thời
kỳ đầu, từ số 1 đến số 13, khi còn nhận trợ cấp hàng tháng của ông Phạm Hữu
Ninh hay ông Nguyễn Xuân Mai.
Trên Phong Hóa số 58 (4-8-1933), có biên bản về Phong Hóa số
47 (19-5-1933) cho biết: PH 47 phát hành 10.150 số. Như vậy, nếu PH 14
(22-9-1932) in 3000 số, thì chưa đầy một năm sau, báo đã in hơn gấp ba lần số
phát hành đầu tiên.
Chân dung Khái HưngNhững ngày vui mô tả ba người: Khái Hưng "trong
vai" Phương, Nguyễn Gia Trí trong vai Duy, Nhất Linh trong vai Phượng (khi
in thành sách đổi là Phúc).
Chúng ta biết rất ít về quãng đời trước khi làm báo của Khái
Hưng. Nguyễn Tường Bách, em út Nhất Linh, một trong những người gần gũi Khái
Hưng trong giai đoạn 1945-1946, viết:
"Cuộc đời của Khái Hưng Trần Khánh Giư có thể gọi là kỳ
lạ. Anh đã đậu Tú tài ban Triết học, độ ấy còn rất hiếm, nhưng không ra làm
quan hay một công chức cao cấp nào, một việc rất dễ cho anh - ông thân sinh là
Tuần phủ và nhạc phụ là Tổng Đốc. Tại sao không chạy một chân tri huyện, mà lại
xoay sang làm nghể dạy học và nghề làm báo nghèo kiết bấp bênh? Một lần, tôi có
gạn hỏi thì anh chỉ cười đáp:
- "Cũng chẳng hiểu tại sao cả. Thích làm báo thì làm báo
chớ sao?"
Đó cũng là câu trả lời chung của mấy anh em.
Nghe nói, nhà tiểu thuyết xã hội, lãng mạn trước kia đã từng
đi... buôn, làm đại lý cho một hãng dầu xăng, chắc muốn giàu to. Song chắc đầu
óc nghệ sĩ không thích hợp lắm với lối buôn bán quắt quéo, nên chỉ thua lỗ
(cũng may, nếu phát tài thì Việt Nam không có nhà văn Khái Hưng!).
Từ Ninh Giang (6) anh lên Hà Nội, làm giáo sư
trường tư thục Thăng Long. Ngay hồi đó anh đã viết cho tờ Duy Tân những truyện
vui hay xã thuyết, cùng với nhà văn Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, nhà văn Tchya (7) Đái Đức Tuấn, một số bài nữa
đăng trên tờ Phong Hóa (cũ, trước khi sang tay Nhất Linh quản lý) và tờ Văn Học
tạp chí của anh em Dương Bá Trạc.
Nhất Linh sau đó lại vào dạy trường Thăng Long. Hai người hiểu
nhau rất nhanh, rất tâm đắc, có cái nhìn chung về xã hội, về văn học" (8).
Đấy là Khái Hưng dưới mắt Nguyễn Tường Bách, người em út
trong gia đình Nhất Linh.
Trong Những ngày vui, Khái Hưng mô tả mình trong vai Đỗ
Như Phương, nói quá lên một chút về gia cảnh: "Phương là con trưởng một
gia đình cự phú", còn gia tài chàng được hưởng chắc là không sai mấy: một
cái ấp ở Phú Thọ rộng ba nghìn mẫu vừa ruộng vừa đồi và vài tòa nhà cho thuê ở
Hà Nội" và cả về người vợ cũng thế: "Lan, vợ chàng là con quan,
nhà cũng giàu có chẳng kém gì nhà chàng" (sđd, trang 14).
Hành động và tư tưởng của Phương thì đúng là Khái Hưng: ngay
từ hồi trẻ, Phương đã hoạch định một chương trình xã hội để nâng cao đời sống
dân quê, trước hết về nhà cửa đường phố:
"Chàng nhờ một người bạn kiến trúc sư vẽ kiểu nhà thích
hợp với dân quê, rồi bắt các nông phu điền tốt trong ấy làm theo. Nếu có quá tốn
kém thì chàng chu cấp cho ít nhiều.
