Chủ Nhật, 28 tháng 2, 2021
Xuân Diệu: Dòng tư tưởng sôi nổi không đi theo con đường có sẵn
Xuân Diệu: Dòng tư tưởng sôi nổi
Nhắc đến sự thành công của phong trào thơ mới, độc giả sẽ bắt
gặp được những cái tên tiêu biểu như Chế Lan Viên, Thanh
Tịnh, Huy Cận và đặc biệt là
ông hoàng thơ tình Xuân Diệu, cây bút tài hoa đã vẽ nên một đường cung phá cách
của văn thơ Việt Nam.
Bí ẩn "Những mối tình trai" của nhà thơ Xuân Diệu
Bí ẩn "Những mối tình trai"
của nhà thơ Xuân Diệu
Phút mặc niệm Nhà thơ Xuân Diệu tại Hội nghị những người viết
văn trẻ toàn quốc lần thứ III, tháng 12 năm 1985 (hàng đầu, từ phải qua trái):
Ngô Vĩnh Bình, Nguyễn Quốc Trung, Đặng Vương Hưng, Đỗ Chu…
Nhà thơ Xuân Diệu (1916 - 1985), tên đầy đủ là Ngô Xuân Diệu,
quê gốc ở Can Lộc (Hà Tĩnh), sinh trưởng tại Bình Định. Ông là tác giả của 14 tập
thơ, 15 tập văn xuôi, tiểu luận và phê bình, 4 tập sách dịch...
Trong suốt cuộc đời cầm bút, Xuân Diệu đã viết tổng cộng khoảng
trên 5.000 trang sách có giá trị. Ông đã vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân
chương Độc lập hạng Nhất (1985) và Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật
(đợt I, năm 1996). Sau ngày Xuân Diệu qua đời, tại Thủ đô Hà Nội và một số
thành phố đã có những đường phố được mang tên ông...
Những năm qua, đã có nhiều cuộc hội thảo, biết bao nhiêu bài
chuyên luận, luận án, bài nghiên cứu, phê bình,... viết về thơ và đời Xuân Diệu,
bởi ông là một trong những cây đại thụ của nền văn học Việt Nam.
Tôi chỉ là một học trò nhỏ, một trong hàng vạn người hâm mộ
thơ Xuân Diệu. May mắn là trước khi ông qua đời, tôi đã có dịp tiếp xúc với ông
một cách thân tình, thậm chí còn hân hạnh được ông làm giám khảo và trao giải A
(giải cao nhất) Cuộc vận động sáng tác Văn - Thơ - Ca khúc cho Thanh niên, do
TW Đoàn TNCS Hồ chí Minh và Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp tổ chức (1981 -
1983). Sau đó, tôi vinh dự được Xuân Diệu đề nghị gửi bản thảo cho ông góp ý, đến
thăm nhà riêng ông vài lần. Đặc biệt, là được trực tiếp tham gia phục vụ tang lễ
của Xuân Diệu năm 1985…
Vinh dự được Ban Tổ chức cuộc hội thảo nêu trên mời tham luận,
tôi xin được góp vài chi tiết nhỏ, đời thường, riêng tư, nhưng rất đặc biệt về
một nhà thơ lớn. Đó là chuyện... đồng tính nam của Nhà thơ Xuân Diệu. Đây là điều
bao năm vẫn bị xem là tế nhị, là cấm kỵ; nhưng vừa được pháp luật Việt Nam công
nhận là quan hệ hợp pháp. Hy vọng góp phần giúp cho người đọc hiểu thêm được sự
vĩ đại của một trong những nhà thơ tình lớn nhất Việt Nam…Chân dung Nhà thơ Xuân DiệuNăm 1982, khi còn là một anh lính trẻ đóng quân ở vùng biên
giới Lạng Sơn, tôi có gửi một chùm thơ về Hà Nội để tham dự Cuộc vận động sáng
tác văn - thơ và ca khúc cho thanh niên (1981-1983) do Trung ương Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp tổ chức, nhân kỷ niệm
50 năm ngày thành lập Đoàn. Một buổi chiều, tôi bất ngờ nhận được một một lá
thư lạ, ngoài phong bì đề tên người viết là Xuân Diệu. Mở thư ra đọc, tôi sung
sướng đến kinh ngạc khi biết đó là thư của một nhà thơ lớn gửi cho mình. Lá thư
rất ngắn, chỉ có khoảng hai trăm chữ. Xuân Diệu viết rằng ông rất thích chùm
thơ dự thi của tôi. Ông đã trao đổi với Nhà thơ Vũ Quần Phương và thống nhất
cho điểm cao chùm thơ ấy. Cuối thư, Xuân Diệu yêu cầu tôi gửi cho ông một tập bản
thảo mới, ông sẽ đọc kỹ và góp ý.
Năm 1983, khi đang “tạm trú” ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội dự một
trại viết ngắn ngày, tôi nhận được giấy mời của Trung ương Đoàn đến nhận giải A
dành cho thơ (thể loại văn xuôi và ca khúc chỉ có giải B) trong cuộc vận động
nói trên. Lễ trao giải diễn ra thật long trọng. Vì tôi là “Thủ khoa” nên vinh dự
được Nhà thơ Xuân Diệu vẫy đến ngồi cạnh ông. Suốt buổi lễ ấy, hầu như tôi chẳng
để ý đến ai nói những gì, đọc cái gì, mà chỉ... ngồi ngắm Xuân Diệu. Tôi nhớ rất
rõ Xuân Diệu đã ăn và uống nhiều lắm, ông ăn hết hai suất bánh ngọt, còn xơi một
quả chuối và ba miếng đu đủ nữa.
Mấy ngày sau, theo lời hẹn của Xuân Diệu, tôi tìm đến số nhà
24 phố Cột Cờ thăm ông. Tôi mua một quả đu đủ chín khá to. Xuân Diệu ngạc nhiên
hỏi: “Sao em biết tôi thích thứ này? Gọt vỏ đi, ta cùng ăn luôn!”.
Rồi ông đi tìm dao, nhưng không hiểu sao trong phòng chẳng có
con dao nào cả. Bí quá, tôi bèn lôi trong túi cóc chiếc ba lô lộn ngược mà mình
đem theo ra một chiếc dao tem (thứ dao dùng để cạo râu) rồi gọt và bổ đu đủ bằng
chiếc dao ấy. Tôi chỉ ăn một miếng nhỏ lấy lệ, còn một mình Xuân Diệu xơi hết nửa
quả. Trước khi ra về, ông đưa trả tôi tập bản thảo Thao thức với Kỳ Cùng và
nói: “Em hãy đọc kỹ lại, chỗ nào tôi khuyên tròn (o) là câu hay, còn chỗ nào đánh
dấu nhân (x) là thơ dở”.
Rồi Xuân Diệu động viên tôi: “Phải viết thêm nhiều nữa, gắng
sửa chữa cho kỹ, rồi chọn lọc gửi tới nhà xuất bản họ in cho. Có sách rồi, tôi
sẽ giới thiệu em với Hội Nhà văn...”
Dư âm của giải thưởng và lời căn dặn của nhà thơ Xuân Diệu đã
khiến tôi khi trở về đơn vị ở Lạng Sơn sống những ngày lâng lâng như đang trên
mây gió, tràn đầy niềm vui và hy vọng.
Nhưng hồi ấy những tác giả mới viết, in được tập thơ cực kỳ
khó khăn! Tôi gửi bản thảo đến Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, biên tập viên
Nguyễn Quang Tính đọc rồi yêu cầu sửa chữa, cứ tưởng sách được in đến nơi. Song
họ cứ nâng lên rồi lại đặt xuống, không biết bao nhiêu lần... Tháng 12 năm
1985, Nhà thơ Xuân Diệu đột ngột qua đời.
Hồi ấy, chúng tôi đang có mặt tại Hà Nội để tham dự Hội nghị
Những người người viết văn trẻ toàn quốc lần thứ III. Sáng sớm ngày tổ chức
tang lễ cho Xuân Diệu, tôi xung phong cùng mấy người bạn viết trẻ đến Bệnh viện
Việt - Xô nhận thi hài của nhà thơ từ phòng lạnh vào áo quan, rồi khênh lên ôtô
chuyển đến trụ sở 51 Trần Hưng Đạo...
Tôi nhớ rất rõ, cái áo quan của nhà thơ lớn không hiểu sao lại
bị nứt nẻ, góc bên trái trên đầu để lộ ra một kẽ lớn, cho gần vừa một ngón tay.
(Có lẽ nó được làm bằng thứ gỗ xoàng và giá mua cũng rẻ?). Chúng tôi đã phải “xử
lý” bằng cách lót thêm mấy tờ giấy đỏ. Lúc sống, Xuân Diệu vốn không cầu kỳ, chết
rồi, ông giản dị thế cũng là phải.