Hồi mấy năm 1928-1930, ai về chơi đồn điền của Phương cũng phải
kinh ngạc, khi ngắm qua những đường đi rộng rãi, những phố xá sạch sẽ, và những
lớp nhà lợp ngói, lợp tranh cao ráo, sáng sủa, hay khi tò mò để mắt tới những đứa
trẻ y phục gọn gàng cắp sách đi học" (Những ngày vui, trang 15).
Đọc những dòng này ta có thể tưởng tượng cảnh làng Cổ Am, quê
Khái Hưng, trước khi bị Pháp dội 57 quả bom ngày 16-2-1930 và hiểu tại sao Khái
Hưng chống Pháp.
Nhưng cuộc khủng hoảng kinh tế [1929] ập tới, thóc lúa bị
đình trệ không bán được, giá thóc gạo mỗi ngày một hạ, nông phu không kiếm đủ
tiền ăn và tiền nộp thuế, nên bắt buộc phải trả lại ruộng cho chủ. Đất bỏ
hoang, Phương bèn tính đến phương sách thứ hai: chàng quay ra trồng sơn ở
đồn điền, bỏ vào 10 vạn rồi vay thêm ngân hàng bằng cách ký quỹ đồn điền.
Lại thất bại. Phương mất cả đồn điền, thêm nợ nần, phải trở về sống nhờ ở từ đường
nhà vợ.
Trong lúc khó khăn này, chàng được Nguyễn Văn
Tiên Leung-Fat-Fa, giúp đỡ, Phương đưa gia đình về Hà Nội, làm thủ quỹ
cho hiệu Leung-Fat-Fa. Leung-Fat-Fa là hiệu tạp hóa lớn ở phố hàng Ngang của
Nguyễn Văn Tiên Leung-Fat-Fa. Khái Hưng đã giải thích việc này như sau:
"Lòng tử tế của Tiên tỏ ra rằng Tiên là một người Tàu,
người Tàu thuộc thời Xuân Thu Chiến Quốc hay Tiền Hán, Hậu Hán. Không phải lòng
tử tế của bọn phi thường, nhưng lòng tử tế Tàu kia.
Đối với Phương, Tiên tự coi như người chịu ơn sâu, đời đời
không thể trả hết, và mấy trăm bạc Phương giúp chàng ngày xưa, chàng đặt ngang
hàng với bát cơm của bà Phiếu Mẫu giúp Hàn Tín khi anh tể tướng còn hàn
vi" (trang 94).
Như vậy, trong Những ngày vui, những nét đời thật của
Khái Hưng lộ khá rõ, được sửa đổi và thêm thắt đôi chút, nhưng giữ nguyên nền
chính: Khái Hưng và vợ đều là con quan. Ông đã từng lập xưởng kinh doanh sơn ở
Phú Thọ và bị lỗ vốn. Việc buôn sơn được ông nhắc đến trong truyện ngắn Kong-Ko
Đai-Jin. Sau đó ông ra Hà Nội dạy trường Thăng Long, gặp Nguyễn Gia Trí và
Nhất Linh... Việc Nguyễn Văn Tiên Leung-Fat-Fa cho tiền để làm báo,
được Khái Hưng coi là lòng tử tế của người Tàu, trả ơn bát cơm Phiếu Mẫu
mà ông đã giúp Tiên ngày trước.
Chân dung Nguyễn Gia Trí
Vào truyện Những ngày vui, Khái Hưng tả cảnh ba người bạn
Ngạc, Điển, Duy và Xuyến, tình nhân của Ngạc, đi ô tô đến Lũng Thượng để dự lễ
tiệc do Phương mời. Giữa đường, xe chết máy, Ngạc lúi húi cúi xuống hý hoáy tìm
cách sửa. Trong khi ấy Duy đem bút chì và giấy ra vẽ.
"Ngạc ngửng lên trông thấy, gắt:
- Trời ơi, anh còn vẽ được!
- Truyện! Chín năm "Mỹ thuật" của người ta!
Ngạc thì thầm bảo Điển:
- Động một tý là nó giở chín năm trường Mỹ thuật của nó ra.
Xuyến vừa soi gương bôi sáp môi vừa hỏi:
- Anh Duy học chín năm ở Beaux Arts thực đấy à?
Duy, giọng tự phụ:
- Lại chả thực!
Mà kể thì cũng thực.
Là vì học gần hết năm thứ hai và sau một cuộc cãi lý kịch liệt
với giáo sư, Duy cáu tiết bỏ trường, tuy chàng là một thanh niên rất có hy vọng
học.
Hai năm sau, một hôm gặp Duy đi lang thang trên đường vùng
quê với đủ các họa cụ đeo trên lưng, ông đốc trường Mỹ thuật liền hỏi (thiếu
mấy chữ) Duy nên lại vào trường tòng học.
Duy vâng lời. Nhưng đến năm thứ ba, được dăm tháng, vì một điều
chẳng quan hệ mấy, Duy lại bỏ học.
Rồi ít lâu lại vào học. Lần sau cùng, Duy chính thức từ giã
trường Mỹ Thuật, vì chàng trúng tuyển kỳ thi ra. (9)
Tính góp lại, thời kỳ học tập của Duy vừa đúng chín năm.
- Vô lý! Chín năm!
- Ấy là kể cả nghỉ hè nữa đấy chứ nếu không thì làm quái gì đủ
chín năm.
Xuyến nghiêng đầu sửa mái tóc, mỉm cười hỏi:
- Anh học vẽ chín năm; chắc phải giỏi. Nhưng anh bắt đầu vào
trường từ năm anh lên mấy?
- Từ năm mười bẩy, lúc ấy tôi vừa đậu thành chung. Vị chi năm
nay tôi hăm bẩy. (...)
- Này, nhưng chữa xe làm gì nữa, lại đây xem tranh của tôi
hơn. Các anh phải biết "Một công trình tuyệt tác!"
Điển và Ngạc chán nản ngồi xuống vệ đường dưới bóng một cây đề
lớn. Duy đem tranh lại khoe:
- Đó, các anh coi: Dã man không? Vô nhân đạo không?" (10)
Duy vẽ cảnh: hai người đàn bà lưng cúi gò, vai khoác dây thừng,
kéo cái bừa do một người đàn ông đẩy.Duy vẽ hai người đàn bà kéo cầy trên Ngày Nay số 16Đoạn văn trên đây rất quan trọng, vì nó cho ta biết thêm về
tiểu sử Nguyễn Gia Trí. Tuy nhiên nếu đặt nó vào bối cảnh năm 1932, khi Phong
Hóa sắp ra đời, thì lúc đó Nguyễn Gia Trí chưa ra trường, Khái Hưng không thể
đưa vào miệng Duy câu: Truyện! Chín năm "Mỹ thuật" của người ta! Câu
này chỉ có thể nói năm 1936, khi Khái Hưng viết truyện này.
Nhưng nếu bỏ qua chi tiết vô lý này, ta có thể rút ra một số
thông tin về Nguyễn Gia Trí.
Khái Hưng sinh năm 1896, Nhất Linh sinh 1906, còn Nguyễn Gia
Trí, thường ghi sinh năm 1908; nhưng không ai biết chắc. Năm ông đỗ vào trường
Mỹ Thuật cũng mù mờ: Sách Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội (1925-1990) ghi
Nguyễn Gia Trí học khóa IV (1928-1933) rồi bỏ dở, trở lại học khóa VII
(1931-1936). Theo thư Nguyễn Gia Trí gửi Mai Thọ Truyền (11), ta được biết: tình cờ đi xem hội
chợ (1935) thấy tranh sơn mài của Trần Quang Trân đẹp, ông bèn quay về trường,
học sơn mài. Theo Lê Phổ (12), Nguyễn Gia Trí học cùng lớp với
Lê Thị Lựu, tức là khóa III (1927-1932).
Theo Những ngày vui, Nguyễn Gia Trí vào trường Mỹ thuật
năm 17 tuổi. Học chín năm (kể cả thời gian nghỉ). Những điều này chắc đã được
Nguyễn Gia Trí kiểm lại, cho phép ta rút ra những nhận xét sau đây:
1- Việc ông ra trường năm 1936, phù hợp với hoạt động của ông
trong Tự Lực văn đoàn, vì kể từ năm 1936, Nguyễn Gia Trí vẽ tranh công khai và
quyết liệt hơn thời kỳ chưa ra trường.