Bên linh cữu của Xuân Diệu, chúng tôi đều đã ứa nước mắt và
khóc thật sự. Với tôi, Xuân Diệu như một vị thánh, đầy ngưỡng mộ và kính trọng.
Sau ngày đó, tôi đã âm thầm tìm đọc những tác phẩm của Xuân
Diệu và tất cả những gì người ta viết về ông…
Nhưng hình như hầu hết mọi người đều né tránh đụng chạm đến
cái đề tài tế nhị, thậm chí có thể gọi là “phạm húy”, mà trong bài này người viết
tạm gọi nó là chuyện “Tình trai” (mượn nguyên tên một bài thơ khá nổi tiếng của
Xuân Diệu công khai ca ngợi mối tình của Rimbaud với Verlaine - “Hai chàng thi
sĩ choáng hơi men”). Bởi, nếu có ai đó dám khẳng định rằng nhà thơ tình tài ba,
thần tượng của biết bao thế hệ người yêu thơ Việt Nam là... đồng tính nam(!),
thì chắc chắn, các fan cuồng nhiệt của ông sẽ hét lên: Tầm bậy! Làm gì có chuyện
đó!
Nhưng, cái “nghi án” về một “trò đùa của tạo hóa” kia thì vẫn
cứ lơ lửng đâu đó, kể từ thời Xuân Diệu còn sống và nhất là sau khi ông đã qua
đời... Theo tôi, đó là một trong những lý do cắt nghĩa tại sao ông được nhiều
người coi là “Ông hoàng Thơ tình Việt Nam”. Phàm những cái gì người không thể
có được theo tự nhiên, thì lại càng khao khát! Với Xuân Diệu, đó là Tình yêu!
Và nó được ông viết thành Thơ!
Sau này, tôi có may mắn được nhà thơ Hoàng Cát - người vẫn được
coi là “em kết nghĩa” của cố thi sĩ Xuân Diệu - tiết lộ một “bí mật” rất riêng
tư của mình: Ông chính là hình mẫu, là nguồn cảm hứng cho Xuân Diệu sáng tác một
số bài thơ tình nổi tiếng, trong đó có thi phẩm bất hủ: "Biển"...
Cuối năm 1992, khi đọc cuốn hồi ký "Cát bụi chân
ai" của Tô Hoài, đoạn viết về Xuân Diệu đã khiến tôi bàng hoàng, không tin
đó là sự thật: Hồi kháng chiến chống Pháp, nơi có cơ quan văn nghệ kháng
chiến trú đóng, các chàng trai trẻ rất sợ ở tập thể cùng với Xuân Diệu. Ban ngày
thì lặng lẽ bình thường, nhưng tối đến thì nháo nhác, bỏ đi ngủ nhờ nơi khác,
trống cả cơ quan. Bởi cứ đêm đến Xuân Diệu hay “mò” sang giường họ, để làm...
“trò vợ chồng”!
Nhà văn Tô Hoài từng bị Xuân Diệu “mò” sang ngủ cùng để
làm “chuyện ấy” không chỉ một lần. Hãy nghe ông tả lại một cái đêm mưa gió
"ghê gớm" ấy:
Bàn tay ở đâu rờ vào. Không phải. Tay người, bàn tay đầy đặn,
ấm ấm. Hai bàn tay đầy đặn xoa lên mặt, lên cổ, rồi xuống dần xuống dần khắp mình
trần truồng trong mảnh chăn dạ. Bóng tối bập bùng lên như ngọn lửa đen không có
ánh, cái lạnh đêm mưa rừng ấm dần lên. Chẳng còn biết đương ở đâu, mình là ai,
ta là ai, hai cơ thể con người quằn quại, quấn quýt, cánh tay, cặp đùi thừng chão
trói lại, thít lại, dằng ra. Niềm hoan lạc trong tôi vỡ ra dữ dội dằn ngửa cái
xác thịt kia.
Rồi như chiêm bao, tôi ngã ra, thống khoái. Im lặng. Nghe mưa
rơi xuống tàu lá chuối trong đêm và cái mệt dịu dàng trong mình. Giữa lúc ấy,
hai bàn tay mền mại như lụa lại vuốt lên mặt. Làn môi và hơi thở nóng như than
bò vào mắt, xuống vú, xuống rốn, xuống bẹn... Cơn sướng lại cồn lên cho đến lúc
ngã cả ra, rúc vào nhau. Rồi bàn tay dịu dàng lại vuốt lên mặt. Lần này thì tôi
lử lả, tôi nhuôi ra rên ư ử, như con điếm mê tơi không nhớ nổi người thứ mấy,
thứ mấy nữa.
Trời rạng sáng. Xuân Diệu trở về màn mình lúc nào không biết.
Tôi he hé mắt nhớ lại những hứng thú khủng khiếp. Những cảm giác nồng nàn kích
thích trong bóng tối đã trơ ra khi sáng bạch...
Cũng theo Tô Hoài, thì hồi ấy Xuân Diệu đã từng bị cơ quan kiểm
điểm kéo liền hai tối, phải họp đến khuya. Họ kết tội Xuân Diệu là “tư tưởng tư
sản, phải chừa đi”. Còn Xuân Diệu thì chỉ biết ngồi khóc nức nở: “Tình trai của
tôi... tình trai...”. Sau đó, cũng vì chuyện này, Xuân Diệu đã bị Ban Chấp hành
kỷ luật đưa ra khỏi thường vụ... “. Và Tô Hoài còn viết rằng: Ở đâu Xuân
Diệu cũng "đào hoa những mối tình trai”.
Đọc những trang viết trên, đầu tiên tôi đã rất giận nhà văn
Tô Hoài, vì cho rằng ông đã bêu xấu thần tượng của mình. Nhưng rồi nghĩ lại,
Xuân Diệu là nhà thơ lớn, nhưng ông cũng là một con người. Mà đã là con người
thì ai chẳng có khiếm khuyết. Chẳng nhẽ một người khả kính như Tô Hoài lại phịa
chuyện và vu khống cho Xuân Diệu?
Một lần ngồi buồn, tôi đã làm cái việc lẩn thẩn là giở hai tập
"Thơ thơ" và "Gửi hương cho gió" (được tuyển trong cuốn
"Thơ Mới 1932-1945, tác gia và tác phẩm") ra đếm xem Xuân Diệu đã đề
tặng thơ cho bao người?
Tôi ngạc nhiên khi phát hiện một điều: Trong 100 bài thơ, có
cả thảy 21 bài được ông chua thêm lời tặng, nhưng tất cả đều dành cho... đàn
ông. Tuyệt nhiên không thấy một cái tên phụ nữ nào trong đó(!?).
Về chuyện Xuân Diệu tặng thơ, có một bài thơ khá đặc biệt,
chưa hề có trong bộ "Toàn tập Xuân Diệu" (6 tập, Nhà xuất bản Văn học,
2001) đó là bài "Em đi".
Xuân Diệu viết Em đi xong từ đêm ngày 11 tháng 7 năm 1965,
lúc 23 giờ 30 phút. Bài thơ gồm 24 câu, được chia làm sáu khổ. Đọc những câu
thơ sau đây, ai cũng tin rằng “em” trong bài thơ là một người phụ nữ xinh đẹp
mà nhà thơ yêu tha thiết:
Em đi để tấm lòng son mãi
Như ánh đèn chong, như ngôi sao
Em đi, một tấm lòng lưu lại
Anh nhớ thương em, lệ muốn trào
Ôi Cát! Hôm vừa tiễn ở ga
Chưa chi ta đã phải chia xa
Nụ cười em nở, tay em vẫy,
Ôi mặt em thương như đóa hoa!
Em hỡi! Đường kia vướng những gì
Mà anh mang nặng bước em đi!
Em ơi, anh thấy như anh đứng
Ôm mãi chân em chẳng chịu lìa
Nhưng bóng em đi đã khuất rồi.
Đứt lìa khúc ruột của anh thôi!
Tình ta như mối dây muôn dặm
Buộc mãi đôi thân, dẫu cách vời
Em hẹn sau đây sẽ trở về
Sống cùng anh lại những say mê...
áo chăn em gửi cho anh giữ,
Xin gửi cùng em cả lời thề!
Một tấm lòng em sâu biết bao
Để anh thương mãi, biết làm sao!
Em đi xa cách, em ơi Cát
Em chớ buồn, nghe! Anh nhớ yêu...Hoàng Cát và Xuân Diệu thời trẻNhưng “Cát” ở đây là Hoàng Cát. Ngắm những bức ảnh thời trai
trẻ, trông anh thật đàn ông và đẹp trai đến... phát ghen!
Bài "Em đi" được Xuân Diệu viết tặng khi Hoàng Cát
nhập ngũ, cùng một đơn vị bộ đội hành quân vào chiến trường miền Nam... Suốt 24
năm, nó nằm trong sổ tay của Hoàng Cát như một kỷ niệm riêng.