2- Vì ông ra trường năm 1936, và ông học 9 năm (kể cả những
lúc bỏ dở), vậy ông vào trường năm 1927, cùng lớp với Lê Thị Lựu, đúng như lời
Lê Phổ.
3- Năm 1927, ông 17 tuổi, vậy ta có thể cho rằng: Nguyễn Gia
Trí sinh năm 1910.
4- Theo Những ngày vui, Nguyễn Gia Trí bỏ học hai lần,
vì cãi nhau với giáo sư (Tardieu). Lần đầu, năm thứ hai (1928) và lần sau năm
thứ ba (1929). Tổng cộng thời gian "học" là 9 năm, vậy ông nghỉ học 4
năm trong khoảng từ 1928 đến 1936, vì mỗi khóa trường Mỹ thuật là 5 năm.
Như thế, vai trò của Nguyễn Gia Trí trong Tự Lực văn đoàn,
không chỉ ở mức độ cộng tác thường xuyên mà còn ở chỗ khác nữa: có thể nhờ tiền
bán tranh và sống độc thân, nên Nguyễn Gia Trí luôn luôn lo việc "kinh
tài" cho Tự Lực văn đoàn và Quốc Dân Đảng. Trước tiên cho Phong Hóa, lúc mới
thành lập, như Khái Hưng viết trong Những ngày vui. Rồi từ 1939-1940 ông
mua và tích trữ vũ khí cho đảng Đại Việt Dân Chính, bị Pháp bắt quả tang để
trong phòng vẽ, theo lời họa sĩ Hoàng Tích Chù (13). Sau cùng, ông góp phần
"nuôi" các đồng chí trong thời kỳ bôn ba ở Hương Cảng, những năm
1948-50, vẫn bằng hội họa của mình.
Chân dung Nhất Linh
Trong Những ngày vui, Nhất Linh xuất hiện sau Nguyễn
Gia Trí, trong vai Phượng. Khi in thành sách, đổi thành Phúc, có lẽ để tránh nhầm
với Phương, nhưng lại làm trệch ý Khái Hưng: cố ý đặt tên Phượng đi với Phương
như hai giọt nước, giống Khái Hưng và Nhất Linh ở ngoài đời.
Và đây là đoạn Phượng đến gặp Duy, "chủ nhiệm"
báo Tự Động để bàn chuyện "mở báo":
"- Chào ông chủ nhiệm.
Duy nghĩ thầm:
- Thôi chết tôi rồi. Ông này mà đến chơi thì chắc chắn là mất
hết một buổi sáng nghe chuyện mở báo.
Như đọc được tư tưởng của Duy, ông khách hỏi luôn:
- Ông bận? Nếu ông bận, xin để khi khác tôi lại đến.
Duy muốn đáp: "Vâng quả thực tôi bận", nhưng chàng
chỉ mỉm một nụ cười rất tự nhiên giơ tay mời:
- Ông ngồi chơi. Thưa không, tôi không bận gì hết. Tôi rất
vui lòng tiếp chuyện ông.
- Thưa ông hôm nay nghỉ?
- Vâng, hôm nay thứ năm.
- Báo của ông ra hôm nay, tôi vừa mua một số đây.
Vừa nói chàng vừa giơ ra một tập báo. Rồi cười nói tiếp:
- Ông đã biết đấy, tôi rất thích nghề báo, và báo nào tôi
cũng mua, cũng đọc. Tôi đọc cả những truyện kiếm hiệp, kiếm tiên nữa. Nhưng tôi
không mua năm báo nào hết. Tội gì phải không, thưa ông? Mình ở Hà Nội, nghe trẻ
rao ngoài phố, gọi vào mua một số. Như thế có phải tiện không? Mà lại tránh được
cái nạn mất báo, khỏi phải mất công viết thư lên tòa soạn đòi số khác...
Chàng kéo một thôi về cái lẽ mất báo, về cách xếp đặt vụng về
trong ban trị sự của hết thẩy các tòa báo chữ Pháp, chữ Việt.
- Rồi ông xem, khi nào báo của tôi ra đời, ông sẽ thấy cách tổ
chức khôn khéo hoàn toàn. Hiện giờ tôi đương ở thời kỳ điều tra, nhận xét, khảo
cứu.
Chàng rút ra một quyển sổ con, nói tiếp:
- Đây này, ở cả trong này, "projet" mở báo ở cả
trong này.
Duy rùng mình, lo sợ vì biết thế nào Phúc cũng đem cái kế
hoạch mở báo ra nói cho mình nghe trong khoảng ít ra là một giờ đồng hồ. Ở Hà Nội,
và ở tỉnh lỵ các thành phố Phúc đã đi qua, dễ trong hầu hết các giới trí thức,
ít ai không một lần được nghe Phúc bàn về cái kế hoạch mở báo của chàng.
Phúc là một vị giáo sư khoa học có giá trị tại trường trung học.
Chàng đã tòng học bốn năm ở bên Pháp và đã đậu cử nhân khoa học. Về nước, chàng
được bổ ngay giáo sư và lương tháng kể cũng khá cao, có lẽ đến gần ba trăm bạc.
Nhưng trong thời kỳ học tập bên Pháp cũng như ngày nay trong
thời kỳ dạy học, chàng chỉ chuyên nghiên cứu có một thứ báo chí. Chàng nói với
hết thảy các bạn bè và những chỗ quen biết rằng nghề gõ đầu trẻ, chàng chỉ theo
tạm, nghề chính của chàng là nghề viết báo, mở báo kia" (Những ngày
vui trang 148-150).
Và Phúc còn thao thao bất tuyệt về nghề báo trong sáu trang
sách nữa.
Phúc thì đúng là Nhất Linh rồi: Giáo sư cử nhân mới ở Pháp về.
Luôn luôn mơ tưởng việc làm báo và đi đâu cũng tuyên truyền việc lập báo. Mặc
dù lương giáo sư khá cao, gần ba trăm bạc, nhưng Nhất Linh vẫn không đủ tiền để
ra báo.
Cuối cùng, phải nhờ đến số tiền 10.000 của Nguyễn Văn Tiên
Leung Fat Fa, Nhất Linh mới có thể thực hiện được giấc mộng, kể từ Phong Hóa số
14.
Những thành viên đầu tiên của Tự Lực văn đoàn
Theo sự sắp đặt nhân vật trong Những ngày vui, thì Nguyễn
Gia Trí và Khái Hưng là hai người đầu tiên trong "nhóm" Tự Lực. Nhất
Linh đến sau, việc này hư thực như thế nào, khó biết được, mà cũng không quan
trọng.
Chỉ biết ba hạt nhân đầu của Tự Lực văn đoàn là Khái Hưng,
Nguyễn Gia Trí và Nhất Linh. Tự Lực văn đoàn đã manh nha trong thời gian từ
tháng 6-1932 đến tháng 9-1932, nghĩa là từ Phong Hóa số 1 (16-6-1932) đến số 13
(8-9-1932) tức là thời kỳ chuẩn bị ra báo Phong Hóa số 14.
Khi đọc kỹ Phong Hóa, chúng ta sẽ thấy rõ hai thời kỳ này,
như đã được Khái Hưng mô tả trong Những ngày vui:
Từ số 1 đến số 13: Phong Hóa do Khái Hưng chủ trì.
Từ số 14 trở đi (nhờ số tiền 10.000 đồng) Nhất Linh tổ chức lại
tờ báo, mở rộng với nhiều người cộng tác và ông làm Giám đốc.
Nhưng hai thời kỳ này không hoàn toàn phân cách, bởi vì nếu
tinh ý, ta sẽ thấy có những thành viên của văn đoàn đã xuất hiện trên Phong Hóa
ngay từ những số đầu:
- Phong Hóa số 2 (23-6-1932), bìa tranh trừu tượng, ký tên
Đông Sơn bằng chữ Hán, bìa này giữ đến số 10 (18-8-1932). Nếu Đông Sơn là Nhất
Linh, thì không thể nói Nhất Linh chỉ "vào" Phong Hóa từ số 14, mà
"vào" từ số 2.
- Phong Hóa số 3 (30-6-1932) có hý họa ký tên Đông Sơn bằng
chữ quốc ngữ, cũng thế, Nhất Linh "vào" từ số 3 chăng?