Cho tới trước Tết Kỷ Tỵ (1989) vợ Hoàng Cát ốm nặng, phải nằm
bệnh viện, mà nhà anh nghèo quá, chẳng có tiền thuốc thang; một người bạn văn của
Hoàng Cát ở báo Nhân dân đến thăm, thấy hoàn cảnh ái ngại mới gợi ý cho Hoàng
Cát gửi một bài thơ mới, anh sẽ giúp đăng để có chút nhuận bút. Hoàng Cát nói đại
ý: Lâu rồi mình chưa viết được bài nào tâm đắc, nhưng có một bài thơ của
Xuân Diệu tặng riêng mình đã lâu, đọc cảm động lắm, có thể công bố được...
Hoàng Cát kể lại sau khi bài thơ được báo Nhân dân đăng trên
số Tết, anh mừng lắm, vội đến lấy nhuận bút. Trong danh sách có ghi rõ số tiền
của "Em đi" được trả là 8 đồng. (Khi tôi công bố bài viết này lên FB,
bạn đọc Phạm Minh Tri nói có thể Hoàng Cát nhớ sai, chắc chắn số tiền lớn hơn
thể? - ĐVH). Nhưng... đã có người đến trước ký nhận số tiền ấy rồi. Hoàng Cát
buồn lắm, anh tìm đến số nhà 24 Cột Cờ, than phiền với Hà Vũ (con trai của nhà
thơ Huy Cận). Vũ bảo: “Thôi chú đừng buồn làm gì. Cháu xin bù lại và biếu chú
thêm chút ít để chữa bệnh cho cô”. Và Vũ rút tiền ra, đưa cho Hoàng Cát tới 20
đồng!...
Nhưng khi tôi điện thoại cho Hà Vũ để hỏi lại những chi
tiết nêu trên, thì anh ngớ ra, chẳng nhớ gì cả. Và Vũ cho biết: Hiện di cảo thơ
của Xuân Diệu có trong tay anh còn khoảng 500 bài chưa được công bố.
Tôi hỏi nhà thơ Hoàng Cát:
- Ngoài "Em đi", còn có bài nào Xuân Diệu viết cho
riêng anh nữa không?
- Có một bài thơ tình đã công bố lâu rồi, rất nổi tiếng. Đó
là bài "Biển", sáng tác năm 1961. Nói ra có thể nhiều người không
tin: Tôi chính là “đối tượng” và là “nguồn cảm hứng” cho Xuân Diệu viết bài thơ
nổi tiếng ấy.
Để minh chứng cho điều mình nói, Hoàng Cát đã lục tìm trong tủ
sách của mình và lôi ra một “vật báu”. Đó là một cuốn sổ tay đã ố vàng có những
dòng bút tích “Tặng em Hoàng Cát của anh” và chữ ký của Xuân Diệu. Bài thơ
"Biển" được chép kín hai trang...
Tôi không khỏi bàng hoàng, sửng sốt: Trời ơi! Chẳng lẽ là
"Biển" - bài thơ tình hay vào loại bậc nhất của thi sĩ Xuân Diệu - mà
cũng là... “tình trai” ư?
Và tôi chợt hiểu, khi Tô Hoài viết: Ai yêu thơ Xuân Diệu,
hiểu được thơ tình não nùng của Xuân Diệu, tình trai và tình gái không không
phân biệt trai gái, phải thấu nỗi niềm và duyên nợ của nhà thơ, suốt đời nhớ thương
và chờ đợi. Không bao giờ sầu não thất vọng, không bao giờ già, mãi mãi ban đầu...
Thì ra, Nhà văn Tô Hoài cũng đã nói hết cả rồi!.
Thời của Xuân Diệu, Luật pháp nước ta chưa thừa nhận quan hệ
đồng tính như bây giờ! Và như thế, nếu quý vị và các bạn hiểu được nỗi đau, sự
thiệt thòi của Xuân Diệu thì càng thấy đồng cảm với nhà thơ tình số một của Việt
Nam và càng thấy ông vĩ đại như thế nào!.
Hà Nội, 1985 - 2016Đặng Vương Hưng
Xuân Diệu: Thơ tình hay vì yêu thật, sống thậ
Xuân Diệu: Thơ tình hay vì yêu thật, sống thật
Đến nay dường như vẫn còn là một vấn đề quá khó đối
với không ít người, khi phải trả lời câu hỏi vì sao thơ tình của Xuân Diệu hay
đến mức khó ai có thể vượt qua? Người ta đã tốn không biết bao nhiêu giấy mực kể
cả những người đồng thời cũng như hậu thế nhằm đi tìm kiếm câu trả lời cho vấn
đề, nhưng xem ra cũng chỉ là phỏng đoán.
Nhà thơ Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu, sinh ngày
2/2/1916, ở làng Trảo Nha, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng tuổi thiếu
thời ông sống tại Gò Bồi, thôn Tùng Giản, xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước, tỉnh
Bình Định và theo học ở Quy Nhơn. Cha là ông Ngô Xuân Thọ và mẹ là bà Nguyễn Thị
Hiệp.
Sau khi tốt nghiệp tú tài, ông đi dạy học tư và làm viên chức
ở Mỹ Tho, Tiền Giang.
Sau đấy ông ra Hà Nội sống bằng nghề làm thơ, viết văn và là
thành viên tích cực của nhóm Tự lực văn đoàn từ năm 1938- 1940, do
Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh) sáng lập từ năm 1932. Đến năm 1943, Xuân Diệu tốt
nghiệp cử nhân Luật, rồi vào làm tham tán thương chánh ở Mỹ Tho. Sau
đấy ông lại quay ra Hà Nội tiếp tục làm thơ và viết văn. Bên cạnh sáng
tác thơ, Xuân Diệu còn viết cho các báo như Ngày Nay và Tiền
Phong. Sau đấy ông tham gia sáng lập Đoàn báo chí Việt Nam, nay là Hội Nhà
báo Việt Nam.
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Xuân Diệu được biết đến với
tư cách là một nhà thơ lãng mạn trữ tình. Ông đã thổi một làn gió mới vào thi
đàn Việt Nam những năm nửa đầu thế kỷ XX. Theo nhà phê bình văn học Hoài Thanh
thì Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ mới- nên chỉ những người còn trẻ
mới thích đọc Xuân Diệu, mà đã thích thì phải mê. Xuân Diệu không như Huy Cận vừa
bước vào làng thơ đã được người ta dành ngay cho chỗ ngồi yên ổn. Xuân Diệu đến
giữa chúng ta tới nay đã ngót năm năm mà những tiếng khen chê chưa ngớt. Người
khen, khen hết sức; người chê, chê không tiếc lời (1)
Xuân Diệu được coi là một trong những chủ soái của phong
trào Thơ Mới. Tác phẩm tiêu biểu của ông ở giai đoạn này gồm: Thơ thơ (1938)
và Gửi hương cho gió (1945). Có thể nói hai tập thơ này của
ông được giới lý luận- phê bình văn học và văn học sử xem như là hai kiệt
tác của ông ca ngợi tình yêu và cuộc sống. Tình yêu thường gắn liền với tuổi trẻ
và mùa xuân thiên nhiên của đất trời và của lòng người. Xuân Diệu cảm nhận sâu
sắc đến mức quằn quại đau mỗi khi cảm thấy thời gian đang chảy trôi vào vô tận.
Trong bài Giục giã ông từng mở đầu bằng hai câu thơ thật sự riết
róng: Mau lên chứ, vội vàng lên với chứ/ Em, em ơi, tình non đã già rồi.
Như vậy đủ thấy ông cảm nhận về sự hữu hạn, mong manh của đời
người, nên cần phải sống thật và yêu một cách hết mình, đắm say. Trước đây đã
có một số người do nhận thức nông cạn nên suy diễn một cách vô lối, quy kết hai
câu thơ của ông là biểu hiện của lối sống gấp của tầng lớp tiểu tư sản,
theo cách nhìn của đạo đức phong kiến lạc hậu, nhuốm màu sắc chính trị hẹp hòi
từ quan điểm của Nho giáo.
Năm 1944, Xuân Diệu tham gia phong trào Việt
Minh, rồi sau đó, khi Cách mạng tháng Tám thành công, ông hoạt động trong Hội
Văn hóa cứu quốc, làm thư ký tạp chí Tiền phong của Hội, rồi công tác
trong Hội văn nghệ Việt Nam, làm thư ký tòa soạn
tạp chí Văn nghệ (nay là Tuần báo Văn nghệ) ở Việt
Bắc.
Xuân Diệu tham gia ban chấp hành, nhiều năm là Ủy viên thường
vụ Hội Nhà văn Việt Nam kể từ khi mới thành lập (1957). Cũng từ sau năm 1945,
Xuân Diệu trở thành một trong những nhà thơ hàng đầu ngợi ca cách mạng, ngợi ca
những người lao động. Từ đỉnh cao của dòng thơ lãng mạn trữ tình, ông chuyển
sang dòng thơ anh hùng ca, tự sự trữ tình, pha chút chính luận một cách dứt
khoát ngay từ tập thơ Ngọn quốc kỳ (1945), cho đến Một khối hồng (1964), rồi Thanh
ca (1982),...