Vậy ta phải hiểu như thế nào? Theo tôi, những điều Khái Hưng
viết trong Những ngày vui phù hợp với thực tế hơn, còn những điều Nhất
Linh và Tứ Ly viết trên Phong Hóa số 154, chỉ có tính cách tượng trưng, tuyên
ngôn, tuyên cáo, cho nên ta hiểu tại sao Khái Hưng làm thinh, không tuyên bố gì
trên số báo Phong Hóa 154 này. (Xem Sự thành lập Tự Lực văn đoàn, phần
I)
Bởi vì, nếu Nhất Linh chỉ "vào" Phong Hóa từ số 14,
thì tranh bìa ký tên Đông Sơn chữ Hán từ số 2 và hý họa ký tên Đông Sơn quốc ngữ
trong số 3, là của ai?
Trừ khi Đông Sơn lúc đầu là Nguyễn Gia Trí?Tranh Đông Sơn ký chữ quốc ngữ trong PH số 3Tóm lại, trừ khi có khám phá mới, tôi tạm coi Đông Sơn là tên
chung của Nguyễn Gia Trí và Nhất Linh trong thời kỳ đầu. Đến khi nào thì tách
riêng và trở thành tên của Nhất Linh? Đó là một câu hỏi chưa thể giải đáp.
Về văn, Nhất Linh dường như không viết gì cho Phong Hóa từ số
1 đến số 13, nếu xét giọng văn và tư tưởng. Ông chính thức xuất hiện
cùng với Tứ Ly (Hoàng Đạo) và Tú Mỡ, trên Phong Hóa số 14 (22-9-1932), số
báo chính thức của Tự Lực văn đoàn. Thạch Lam cũng viết từ số 14, với
tên TL và số 15, với tên Việt Sinh.
Trường hợp Thế Lữ khá phức tạp, ông có ba bài in trên Phong
Hóa những số đầu, ký tên Nhất Chi Mai: tạp văn Quần trắng áo lam (PH
số 4, 7-7-1932), tường thuật Một buổi diễn kịch làm phúc (PH số
5, 14-7-1932) và truyện ngắn Bả phồn hoa (PH số 6, 21-7-1932); nhưng
lúc đó ông chưa nổi danh, nên không ai biết. Bẵng đi nửa năm, trên Phong Hóa
không thấy tên Nhất Chi Mai nữa. Đến PH số 27, 23-12-1932, mới có bài ông, lần
này ký tên Thế Lữ, dưới truyện ngắn Thây ma xuống gác. Hơn một năm
sau, ông xin được vào làm việc trong tòa soạn Phong Hóa, từ số 91
(30-3-1934). Bút hiệu Nhất Chi Mai chỉ trở lại trên vài số báo Phong Hóa cuối
cùng và một cách chính thức, trên báo Ngày Nay.
Tóm lại, ta có thể tạm kết luận: những thành viên đầu tiên
làm báo Phong Hóa, từ số 1 đến số 13, là Khái Hưng và Nguyễn Gia Trí, lúc đó chắc
chưa có ý định lập "văn đoàn" gì cả. Kể từ Phong Hóa số 14 có Nhất
Linh, Hoàng Đạo, Tú Mỡ và Thạch Lam mới trở thành một nhóm hay một "văn
đoàn" và tới số 27, có thêm Thế Lữ.
Nhưng đây chỉ là kết luận tạm thời, kỳ tới, sau khi khảo sát
nội dung và hình thức những số báo Phong Hóa đầu tiên do Khái Hưng phụ trách (từ
số 1 đến số 13), tôi sẽ đưa ra một kết luận rõ ràng hơn.
Chú thích:
1. Lạnh
lùng đã in mấy trang đầu trên PH số 151 (31-8-1935), rồi ngừng. Nhất Linh
cho in Đi Tây ký tên Lãng Du thay thế. Gần một năm sau, Lạnh
Lùng xuất hiện lại trên Ngày Nay (từ số 16, 12-7-1936 đến số 37,
6-12-1936).
2. Lũng
Thượng thuộc Yên Lạc, Vĩnh Yên, nơi có đồn điền của gia đình Đỗ Đình Đạo, một yếu
nhân của Việt Nam Quốc Dân Đảng, bạn thân của Nhất Linh.
3. Những
ngày vui, Phượng Giang 1958, trang 95-97. Chúng tôi trích bản in trong sách, vì
bản này đã sửa chữa những lỗi chính tả.
4. Những
ngày vui, bản Phượng Giang, trang 99.