Với tư cách là một cây đại thụ của nền thi ca Việt Nam hiện đại,
Xuân Diệu đã để lại khoảng 450 bài thơ, trong đó một số lượng lớn vẫn còn nằm
trong di cảo chưa công bố, một số truyện ngắn và nhiều bút ký, tiểu luận, phê
bình văn học. Xuân Diệu từng là đại biểu Quốc hội khóa I. Ông còn được bầu
là Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm Nghệ thuật nước Cộng hòa dân chủ Đức năm
1983.
Ông mất ngày 18 tháng 12 năm 1985 tại Hà Nội.
Ông đã được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học-
Nghệ thuật, năm 1996
Tên của ông được đặt cho một đường phố ở quận Tây Hồ và
một trường tiểu học ở quận Ba Đình, Hà Nội, một trường trung học phổ thông ở
huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.
Suốt cuộc đời hoạt động nghệ thuật, nhà thơ Xuân Diệu đã để lại
cho đời sau một khối lượng tác phẩm đồ sộ, mà các thế hệ sau này không mấy người
sánh kịp, gồm nhiều thể loại khác nhau. Về thơ có: Thơ thơ, Gửi hương cho
gió, Ngọn quốc kỳ, Hội nghị non song, Riêng chung, Hồn tôi đôi cánh,... Văn
xuôi: Phấn thông vàng, Miền Nam nước Việt, Việt Nam ngàn dặm,... Tiểu luận
phê bình: Thanh niên với quốc văn, Tiếng thơ, Những bước đường tư tưởng của
tôi, Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ, Dao có mài mới sắc, Thi hào dân tộc
Nguyễn Du, Đi trên đường lớn, Ba thi hào dân tộc, Phê bình giới thiệu thơ,... Dịch
thơ: Thi hào Nadim Hitmet, Vây giữa tình yêu, Việt Nam hồn tôi, Những nhà
thơ Bungari, Nhà thơ Nicôla Ghiđen,...
Cũng cần phải nói thêm rằng, trước thời kỳ đổi mới, một trào
lưu nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học đứng trên quan điểm chính trị, đạo đức
lạc hậu và xã hội học dung tục đã qui cho Thơ Mới đủ mọi thứ tội, mà
nặng nhất là tội lập trường tiểu tư sản thay vì xem Thơ Mới như một
diễn ngôn lịch sử, hay một giá trị nghệ thuật. Có không ít học giả, giáo sư,
nhà lý luận, phê bình văn học, có thể do trình độ nhận thức hạn chế, hay
bị sức ép từ một thế lực nào đấy hoặc là có tư tưởng cơ hội, nhân danh này nọ,
đến mức biến Thơ Mới thành một thứ gì đấy cần phải tẩy chay, cấm kị đối
với nhiều thế hệ người Việt Nam yêu thích văn chương. Vào thời điểm ấy, cái tôi
cá nhân, một phẩm chất tối quan trọng trong sáng tạo thi ca bị quy thành chủ
nghĩa cá nhân vị kỷ theo quan điểm đạo đức và xã hội học dung tục. Với tư
cách là ông hoàng thơ tình, Xuân Diệu không thể nào thoát khỏi
vòng cương tỏa của những tư tưởng bảo thủ ấy. Cũng may mà, chính ông lại là người
tìm đến với Việt Minh khá sớm và đem tất cả lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ và
tình yêu cuộc sống để phục vụ Cách mạng, phục vụ nhân dân. Dù vậy, sau khi Cách
mạng tháng Tám thành công chừng 40 năm, ông vẫn còn là đối tượng bị chỉ trích mạnh
mẽ nhất, mặc dù, khối lượng tác phẩm của ông sau 1945 với tư cách là một nhà
thơ Cách mạng, còn lớn hơn nhiều so với vài ba tập thơ, truyện ngắn trước đấy,
nhưng người ta lại cố tình quên đi, mà chỉ quan tâm đến tính chất tiểu tư sản
trong sáng tác của ông trước
1945.
Ngay lúc bình sinh, cũng như khi đã về thế giới bên kia, cách
đây gần 30 năm, Xuân Diệu và thơ tình của ông vẫn luôn là vấn đề được nhiều người
quan tâm, bàn thảo với hàng loạt bài viết như: Vạch trần nỗi khổ tình
trai của nhà thơ Xuân Diệu; Nhà thơ Hoàng Cát: Xuân Diệu yêu, còn tôi
chỉ thương; Nghi án tình trai với nhà thơ Xuân Diệu, Giải
mã nghi án giới tính của Xuân Diệu,... và trong Hồi ký của
mình, Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã có hẳn một chương dành riêng viết về nhà thơ
Xuân Diệu sau gần 20 năm quan hệ gắn bó giữa hai người (2). Còn nhà
văn Tô Hoài, người cùng thời và quen biết Xuân Diệu từ trước Cách mạng tháng
Tám, năm 1945 cũng dành hẳn chương III trong Hồi ký Cát bụi chân ai của
mình để viết về ông hoàng thơ tình này. Đáng lưu ý là tất cả bài viết
của các tác giả nói trên ít nhiều đều đề cập đến vấn đề giới tính của Xuân Diệu.
Những tác giả nói trên chỉ có ba người là Tô Hoài, Hoàng Cát và Nguyễn Đăng Mạnh
là có thời gian gắn bó mật thiết lâu dài và chỉ xếp sau Huy Cận, người bạn thiếu
thời, em rể và là người sống chung với Xuân Diệu trên dưới 40 năm.
Trong các nhà văn, nhà thơ vừa kể trên, mỗi người có quan hệ
và tiếp xúc với Xuân Diệu theo cách riêng của mình, nên có những kỷ niệm và
cách nhìn nhận về ông cũng không ai giống ai. Huy Cận và Xuân Diệu là tình bạn
thuở thiếu thời là hai tính cách đối nghịch nhau, nhưng cả hai đều cần phải dựa
vào nhau để sống và hoạt động nghệ thuật.
Còn với Tô Hoài thì đích thị xem Xuân Diệu là người đồng
tính. Minh chứng là trong hồi ký Cát bụi chân ai của Tô Hoài, đặc biệt
là đoạn tả những đêm ma quái ở U tỳ quốc trên Yên Dã, huyện Đại Từ, tỉnh
Thái Nguyên (U tỳ quốc là cách gọi của Xuân Diệu): Bàn tay ma ở đâu sờ
vào. Không phải. Tay người, bàn tay người đầy đặn, ấm ấm. Hai bàn tay mềm mại
xoa lên mặt lên cổ rồi xuống dần, xuống dần khắp mình trần truồng trong mảnh
chăn dạ… Chẳng còn biết đương ở đâu, mình là ai, ta là ai, hai cơ thể con người
quằn quại, quấn quít cánh tay, cặp đùi thừng chão trói nhau lại, thít lại, giằng
ra. Niềm hoan lạc trong tôi vỡ ra, lên cơn dữ dội, dằn ngửa cái xác thịt kia. Rồi
như chiêm bao, tôi rời rã, thống khoái, im lặng… Trời rạng sáng. Xuân Diệu trở
về màn mình lúc nào không biết. Tôi hé mắt nhớ lại những hứng thú khủng khiếp.
Những cảm giác nồng nàn kích thích trong bóng tối đã trơ ra khi sáng bạch. Tôi
chạy xuống cánh đồng giữa mưa… Nhưng đêm mai lại vào cuộc kịch liệt hơn. Trong
đêm quái quỷ lại thấy mình không phải mình mọi khi, cũng không biết rồi trời lại
sáng. Cho đến khi thật thấy rạng sáng mới rờn rợn tởm (3).
Với Hoàng Cát là tình anh em trai thì đúng hơn là tình
trai. Theo Hoàng Cát, ông chỉ thương và chiều Xuân Diệu thôi chứ không yêu, còn
Xuân Diệu thì yêu thật. Nhưng như vậy mà nói đây là tình yêu đồng tính của hai
người là không thỏa đáng, bởi lẽ đây chỉ mới nghe một tai từ lời của Hoàng Cát
nói ra, rất khó kiểm chứng. Vả chỉ căn cứ vào một vài bài thơ mà Xuân Diệu viết
tặng Hoàng Cát mà suy ngược lại cho rằng đấy là tình yêu đồng tính lại càng sai
lầm hơn.
Nhân chứng thứ tư là Nguyễn Đăng Mạnh, thì quan hệ với Xuân
Diệu đơn thuần chỉ là quan hệ giữa nhà thơ và nhà nghiên cứu, lý luận văn học,
không hề có chuyện luyến ái ở đây, mặc dù hai người rất quý trọng, quan tâm đến
nhau, đôi khi còn trên cả mức quan hệ của một tình bạn thông thường.
Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ trên hồi ức của từng ấy nhân chứng
để suy ra Xuân Diệu là người đồng tính hay ái nam ái nữ và thơ của ông cũng là
thơ của người đồng tính hay của người ái nam ái nữ là chưa thỏa đáng, mặc dù
ông đã có một số bài thơ nói về vấn đề này như Tình trai, Em đi, Biển,...
Nhân chứng cuối cùng, người vợ duy nhất của ông hoàng
thơ tình Xuân Diệu là NSND, đạo diễn điện ảnh Bạch Diệp. Dù quan hệ vợ chồng
của hai người chỉ kéo dài khoảng sáu tháng, nhưng những gì bà Bạch Diệp nói ra
theo tôi là đáng tin cạy hơn cả. Ngày ấy, sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc,
vào một ngày cuối thu đầu đông (11/1958), Xuân Diệu ở ngôi nhà 24 phố Cột Cờ
(nay là đường Điện Biên Phu) với gia đình nhà thơ Huy Cận, đạp xe xuống nhà
nàng ở cuối phố Bà Triệu, nơi có hàng hoa dạ lan thơm nức. Chính nàng Bạch Diệp
đã khơi nguồn cảm hứng để chàng thi sĩ đa tình Xuân Diệu viết nên bài Dạ
hương bất hủ: Tôi cầm mùi dạ lan hương/ Trong tay đi đến người thương
cách trùng/Dạ lan thơm nức lạ lung/ Tưởng như đi mãi không cùng mùi hương.
Theo bà Bạch Diệp, Xuân Diệu là một người chồng rất chiều vợ,
chỉ với chiếc xe đạp cũ ông đã chở bà đi khắp nơi. Dù có phải đạp xe hàng chục
cây số, người đàn ông đã ngoài 40 tuổi ấy vẫn tỏ ra vui thích và thường lẩm nhẩm
đọc thơ khi đang đạp xe. Tôi còn rất thích đi xem phim, xem kịch, Xuân Diệu
cũng chiều theo, luôn chở tôi đi xem chứ không như nhiều người đàn ông thời
bấy giờ không muốn cho vợ đi đến rạp, bà nhớ lại (4).
Bà Bạch Diệp còn cho biết thêm, ngay lần gặp Xuân Diệu đầu
tiên, bà dường như đã bị chìm trong đôi mắt to, sáng và thăm thẳm của ông hoàng
thơ tình. Xuân Diệu lúc ấy tuy đã ngoài 40 tuổi, nhưng trông vẫn rất bảnh bao,
cuốn hút với vầng trán cao và những sợi tóc loăn xoăn bồng bềnh, lãng mạn. Những
buổi hẹn hò sau đó, Xuân Diệu thường chở Bạch Diệp trên xe đạp lang thang ra
ngoại ô chơi. Một lần, đang rong ruổi trên đường, một cơn mưa lớn bất chợt ập đến,
Xuân Diệu liền kéo Bạch Diệp vào trú dưới một mái hiên. Thi sĩ rút khăn mùi
xoa, lau từng giọt mưa lấm tấm trên mặt người bạn gái khiến nàng cảm động trong
lòng. Những bông hoa hồng tươi thắm được Xuân Diệu cầu kỳ lựa chọn từ tiệm rồi
mới mang tặng khiến nàng thêm đắm đuối trong bầu không khí lãng mạn của thơ và
hoa (5).
Sau khi cưới xong, đôi trai tài gái sắc được thu xếp ở trong
một căn phòng nhỏ nhắn nhưng ấm cúng... Chậu nước ấm thơm nức mùi hương hoa do
chính tay chú rể chuẩn bị khiến Bạch Diệp thêm phần cảm động. Rồi sau khi tắm
xong, bàn tay mềm mại của Xuân Diệu đặt lên vai làm tim cô gái trường dòng
thình thịch đập, má đỏ bừng, ngượng ngùng… Chợt Xuân Diệu cất tiếng hỏi: em có
thấy cái bút ở đâu không?. Ngạc nhiên, nàng hỏi lại: để làm gì hả anh? Xuân Diệu
không trả lời, ông lục tung bàn, giấy tờ và cúi cả xuống gầm giường tìm bút. Rồi
ông thắp thêm cây nến, Xuân Diệu ngồi vào bàn, loay hoay viết một lúc rồi cầm tờ
giấy quay sang đọc thơ cho vợ nghe và hỏi ý kiến nàng. Xong chú rể mới lại hì hụi,
cắm cúi viết như quên mất cô dâu và đêm tân hôn phải diễn ra như lẽ thường của
các đôi vợ chồng mới cưới (6).
Theo bà thời kỳ trong và sau hôn nhân những bài thơ tình của
Xuân Diệu luôn đắm đuối, khát khao: Hãy khăng khít những cặp môi gắn
chặt/ Cho anh nghe đôi hàm ngọc của răng/ Trong say sưa, anh sẽ bảo em rằng/ Gần
hơn nữa thế vẫn còn xa lắm. (Xa cách).
Thế rồi bỗng một đêm, Xuân Diệu không ngồi bên bàn giấy nữa
mà đến bên vợ và ôm chặt nàng trong vòng tay, âu yếm hôn nàng, nồng nàn, cuống
quýt... Những tưởng đêm ấy là đêm tân hôn thực sự của đôi vợ chồng mới cưới.
Nhưng thi nhân đột ngột dừng lại, bỏ ra ngoài phòng. Còn lại người vợ lặng lẽ
bên chiếc giường cưới còn vẹn nguyên nếp chăn và mùi thơm của nước hoa (7).
Biết chuyện, ông nhạc gọi riêng chàng rể ra nói chuyện kín và
ông cho rằng Xuân Diệu bị bệnh tiên thiên bẩm sinh, không thể quan hệ vợ chồng
được. Ông cụ bảo sẽ chữa cho Xuân Diệu và ông giao chỉ tiêu cho chàng
rể trong 3 tháng nếu không khỏi bệnh, không làm tròn vai trò của người chồng thì
phải bỏ con Diệp. Từ đó, ngày nào Xuân Diệu cũng mải miết sắc thuốc uống mong
chữa trị được chứng bệnh yếu sinh lý bẩm sinh.
Theo Phó Giáo sư - Tiến sĩ Lê Lương Đống, nguyên Quyền vụ trưởng
Vụ Y học cổ truyền, Bộ Y tế cho biết: Bệnh tiên thiên là bệnh mang tính bẩm
sinh. Bệnh tiên thiên có rất nhiều dạng chẳng hạn như tim tiên thiên, thận tiên
thiên, cơ địa tiên thiên… Những người bẩm sinh yếu tiên thiên có chung đặc điểm
là từ bé đã ốm yếu quặt quẹo, bệnh tật liên miên, bị hết bệnh này đến bệnh
khác, sức đề kháng kém khỏi được bệnh này lại sinh ra bệnh khác. Kể cả khi người
đó tập thể hình, có sức cơ bắp thì sức đề kháng vẫn kém.
Với Xuân Diêu có thể do bị bệnh tiên thiên ở thận hoặc rối loạn
vận mạch não, gây co thắt mạch máu não nên một nửa não thường bị co thắt gây
đau đớn. Điều này cũng ảnh hưởng lớn đến cảm xúc phòng the. Hoặc có thể ông bị
bệnh thận tiên thiên nên dẫn đến suy thận, yếu sinh lý, xương cốt rệu rã, hay bị
sụn lưng ngay từ khi còn trẻ hay ốm vặt. Người mắc chứng bệnh này thường nhút nhát, cảm xúc cũng
thất thường (8).
Sau đấy ít lâu, Xuân Diệu nói với vợ: Diệp ơi, 3 tháng rồi
mà anh không biến chuyển gì. Chúng ta phải chia tay thôi, anh phải thực hiện lời
hứa với bố em. Nói đến đó, cả hai vợ chồng cùng khóc (9).
Cuộc hôn nhân đầu tiên và cũng là cuối cùng trong cuộc đời của ông
hoàng thơ tình đã kết thúc một cách hết sức chóng vánh và buồn thảm. Dù cuộc
hôn nhân ấy chỉ tồn tại trên danh nghĩa, xét theo khía cạnh thông thường của mọi
cuộc hôn nhân. Vì ở đấy dường như chỉ tồn tại tình yêu mà không có tình dục, yếu
tố vật chất căn bản đảm bảo duy trì sự tồn tại cho hôn nhân đã bị số phận cướp
mất đi của Xuân Diệu. Tuy thế, đến bây giờ, người vợ duy nhất vẫn nhớ về ông với
niềm cảm mến sâu sắc: Cuộc hôn nhân ngắn ngủi với Xuân Diệu như một luồng
gió mát đi qua cuộc đời tôi. Luồng gió đó dù ngắn nhưng đã để lại mãi ấn tượng
trong tâm hồn. Chỉ là một luồng gió thoáng qua nhưng lại làm tôi giữ mãi niềm
thương mến, bởi tôi thực lòng rất thương Xuân Diệu (10).
Như vậy không thể nói Xuân Diệu là người đồng tính hay ái
nam, ái nữ mà chẳng qua số phận không cho ông được làm chồng, làm cha vì một
căn bệnh quái ác bẩm sinh. Nhưng dù với người đồng giới hay khác giới ông đều
yêu thật và sống thật. Với bất cứ ai và bất kỳ thời điểm nào tình yêu của ông với
con người và với cuộc đời đều đằm thắm, nồng nàn đến bỏng cháy, đầy chất nhân
văn. Tôi cho rằng đấy mới là nguồn cội để ông viết nên những áng thơ tình bất hủ,
mà gần thế kỷ nay hoặc có thể xa sau hơn nữa sẽ chẳng ai có thể vượt qua được.
Tài liệu tham khảo:
(1). Hoài Thanh và Hoài Chân. Thi nhân Việt Nam. Nxb Văn
học, H, 2010
(2). Nguyễn Đăng Mạnh (Hồi ký.), Chương IX - Xuân Diệu
(3). Tô Hoài. Cát bụi chân ai. Nxb Hội Nhà văn. H, 1993, chương
III
(4), (5), (6), (7), (8), (9), (10). Lã Xưa. Xem
www.bichkhe.org/.
3/2/2017Đỗ Ngọc Yên
Thứ Bảy, 27 tháng 2, 2021
Xuân Diệu và Tô Hoài: Và "Mối tình trai"
Xuân Diệu và Tô Hoài: Và "Mối tình trai"
Cuối thế kỷ 20, bước qua đầu thế kỷ 21, “đồng tính luyến ái”
gần như được “bình thường hóa” trong xã hội con người của nhiều vùng đất trên
thế giới.
Đã có một thời, ở Việt Nam người ta xếp loại đồng tính luyến
ái là một căn bệnh. Những người đồng tính luyến ái, cả nam lẫn nữ thường hay bị
dè bĩu, diễu cợt, xem thường… Trong nhiều thập niên cận đại, những người đồng
tính đã chứng minh cho thấy sự thông minh, khả năng nhạy cảm và hiệu quả trong
công việc làm của họ. Ở hầu hết mọi lãnh vực, nhất là nghệ thuật sáng tạo, người
đồng tính thường có nhiều phát kiến đi trước thời đại. Phải chăng, điều này nảy
sinh từ tâm thức tự do, phá vỡ những cái bình thường của suy tưởng tiềm thức
“vượt mọi biên giới” trong con người đồng tính, đã cho họ nguồn lực quý giá của
một con người sáng tạo?
Giới văn học, đặc biệt Tây Phương, nhiều tác giả lừng danh vốn
là người đồng tính. André Gide cuối thế kỷ XIX của Pháp, Allen Ginsberg cuối thế
kỷ XX của Mỹ v.v… chẳng phải là hai tên tuổi lừng lẫy trên khắp địa cầu sao?
Xuân Diệu dĩ nhiên là một trong những tài danh khai phá của nền
Thơ Tiền Chiến Việt Nam. Xuân Diệu còn là nhà thơ đồng tính của thi ca Việt Nam
đầu tiên được ghi nhận. Tôi nói là “đầu tiên được ghi nhận”, vì biết đâu trong
giới thi, văn sĩ Việt Nam từ thời xa xưa, đã có những người đồng tính. Nhưng những
người này vì bối cảnh xã hội thời đó, vì những quan niệm, lề thói đạo đức phong
kiến và thành kiến, nên đã suốt đời đành giấu giếm, nén đè đi cái con người thực
của chính mình!
Tô Hoài, tác giả Cát Bụi Chân Ai, cuốn hồi ký do nhà Thanh
Văn Paris xuất bản và đã giới thiệu nơi trang bìa cuối những dòng trang trọng
như sau:
“Quyển sách không hề tỏ lộ một lời bào chữa hay kết tội nào đối
với cái chế độ mà Tô Hoài phục vụ nửa thế kỷ ròng rã. Chỉ là những cảm nghĩ, những
điều mắt thấy tai nghe. Chỉ là những lời thuật lại không hơn không kém., không
cường điệu cũng như bi thảm hóa. Cái lối kể chuyện của một bà già nhà quê, ngồi
bệt xuống đất, ngay lề đường, ngay đầu ngõ. Cái lối kể chuyện luôn luôn bắt đầu
bằng cách lấy gấu quần lau những giọt mồ hôi, có thể giấu trong những giọt mồ
hôi này đôi ba giọt lệ mà người nghe phải tinh ý mới nhận thấy. Chính vì thế mà
thái độ chính trị mới mạnh làm sao. Nó làm những người nghe phải đau nôn quằn
quại cho sự thật. Một chế độ thản nhiên chà đạp lên tấm long của mọi con người,
chế độ đó không thể nào tồn tại được. Một chế độ dựa vào sự dối trá và bạo lực
cho dù có khống chế được xã hội, thì cũng chỉ khống chế được một thời khoảng
nào đó. Khi mọi con người trong xã hội đó đã không còn sợ hãi, khi mà những nhà
văn đã biết khát khao sự thật, khi mà những công thần đã phải đổi giọng thì đó
chính là giờ cáo chung của chế độ”.
Tuy nhiên, trong bài viết này tôi sẽ chỉ nói về chuyện “Tình
Trai” của Xuân Diệu với Tô Hoài trong Cát Bụi Chân Ai, qua chính lời kể của Tô
Hoài một cách hết sức nồng nàn và cảm động.
Chuyện tình giữa Xuân Diệu và Tô Hoài, thực ra, từ bao lâu đã
có nhiều lời đồn và nghi vấn. Lần này, khi viết hồi ký về đời mình, Tô Hoài đã
ngang nhiên kể lại mối tình đó. Một hành động vô cùng chân thật đầy tính “cách
mạng” với xã hội Việt Nam hãy còn rất nhiều những thành kiến; một thái độ can đảm
dứt khoát để nói với Đảng và Nhà Nước Việt Cộng về hai chữ Tự Do.
Tô Hoài ghi:
“Rời thành phố, lên đến Yên Dã đã u tỳ lấm rồi. Tôi quen Xuân
Diệu trước năm 1945. Tôi cũng là người Xuân Diệu rủ đi nghe và cổ vũ Xuân Diệu
lần đầu tiên diễn thuyết đề tài Thanh Niên Với Quốc Văn ở giảng đường trường đại
học Hà Nội. Xuân Diệu nói “Hoài ơi đi ủng hộ Diệu”. Anh Hiến sinh viên mặt tái
xanh nhút nhát ra giới thiệu lung túng. Không sao, Xuân Diệu áo Tuýt so lụa mỡ
gà, cà vạt lấm tấm vàng sẫm, làn tóc rậm đen loăn xoăn trên đài trán đã thu hút
người nghe vào ngay câu chuyện. Đột nhiên, Xuân Diệu nói nhịu chữ “tâm hồn” -
như một bà già trong làng bán bánh đúc có tật nói nhịu nhảm. Nhưng Xuân Diệu vẫn
tiếp tục sang sảng hùng biện, không ai kịp sững sốt.
Xuân Diệu và Huy Cận lên Nghĩa Đô, ở chơi cả buổi và ăn cơm.
Dịu dàng, âu yếm, Xuân Diệu cầm cổ tay tôi, nắm chặt rồi vuốt lên vuốt xuống. Bốn
mắt nhìn nhau đắm đuối. Xuân Diệu gắp thức ăn cho tôi. Cử chỉ thân thiết quá,
hơi lạ với tôi, nhưng mà tôi cảm động. Tôi sướng mắt nhìn tập Thơ Thơ khổ rộng
nhà in Trung Bắc phố hàng Buồm. Hai chữ Xuân Diệu nét chì sắc gợn, không phải
chữ gỗ giẹp đét.”
(Tô Hoài, Cát Bụi Chân Ai, Thanh Văn (không thấy ghi năm xb),
trang 188 - 189)
Điều trước hết phải nên ghi nhận, Xuân Diệu quả là một người
mê đắm và đỏm dáng! Những đặc tính rõ nét của một người đồng tính. Áo Tuýt so lụa
mỡ gà, cà vạt lấm tấm vàng sẫm… Xem ra, nét ăn mặc của Xuân Diệu từ hơn nửa thế
kỷ trước, so với những tay đỏm dáng hiện đại chả có gì thua sút lạc điệu. “Hoài
đi ủng hộ Diệu”. Câu nói nhẹ nhàng, mỏng manh đầy nữ tính nhưng quyết liệt. Và
hai chữ “tâm hồn” nói nhịu. Tại sao? Nói nhịu như một bà già bán bánh đúc trong
làng có tật nói nhịu nhảm! Đó là cái ám ảnh của bản chất, hay là sự thể phản ảnh
của một nỗi cuồng si?
Xuân Diệu cầm tay Tô Hoài và âu yếm vuốt lên, vuốt xuống.
Nhưng là “bốn mắt nhìn nhau đắm đuối”. Có nghĩa, Tô Hoài cũng đã đắm đuối nhìn
vào mắt Xuân Diệu. Cái đắm đuối mà Tô Hoài chẳng thể nào hiểu nhưng nó có làm
Tô Hoài cảm động và rung động!
Tô Hoài kể tiếp. Rành mạch, rõ ràng với một trí nhớ xanh
tươi:
“Thỉnh thoảng, Xuân Diệu lại lên nhà tôi. Vẫn nắm tay cả buổi,
nhìn tha thiết. Xuân Diệu yêu tôi. Nhớ những tình yêu con trai với nhau, ở
trong làng và ở lớp, khi mới lớn. Học lớp nhất trường Yên Phụ, nói vỡ tiếng ồ ồ
mặt sùi trứng cá, chúng nó cứ bảo tôi là con gái. Nhiều thằng cặp đôi với tôi,
đòi làm vợ chồng. Có hôm chúng nó tranh vợ đánh nhau lung tung. Có đứa xô vào
ôm chặt, sờ soạng toạc cả đũng quần tôi. Nhiều hôm đi học không dám đến sân trường
sớm. Phải lẩn vào trong ngõ Trúc Lạc, nghe trống mới chạy ù đến sắp hàng vào lớp.”
(Tô Hoài, sđd, trang 189)
Tô Hoài hôm nay đã là một ông già. Nhưng ông già Tô Hoài vẫn
chưa hiểu lắm về sự khác biệt giữa “Tình Trai” và những nghịch phá của tuổi học
trò con nít. Chắc rằng Tô Hoài lúc bé ẻo lã và giống con gái. Cho nên lũ bạn tiểu
học mới dỡ những trò chơi tinh quái đó. Nhưng với Xuân Diệu thì khác! Đúng như
Tô Hoài đã xác định: Xuân Diệu yêu Tô Hoài. Tình yêu thật sự của tuổi thanh
niên trưởng thành. Tình trai, tuy là “tình trai”, ai cấm giai đoạn mở đầu vẫn
khai mào bằng những gì đằm thắm, thơ mộng. Tay cầm tay. Mắt nhìn mắt... Đắm đuối.
Nồng nàn…
Nhưng mối tình của Xuân Diệu với Tô Hoài không chỉ có thế.
Không chỉ là tay cầm tay, mắt nhìn mắt. Tô Hoài làm tôi ngạc nhiên ở đoạn tôi sắp
trích dẫn dưới đây, khi họ Tô kể lại, miêu tả lại bằng giọng văn tài tình có
tay nghề của ông:
“Mới xế chiều đã chập tối, chẳng còn người thò chân ra đường
xóm đá tảng lầy lội. Cơm xong, nhà ăn đóng cửa, mái rạ lẫn vào sườn đồi chơ vơ.
Mấy cậu văn phòng ở một mình, xong bữa lại quăng bát đũa nay, vào chơi ngủ luôn
tại các nhà trong xóm. Có cậu việc gấp, đánh máy đêm xong rồi cũng chuồn mất. Dẫy
buồng ở tập thể không đèn đóm, tối thui. Không nghe tiếng người trở mình, giát
giường không ken két. Im như đất hoang. Nhà tôi ở ngoài ven ngõ giữa đồng. Rượu
khuya, đường mưa lội tôi ngủ lại.
Chúng nó sợ, đi bỏ trống cả cơ quan. Cả dạo mưa gió, Xuân Diệu
ở lại u tỳ quốc không ra ngoài. Giọt gianh lách tách mái nứa gọi về những đêm
ma quái, rùng rợn, say đắm. Bàn tay ma ở đâu rờn vào. Không phải. Tay người,
bàn tay người nay đặn, ấm ấm. Hai bàn tay mềm mại xoa lên mặt lên cổ rồi xuống
dần xuống dần khắp mình trần truồng trong mảnh chăn dạ. Bóng tối bập bùng lên
như ngọn lửa đen không có ánh, cái lạnh đêm mưa rừng ấm dần lên. Chẳng còn biết
đương ở đâu, mình là ai, hai cơ thể con người quằn quại, quấn quít, cánh tay, cặp
đùi thong chão trói lại, thít lại, giằng ra. Niềm hoan lạc trong tôi vỡ ra, dữ
dội giằng ngửa cái xác thịt kia.
(Tô Hoài, sđd, trang 190 & 191)
Tôi có thể thấy như trước mắt cái đìu hiu hoang sơ trên triền
Tam Đảo. Và những cuồng mê xác thịt giữa mưa gió, bóng tối và những khảng trống
vắng trơ lạnh giữa núi rừng Yên Dã. Bao vò rượu nếp của kiến trúc sư Võ Đức
Diên hẳn nhiên sẽ nung nấu dòng máu nóng của những chàng thanh niên như Tô
Hoài, Xuân Diệu. Và thế là cơn đồng thiếp được gọi lên. Chỉ là ở một người. Bắt
đầu ở một Xuân Diệu thi sĩ Tình Trai. Tô Hoài là kẻ bị cuốn vào cơn sóng dập dờn
đó. Bằng vô thức. Không suy nghĩ suy luận phân tích gì hết. Nhưng tôi thấy rõ ở
những dòng chữ kể lại của Tô Hoài một ý thức rất tỉnh táo. Và nhất là không
chút mặc cảm hay vò xé (cầm thiết) theo thói thường của một cái gì đó gọi là
Truyền Thống Việt Nam hay Luân Thường Đạo Lý kiểu áo dài khăn đóng!
Tô Hoài tiếp tục tỉ mĩ, rất văn chương với những dòng kể tiếp
theo:
“Rồi như chiêm bao, tôi ngã ra, thống khoái. Im lặng. Nghe
mưa rơi xuống tàu lá chuối trong đêm và cái mệt dịu dàng trong mình. Giữa lúc ấy,
hai bàn tay mềm như lụa lại vuốt lên mặt. Làn môi và hơi thui nóng như than bò
vào mắt, xuống vú, xuống xoan, xuống bẹn… Cơn sướng lại cồn lên cho đến lúc ngã
cả ra, rúc vào nhau. Rồi bàn tay dịu dàng lại vuốt lên mặt. Lần này thì tôi lữ
lả, tôi nguôi ra rên ư ử, như con điếm mê tơi không nhớ nổi người thứ mấy, thứ
mấy nữa.”
(Tô Hoài, sđd, trang 191)
Tôi đã đọc Hồ Trường An, Ngô Nguyên Dũng, Hoàng Mai Đạt v.v…
viết về đồng tính. Tội cũng từng đọc vài nhà văn nữ Việt Nam ở hải ngoại viết về
những mối tình, những cơn ái ân đồng tính. Theo tôi, chưa có ai xuất sắc như
Ông Già Tô Hoài khi viết lại mối tình trai của ông và Xuân Diệu.
Tô Hoài táo bạo mà vẫn nên thơ. Buông thả một cách tận cùng
nhưng đồng lúc lại vẫn như e dè muốn níu lại hết. Níu lại một cái gì đó rất mơ
hồ ngay chính họ Tô chẳng hề biết hiểu, chẳng hề phân biệt được:
“Trời rạng sáng. Xuân Diệu trở về màn mình lúc nào không biết.
Tôi he hé mắt nhớ lại những hứng thú khủng khiếp. Những cảm giác nồng nàn kích
thích trong bóng tối đã trơ ra khi sáng bạch. Tôi chạy xuống cánh đồng giữa
mưa.”
(Tô Hoài, sđd, trang 191)
Những níu lại vô ích vô thức. Những hứng thú quả tình khủng
khiếp! Nhưng vẫn là những hứng thú kỳ bí “nồng nàn kích thích”. Trong bóng tối.
Bởi ánh sáng bạch bình minh ban ngày sẽ làm tan rã hết. Sẽ
làm “lạnh” đi những “nồng nàn kích thích” trong đêm mưa gió giữa núi rừng.
Tô Hoài chạy trốn những “khủng khiếp” của cơn hứng thú. Trong
cái khựng lại e dè (tôi không thấy nói chút gì đến niềm sợ hãi hay ân hận!), vẫn
có một sự “tuôn chạy băng băng” vào “chốn đó”. Dù cái “nơi chốn đó” có là thiên
đàng hay địa ngục. Xin nghe Tô Hoài kể tiếp:
“Nhưng đêm mai lại vào cuộc dữ dội. Trong đêm quái quỉ lại thấy
mình như không phải mình mọi khi, cũng không biết rồi trời lại sáng. Cho đến
khi thật thấy rạng sáng mới rờn rợn.”
(Tô Hoài, sđd, trang 191)
Chỉ là rờn rợn khi ánh sáng mặt trời đã trở về với không
gian. Rờn rợn như một phản ứng thiên nhiên tự nhiên không lý giải. Do đó, khi
đêm về, Tô Hoài đã không có ý niệm, không biết là rồi trời sẽ lại sáng!
Nhưng một mối, hay những mối tình trai trong thời “kháng chiến”
như vậy làm sao qua mắt nổi “cơ quan”! Và hậu quả của những cơn “hứng thú khủng
khiếp” là ánh sáng. Là phải phô bày, tự thú. Là phải lôi từ đêm thẳm, từ gió
mưa của rừng núi ra những lời bộc bạch. Phải mang bóng tối ra trình diện trước
ánh sáng.
“Mọi công việc cơ quan lặng lẽ, nhưng cứ tối đến thì nháo lên,
nháo lên một cách âm thầm. Các chàng trai trẻ vào ngủ lang trong xóm. Thằng Đại
trắng trẻo, mũm mĩm thì biến là phải. Nhưng cả đến thằng Nghiêm Bình cao to
hiên ngang như thế, tối cũng lẳng lặng vác cái ghitar ra đi. Bốn bên im như tờ...
... Chiếc màn một trơ trọi của lão Hiến, đôi khi cả màn của
Kim Lân, của Nguyên Hồng ở Bắc Giang sang, ngủ tạm nay. Chẳng biết đêm hôm có
ông kễnh nào bị bàn tay nhung sờ vào xoan không. Cuộc kiểm điểm Xuân Diệu kéo
liền hai tối. Hồi ấy chưa biết phương pháp chỉnh huấn, nhưng hàng ngày chúng
tôi làm việc giờ giấc nghiêm ngặt, mỗi tổ buổi chiều trước giờ tăng gia lại hội
ý rút kinh nghiệm. Cả cơ quan họp đến khuya. Chỉ có ông Phan Khôi lên buồng vẫn
móc màn sẵn đi ngủ từ chập tối, bỏ ngoài tai mọi việc.
Xuân Diệu chỉ ngồi khóc, chẳng biết Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng,
Trọng Hứa, Nguyễn Văn Mãi, cả lão Hiến, thằng Nghiêm Bình, thằng Đại và mấy thằng
nữa, có ai ngủ với Xuân Diệu không, nhưng cũng không ai nói ra. Tôi cũng câm
như hến. Lúc rồ lên, trong đêm tối quyến rũ, chính mình cũng điên kia mà. Không nói cụ thể việc ấy, nhưng ai cũng to tiếng gay gắt “tư tưởng tư sản, phải
chừa đi”. Xuân Diệu nức nở “tình trai của tôi… tình trai…” rồi nghẹn lời, nước
mắt lại ứa ra.”
(Tô Hoài, sđd, trang 193)
Hẳn là còn may mắn, vì “hồi ấy chưa biết phương pháp chỉnh huấn”,
nên Xuân Diệu chỉ bị mắng mỏ là “tư tưởng tư sản, phải chừa đi”. Chỉ tội nghiệp
cho cái gọi là “tư sản”! Làm như chỉ có những con người “tư sản” mới biết đến
“đồng tính luyến ái”!
Chẳng có đấu tố, khai tội và phỉ nhổ chửi bới. Chẳng có ném
đá hay hành hạ cụ thể tức thì. Nhưng sau đó ít lâu, thì Xuân Diệu bị đưa ra khỏi
ban thường vụ.
“Và cũng thành một cái nếp kéo dài, từ đấy không ai nhắc nhở
đến những việc chủ chốt trước kia Xuân Diệu đã phụ trách. Bỗng dưng, Xuân Diệu
thành một người được nhiều thời giờ chỉ chuyên đi viết. Mà Xuân Diệu cũng như
xa lánh mọi công tác.”
(Tô Hoài, sđd, trang 193)
Xem ra, hình phạt như vậy đối với những “tội tình, bê bối” mà
Xuân Diệu đã làm ra đã là quá nhẹ. Đảng Việt Cộng vì trọng tài Xuân Diệu nên
nương tay? Hay vì là giai đoạn can kết nạp, cần những cán bộ tiếng tăm, có tài,
nên Đảng đã ngó lơ phần nào cho Xuân Diệu? Tôi lại nghĩ những lí do vừa nêu ra
có thể là vài chục phần trăm. Nhưng nhiều phần trăm chính yếu là Đảng đã “mắc cỡ”!
Đảng ngượng ngùng chẳng biết… kết tội ra làm sao với trường hợp Xuân Diệu.
Và như thế, Xuân Diệu, theo như Tô Hoài đã ghi, vốn là một
người “đào hoa” với những mối tình trai. Xuân Diệu không biết chung thủy. Xuân
Diệu chỉ biết mê đắm. Tô Hoài hồi ức:
“Từ thuở trẻ, cái bắt tay như vồ lấy, trán đụng vào nhau, bốn
con mắt nghiêng ngả vuốt ve nhau. Ở đâu Xuân Diệu cũng đào hoa những mối tình
trai. Buổi chiều trong kháng chiến, đã hết lo đám máy bay lên đánh bom, chúng
tôi đặt ba lô nghỉ chân ở Ấm Thượng xuống sông tắm táp xong lên dạo phố. Đêm
nay thị trấn mời Xuân Diệu nói chuyện thơ. Bọn con trai choai choai kháu khỉnh
xúm xít quanh nhà thơ. Tuổi trẻ, trai gái thấy nhau như có điện, dù điện yêu
hay điện ghét, thái độ hiện ngay ra con mắt, nụ cười, cái bỉu môi, dáng xóc cổ
áo, bãi nước bọt. Đằng này, con gái đi ngang mặt dửng dưng như không, nhưng con
trai xoắn xít vòng trong vòng ngoài. Sáng hôm sau còn đến chơi. Xuân Diệu nắm cổ
tay từng đứa mâm mê như chọn đẵn mía, và nhìn dõi vào mắt…
(Tô Hoài, sđd, trang 196)
Xuân Diệu quả là một tay đào hoa với những mối tình trai. Qua
ngòi bút Tô Hoài, chúng ta thấy một Xuân Diệu đồng tính thản nhiên và ngây thơ
không mặc cảm. Mặc cảm, một trạng thái gần như (đương nhiên và thậm chí cần thiết)
bắt buộc phải có ở những con người đồng tính chẳng những vào thời thi sĩ Xuân
Diệu, mà ngay cả ở thời nay tại Việt Nam!
Và như Tô Hoài đã kể, Xuân Diệu chẳng phải là một tay chung
tình. Tuy nhiên, để kết luận về Xuân Diệu, Tô Hoài viết:
“Mỗi khi nhớ, chuyện về Xuân Diệu buồn thương, buồn cười và
đáng yêu, chỉ đáng yêu…”
(Tô Hoài, sđd, trang 193)
Để dứt bài này, tôi xin chép lại nay một bài thơ “Tình Trai”
của Xuân Diệu, gửi một người lính trẻ rời thành phố vào chiến trường. Bạn đọc nếu
không biết trước, chắc chắn sẽ nhầm đây là một bài thơ Tình Gái, do một chàng
trai viết gửi cho người yêu bé nhỏ của mình:
EM ĐI
Tặng Hoàng Cát
Em đi, để tấm lòng son mãi
Như ánh đèn chong, như ngôi sao
Em đi, một tấm lòng lưu lại
Anh nhớ thương em, lệ muốn trào
Ôi Cát! Hôm vừa tiễn ở ga
Chưa chi ta đã phải chia xa!
Nụ cười em nở, tay em vẫy,
Ôi mặt em thương như đóa hoa
Em hỡi! Đường kia vướng những gì
Mà anh mang nặng bước em đi!
Em ơi, anh thấy như anh đứng
Ôm mãi chân em chẳng chịu lìa
Nhưng bóng em đi đã khuất rồi.
Đứt lìa khúc ruột của anh thôi!
Tình ta như mối dây muôn dặm
Buộc mãi đôi chân, dẫu cách vời
Em hẹn sau đây sẽ trở về
Sống cùng anh lại những say mê…
Áo chăn em gửi cho anh giữ,
Xin gửi cùng em cả hẹn hề!
Một tấm lòng em sâu biết bao
Để anh thương mãi, biết làm sao!
Em đi xa cách, em ơi Cát
Em chớ buồn, nghe! Anh nhớ yêu…”
Đêm 11/7/1965
10/2004Trần Nghi HoàngNguồn: http://www.gio-o.com/
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Làng Mới
Làng Mới Làng Mới dựng ven suối dưới chân thác Voi Trắng. Núi rừng mênh mông thả sức phá phách, chẳng ma nào dòm ngó. Lửa khói ngập trời. ...
-
Lời kỹ nữ - Xuân Diệu A.TÁC GIẢ: I. Cuộc đời: Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh là Trảo Nha, quê quán làng T...
-
Hoa muộn - Nơi mùa xuân đi qua Vũ trụ này không có bắt đầu và không có kết thúc. Hay nói đúng hơn, con người không biết nó bắt đầu từ đâu ...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...