5. Theo lời Trần Khánh Triệu (con nuôi Khái Hưng, con ruột
Nhất Linh) trong bài Papa tòa báo, in trên Thế Kỷ 21, số tưởng niệm
Khái Hưng tháng 12/1997, in lại trong Nhất Linh, người nghệ sĩ, người chiến
sĩ, Nxb Thế Kỷ, California, 2004.
6. Ninh Giang thuộc tỉnh Hải Dương.
7. Chữ TCHYA có thuyết nói là Tôi chẳng yêu
ai.
8. Viễn Sơn Nguyễn Tường Bách, Tưởng nhớ Khái Hưng,
Người bạn, Người anh thân mến, Nhà văn, Chiến sĩ cách mạng, in trong Kỷ vật
đầu tay và cuối cùng, cuốn 1, Hồn bướm mơ tiên, Nguyễn Thạch Kiên soạn,
Nxb Phượng Hoàng, Hoa Kỳ, 1997, t. 157-158.
9. Đoạn này tôi trích ở báo Ngày Nay số 16, vì cho đó là bản
gốc, khi in thành sách, được sửa lại như sau:
"Là vì học gần hết năm thứ hai và sau một cuộc cãi lý kịch liệt với ông
giáo, Duy bỏ học. Nhưng ít lâu chàng lại xin vào lần thứ hai. Ông giáo vì mến
tài nên bằng lòng. Nhưng đến năm thứ ba, được năm tháng, vì một điều chẳng quan
hệ mấy, Duy lại bỏ học. Rồi ít lâu lại vào học. Lần sau cùng, Duy chính thức từ
giã trường Mỹ Thuật, vì chàng trúng tuyển kỳ thi ra". Nhưng có lẽ đoạn
trong sách đúng với thực tại hơn: Nguyễn Gia Trí đã bỏ học, nhưng đi xem hội chợ,
thấy tranh sơn mài của Trần Quang Trân lại quay trở về học tiếp sơn mài đến lúc
ra trường năm 1936 (theo thư Nguyễn Gia Trí gửi Mai Thọ Truyền, in trong loạt
bài Những lá thư Nguyễn Gia Trí gửi Phạm Tăng, trên mạng vanviet.info và thuykhue.free.fr ).
"Là vì học gần hết năm thứ hai và sau một cuộc cãi lý kịch liệt với ông
giáo, Duy bỏ học. Nhưng ít lâu chàng lại xin vào lần thứ hai. Ông giáo vì mến
tài nên bằng lòng. Nhưng đến năm thứ ba, được năm tháng, vì một điều chẳng quan
hệ mấy, Duy lại bỏ học. Rồi ít lâu lại vào học. Lần sau cùng, Duy chính thức từ
giã trường Mỹ Thuật, vì chàng trúng tuyển kỳ thi ra". Nhưng có lẽ đoạn
trong sách đúng với thực tại hơn: Nguyễn Gia Trí đã bỏ học, nhưng đi xem hội chợ,
thấy tranh sơn mài của Trần Quang Trân lại quay trở về học tiếp sơn mài đến lúc
ra trường năm 1936 (theo thư Nguyễn Gia Trí gửi Mai Thọ Truyền, in trong loạt
bài Những lá thư Nguyễn Gia Trí gửi Phạm Tăng, trên mạng vanviet.info và thuykhue.free.fr).
10. Đoạn này cũng trích Những ngày vui, in trên Ngày
Nay số 16. Bản Phượng Giang 1958, trang 7-9, có sửa vài chữ so với bản in
trên báo.
11. Xem bài Những bức thư Nguyễn Gia Trí gửi cho Phạm
Tăng, site: vanviet.info và thuykhue.free.fr
12. Lê Phổ trả lời phỏng vấn của Thụy Khuê trên RFI, in lại
trong sách Lê Thị Lựu ấn tượng hoàng hôn, nxb Tổng Hợp TP.HCM, Bảo tàng Mỹ
Thuật TPHCM, 2018).
13. Trong bài Nguyễn Gia Trí, bậc đạo sư của sơn mài nghệ
thuật của Hoàng Hưng, in trong sách Những người lao động sáng tạo, nxb
Lao Động, 1998.
Thụy Khuê
Những ngày vui, NN số 20
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét