Thứ Sáu, 5 tháng 2, 2021

Đường mây qua xứ tuyết 1

Đường mây qua xứ tuyết 1
The Way of the White Clouds

“The way of the white clouds” (Tạm dịch: Đường mây qua xứ tuyết) là tập sách ghi nhận những điều tác giả Anagarika Govinda chứng kiến trong thời gian du hành Tây Tạng.
Đối với người Tây Tạng, mây có nhiều ý nghĩa huyền bí. Nhìn vào các bức họa Tây Tạng (thankas), gần như bức nào cũng thấy họ vẽ các đám mây màu sắc khác nhau. Mây tượng trưng cho sự sáng tạo vì nó có thể mang bất cứ hình thù gì. Mây trắng tượng trưng cho môi trường để sự sáng tạo có thể nẩy nở, phát sinh nhưng nó còn có nghĩa là đám mây Pháp (Dharma megba) mà từ đó chân lý được biểu lộ.
Tây Tạng là một xứ nằm ở vị trí hiểm trở, biệt lập với thế giới bên ngoài. Nhờ thế, nó duy trì được một nền văn minh cổ khác với những nền văn minh mà chúng ta được biết đến. Không một ai đặt chân vào Tây Tạng mà không chịu ảnh hưởng của nó. Và không ai có thể chui rúc vào đời sống chật hẹp khi đã nhìn thấy sự bao la hùng vĩ của rặng Tuyết Sơn.
Hành trình của tác giả đến vùng đất này diễn ra vào khoảng thập niên 30 đến thập niên 50 của thế kỷ trước, trước thời kỳ diễn biến chính trị phức tạp dẫn đến sự sáp nhập Tây Tạng vào lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa như hiện nay. Thời điểm đó, một phần phía tây của Tây Tạng bị xem như nằm dưới sự kiểm soát của chính quyền thuộc địa Anh. Vì vậy, khi tác giả đi từ Sri Lanka sang Ấn Độ, rồi thâm nhập phía tây Tây Tạng (tất cả đều là thuộc địa của Anh), giấy tờ thông hành đều do người Anh kiểm soát. Về phần sau của hành trình, tác giả đi sâu vào phần phía đông Tây Tạng, vốn thuộc sự quản lý của chính quyền Lạt Ma tại Lhasa, nên lại phải xin cấp thêm giấy thông hành từ chính quyền này.
Trên thực tế, từ thời cổ đại cho đến tận lúc bấy giờ, Tây Tạng vốn chỉ được xem như một vùng đất bí ẩn khép kín, một mắt xích trên con đường tơ lụa huyền thoại. Nên dù đã nhiều lần bị xâm chiếm, các chính quyền đô hộ tạm thời đều dần dà "bỏ rơi" vùng đất này. Do đó, nơi đây được đứng đầu bởi cố vấn tinh thần là các đức Lạt Ma mà cao nhất là Đạt Lai Lạt Ma.
Những diễn biến chính trị từ thập niên 50 của thế kỷ trước trở về sau này, hẳn nhiên ít nhiều cũng có ảnh hưởng đến phong tục và đời sống tín ngưỡng của Tây Tạng. Song, nếu tìm hiểu và đặt tâm trí mình trở về với giai đoạn trước khi những biến đổi phức tạp này diễn ra, người đọc sẽ cảm nhận rõ nét hơn về khái niệm tự do, sự uyên thâm và tính nguyên thủy của Phật giáo Tây Tạng, mà tác giả Anagarika Govinda lẫn dịch giả Nguyên Phong muốn truyền tải.
Còn rất nhiều những điều khác tại Tây Tạng không giống như nhiều người vẫn nghĩ. Có lẽ vì vậy mà Tây Tạng lại có một sức hấp dẫn mãnh liệt đối với thế giới ngày nay. Phải chăng nó tượng trưng cho một cái gì huyền bí, khơi gợi trí tò mò hay một điều gì mơ hồ mà người ta chưa nhận thức được?
Tác giả cuốn sách, Lama Anagarika Govinda, tên thật là Ernst Lothar Hoffman. Ông là nhà nghiên cứu triết học, tu sĩ Phật giáo, họa sĩ và giáo sư Phật học người Đức. Vào năm 1928–1930, ông đến Sri Lanka xuất gia với Đại đức Nyantiloka Mahathera. Ông là một học giả uyên thâm về Pāli, với mười hai cuốn sách viết về Phật giáo Nam Tông. Ông còn là một thành viên trong Ban Quản trị Hội Phật giáo Thế giới.
Năm 1947, ông qua Tây Tạng rồi có duyên được Lạt Ma Ngaxvang Kalzang (Tomo Geshe Rinpoche) nhận làm đệ tử. Ông đã du lịch khắp xứ này, tiếp xúc với nhiều tu sĩ, thăm viếng nhiều ngôi chùa cổ hẻo lánh và ghi nhận những điều mắt thấy tai nghe vào cuốn du ký The Way of The White Clouds - Đường mây qua xứ tuyết. Ông còn viết thêm nhiều sách biên khảo về Tây Tạng, đáng kể nhất là hai cuốn The Psychological Attitude of Early Buddhist Philosophy (Thái độ tâm lý trong triết học Phật giáo nguyên thủy) và The Foundations of Tibetian Mysticism (Nền tảng Mật giáo Tây Tạng). Ông qua đời năm 1985.
Dịch giả cuốn Đường mây qua xứ tuyết là Nguyên Phong. Ông tên thật là Vũ Văn Du, sinh năm 1950 tại Hà Nội. Nguyên Phong rời Việt Nam du học ở Mỹ từ năm 1968 và tốt nghiệp cao học ở hai ngành Sinh vật học và Điện toán.
Ngoài công việc chính là một kỹ sư cao cấp tại Boeing trong hơn 20 năm, ông vẫn tiếp tục nghiên cứu trong vai trò nhà khoa học tại Đại học Carnergie Mellon và Đại học Seattle, Mỹ. Ông còn giảng dạy tại một số đại học quốc tế tại Trung Hoa, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ về lĩnh vực công nghệ phần mềm.
Song song với vai trò một nhà khoa học, Nguyên Phong còn là dịch giả nổi tiếng của loạt sách về văn hóa và tâm linh phương Đông. Trong số đó, có thể kể đến các ấn phẩm: Hành Trình về phương Đông, Ngọc sáng trong hoa sen, Bên rặng Tuyết sơn, Hoa sen trên tuyết, Hoa trôi trên sóng nước, Huyền thuật và đạo sĩ Tây Tạng, Trở về từ cõi sáng, Minh triết trong đời sống, Đường mây qua xứ tuyết…
1- Lời giới thiệu.
Tại sao Tây Tạng lại có một sức hấp dẫn mãnh liệt đối với thế giới ngày nay như vậy? Phải chăng nó tượng trưng cho một cái gì huyền bí, khêu gợi trí tò mò hay một điều gì mơ hồ mà người ta chưa nhận thức được? Tôi tin rằng sự kiện xảy ra tại Tây Tạng có thể tiêu biểu cho số phận nhân loại hiện nay, một số phận đang bị giằng co giữa quá khứ và tương lai, giữa truyền thống và tiến bộ, giữa tín ngưỡng và khoa học, giữa kiến thức và tri thức, giữa những thoải mái tâm linh và áp lực vật chất.
Chúng ta đang chứng kiến một thảm kịch của nhân loại khi những quốc gia không có một tham vọng chính trị nào, chỉ muốn yên thân sống tự do bỗng bị chà đạp và đặt dưới ách nô lệ của một nước khác dưới danh nghĩa “văn minh, tiến bộ”. Làm sao người ta có thể gọi là văn minh khi đời sống thực sự ở hiện tại phải chịu hy sinh cho một viễn ảnh mơ hồ ở tương lai? Làm sao người ta có thể gọi là tiến bộ khi đời sống thoải mái tự do với thiên nhiên bị thay thế bởi nếp sống chật hẹp, giả tạo đầy máy móc.
Dưới danh nghĩa “tiến bộ”, quá khứ chỉ là những cái gì xấu xa, lỗi thời, không giá trị, bất toàn và thụ động. Những khoa học và tiến bộ đã đem lại những gì cho con người ngoài chiến tranh, thù hận và bạo động…?
Bị cắt đứt với quá khứ, con người trở nên hoang mang phiêu bạc, luôn luôn bất an nên phải tìm an ủi trong nếp sống tập đoàn, tìm hạnh phúc trong sự thỏa mãn nhu cầu và tham vọng. Phải chăng đó là một thảm kịch của nhân loại ngày nay?
Tây Tạng là một xứ nằm ở vị trí hiểm trở, biệt lập với thế giới bên ngoài, nhờ thế nó duy trì được tinh hoa một nền văn minh cổ khác với những nền văn minh mà chúng ta được biết đến. Không một ai đặt chân vào Tây Tạng mà không chịu ảnh hưởng của nó và không ai có thể chui rúc vào đời sống chật hẹp khi đã nhìn thấy sự hùng vĩ, bao la của rặng Tuyết Sơn. Lịch xử này đã chứng minh như thế. Khi Lang Darma cướp ngôi vua, tiêu diệt Phật giáo bằng bạo lực thì Phật giáo không những phát triển tại Lhassa mà còn truyền bá khắp nước. Khi vó ngựa của Mông Cổ tràn vào đây thì không những tinh thần từ bi của Phật giáo đã đưa xứ này thoát khỏi ách cai trị mà còn cải hóa được cả triều Mông Cổ, và ít lâu sau Phật giáo đã trở thành quốc giáo của xứ này. Biết đâu thay vì biến Tây Tạng thành một quốc gia Cộng sản thì Trung cộng lại chẳng biến thành quốc gia sùng một Phật giáo vào thế kỷ 21? Điều chắc chắn rằng trong khi Trung cộng đang cố gắng đồng hóa Tây Tạng bằng bạo lực thì Tây Tạng lại bắt đầu tạo ảnh hưởng khắp nơi trên thế giới. Dĩ nhiên, dù có dành lại độc lập hay không thì Tây Tạng được cũng không thể như xưa, những điều này không quan trọng bằng sự phát triển tinh thần và văn hóa Tây Tạng ra khắp nơi. Đây là một truyền thống sống động, phóng khoáng và bình đẳng, không câu chấp cứng nhắc vào các giáo điều những luôn luôn thay đổi để thích nghi với các hoàn cảnh thời gian, không gian mà vẫn giữ đúng mục đích nguyên thủy (tùy duyên, bất biến).
“The Way of the Whiet Clouds” (tạm dịch “Đường Mây Qua Xứ Tuyết”) là một tập sách ghi nhận những điều tôi chứng kiến trong thời gian du hành ở Tây Tạng. Đối với người Tây Tạng, mây có nhiều ý nghĩa huyền bí. Nhìn vào các bức họa Tây Tạng (Thankas), gần như bức nào cũng thấy họ vẽ các đám mây màu sắc khác nhau.
Mây tượng trưng cho sự sáng tạo vì nó có thể mang bất cứ hình thù gì. Mây trắng tượng trưng cho môi trường để sự sáng tạo có thể nẩy nở, phát sinh nhưng nó còn có nghĩa là đám mây Pháp (Dharma megha) mà từ đó chân lý được biểu lộ.
Vì lý do đó, cuốn du ký này được mở đầu bằng một linh ảnh, một câu chuyện mà sư phụ tôi, Tomo Geshe Rinpochay đã kể lại cho các học trò.
Lama Anagarika Govinda là người xứ Bolivia, giảng dạy triết học tại đại học Naples vào năm 1928-1930. Qua Tích Lan xuất gia với Đại đức Nyanantiloka Mahathera rồi trụ trì chùa Polgasduwa. Ông là một học giả uyên thâm về Pali với mười hai cuốn sách viết về Phật giáo Nam tông. Ông còn là một thành viên trong ban quản trị hội Phật giáo thế giới.
Năm 1947, ông qua Tây Tạng rồi có duyên được Lạt Ma Ngawang Kalzang (Tomo Geshe Rinpoche) nhận làm đệ tử. Ông đã du lịch khắp xứ này, tiếp xúc với nhiều tu sĩ, thăm viếng nhiều ngôi chùa cổ hẻo lánh và ghi nhận những điều mắt thấy tai nghe vào cuốn du ký “The Way of the White Clounds”. Ông còn viết thêm nhiều sách biên khảo về Tây Tạng, đáng kể nhất là 2 cuốn “The Foundation of Tibetian Mysticism”. Ông qua đời năm 1985.
Lama Anagarlka Goavinda
Ngày 5 tháng 7 năm 1966
2- Hoa sen trên tuyết
Gió lạnh rít từng cơn, mây đen vần phủ kín bầu trời xứ Tholing. Thỉnh thoảng một tia chớp lóe lên soi rõ một ngôi chùa đổ nát nằm chơ vơ trên đỉnh đồi.
Ngày xưa ngôi chùa này đã từng ngôi quốc tự của xứ Tholing, một tiểu quốc nằm ở phía đông Tây Tạng những định mạng đã biến xứ này thành một miền hoang vu, không người cư ngụ và ngôi chùa cũng bị bỏ hoang từ nhiều thế kỷ nay.
Con đường mòn dẫn lên ngôi chùa đã bị cỏ mọc kín, cổng tam quan chỉ còn trơ lại mấy chiếc cột xiêu xẹo. Chiếc sân gạch bát tràng màu đỏ nay bị rêu rong bám kín trở nên một màu nâu sẫm, rải rác những pho tượng hộ pháp bị thời gian làm hư hại, đầu một nơi, mình một nẻo.
Hậu liền cũng sụp đổ gần hết chỉ còn chánh diện hoang tàn với vài pho tượng Phật là còn nguyên vẹn.
Một tiếng sấm nổ vang làm rung rinh cả mái chùa, nhiều viên ngói bị thổi bật lên rơi xuống sân vỡ nát. Chiếc xà ngang đã mục vẫn cố gắng chống đỡ mái chùa từ bao lâu nay không thể chịu đựng hơn nữa bèn nghiêng oằn xuống khiến những viên gạch còn lại đồng loạt chuyển động kêu lách cách…
Sàn chánh điện trước được lót bằng một lớp ván dầy nhưng lâu ngày không người săn sóc đã mục nát, rêu rong bám xanh rì…
Giữa những đám rêu đó có một bông hoa nhỏ bé vươn lên, một bông hoa kỳ lạ màu trắng tinh khiết. Không ai biết nó từ đâu đến, tại sao lại mọc giữa đám rong rêu bẩn thỉu như vậy!
Bông hoa vô danh run rẩy trước cơn cuồng phong mỗi ngày một mạnh, nó lo lắng nhìn lên cây xà ngang đã nghiêng hẳn xuống. Chỉ một cơn gió mạnh nữa thôi, cây xà sẽ gẫy gục và toan mái chùa sẽ sụp đổ đè nát tất cả những vật ở phía dưới…
Bông hoa vô danh nhìn lên bức tượng đức Bồ Tát Quán Thế Bồ Tát, xin ngài rủ lòng thương xót cứu cho chốn này thoát khỏi tai nạn bị hủy diệt…
Lời cầu khẩn chí thành đã cảm ứng đến đức Quán Thế Âm Bồ Tát nên ngài hiện ra trên tòa sen:
– Hỡi bông hoa nhỏ bé kia, há ngươi không biết rằng trong cõi thế giới này tất cả đều lưu chuyển biến dịch, không có gì có thể gọi là thường trụ bất biến. Có sinh ắt phải có diệt, có thành ắt phải hoại. Ngôi chùa này đã đến giai đoạn sắp bị hủy hoại thì cũng là luật vô thường mà thôi. Kiếp sống của bông hoa cũng như vậy, không thể ra ngoài bốn thời kỳ “thành, trụ, hoại, không” Thay vì lo lắng kéo dài kiếp sống, người hãy cố gắng ý thức tính chất vô thường và nhận thức thực tướng của sự vật.
Bông hoa vô danh cúi đầu đảnh lễ và thưa:
– Bạch đức Bồ Tát, con cầu nguyện không phải cho chính con. Từ khi còn là hạt giống nằm dưới kẽ nứt trong vách ván, con vẫn được nghe các vị tăng tụng kinh, nhất là bộ Bát Nhã Ba La Mật nên con ý thức được trên đời có sinh ắt có diệt, tất cả thế gian đều chỉ là huyễn không có thực. Ngay cả những bộ kinh điển quý báu chứa đựng trong chiếc hòm gỗ bên cạnh bàn thờ vì là vật hữu hình nên hữu hoại, trước có sau không, nay còn mai mất, không thể bền vững lâu dài. Nhưng con biết bộ kinh quý báu này đã được cất giữ nơi đây từ nhiều thế kỷ chưa truyền ra bên ngoài nên con cầu nguyện rằng hãy để cho những bộ kinh đó làm tròn xứ mạng mà chúng được giao phó. Mặc dù lúc này đa số nhân loại đang bị màn vô minh che phủ, chìm đắm trong dục vọng điên cuồng nhưng vẫn có một số ít người chỉ bị một chút bụi bám vào mắt. Chỉ cần một chút ánh sáng soi rõ có thể làm họ quay đầu tỉnh ngộ… Vì lý do này nên con cầu xin chư Phật rủ lòng thương xót cho truyền bá bộ kinh quý báu này ra ngoài cho thế gian…
Đức Bồ Tát Thế Âm nghe xong rất lấy làm hài lòng. Ngài quay lại đảnh lễ đức Phật Thích Ca và nhắc lại lời cầu khẩn của bông hoa vô danh. Đức Phật Thích Ca nở một nụ cười hoan hỉ:
– Lành thay, bông hoa nhỏ bé kia đã nói tất cả tâm thành của một trái tim Bồ Tát. Nó đã biết quên mình mà chỉ nghĩ đến người khác. Ngôi chùa này đáng lẽ phải bị hủy hoại, tất cả những kinh điển chất chứa nơi đây đáng lẽ ra phải chịu chung số phận nhưng ta chấp thuận lời phát tâm của bông hoa bé nhỏ mà cho phép những kinh điển đó được truyền tụng thế gian cho đến khi mục đích của những bộ kinh đó được viên mãn.
Đức Phật Thích Ca vừa dứt lời, các vị Hộ Pháp chư tôn Bồ Tát đồng thanh tuyên bố:
– Chúng ta sẽ giữ gìn ngôi chùa này khỏi nạn hủy diệt cho đến khi nó làm trọn phận sự mà đức phật Thích Ca giao phó.
Chỉ một thoáng giây, trời đất bỗng trở nên quang đãng lạ thường, cơn bão đã tan hết, vầng trăng lưỡi liềm tỏa nhẹ ánh sáng xuống xứ Tholing. Một mùi hương thơm ngát từ đồi Tsaparang thoảng đi khắp mười phương thế giới. Đức bồ Tát Quán Thế Âm mỉm cười với bông hoa vô danh:
– Lành thay, con đã phát một hạnh nguyện vô ngã, lợi tha rất lớn, từ nay ta đặt tên cho con là Tuyết Liên Hoa, một giống sen vô cùng quý báu chỉ mọc tại xứ Tây Tạng và những kẻ nào ngửi được mùi hương của con cũng đều phát tâm linh tấn tu hành để thoát ra khỏi vòng sinh tử luân hồi.
Lạt Ma Ngawang Kalzang nhập thất đã hơn mười hai năm trong một hang đá hẻo lánh. Không ai biết ngài là ai, không ai nghe đến tên ngài. Ngài chỉ là một trong hàng ngàn tu sĩ sau một thời gian tu học trong tu viện đã phát nguyện tu nhập thất.
Thế gian đã quên ngài nhưng ngài không quên thế gian. Ngài đã đạt đến trạng thái tâm vô phân biệt, không còn thấy thế gian và ngài có sự sai khác nữa. Nếu có quên thì có lẽ ngài đã quên chính mình, đã đạt đến trạng thái Vô Ngã (egolessness) hòa đồng với bản thể của mọi vật, mình và mọi vật đều là một.
Trong lúc tu thiền, chỉ có một vài thú rừng đến quấn quýt chung quanh còn ngoài ra tất cả hoàn toàn vắng lặng. Gần như không ai đặt chân đến khe núi hiểm trở hoang vu này vì đường vào khe núi đã bị đá đổ xuống lấp kín lối vào. Đêm hôm đó, một luồng sét ở đâu bỗng xẹt trúng tảng đá, đánh bật nó qua một bên…
Hôm sau, một người chăn dê đi ngang qua khe núi. Đang mải miết đi, bỗng anh nghe thấy tiếng mõ nhịp đều đặn, thỉnh thoảng lại điểm một tiếng chuông. Lúc đầu, người chăn dê hoảng sợ, vì tại sao giữa chốn hoang vu thế này lại có tiếng mõ? Mà âm thanh nghe sao lâng lâng thoát tục không giống như những tiếng mõ thông thường. Trí tò mò thúc giục anh lần bước theo tiếng mõ vào khe núi cho đến khi đến trước một hang động thì âm thanh chợt im bặt.
Người chăn dê vội vã chạy về làng báo tin. Dân làng không ngờ trong khe núi hiểm trở hoang vu lại có một vị Lạt Ma ẩn tu từ bao năm nay. Truyền thống Tây Tạng rất kính ngưỡng những bậc tu hành như vậy nên cả làng vội vã kéo đến quỳ cả dưới chân ngài.
Bất cứ ai đến gần ngài cũng đều kinh nghiệm được một sự bình an vô tả… Ngay cả những người nổi tiếng nóng nảy cũng thấy lòng mình dịu lại và họ biết chắp tay cung kính ngồi yên chờ đến khi ngài giơ tay ban phép lành cho họ.
Tiếng đồn về vị Lạt Ma có khả năng mang lại sự bình an này truyền đi rất nhanh. Chỉ một thời gian ngắn, không những dân chúng trong làng mà cả những làng mạc kế cận đều đổ xô đến khe núi hiểm trở. Dĩ nhiên không phải người nào cũng có thể trèo lên những vách đá gần như dựng đứng như vậy nên người ta đã xin ngài vui lòng quá bộ về làng để tất cả đều có cơ hội chiêm ngưỡng và hưởng một chút lợi lạc về những bài pháp của ngài.
Lạt Ma Kalzang hiểu rằng đã đến lúc ngài phải trở lại thế gian để phổ độ chúng sinh theo đúng tôn chỉ Đại Thừa.
Trong làng chỉ có một ngôi chùa rất nhỏ nên dân chúng mời ngài tạm trú tại đó cho đến khi tìm được một ngôi chùa rộng lớn và xứng đáng hơn. Tại đây ngài bắt đầu những bài thuyết pháp ngắn nhưng dễ hiểu và gần như ai có diễm phúc nghe ngài thuyết giảng cũng đều phấn khởi phát tâm tu hành.
Vì ngôi làng này có tên là Tomo nên người ta đã gọi ngài là Tomo Geshe Rinpoche hay hòa thượng làng Tomo (chữ Geshe có thể tạm dịch là hòa thượng, một chức vị rất được tôn kính. Rinpoche có nghĩa là sư trưởng, người đứng đầu một tu viện).
Tin một hòa thượng nổi tiếng xuất hiện tại làng Tomo truyền về thủ đô Lhassa. Đức Đạt Lai Lạt Ma, người cầm quyền tối cao kiêm lãnh đạo tinh thần xứ Tây Tạng lập tức cho triệu ngay một phái đoàn tăng sĩ đi điều tra xem thực hư thế nào. Phái đoàn đã đến gặp Tomo Geshe, nghe vị này thuyết pháp và trở về báo cáo với đức Đạt Lạt Ma rằng hòa thượng làng Tomo quả thật là một vị cao tăng chân chính. Họ đề nghị phải tìm cho ngài một ngôi chùa khác to lớn, xứng đáng với địa vị của một vị tu hành như vậy.
Những các ngôi chùa lớn đều có các vị trụ trì, việc xây cất một ngôi chùa mới cũng phải mất một thời gian nên hội đồng tăng sĩ đã đề nghị tu bổ một ngôi chùa cổ đã bị bỏ hoang từ nhiều thế kỷ nay để ngài về đó trụ trì.
Khi Tomo Geshe bước chân đến trước đồi Tsaparang, ngài chợt nhìn thấy một đám mây ngũ sắc rất lớn bao phủ chúng quanh ngọn đồi, chính giữa đám mây có một bông hoa sen với những cánh trắng tinh khiết đang tỏa ra những ánh sáng chói lọi như cầu vồng. Linh ảnh này hiện ra rõ rệt trước mắt Tomo Geshe và những tu sĩ trong phái đoàn, họ đứng lặng yên chiêm ngưỡng cảnh tượng huy hoàng này cho đến khi nó biến mất.
Tomo Geshe bèn cho vẽ lại hình ảnh này trên bức tường chánh điện của ngôi chùa, về sau rất nhiều chùa khác cũng đã họa lại bức tranh này. Bức “Hoa sen và những đám mây ngũ sắc” là một trong những bức họa nổi tiếng nhất của Tây Tạng ngày nay.
Khi khởi công tu bổ lại ngôi chùa, người ta đã tìm thấy được một chiếc hòm gỗ trong để nhiều bộ kinh rất cổ được bọc bằng lụa quý: Khi vừa mở bộ kinh này ra, hòa thượng Tomo bỗng thấy một ánh hào quang sán rực bay vút lên trời tỏa ra khắp mười phương, ngài hiểu ngay rằng mình đã được giao phó một trọng trách việc hoằng dương giáo pháp, không riêng tại Tây Tạng mà còn nhiều nơi khác…
Sau một thời gian trụ trì tại đây, ngài đã lên đường đi khắp các nước chung quanh dãy Tuyết Sơn. Bất cứ nơi nào đi qua, ngài cũng đều truyền bá những tư tưởng chân chính, cao thượng và khuyến khích việc tu học cho những ai muốn cất bước tìm đường ra khỏi vòng sinh tử luân hồi.
3- Kỳ duyên nơi xứ tuyết
Để có thể hiểu được những diễn tiến xảy ra trong cuộc sống, đôi khi chúng ta phải quay trở lại, đi tìm nguyên nhân của những lý do đã khiến đời sống của chúng ta như thế.
Đôi khi chỉ một cái nhìn, một cử chỉ, hay một câu nói cũng có thể thay đổi hẳn cuộc đời chúng ta.
Cuộc đời của tôi đã bước vào một khúc quanh quan trọng bởi một biến cố dường như vô tình… Tôi là một tu sĩ Phật giáo trụ trì một ngôi chùa nhỏ gần Kandy, Tích Lan. Trên đường tham dự đại hội Phật giáo thế giới nhóm họp tại Darjeeling tôi đã gặp một trận bão tuyết nên phải tạm trú trong một ngôi chùa dưới chân rặng Tuyết Sơn vì tuyết đã phủ kín con đường giữa Nepal và Tây Tạng.
Đối với một người vừa chân ướt chân ráo đến thành phố xa lạ này thì trận bão tuyết quả là một điều bất hạnh. Vì không ý thức cái lạnh cắt da, cắt thịt của một miền nằm trên độ cao vài ngàn thước nên tôi chỉ mang theo một tấm áo cà sa mong manh, chỉ đủ che thân chứ không thể ngăn nổi cái lạnh. Tôi ngồi run rẩy thầm nghĩ tại sao mới hôm trước còn thoải mái thiền định dưới ánh nắng ấm áp xứ Tích Lan mà hôm nay lại phải co ro trong cái lạnh kinh hồn của Tây Tạng như thế này?
Từ trước đến nay Tây Tạng không hề gợi cho tôi một hình ảnh gì tốt đẹp. Đối với tôi, xứ này chỉ là một miền man di mọi rợ, không có một cái gì đáng thăm viếng. Đời sống của tôi đã gắn liền vào nếp sống thanh bạch trong ngôi chùa nhỏ bé nằm giữa Kandy và Nuwara-Elisa. Tôi không có một lý do gì lại qua Tây Tạng nếu không có “duyên” với xứ này.
Năm đó, tôi nhận được thiệp mời của Hội Phật giáo Thế giới nhóm họp tại Darjeeling. Trong thiệp, ông chủ tịch đã kèm theo một lá thư riêng mời tôi diễn thuyết về một đề tài do chính tôi lựa chọn. Sau một lúc do dự, tôi quyết định nhận lời vì nghĩ rằng đây là một dịp may hiếm có để một tăng sĩ như tôi có dịp mang giáo pháp nguyên thủy của đức Phật ra giảng dạy cho những tăng sĩ không được diễm phúc học hỏi những chân lý ấy. Lạt Ma giáo hay Phật giáo Tây Tạng đối với tôi chỉ là một biến thái của Phật giáo, một đứa con hoang đã thay đổi giáo pháp cao quý của đức Thế Tôn thành một hình thức mê tín dị đoan, thờ cúng ma quỷ gì đó.
Truyền thống Phật giáo thường được chia làm Nam Tông và Bắc Tong (hoặc Đại Thừa và Tiểu Thừa). Đối với các tăng sĩ Nam Tông như tôi thì nhóm Bắc Tông, trải qua bao nhiêu thế kỷ đã “cởi mở” nhiều quá nên không còn “nguyên thủy” nữa và đã đến lúc họ cần phải trở về nguồn gốc.
Bởi lý do đó nên tôi đã thu xếp tham dự kỳ đại hội. Và giờ đây, tôi ngồi co ro giữa những hình vẽ lạ lùng, những biểu tượng huyền bí trong một tu viện Lạt Ma giáo chờ đợi cơn bão tan. Vì ngôn ngữ bất đồng, không thể nói chuyện với ai nên tôi chỉ đành ngồi bó gối, im lặng chờ đợi và chờ đợi…
Lúc đầu vị Lạt Ma trụ trì mời tôi tạm trú trong căn phòng riêng của ông ta tại hậu liêu những tôi không thể ngủ trong căn phòng quá chật hẹp với chiếc lò sưởi đốt bằng phân khô này. Tôi không chịu được mùi khói nồng nặc, cũng như các hương liệu mà ông ta bỏ vào lò sưởi nên sau một đêm mất ngủ tôi đã xin phép được ngủ trên chánh điện là nơi không khí thoáng đãng hơn…
Chánh điện là một căn phòng khá lớn với những hàng cột gỗ sơn son, thếp vàng. Chính giữa là một pho tượng đức Di Lặc to lớn cao gần đến trần nhà, ngoài ra còn có hàng trăm pho tượng Bồ Tát bầy dọc hai bên. Bốn vách tường đều có vẻ những bức tranh nổi mà dưới quan niệm của một tu sĩ Nam Tông như tôi thì nó không thể chấp nhận được tại một chánh điện trang nghiêm như vậy. Tôi không hiểu tại sao người ta lại có thể vẽ những vị Phật trang nghiêm bên cạnh những hình ma quỷ nhe nanh múa vuốt. Các vị Bồ Tát hào quang chói lọi đứng cạnh những quái vật như giao long, thuồng luồng bay lượn lung tung. Rải rác đó đây là những hình ảnh nam nữ giao hợp và những đám mây ngũ sắc có những bí hiệu lạ lùng.
Trong hoàn cảnh ngôn ngữ bất đồng, không thể nói chuyện cũng như hỏi ai, tôi chỉ biết yên lặng chờ đợi cho cơn bão tan đi nhưng suốt mấy ngày nó vẫn không tan mà còn tăng thêm phần dữ đội. Gió lạnh gầm rú bên ngoài và tuyết càng ngày càng rơi nhiều, phủ kín mặt đất.
Chỗ tôi nằm là một góc khuất trong chánh điện, ẩn sau một cột trụ lớn. Từ đây tôi vẫn có thể nhìn thấy pho tượng đức Di Lặc lung linh mờ ảo dưới ánh sáng lập lòe của những ngọn đèn dầu.
Mặc dù chánh điện thoáng đãng hơn hậu liêu rất nhiều những vì lạ chỗ nên tôi vẫn không thể ngủ được. Tôi nằm yên cố dỗ giấc ngủ và đang trằn trọc thì một tiếng động nhẹ vang lên làm tôi giựt thót cả mình. Một cảm giác lạ lùng khiến tôi ngồi bật dậy, hình như có một sự thay đổi kỳ lạ nào diễn ra ngoài chánh điện. Tôi có cảm tưởng như những pho tượng đang sống dậy, mỉm cười rạng rỡ và không gian vang vang một cái gì rộn ràng những trang nghiêm. Tôi nhắm mắt lại cố gắng thuyết phục mình rằng đó chỉ là một giấc mơ nhưng hình như có sự hiện diện của một cái gì làm tôi phải mở choàng mắt ra.
Tôi nhìn thấy một bóng người đang đứng trước bàn thờ, hai tay chắp vào nhau một cách cung kính rồi lễ xuống nhẹ nhàng… Sau đó bóng người thong thả quay qua những pho tượng Bồ Tát kế bên và tiếp tục nghi thức đảnh lễ… Việc một người giữa khuya bước vào chánh điện lễ Phật không làm cho tôi ngạc nhiên nhưng tôi có cảm tưởng như dưới mỗi cái lạy, cả chánh điện như bừng sáng lên một cái gì. Phải chăng các pho tượng đều cảm ứng trước tấm lòng thành của người này nên họ đều trở nên rạng rỡ? Mỗi khi bóng đen cúi rạp người xuống đất thì tôi thấy rung động, tôi chưa thấy ai có thể lễ một cách thành kính như vậy, mỗi cử chỉ của người đó như toát ra một cái gì sống động, khác hẳn với các hành động máy móc, giả tạo mà tôi thường thấy ở một số tu sĩ.
Bóng đen tiếp tục đi từ pho tượng này đến pho tượng khác một cách thành kính, trang nghiêm. Dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn dàu tôi nhận ra đó là vị sư già lao công vẫn thường lo công việc quét dọn, lau chùi trong tu viện.
Theo chỗ tôi biết thì đa số các tu sĩ trong tu viện đều được gửi đi học tại các đại học Phật giáo hoặc được huấn luyện cẩn thận trừ vị sư già này vốn là người mù chữ, vô học nên trọn đời chỉ ở dưới bếp làm những công việc tầm thường như giã gạo, xay lúa và quét dọn. Không ai chú ý đến ông ta và ông ta cũng chỉ lặng lẽ làm tròn bổn phận một cách khiêm tốn, vô cùng khiêm tốn.
Tại sao một tu sĩ không theo khóa lễ thông thường mà lại hành lễ vào lúc đêm khuya như thế này? Tôi yên lặng theo dõi và mặc dù bên ngoài trời rất lạnh mà mồ hôi của tôi toát ra như tắm. Tôi nhận thấy mỗi bước đi, mỗi cái vòng tay cung kính lễ xuống của vị này đều bao hàm một cái gì vừa trang nghiêm vừa sống động, có một uy lực vô song mà một tu sĩ hơn nửa đời người hành lễ như tôi cũng chưa bao giờ được kinh nghiệm như vậy. Một người giỏi tất nhận biết một người giỏi hơn và tôi phải nói rằng từ trước đến nay tôi chưa thấy ai thành kính lễ Phật giáo được như vậy.
Ít hôm sau khi trời bắt đầu quang đãng, trục giao thông được tái lập những tôi không muốn trở về Tích Lan nữa. Hình như có một mãnh lực nào xui khiến tôi ở lại để khám phá những sự kiện lạ lùng mà tôi đã chứng kiến này. Tôi linh tính rằng cuộc đời của tôi sắp bước vào một giai đoạn mới, một cái gì sẽ làm thay đổi cuộc đời tôi hoàn toàn.
Tôi không ngờ rằng chính vì ngôn ngữ bất đồng mà tôi thường yên lặng và khi giữ yên lặng tôi quan sát được nhiều hơn. Khi những âm thanh ồn ào, những danh từ hào nhoáng của ngôn ngữ chấm dứt, người ta có thể cảm thông với hoàn cảnh chung quanh một cách rõ rệt, chính xác hơn.
Tôi được biết tên của vị sư già là Kachenia, ông ta sống trong một căn phòng nhỏ ăn thông vào chánh điện. Mặc dù đã lớn tuổi những ông ta không bao giờ ngồi yên, từ buổi sớm tinh sương người ta đã thấy ông lão quỳ mọp dưới đất với tấm vải dày lau sàn chánh điện. Khi các vị sư sãi bắt đầu tệ tựu để làm lễ buổi sáng thì sàn chánh điện đã được lau sạch như gương và Kachenia bắt đầu việc châm dầu vào những ngọn đèn, hàng trăm ngọn rải rác khắp nơi trong chánh điện. Ông ta biết đích xác ngọn đèn nào sắp hết dầu phải châm thêm và từ tốn làm vì tuổi già nhưng tôi không bao giờ thấy ông đánh đổ một giọt dầu nào xuống sàn. Mỗi cử động của ông đều bao hàm một sự ý thức và chính xác tuyệt diệu.
Sau khi đã sửa soạn chánh điện cho tươm tất buổi lễ, ông lẳng lặng vác cây chổi ra sân. Từ cửa sổ trên chánh điện, tôi yên lặng quan sát ông lão làm việc, mỗi nhát chổi, mỗi cánh tay đưa ra đều tượng trưng cho một cái gì sống động, một ý thức rõ rệt về việc làm của mình.
Tôi thấy ông đào lên một tảng đất sét, trịnh trọng hòa với nước rồi nhào nặn thành những pho tượng Phật nhỏ. Mỗi cử chỉ của ông đều được kèm theo một câu thần chú. Ông đắp một lò nung nhỏ, cẩn thận đặt những pho tượng vào đó cho đến khi nó cứng rắn. Ông thong thả lấy ra từng pho tượng và cắm cúi vẽ vào đó những chi tiết, mỗi nét chấm phá đều cẩn thận kèm theo một câu thần chú. Bàn tay tài hoa của ông đã biến miếng đất sét vô tri giác thành những pho tượng sống động trông như thật. Tôi không thể ngờ một việc thủ công tầm thường được làm bởi ông cũng đã biến thành một nghi thức tôn giáo được làm bởi ông cũng đã biến thành một nghi thức tôn giáo thiêng liêng, tôn trọng.
Điều Kachenia đã dạy cho tôi một cách khiêm tốn này, tôi không thể diễn tả bằng ngôn ngữ. Tôi chỉ biết quan sát từng cử chỉ, từng hành động của vị sư già một cách vô cùng ngưỡng mộ.
Ít lâu sau, một vị đại tăng xứ Tích Lan như tôi lại thấy mình lẽo đẽo đi theo vị sư lao công làm những công việc tầm thường nhất, khiêm tốn nhất. Chính sự chân thành, giản dị và khiêm tốn của Kachenia đã dọn đường cho tôi gặp những vị thầy Tây Tạng sau này và cho đến nay tôi luôn luôn coi Kachenia như vị thầy đầu tiên, người đã khai ngộ cho tôi để bước vào thế giới rộng rãi bao la của Phật giáo Đại Thừa…
Kachenla đối đãi với tôi như một người con. Ông dạy tôi tiếng Tây Tạng bằng cách chỉ vào những đồ vật và phát âm thật rõ ràng, sau đó ông bắt tôi đọc lại cho đến khi thật thuần thục. Mỗi sáng, ông thường mang cho tôi một thau nước nóng để rửa mặt, đây là một tiện nghi đặc biệt mà ông không bao giờ sử dụng và các sư sãi khác trong tu việc cũng không hề được hưởng. Dù sao tôi cũng là khách quý của tu viện, một người đến từ miền nam, chưa quen với khí hậu lạnh của dãy Tuyết Sơn.
Sáng nào tôi cũng uống trà với Kachenia. Trong căn phòng bé nhỏ của ông lúc nào cũng có một bình trà nóng ủ trong một bọc trấu. Trà Tây Tạng khác hẳn với các loại trà mà tôi đã dùng qua, nó có vị mặn vì được trộn với bơ và muối. Lúc đầu tôi thấy rất khó uống những về sau đã quen với loại trà này, tôi không thể uống lại các loại trà khác nhạt nhẽo và vô vị.
Trước khi uống, Kachenia thường lấy một dúm đậu rắc lên bàn tay rồi đọc thần chú. Sau đó ông khẽ rắc nhẹ nó lên đám than hồng bằng một cử chỉ vô cùng thành kính. Đó là một nghi thức (Mudra) quan trọng của Phật giáo Tây Tạng, ý thức từng hành vi của mình khi ăn, uống, làm việc. Đây là một phương pháp vô cùng giản dị nhằm kiểm soát thân, khẩu, ý mà về sau tôi đã áp dụng. Với Nam Tông thì Thiền là ngồi xếp bằng trong một tư thế nhất định, thở hít theo một nhịp điệu, định tâm theo dõi từng hơi thở. Với Bắc Tông thì tất cả hành vi, cử chỉ cũng đều là Thiền hết vì Thiền là sống và ý thức sự sống trong từng hơi thở, từng nhịp điệu, từng giây, từng phút. Nhờ quan sát Kachenia, tôi mới nhận thức rằng không có một cử chỉ nào của ông là dư thừa hay máy móc, tất cả chỉ là biểu lộ một trạng thái siêu việt của nội tâm, một trạng thái tự nhiên như đi đứng, nằm ngồi, thở hít. Một sự phối hợp vô cùng tự nhiên của thân, khẩu và ý…
Mỗi tối sau khi đã làm xong phận sự, Kachenia mang một cây đèn dầu nhỏ đến chỗ tôi ngồi và bắt đầu dạy tôi đọc các lời cầu nguyện, thần chú bằng tiếng Tây Tạng. Tôi chăm chỉ ghi chép các phiên âm vào một cuốn sổ nhỏ. Kachenia tỏ ra kiên nhẫn đặc biệt, ông sửa từng cách phát âm, từng chỗ phải nhấn mạnh và thỉnh thoảng chỉ lên các pho tượng như ngụ ý cho tôi biết lời cầu nguyện đó sẽ được chư Phật, chư Bồ Tát chứng giám cho.
Dĩ nhiên tôi không hiểu một chút gì về ý nghĩa những câu thần chú và điều này tạo cho tôi một sự lúng túng rõ rệt. Là một tu sĩ Nam Tông, tôi được huấn luyện vô cùng cẩn thận về các văn tự trong kinh điển. Trước khi đọc, một tu sĩ phải hiểu nghĩa từng câu kinh, từng danh từ một cách rốt ráo chứ không phải chỉ phát âm mà không hiểu gì hết nhưng hình như Kachenia lại chủ trương phá chấp mọi hình thức văn tự. Ông thản nhiên dạy tôi những câu thần chú mặc dù biết rằng tôi không hiểu một chút gì. Sau một thời gian, tôi cảm thấy như có một sự thay đổi rõ rệt trong nội tâm, hình như mỗi lần phát âm những câu thần chú này, tôi ý thức trong người như tràn ngập một thứ tình thương bao la từ Kachenia chuyển qua khiến tôi thấy bình an lạ lùng, một trạng thái mà ngôn ngữ không thể nào diễn tả được. Đó là lần đầu tiên tôi kinh nghiệm được sức mạnh của các câu thần chú (Mantra) và những âm thanh huyền diệu xuất phát từ trái tim của một bậc tu chứng. Những âm thanh này không thể lấy tai mà nghe, trí óc mà phán đoán mà chỉ có thể kinh nghiệm được bằng trái tim cùng rung động một nhịp với nhịp điệu cao thượng của một trái tim cao cả khác.
Sau này khi thông thạo văn tự và ngôn ngữ Tây Tạng, hiểu được mật nghĩa của các câu thần chú, tôi mới thấy rằng cái kinh nghiệm lúc đầu vẫn quan trọng hơn tất cả những lời giải thích bằng văn tự, danh từ của trí thức vốn luôn luôn bị giới hạn.
Dưới sự hướng dẫn của Kachenia, tôi bắt đầu ý thức những sự kiện nhỏ nhặt mà trước đó tôi không bao giờ chú ý đến. Từng bước đi, từng nhịp thở, từng cử chỉ của tôi dần dần được đặt dưới sự kiểm soát của ý thức chứ không còn tự động, vô ý thức như trước nữa. Tôi tập cách lật từng trang giấy trong cuốn kinh một cách thành kính, sau khi tụng kinh phải gói những cuốn kinh dày vào trong bao lụa một cách trật tự, ý thức. Ngay như cuốn sổ tay của tôi ghi chép những câu thần chú cũng phải ngay hàng, thẳng lối chứ không thể viết bừa bãi như thói quen ngày trước. Dù cho có viết sai, tờ giấy nháp cũng không được ném vào thùng rác hay vứt xuống đất, lấy chân dẫm lên. Kachenia dạy tôi cách mang những tờ giấy này để vào một chiếc hộp để về sau mang đốt, ông coi tất cả mọi vật, ngay một tờ giấy nháp, cũng đều có tính chất thiêng liêng với những công dụng của nó.
Tôi tập cách đi bộ chung quanh tu viện, luôn luôn thuận theo chiều quay của trái đất quanh mặt trời. Một cử chỉ để người đi ý thức sự điều hòa, trật tự của vũ trụ và không bao giờ làm cái gì đi ngược lại với thiên nhiên. Ngay khi muốn băng qua một mảnh sân hẹp để qua dẫy nhà phía bên kia, tôi cũng phải xoay qua bên phải và đi vòng theo một lộ trình nhất định chứ không phải muốn đi thế nào thì đi. Từng bước đi, từng hơi thở, từng cử chỉ phải nhất nhất tuân theo một nhịp điệu nhất định và đặt dưới sự kiểm soát của ý thức. Mỗi khi đi ngang qua cửa tu viện, nơi có để nhiều quả chuông quay (Prayer wheels) có khắc câu thần chú “Om Man Padme Hum” thì tôi khẽ lấy tay đẩy nhẹ, tâm niệm câu thần chú mà Kachenia đã dạy tôi…
Nhiều người Âu đã viết rằng người Tây Tạng sử dụng quả chuông quay
Đánh bạo đi về hướng đó, băng qua một con đường mòn nhỏ, tôi thấy một gian nhà nằm quay mặt về phía sau núi và tiếng cồng lạ lùng phát ra từ trong đó, tôi còn nghe tiếng niệm chú trầm trầm của một vị sư vọng ra. Phải mất nhiều ngày tôi mới dám đánh bạo đến gõ cửa gian nhà thờ này và xin phép vào trong. Nhận ra tôi là khách quý của vị thầy trụ trì, vị sư đánh cồng đã mở cửa cho tôi vào mặc dù gian nhà này không cho phép ai bén mảng lại gần.
Tôi hiểu ngay lý do tại sao gian nhà này lại được xây cất phía sau chùa và không ai dám lãi vãng gần. Chính giữa gian phòng là một bức tượng hết sức ghê gớm của một vị hung thần tượng trưng cho sự hủy hoại, tàn phá… Khuôn mặt vị thần được che lại bằng một miếng lụa vì rất ai có can đảm nhìn thẳng vào mặt vị này mà về nhà không mất ngủ. Tôi được giải thích rằng vị thần này chỉ ghê gớm đối với những ai còn bám víu vào thế giới này hay các hình thức thường trụ của bản ngã. Sức mạnh của vị thần này có thể được sử dụng như một động lực giải phóng con người, nếu người đó ý thức được tính chất vô thường của thế gian và vô ngã của chính mình.
Người ta có thể coi đó là một vị hung thần hay một biểu tượng của sự giải phóng tùy tâm trạng và trình độ mỗi người. Biểu tượng này trông ghê gớm đối với những người chưa hiểu biết, chưa được chuẩn bị đón nhận chân lý, do đó khuôn mặt của vị thần được che lại và chỉ những người đã được chuẩn bị đặc biệt mới được phép bước chân vào đây và vén tấm màn này lên. Người Tây Tạng gọi vị này là “Cho Kyong Gon Po” (Kẻ bảo vệ luật pháp), luật pháp đây là những định luật vũ trụ như luân hồi, nhân quả, vô thường, v.v… Luật vũ trụ chỉ lợi ích cho những ai hiểu biết và chấp nhận nó những hết sức ghê gớm đối với những ai chống đối nó.
Ngoài căn phòng để bức tượng Cho Kyong Gon Po, tu viện này còn chứa dựng một sự bí mật lạ lùng khác nữa. Đó là một căn nhà vuông vức được dựng trên một cây cột nằm chơ vơ trên đỉnh đồi, căn nhà không có cửa sổ nên không ai có thể nhìn vào trong được. Cửa vào gian nhà đó được đóng chặt và niêm phong cẩn thận.
Khi được hỏi về căn phòng lạ lùng này, Kachenia cho biết đó là am thất của một vị Đại Lạt Ma đang tu nhập thất, Kachenia nói bằng một giọng thành kính gần như tôn sùng khiến trí tò mò của tôi lại gia tăng hơn nữa. Tôi đâm ra thắc mắc không biết sự huyền bí của không khí nơi đây có liên quan gì đến vị tu sĩ tu nhập thất kia không? Hơn nữa, một người mà tôi hết sức kính phục như Kachenia lại tỏ ra khâm phục vị này thì chắc vị đó phải là một nhân vật vô cùng đặc biệt. Vì một lý do nào đó, tôi ngỏ ý với Kachenia rằng tôi muốn gặp vị này, muốn học hỏi với vị này nếu vị Đại Lạt Ma này chấp thuận.
Kachenia tỏ ra vô cùng sốt sắng và hứa sẽ chuyển lời của tôi đến vị Đại Lạt Ma đó khi thuận tiện.
Vài tuần lễ lặng lẽ trôi qua, tôi không rõ Kachenia đã chuyển lời thỉnh cầu của tôi cho vị Đại Lạt Ma chưa? Hôm đó, vừa đi thiền hành về phòng tôi thấy một quả xoài khá lớn đặt trên bàn. Xoài là thứ trái cây mà tôi thích nhất nhưng nó chỉ mọc ở xứ nóng như xứ Tích Lan chứ đâu thể mọc ở Tây Tạng! Ngoài ra lúc này đâu đã đến mùa xoài? Tôi ngạc nhiên cầm quả xoài lên và thấy rằng không những nó rất tươi mà còn vừa vặn chín tới. Trong lúc tôi vừa ngạc nhiên vừa thích thú thì Kachenia bước vào, nét mặt rạng rỡ. Ông ta cho biết đó là quà của vị Đại Lạt Ma dành riêng cho tôi vì ngài biết tôi rất thích xoài, ngoài ra ngài đã chấp nhận lời thỉnh cầu xin được thụ giáo của tôi.
Kachenia sung sướng ra mặt, ông ta chia sẻ niềm vui với tôi như chính ông được diễm phúc đó. Ít khi nào tôi thấy ông vui như vậy. Căn phòng nhỏ của tôi dường như rạng rỡ hẳn lên dưới nụ cười tươi tỉnh của vị lão tăng này. Tôi biết rằng cuộc đời của tôi đã bắt đầu thay đổi kể từ đây…
Danh từ “Guru” thường được dịch là vị “Thày” (Teacher) những chữ này không được chính xác. Có lẽ ngôn ngữ Tây phương không có danh từ nào tương đương với chữ “Thày” (Gugu) của Đông phương. Vị thày theo Tây phương chỉ là người có kiến thức và truyền dạy kiến thức đó cho các họ trò. Học trò học được nhiều hay ít và sử dụng kiến thức đó vào việc gì ông thày không cần biết. Một vị thầy Đông phương không những chia sẻ những kiến thức với học trò mà còn chịu trách nhiệm về điều mình dạy dỗ và luôn luôn theo dõi học trò bằng một thứ tình thầy trò mà người Tây phương không thể hiểu. Người thầy Đông phương vừa là thầy vừa là cha mẹ, vừa dạy dỗ vừa lo lắng và chăm sóc học trò như mẹ hiền trông nom con thơ.
Cũng như thế, danh từ “chela” thường được dịch là học trò (Pupil) những người học trò theo đúng nghĩa không phải chỉ cắp sách đến trường, học hỏi các kiến thức với một vị thầy mà còn là một người có đời sống đã được ràng buộc vào đời sống của vị thầy. Sự liên hệ thày trò được nố liền bởi một cây cầu tâm thức vô cùng đặc biệt. Nhờ những câu thần chú (Mantra) mà học trò có thể liên lạc với vị thầy bất cứ tại đâu và lúc nào. Cũng vì những lý do đặc biệt này, một vị thầy luôn luôn lựa chọn học trò rất kỹ qua những thử thách đặc biệt để xem học trò có xứng đáng nhận lãnh những kiến thức này không? Phần lớn những thử thách (initiate) được diễn ra vô cùng thâm thúy và tế nhị. Nó không phải là một kỳ thi, một cuộc khảo sát mà đôi khi chỉ là những câu nói, những lời đề nghị. Tùy theo câu trả lời hoặc hành động của học trò mà vị thày biết được đã đến lúc học trò đủ sức học hỏi hay còn phải chờ thêm một thời gian nữa.
Kachenia cho biết đã đến lúc vị Đại Lạt Ma, sau một thời gian nhập thất sẽ rời am thất ra ngoài. Vị Đại Lạt Ma này không phải ai khác mà chính là vị Hòa thượng làng Tomo, vị Lạt Ma lừng danh khắp Tây Tạng. Dĩ nhiên lúc dó tôi không biết gì về ngài và cái tên Tomo Geshe Rinpoche không gây cho tôi một ấn tượng gì mấy, tôi chỉ lờ mờ hiểu rằng đó là một vị Lạt Ma tu hành công phu và đáng kính mà thôi.
Sáng hôm đó, một bầu không khí khác lạ đã diễn ra trong tu viện. Tự nhiên số tăng sĩ bỗng trở nên đông đảo hơn ngày thường. Tôi không hiểu các tăng sĩ từ đâu đến vì tôi không hề nhìn thấy họ trong tu viện này. Có thể họ ở gần hoặc vẫn tĩnh tu trong các mật thất trên núi. Ngay cả những vị tăng sĩ mà tôi quen biết cũng thay đổi trang phục vô cùng tề chỉnh. Họ yên lặng kéo nhau đến chánh điện, nét mặt người nào cũng lộ vẻ rạng rỡ như chờ đợi một điều gì. Mùi nhang trầm xông lên thơm ngào ngạt, đèn nến được thắp khắp nơi sáng trưng.
Một tiếng chuông ngân dài rồi cánh cửa chính bỗng mở rộng, hai hàng Lạt Ma trưởng lão thong thả bước vào, chính giữa là một vị Lạt Ma đã già những nét mặt vô cùng hiền từ, khoác một chiếc áo vàng được vá lại bằng hàng trăm mảnh vải nhỏ: Hòa thượng Tomo.
Lạt Ma Tomo bước đến trước pho tượng đức Di Lặc, hai tay chắp lại giơ cao lên trên trán bằng một cử chỉ trang nghiêm, thành kính rồi cúi rạp người xuống đảnh lễ. Một tiếng chuông thong thả ngân lên. Ngài đi một vòng quanh các pho tượng Bồ Tát và tiếp tục nghi thức đảnh lễ cho đến khi đi hết một vòng chánh điện rồi mới bước lên chiếc bục gỗ thấp gần đó, ra hiệu cho các tăng sĩ cùng ngồi xuống. Một sự tĩnh lặng bao trùm lên khắp chánh điện, hầu như ai cũng cảm thấy một sự bình an tràn ngập trong lòng, một niềm phúc lạc vô biên không thể diễn tả bằng ngôn ngữ. Đó là lần đầu tiên tôi thực sự kinh nghiệm được ý nghĩa của sự bình an.
Vị Lạt Ma trụ trì thong thả đứng lên ra hiệu và khóa lễ bắt đầu với những nhạc khí cùng trỗi lên một lượt…
Đối với người Tây phương, âm nhạc chỉ được sử dụng như một hình thức diễn tả tình cảm con người. Đối với người Tây Tạng, âm nhạc lại đóng vai trò quan trọng hơn vì tính chất thiêng liêng của nó.
Tôi không phải là một nhà nhạc học, dĩ nhiên kiến thức của tôi về âm nhạc không có gì đáng kể những tôi đã đọc một vài tài liệu của người Tây phương viết về âm nhạc Tây Tạng và thấy rằng những tác giả đó đã có những sai lầm đáng tiếc.
Đa số đều nhận xét âm nhạc của Tây Tạng dưới quan niệm của người Âu nên cho rằng âm nhạc Tây Tạng thiếu tổ chức, không theo các âm luật thông thường. Dĩ nhiên âm nhạc Tây Tạng không được phân chia theo luật lệ của người Âu những điều này không có nghĩa nó thiếu tổ chức. Trái lại, nó được sắp đặt theo những luật lệ riêng biệt mà một người Âu thiếu kiến thức về tôn giáo không thể hiểu được.
Đời sống người Tây Tạng gắn liền với tôn giáo, xã hội Tây Tạng xây dựng trên nền tảng tôn giáo từ mấy ngàn năm nay nên âm nhạc của xứ này cũng phát xuất từ tôn giáo. Tuy nhiên đối tượng của âm nhạc Tây Tạng không phải để ca tụng một đấng tối cao nào đó hay kêu gọi lòng sùng tín là sự diễn tả những âm thanh một cách trung thực như nó là (asis). Âm nhạc Tây Tạng không hề được sử dụng vào bất cứ mục đích nào có tính cách cá nhân mà nhằm vào một đối tượng có tính cách rộng rãi, bao quát hơn nhiều. Do đó nó không diễn tả niềm vui, nỗi buồn như ta thường thấy ở các loại âm nhạc khắp thế giới mà chỉ lập đi lập lại những âm thanh rời rạc trong một giới hạn nào đó. Cũng vì thế nó cần phải có sự hòa hợp của nhiều loại nhạc khí khác nhau để tạo thành bản nhạc và đây là một điểm đặc biệt, ít người để ý đến. Nhạc khí Tây Tạng không hề được sử dụng để độc tấu mà luôn luôn hợp tấu. Vì những lý do nào đó, âm nhạc Tây Tạng thường chú trọng đến các rung động sâu xa (deepest vibrations) nên đa số nhạc khí là loại cồng, chuông, trống, tù-và và kèn nhiều hơn các loại đàn dây (strings).
Người ta không thể hiểu âm nhạc Tây Tạng nếu không biết đến Thần Chú (Mantra) vì bài nhạc nào cũng được sắp đặt làm sao để có những âm thanh rung động thật trầm, thật sâu như tiếng phát âm của những câu thần chú. Sự sắp đặt về âm thanh của âm nhạc Tây Tạng dường như phản ảnh một lý thuyết rằng âm thanh là một sức mạnh hết sức nhiệm mầu. Nếu một âm thanh phát ra đúng cách có thể phá vỡ một cái ly thủy tinh thì sự phối hợp âm thanh bằng những tiết điệu đặc biệt có thể tạo ra các quyền năng siêu hình, huyền bí, ảnh hưởng đến các cõi giới xa xăm nào đó.
Căn bản của dàn hòa tấu nào cũng gồm có một cặp tù-và (Radongs) dài khoảng 4 thước, phát ra những âm thanh vừa trầm, vừa ngân nga như tiếng sóng biển. Hai nhạc công thay phiên nhau thổi làm sao để âm thanh trầm này không bao giờ dứt và bất cứ bản nhạc nào cũng khởi đầu và chấm dứt bằng âm thanh của cặp tù-và này.
Đối với các tăng sĩ xuất than từ Tích Lan như tôi thì việc sử dụng nhiều nhạc khí trong các khóa lễ quả là một điều lạ lùng. Tôi chỉ quen nghe tiếng chông và mõ thôi nên lúc đầu hơi khó chịu vì tiếng kèn, tiếng tù-và, tiếng trống, những về sau tôi thấy đây là một đặc điểm hết sức tinh tế có thể trợ giúp cho buổi lễ thêm phần long trọng và hướng dẫn tinh thần người hành lễ vượt lên một bình diện cao hơn.
Quan niệm Phật giáo Nguyên Thủy (Theravada) cho rằng âm nhạc chỉ là một thứ để tiêu khiển, giải trí nên đời sống tôn giáo không cho phép các tu sĩ nghe nhạc hay mang âm nhạc vào tôn giáo. Có lẽ vì vậy nên cuộc sống tu hành được coi là khổ hạnh, tình cảm được kiềm chế, kiến thức về sách vở, từ chương được đề cao hơn kinh nghiệm tâm linh. Sự bảo thủ này đã đưa Phật giáo nguyên thủy vào một lối sống chật hẹp, gò bó không phóng khoáng thoải mái như Phật giáo Đại Thừa.
Tôi không thể diễn tả nỗi vui mừng của mình khi đứng trước mặt vị Lạt Ma nổi tiếng của Tây Tạng, người có khả năng mang lại bình an cho tất cả mọi người.
Cuộc gặp gỡ chúng ta diễn ra trong căn phòng nhỏ của ngài. Như tất cả những căn phòng khác tại tu viện này, căn phòng được bày biện hết sức giản dị với một chiếc ghế rộng dùng để thiền định. Đa số các vị Lạt Ma cao cấp đều sử dụng một chiếc ghế tương tự để ngồi thiền, gần như không bao giờ họ nằm nên không phòng nào có giường ngủ cả. Họ ngồi đó trong tư thế liên hoa giờ này qua giờ khác, đắm mình trong trạng thái thiền định khi không tiếp xúc với ai. Chiếc ghế của Hòa thượng Tomo có khắc một bánh xe Phật và một đám mây ngũ sắc, nét khắc sắc sảo trông rất linh động. Tất cả những đồ đạc khác trong nhà đều có tính cách tôn giáo: một lư hương, một cái chuông và một cây tích trượng (seeptre) bằng đồng v.v… Hòa thượng Tomo không sở hữu bất cứ vật gì. Khi di chuyển từ chùa này qua chùa khác, ngài chỉ mang theo một ít vật dụng tối thiểu. Đối với ngài, một hang đá đơn sơ cũng không khác gì một dinh thự nguy nga, một căn phòng đầy đủ tiện nghi lộng lẫy không hơn gì một căn phòng trơ trụi với một chiếc ghế mộc mạc. Tất cả những đồ vật người ta cúng dường cho ngài đều được mang ra phân phát đều cho các tăng sĩ hoặc xung vào quỹ của chùa. Tuy đi khắp nơi, trú ngụ nhiều chỗ những tôi không bao giờ thấy ngài mang theo bất cứ một vật gì nhận lãnh của tín đồ. Ngài tu theo hạnh Đầu Đà (Anagarika) chủ trương tuyệt sở hữu và ít khi lưu lại nơi nào lâu dài.
Hôm đó tôi đã quỳ trước mặt ngài lãm lễ ra mắt và ngài đã đặt bàn tay lên trán tôi trong cử chỉ ban ân huệ. Toàn thân tôi như chìm trong niềm phúc lạc tuyệt vời, tất cả những câu hỏi, lời nói tôi định thốt ra bỗng tiêu tan hết vì tôi đã nhận được câu trả lời, không bằng ngôn ngữ nhưng bằng một sự giao cảm thần bí. Tôi lặng người trong sự bình an mà ngôn ngữ không thể nào diễn tả trong một thời gian rất lâu.
Hòa thượng Tomo ngồi yên trên chiếc ghế bằng gỗ, tôi không thể đoán ngài bao nhiêu tuổi. Có lẽ khoảng ngoài sáu mươi. Ngài có một khuôn mặt tròn lúc nào cũng lộ vẻ tươi cười khiến mọi người cảm thấy yên tâm, thoải mái trước sự hiện diện của một người như vậy.
Một điều lạ cũng cần được nêu ra, Hòa thượng Tomo không thích ai chụp ảnh ngài. Tất cả những người công khai hoặc lén lút chụp ảnh ngài đều thẩy rằng tấm ảnh họ chụp hoặc trắng tinh như chưa hề chụp, hoặc chỉ thấy những đồ đạc chung quanh nhưng không bao giờ thấy ngài. Ngài không thích sự tôn sùng cá nhân và không muốn trở nên một đối tượng cho những việc này.
Hôm đó, sau khi làm lễ nhập môn cho tôi xong, ngài đã nói ngay;
– Nếu con muốn làm thầy của con thì con đừng nhìn cái thân thể vô thường, nay còn mai mất này như vị thầy của con. Chúng ta đều là những kẻ bất toàn, thay vì nhìn vào những điểm bất toàn này, con hãy nhìn thẳng vào Phật tính vốn hoàn hảo và hiện diện trong tất cả các chúng sinh. Thay vì chấp nhận những điều ta chỉ dạy cho con như điều đó đến từ ta thì con phải coi đó là những chân lý vẫn hằng có trong vũ trụ, mà đức Phật Thích Ca đã chứng ngộ được và giảng giải trong giáo pháp của ngài. Ta chỉ là một kẻ tuân theo những giáo pháp đó mà đi, theo ngọn đuốc mà đức Phật Thích ca đã soi đường khi con quỳ lạy trước mặt ta mà hãy nghĩ đến đức Phật Thích Ca, người đã khai ngộ cho tất cả chúng sinh vì chỉ có ngài là người duy nhất được hưởng tất cả mọi sự tôn kính đó. Đừng nhìn vào ngón tay chỉ mặt trăng mà quên đi luồng ánh sáng tuyệt vời phát xuất từ mặt trăng. Đừng trông cậy vào ta như người sẽ đưa con đến chân lý mà hãy trông cậy vào chính con, trông cậy vào cái Phật tính luôn luôn tiềm tàng sẵn nơi con để hướng dẫn con trên con đường về bến Giác. Đừng nhìn vào thân thể này, bộ áo này hay những điều ta nói như một sự thật tuyệt đối mà hãy chứng nghiệm nó nghi ngờ nó, xét đoán nó cho đến khi không còn nghi ngờ hay thắc mắc nào. Đừng vì quá cung kính hay lễ phép mà không dám đặt câu hỏi vì như vậy là con đã mất đi một cơ hội để tiến gần hơn đến sự thật.
– Điều quan trọng nhất mà con phải biết là tất cả mọi chúng sinh đều có khả năng thành Phật, đều có sẵn Phật tính trong mình, chỉ vì mê lầm không nhận rõ tính chất cao quý thiêng liêng nơi mình mà chúng sinh mới bị mê đắm vào vòng đau khổ.
Vì tất cả chúng sinh đều có Phật tính nên tất cả chúng sinh đều tuyệt đối bình đẳng, không có gì sai khác. Nếu con tự cho rằng mình cao cả hơn kẻ khác và có thái độ khinh bỉ với họ thì con không thể nào tiến xa trên đường giải thoát. Con phải biết rằng lý do chúng ta sống trong cái thế giới bất toàn này vì chúng ta còn bất hoàn và tất cả mọi sự xảy ra đều chịu sự chi phối của luật Nhân Quả. Bằng thái độ sống chân chính, con có thể vượt qua các khó khăn trở ngại, thay thế những sự kiện bất toàn bằng những điều toàn vẹn và nhờ thế không những con trở nên vẹn toàn hơn mà còn biến thế giới này thành tốt đẹp hơn nữa.
Biết tôi là một tăng sĩ đã dành nửa đời người nghiên cứu giáo lý và kinh điển Phật giáo, Hòa thượng Tomo không đề cập đến các giáo điều mà đi thẳng vào việc thực hành thiền định mà ngài cho rằng quan trọng hơn các lý thuyết.
Theo ngài thì trước khi bước chân vào con đường tu thiền, một người phải trau dồi thân khẩu ý cho thật trong sạch. Chỉ khi nào giữ vững được thân khẩu ý thì mới nên bước chân vào con đường tu thiền. Bước đầu của việc tu thiền là làm nẩy nở lòng từ bi nơi mình vì đó là điều kiện quan trọng nhất. Thiếu điều kiện này thì việc tu thiền không những sẽ không mang lại kết quả gì mà còn rất nguy hiểm về sau vì chỉ có từ bi mới giúp ta vượt qua các trở ngại gây nên bởi các tình cảm ích kỷ và các giới hạn chật hẹp của tri thức. Để đạt đến thái độ này, người tu thiền phải coi tất cả mọi chúng sinh như người thân trong gia đình vì không một sinh vật nào trong vũ trụ này mà không có sự liên hệ với nhau trải qua vô lượng, vô số kiếp sống luân hồi. Ngoài ra người tu thiền còn phải ý thức thật rõ rệt từng giây từng phút mình đang sống, từ cử chỉ từng lời nói tất cả đều phải được hướng dẫn rõ rệt bằng nội tâm chứ không thể sống một cách máy móc, vô ý thức. Ngài nhấn mạnh rằng thiền định là một lối sống chứ không phải là một phương pháp để thực hành trong những lúc rảnh rỗi, những khi không có việc gì để làm. Đây là một điểm hết sức quan trọng của Đại Thừa vì Thiền chính là sống, sống đúng, sống thật với ý nghĩa của sự sống. Tiểu Thừa và các môn phái Yoga của Ấn Độ thường tách rời thiền định (meditation) ra khỏi cuộc sống và biến nó thành một phương pháp (technique) hơn là một lối sống.
Vì không phải là một kỹ thuật, phương pháp, người ta không thể học hỏi nó qua sách vở mà phải có sự hướng dẫn trực tiếp của một vị thầy. Do đó thiền định còn là kinh nghiệm tâm linh giữa thầy và học trò mà trong đó người học trò cố gắng đặt tâm thức của mình hòa hợp vào tâm thức của vị thầy.
Để đạt điều này, người tu thiền phải luôn luôn nghĩ đến đức Phật như ngài đang hiện diện trong y chứ không phải bên ngoài. Bất cứ sự mong cầu một quyền lực nào bên ngoài cũng đều là những vọng niệm cần phải loại trừ vì không một uy lực nào bên ngoài có thể giúp chúng ta, ngay chính sự mong cầu một điều gì dù là sự bình an, niềm lạc phúc cũng đã là một vọng niệm rồi. Chỉ khi nào người tu thiền ý thức rõ rệt rằng đức Phật ngự trị ở bên trong thì họ mới có thể hiểu trọn ý nghĩa câu thần chú linh thiêng “Om Mani Padme Hum”. Chỉ khi lòng từ bi hoàn toàn khai mở như một bông sen (Padme) vươn lên khỏi vũng bùn và bắt đầu khai hoa thì hương thơm của Trí tuệ (Mani) mới bắt tỏa ra khắp nơi và mọi hành động: Thân, Khẩu và Ý (Om) mới thật sự phản ảnh trọn vẹn đúng cái ý nghĩa cao đẹp nhất của sự sống (Hum).
Khi lòng từ bi phát triển trọn vẹn, người tu thiền không còn ao ước sự giải thoát cho chính mình nữa mà thấy mình và chúng sinh không hề sai khác, mình với tất cả chúng sinh chỉ là một và khi chúng sinh còn vướng mắc trong vòng đau khổ thì làm sao mình có thể giải thoát được?
Khi trí tuệ đã phát triển trọn vẹn thì làm sao mình có thể lầm lạc, có thể hành động trái với luật thiên nhiên, trái với chân lý được? Khi mọi vật đều sáng tỏ, không còn vô minh, tất cả mọi sự thật đều phơi bày rõ ràng thì đâu còn êm đắm, đâu còn khổ đâu. Khi từ bi và trí tuệ đều phát triển trọn vẹn thì không còn sự phân biệt nữa. Từ bi cũng là trí tuệ mà trí tuệ cũng là từ bi và người tu đã chứng đắc, đã đi vào con đường Trung Đạo, thấy rõ bản thể chân như của sự vật: Tất cả đều là một, hình tướng tuy khác nhưng thể tánh chỉ có một. Đó là ý nghĩa câu kinh “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”.
Điều may mắn nhất cho tôi là trước khi được Hòa thượng Tomo dạy dỗ, tôi đã được chuẩn bị kỹ lưỡng bởi Kachenia. Ngoài ra tôi còn quen một vị Lạt Ma gốc Mông Cổ tên là Thubden Serab vốn thông thạo cả Anh ngữ lẫn Tạng ngữ.
Thubden là một Lạt Ma trưởng lão đã tu học ở Lhassa hơn hai mươi năm, được phong làm Hòa thượng (Goshe) và đại diện cho Giáo hoc Tây Tạng tại Trung Hoa. Tại đây ông đã giúp học giả Von Stael holsen trong công trình khảo cứu Phật giáo nên có cơ hội học hỏi thêm về Anh ngữ.
Vì Thubden muốn học Pali nên tôi đề nghị ngay một sự trao đổi: ông ta dạy tôi tiếng Tây Tạng và tôi giúp ông về Pali.
Nhờ Thubden làm thông ngôn, tôi có thể nói chuyện dễ dàng hơn với Hòa thượng Tomo nhưng về sau tôi mới biết rằng ngài không cần ai thông dịch cả. Ngài có thể đọc rõ tư tưởng của tôi như mở một cuốn sách và ngài cũng không cần phải sử dụng ngôn ngữ để giải thích một điều gì vì khi tôi thiền định, ngài có thể gieo vào tâm tôi những tư tưởng tốt lành nhờ thế tôi có thể chứng nghiệm được những điều ngài muốn nói.
Khi Hòa Thượng Tomo chấp nhận tôi làm đệ tử và truyền cho tôi câu thần chú đầu tiên thì tôi bỗng ý thức rằng từ trước đến nay nếp sống tu hành của mình vẫn còn một thiếu sót rất lớn: kinh nghiệm tâm linh. Đây là một kinh nghiệm không thể diễn tả bằng ngôn ngữ, không thể suy xét bằng lý luận, không thể nghĩ bằng triết lý những là một kinh nghiệm trực tiếp, một bằng chứng hùng hồn cho người đi trên đường Đạo biết rằng điều mà họ đang theo đuổi không phải chỉ là một giải thuyết xa vời, một ý tưởng trừu tượng những là một điều mà người ta có thể đạt được, kinh nghiệm được.
Nhiều người đã hỏi tôi nếu đã kinh nghiệm được thì tại sao lại không thể diễn tả? Theo sự hiểu biết của tôi thì chuyển động của tâm thức cũng như sự chuyển động của ánh sáng, tất cả những gì nắm bắt láy nó đều chỉ là ảo vọng vô ích vì cái ý tưởng nắm giữ một vật hằng chuyển chỉ là một quan niệm điên rồ.
Sự tĩnh lặng của tâm hồn không có nghĩa là sự bất động của tâm thức hay ngăn giữ nó đứng yên nhưng là một trạng thái mà tâm thức thực sự tự do không bám víu, ràng buộc hay vướng mắc vào đâu cả. Điều này có thể tạm giải thích như một nốt nhạc tự nó không có ý nghĩa gì mà chỉ khi có sự hiện diện của những nốt nhạc khác vì âm nhạc là sự tương quan của nốt nhạc với nhau. Sự tương quan này có tính cách tự do, không thể nắm giữ được mà chỉ có thể cảm nhận được qua những âm điệu du dương trầm bổng. Nếu phân tích âm điệu này thành từng phần nhỏ, ta chỉ còn những nốt nhạc rời rạc vô hồn không có ý nghĩa gì hết. Ngay trong giây phút mà chúng ta bắt đầu phân tích, sắp đặt thành hệ thống các kinh nghiệm tâm linh thì chúng ta bóp chết sự sống động mầu nhiệm của chúng rồi.
Đối với những vị thầy mà tôi được biết, Tomo Geshe Rinpoche đương nhiên là vị thầy quan trọng nhất. Một sự liên quan mật thiết đã nối liền tâm thức tôi với ngài ngay trong buổi lễ nhập môn. Lúc đó tôi không biết gì nhiều về ngài nên đã tránh được những chủ quan mà người khác thường gặp phải khi tiếp xúc với một bậc tu hành như vậy. Nhờ quan sát với một tinh thần vô tư tuyệt đối mà tôi nhận thấy ngài sở hữu rất nhiều quyền năng (Siddhi) chỉ có ở những bậc tu chứng. Dĩ nhiên không bao giờ ngài khoe khoang điều này nhưng nhiều sự kiện xảy ra một cách tự nhiên đã xác nhận điều nhận xét của tôi.
Hôm đó, chúng tôi quây quần bên ngoài để nghe nói về các kinh nghiệm khi thiền định. Thubden Sherab vì đã tu cao nên có nhiều câu hỏi mà tôi không hiểu gì hết. Tôi ngồi nghe nhưng tâm hồn cứ vẩn vơ những chuyện đâu đâu.
Tôi nghĩ rằng có hợp ắt có tan, có gặp gỡ thì cũng có ngày tạm biệt, một ngày nào đó Hòa thượng Tomo sẽ rời nơi đây để vân du nơi nào đó. Biết bao giờ tôi mới có dịp được ngồi bên ngài, để được che chở trong luồng từ điện an tĩnh toát ra từ ngài như thế này? Mặc dù Tomo Rinpoche đã dạy rằng thời gian và không gian chỉ là những gì tương đối, giữa tôi và ngài nối liền bởi một cây cầu tâm thức thì dù xa xôi vạn dặm mà ngài vẫn như ở bên cạnh, vẫn chăm lo săn sóc được cho tôi. Lúc đó tôi chưa có đủ tin tưởng nên chỉ ao ước có một cái gì rõ rệt hơn như một là bùa hộ mệnh, một pho tượng Phật nhỏ đeo trước ngực để che chở khi cần thiết.
Tôi còn đang mải miết suy nghĩ thì Hòa thượng Tomo đã ngừng câu chuyện với Sherab, quay về phía tôi tuyên bố:
– Trước khi rời nơi đây, ta sẽ cho con một pho tượng Phật nhỏ để con biết rằng lúc nào ta cũng để ý và săn sóc đến con.
Tôi bàng hoàng đến nỗi không thốt ra được một lời nào. Điều tôi không dám nói nhưng đã nghĩ đến thì cũng như nói ra rồi và Hòa thượng Tomo có thể đọc rõ tư tưởng của tôi như một cuốn sách. Dù đang chú tâm chỉ dẫn cho Thubden Sherab nhưng ngài vẫn theo dõi được từng tư tưởng các đệ tử, nghe được các ao ước thầm kín của họ. Đây là một quyền năng mà kinh điển Tây Tạng gọi là “thiên lý nhĩ” (divine ear), nghe được mọi điều cầu xin của thế gian.
Hòa thượng Tomo tu theo hạnh Đầu Đà (Anagarika) ít khi ở đâu lâu dài mà thưởng di chuyển khắp nơi để thuyết pháp, độ sanh. Thỉnh thoảng ngài dừng chân tại một nơi nào đó để nhập thất, tĩnh dưỡng ít lâu lại tiếp tục công việc hoằng pháp. Lần này ngài đã lưu lại tu viện Yi Gah Cho-li này hơn một năm để nhập thất nhưng đến lúc ngài phải lên đường….
Giờ phút cuối, khi tôi quỳ trước mặt ngài làm lễ tạm biệt thì ngài rút trong túi ra một pho tượng Phật nhỏ và nói rằng trong suốt thời gian qua, lúc nào ngài cũng cầm pho tượng này trong tay khi thiền định cho đến lúc trao nó cho tôi.
Vừa đón lấy pho tượng, tôi đã cảm thấy ngay một luồng từ điện mãnh liệt như sóng biển cuồn cuộn từ pho tượng chuyển qua khiến tôi thấy mình chìm đắm trong một biển tình thương rộng lớn. Tôi cúi rạp người xuống nước mắt ràn rụa không sao thốt nên lời. Từ đó tôi biết rằng, dù xa cách muôn trùng, ngài không bao giờ xa tôi và dù ở bất cứ nơi đâu ngài cũng thường xuyên để ý và săn sóc đến tôi.
4- Đường mây rộng mở
Tôi tiếp tục sống tại tu viện Yi Gah Cholin một thời gian trước khi trở về Tích Lan. Mỗi ngày tôi đều chăm chỉ thực hành các nghi thức Hòa thượng Tomo truyền dạy cũng như trì tụng bài thần chú ngắn khẩu truyền. Tôi thường theo Kachenia làm những công việc tầm thường trong tu viện nhưng bây giờ nó không còn “tầm thường” nữa. Từng bước đi, từng cử chỉ của tôi đã bắt đầu ăn khớp với tâm thức. Từng hơi thở, từng tư tưởng dần dần được sự kiểm soát của nội tâm. Đời sống đối với tôi không còn là một sự cố gắng (struggle) nhưng là một cái gì mầu nhiệm đến lạ lùng…
Một hôm tôi theo đoàn khách thường mạo hiểm lên tận đỉnh núi để nhìn vào đất Tây Tạng, ước mong sẽ theo chân Hòa thượng Tomo vân du khắp dãy Tuyết Sơn bắt đầu nảy sinh trong đầu óc tôi. Tôi nhủ thầm thế nào cũng có ngày phải du hành vào Tây Tạng để thăm những ngôi chùa cổ, những di tích lịch sử huyền bí, những đạo sư, tu sĩ nhập thất mà Hòa thượng Tomo đã đề cập trong những buổi nói chuyện với các đệ tử. Nhưng tôi chưa thể vào Tây Tạng vì không có thông hành, ngoài ra tôi còn nhiều việc dở dang tại Tích Lan nên chưa thể làm một cuộc hành trình như vậy trong lúc này.
Tây Tạng là một quốc gia hẻo lánh ngăn cách với thế giới bên ngoài bằng một rặng núi cực kỳ hiểm trở. Mặc dù người Anh đã chinh phục Tây Tạng và mở đường giao thông từ Darjeeling đến Lhassa nhưng trong vòng mấy chục năm nay, rất ít người ngoại quốc nào dám bén mảng vào đây. Ngay các viên chức ngoại giao cũng chỉ dám đi theo những lộ trình nhất định, dưới sự hộ vệ của một đại đội võ trang cẩn thận. Không phải người ta sợ giặc cướp hay những cuộc nổi dậy của dân chúng địa phương nhưng Tây Tạng có một cái gì huyền bí lạ lùng, một “cái gì” không thể diễn tả, chính vì không thể diễn tả mà người ta sợ và vì sợ hãi mà Tây Tạng trở nên một vùng đất cấm, không mấy ai dám đặt chân đến.
Tôi trở về Tích Lan được ba năm nhưng giấc mộng du lịch Tây Tạng vẫn không phai mờ trong tâm trí. Đơn xin du lịch Tây Tạng của tôi bị chính quyền Anh từ chối, người ta đã viện đủ mọi lý lẽ, để bác bỏ hồ sơ. Sau cùng khi đơn khiếu nại của tôi lên đến vị Phó Vương (Viceroy) Ấn Độ thì bộ ngoại giao viện lẽ Tây Tạng với chính sách “bế quan tỏa cảng” không chấp nhận bất cứ một du khách nào, kể cả những tu sĩ đi thăm viếng các di tích tôn giáo. Tôi viết thư cho chính quyền Tây Tạng nhưng không nhận được hồi âm, tuy nhiên vì một lý do gì tôi biết thế nào cũng có ngày mình sẽ đặt chân lên “miền đất hứa” lạ lùng huyền bí đó.
Cơ hội đã đến khi tôi có dịp cùng với phái đoàn Phật giáo cầm đầu bởi học giả Rahula Sankritiyana tham dự buổi họp thảo tại Srinaga. Vì miền này cách biên giới Tây Tạng không xa, tôi quyết định mạo hiểm đột nhập vào đây. Từ lâu tôi đã chuẩn bị cẩn thận cho chuyến đi này, tôi tập ngủ giữa trời chỉ phủ lên mình một tấm chăn dầy bằng nỉ. Tôi mướn hai người hướng đạo nổi tiếng thành thạo và bắt đầu cuộc hành trình vượt đèo Karakorum để vào Tây Tạng. Ngay lúc khởi hành, một trận bão lớn nổi lên như đe dọa. Sấm chớp sáng lòe cả góc trời rồi một trận mưa đá trút xuống khiến ai cũng e ngại. Tôi nhìn ngọn đèn cao trước mặt như một chướng ngại đầu tiên và nhủ thầm nếu không vượt qua được nó thì có lẽ không bao giờ tôi có cơ hội vào Tây Tạng nữa. Tôi hít một hơi dài rồi quyết định giục lừa tiến bước, hai người hướng đạo lầm lũi mở đường. Gió rít lên từng cơn, những hạt mưa đá tạt vào mặt làm tôi đau nhói nhưng tôi nhất định lần này phải vào cho được Tây Tạng.
Chúng tôi lầm lũi đi như trong một giấc mộng, không ai thốt lên một lời. Hình như cả ba chúng tôi đều bị thu hút bởi con đường ngoằn nghèo trước mặt, ngay cả những con lừa cũng không vùng vằng hí vang mà cắm cúi bước đi như bị một sức mạnh vô hình lôi cuốn. Những đám mây thấp giăng ngang đường đèo, chúng tôi có cảm tưởng như đang đi trên mây, hết lớp mây này đến lớp mây khác. Mây ở trên đầu chúng tôi, mây ở dưới chân tôi. Thỉnh thoảng một cơn gió thổi qua cuốn đi lớp mây mù để lộ ra những tảng đá lởm chởm bám đầy rong rêu. Những thân cây uốn éo mọc ở hai bên đường như hàng trăm ngàn cánh tay của những con quái vật xông ra chực đón bắt khách bộ hành, nhưng rồi mây mù ở trên cao lại tràn xuống phủ kín tất cả. Chúng tôi tiếp tục leo lên cao mãi trong cái biển mây mù mịt này; con đường độc đạo uốn quanh những sườn núi ngày càng trở nên nhỏ hẹp và nguy hiểm, chỉ một sơ sẩy người ta có thể ngã xuống vực sâu…
Chiều hôm đó chúng tôi đến một vùng tương đối quang đãng, khoảng vài ngàn thước cao nên không cây cối nào có thể mọc được, chỉ có những tảng đá khổng lồ hình thù kỳ dị nằm dọc theo lối đi.
Người hướng đạo cho biết có một thạch tự (rock monastery) xây khuất trong hẻm núi cách đó không xa. Vì trời gần tối nên tôi quyết định ghé vào đó xin trọ một đêm thay vì ngủ giữa trời như mấy hôm trước. Chúng tôi dắt lừa đi theo con đường nhỏ hẹp ngoằn ngoèo nhưng chỉ được một lúc không hiểu sao bầy lừa không chịu đi nữa. chúng tôi đành cột lừa vào gốc đá rồi theo con đường nhỏ gập ghềnh để tiến vào tu viện.
Đó là một tu viện hoàn toàn xây bằng đá nằm sâu trong một hẻm núi, quanh tu viện có hàng trăm tháp nhỏ (Chorten) nhấp nhô theo triền núi, nhiều tháp còn treo những lá cờ rách nát với những dòng chữ lạ lùng. Cửa tu viện mở rộng nhưng bên trong vắng lặng, không một bóng người. Tôi đang loay hoay không biết phải làm gì thì người dẫn đạo đã bước đến bên một tảng đá lớn phẳng phiu dựng bên cánh cửa, y nhặt một hòn đá cạnh đó rồi gõ mạnh lên tảng đá. Một âm thanh thanh trầm trầm vang lên, thì ra đó là một cái chuông bằng đá. Chúng tôi đứng chờ một lúc nhưng không thấy ai bước ra. Vì biết những ngôi nhà hẻo tại Tây Tạng đều nuôi chó, một loại chó thấp nhỏ nhưng rất dữ nên tôi e ngại không dám bước vào. Sau mấy lần gõ chuông mà vẫn không thấy ai, tôi bèn đánh bạo bước vào trong sân. Cảnh vật bên trong im lìm một cách kỳ lạ, tôi rón rén đi dọc theo chiếc sân hẹp để vào chánh điện nhưng vừa đi được vài bước thì có tiếng chó sủa vang. Là một người sợ chó, tôi nhẩy nhôm toan bỏ chạy thì thấy một vị lạt ma già, mặt đầy những vết nhăn ở đâu bước ra.
Tôi cung kính chấp tay chảo, định lên tiếng xin trú ngụ qua đêm nhưng nhìn thấy bộ áo tăng bào trên người tôi, vị lạt ma đã nhanh nhẩu lên tiếng trước mời tôi vào chánh điện lễ Phật.
Tôi bước theo vị lạt ma qua một dẫy hành lang hẹp, chánh điện là một hang động rất lớn với rất nhiều hình vẽ lạ lùng khắc trên vách đá. Chính giữa chánh điện là một bức tượng Phật Di Lặc rất lớn, hai bên có nhiều pho tượng Bồ Tát bằng đá trông rất linh động. Sau khi làm lễ trước chánh điện, tôi được mời vào một căn phòng nhỏ, vị lạt ma già cho biết đó là căn phòng dành riêng cho một vị khách quý mỗi khi ngài ghé qua đây.
Trong lúc tôi đang đàm đạo với vị Lạt Ma già thì người hướng đạo mang hành trang của tôi vào phòng, theo sau là một số tăng sĩ trong chùa tò mò muốn biết mặt vị tu sĩ từ phương xa đến.
Tôi mở hành lý lấy ra cái lò đốt để chuẩn bị nấu trà, mọi người xúm quanh nhìn chiếc lò bằng sắt. Có lẽ họ chưa bao giờ thấy một chiếc lò như thế, khi tôi đổ dầu hôi vào bếp và châm lửa thì tất cả chợt im bặt. Những con mắt thao láo đổ dồn lên chiếc lò như tự hỏi làm sao người ta có thể tạo ra lửa từ một chất lỏng như nước kia. Nhiều người lắc đầu như không tin, có lẽ họ nghĩ vị Lạt Ma này hẳn phải là một vị phù thủy, vài người tò mò dơ tay trước ngọn lửa như sợ rằng đó chỉ là một trò ảo thuật nhưng họ đã rút tay lại khi chạm phải hơi nóng.
Nếu tôi bay bổng lên không trung hay hô phong hoán vũ cũng không làm họ ngạc nhiên bằng việc đổ một chất lỏng như nước lên chiếc hộp sắt rồi tạo ra lửa. Nhiều người có vẻ sợ sệt không biết tôi sẽ sử dụng ngọn lửa vào việc gì, một vài người lùi lại lẩm bẩm niệm Phật nhiều rồi họ đều cười ầm lên khi thấy tôi đặt chiếc ấm sắt lên lò rồi bỏ vào đó một nhúm trà. Họ tò mò xem xét cách tôi pha trà nhưng vì đã sống tại Yi Ga Cho-lin nên tôi làm đúng như cách pha trà của người Tây Tạng. Sau cùng thấy không có gì lạ, họ kéo nhau đi để tôi ngồi lại trong chiếc phòng bằng đá đục sâu vào vách núi.
Trời chưa tối hẳn và tôi cũng không cảm thấy buồn ngủ. Tôi xếp bằng trên tấm nệm và bắt đầu chuẩn bị nghi thức đọc thần chú. Tự nhiên tôi cảm thấy căn phòng này phảng phất một cái gì quen thuộc, một không khí bình an, êm tĩnh lạ thường. Bao mệt nhọc của chuyến hành trình dường như tan biến ngay khi tôi vừa đặt chân vào đây. Tôi bắt đầu tụng bài chú thì một sự kỳ lạ diễn ra, bức tường đá trước mặt dường như chuyển động, hình như nó đang sống dậy rồi một linh ảnh hiện ra trước mặt tôi. Trong ánh hào quang sáng rỡ, Đức Di Lặc đang oai nghiêm ngồi trên một tòa sen, hai tay xếp vào nhau theo Đại Tam Muội ấn. Tôi nhắm mắt lại một lúc để trấn tĩnh tâm hồn rồi mở mắt ra thì hình ảnh Đức Di Lặc vẫn hiện ra rõ ràng trước mắt, oai nghi và sống động hơn bao giờ hết. Tự nhiên tôi thấy trong lòng dâng lên một cảm xúc khó tả, một sự tĩnh lặng bình an mà tôi chỉ cảm thấy mỗi khi ở gần Hòa thượng Tomo. Tôi cảm thấy sự hiện diện của sư phụ tôi rất gần, ngay ở bên tôi, hình như ngài đang hướng dẫn tôi bước vào luồng hào quang rực rỡ của Đức Di Lạc, tai tôi nghe vang vang những điệu âm của bài chú mà tôi vẫn tụng không biết bao lần.
Tôi quay lại nhìn căn phòng, đồ đạc vẫn y nguyên không thay đổi và rõ ràng tôi không hề mê ngủ vì tôi có thể kiểm soát được tay chân một cách dễ dàng, tôi quay lại nhìn bức tường đá và thấy một ánh sáng rực rỡ tỏa lan khắp nơi, trong luồng ánh sáng đó có hằng hà sa số chư Phật, chư Bồ Tát đang thuyết pháp… diệu âm vang lừng không gian. Tôi thấy rõ ràng mình đang đứng trước hải hội chư Phật đó, đang cúi đầu đảnh lễ và dâng lên những bông hoa Mạn Đà La rực rỡ cúng dường chư Phật. Tôi nghe rõ từng lời kinh, từng câu thần chú quen thuộc và thấy những tòa sen liên kết thành hình những đàn tràng Mạn Đà La, những biểu tự ngoằn ngoèo chói sáng tác động mạnh mẽ vào tâm thức tôi làm tôi thấy mình như rơi vào một biển ánh sáng quang minh rực rỡ. Tôi phải nhằm mắt lại một lúc mới giữ được cho tâm không xúc động.
Khi tôi mở mắt ra thì cái linh ảnh đã biến mất, trên tường chỉ còn lại một tia nắng ấm áp từ cửa sổ rọi vào. Tôi thấy người nhẹ nhàng sảng khoái một cách lạ lùng, bên ngoài cửa sổ cảnh vật hiện ra rõ ràng dưới ánh nắng của buổi chiều tà. Có tiếng chuông thu không ở đâu vọng lại, ngân dài trong không gian…
Sáng hôm sau tôi thức dậy, thu xếp hành trang để chuẩn bị lên đường. Tôi muốn gặp vị Lạt Ma già đã tiếp tôi hôm trước để ngỏ lời cám ơn nhưng cả tu viện đều vắng tanh, không một bóng người.
Tôi bước dọc theo dãy hành lang dài nơi có vẽ những hình ảnh các vị Bồ Tát, các vị Phật cũng như các biểu tự ngoằn ngoèo…
Người dẫn đạo nhìn thấy tôi đang trầm ngâm bèn lên tiếng:
– Hình như chỗ này làm ông không được vui hay sao?
– Không đâu, tôi rất thích cái không khí nơi đây, ít chỗ nào lại êm đềm thanh tịnh như ngôi thạch tự này.
– Đã hẳn, ông ngủ trong căn phòng đá đó thì dĩ nhiên phải yên tĩnh rồi.
– Tại sao vậy?
Người dẫn đạo kể lể:
– Hôm qua các vị tăng trong chùa này bàn cãi với nhau rất lâu về việc để ông ngủ trong căn phòng đó. Đó không phải một căn phòng thông thường nhưng được dành riêng cho một vị khách quý của chùa mà thôi. Vị này đã có công xây dựng lên ngôi thạch tự này, thỉnh thoảng ngài có ghé qua đây thuyết pháp và chỉ dẫn cho các tăng sĩ trong chùa…
Tự nhiên tôi giật nẩy mình, một ý tưởng bất ngờ nổi lên khiến tôi vội vã hỏi dồn:
– Nhưng… nhưng vị đó là ai?
– Tôi không biết rõ tên ngài nhưng mọi người thường gọi ngài là vị hòa thượng làng Tomo, ngài thường đi khắp Tây Tạng thuyết pháp và dựng chùa thờ Phật Di Lặc, vị Phật tương lai sẽ chuyển kiếp xuống trần trong một thời gian nữa…
Tôi buột miệng la lớn:
– Đó là sư phụ tôi…
Thốt nhiên tôi bỗng ý thức rõ rệt bầu không khí an tĩnh của tu viện này cũng như cái linh ảnh mà tôi chiêm ngưỡng hôm qua. Cái linh ảnh đó là một kinh nghiệm tâm linh cho thấy rằng tôi vừa được điểm đạo lần thứ hai (second initiation).
Trong buổi lễ điểm đạo lần đầu cách đây bốn năm tại Yi Ga Cho-lin, Hòa thượng Tomo đã dặn tôi: “Một ngày nào đó, con sẽ thấy được những hóa thân (transcedantal bodies) của chư Phật và chư Bồ Tát, vốn là những điểm linh quang hiện hữu trong tâm con. Dĩ nhiên hiện nay đó chỉ là một quan niệm trừu tượng vì nghiệp chướng con còn dày, con chưa thể ý thức rõ rệt được. Nhờ trì tụng bài thần chú khẩu truyền (oral mantra) con sẽ tiêu trừ được những nghiệp chướng này và đến khi đó con sẽ quán chếu mọi sự một cách rõ ràng hơn. Nhờ suy ngẫm về tánh không của sự vật cũng như phát triển tâm bồ đề rộng lớn mà con sẽ nhập được pháp giới, thấy được những hải hội chư Phật, chư Bồ Tát rồi hóa thân để cúng dường. Khi nào con thấy chư Phật hiện ra rõ ràng như thật trước mặt con thì con sẽ ý thức rằng cái thế giới bên trong cũng như bên ngoài có thể chuyển biến được (interchangeable). Lúc đó tùy con lựa chọn muốn sống trong thế giới nào, hướng ra bên ngoài hay quay vào bên trong, muốn trở thành nô lệ của xác thân, chìm đắm trong sinh tử luân hồi hay biết tận dụng khả năng giác ngộ vẫn có sẵn trong người để chuyển mê khải ngộ, vượt ra khỏi xiềng xích kiềm tỏa của vòng luân hồi.
Hơn bao giờ hết, tôi cảm thấy rõ rệt sự hiện diện của Hòa thượng Tomo trong tâm thức mình, lúc đó tôi mới thực sự tin tưởng một cách chắc chắn về cái cầu tâm thức giữa tôi và ngài. Chính ngài đã giúp sức cho tôi vượt qua những rặng núi cao cực kỳ hiểm trở để đến ngôi chùa mà ngài đã xây dựng nhiều năm trước đó. Chính ngài đã hướng dẫn vị Lạt Ma trụ trì đưa tôi trú ngụ trong căn phòng đặc biệt dành riêng cho ngài. Tôi cúi đầu chú tâm vào bài thần chú mà ngài đã truyền riêng cho tôi, đầu óc tôi trở nên thông suốt một cách lạ thường, dường như có một tiếng nói vô thanh nổi lên giải đáp mọi thắc mắc vẫn có từ trước đến nay. Tự nhiên tôi ngửng đầu nhìn lên những bức tranh vẽ trên vách đá và chợt hiểu…
Điều mà trong lúc trú ngụ tại tu viện Yi Ga Cholin tôi vẫn thắc mắc nay đã được giải đáp. Những bức tranh vẽ trên tường, những chủng tự ngoằn ngoèo thần bí không phải chỉ là những hình thức trang trí nghệ thuật mà còn tượng trưng cho một ý nghĩa cao siêu mầu nhiệm xuất phát từ những kinh nghiệm nội tâm của người họa sĩ. Họ đã vẽ lại một cách chính xác những sự rung động của làn sóng quang minh của tâm thức. Nói một cách giản dị hơn, các chủng tự đó là một ngôn ngữ thần bí mà chỉ có những bậc đạo đồ đã được điểm đạo, đã có những kinh nghiệm tâm linh, đã mở được đạo nhãn thì mới có thể hiểu được.
Tôi cũng ý thức rằng sư phụ tôi. Hòa thượng Tomo đã vén màn bí mật này cho tôi với một mục đích rõ rệt. Ngài có ý muốn tôi mang những bức tranh này, những biểu tự này truyền ra ngoài nhưng vào mục đích gì thì lúc đó tôi chưa thể hiểu được. Dĩ nhiên đối với một người thường thì đó chỉ là những bức tranh, những dòng chữ ngoằn ngoèo nhưng với những người đã gia công tu trì Mật Tông bằng cách quán chiếu những chủng tự thì nó mang một ý nghĩa khác hẳn, mầu nhiệm và huyền bí vô cùng.
Vì lý do này, tôi đã sưu tầm những bức họa cổ Tây Tạng và đặc biệt tô lại (pencil tracing) những bức họa khắc trên vách đá tại những hang động của các bậc tu chứng, những công trình sưu tập của tôi là hình vẽ tám mươi bốn vị La Hán Tây Tạng hiện được trưng bày tại bảo tàng viện Allahabad.
Như có một bàn tay vô hình hướng dẫn, chuyến du hành đã đưa tôi đến nhiều tu viện cổ, nơi lưu trữ những kinh điển, tài liệu soạn thảo từ thế kỷ 11. Khí hậu Tây Tạng tuy lạnh nhưng khô ráo nên những bức họa cổ, những bức khắc bằng gỗ trải qua hàng ngàn năm mà vẫn còn nguyên vẹn. Tôi chắc chắn rằng ngày nay, người ta còn có thể tìm được nhiều tài liệu quý báu trong những tu viện bị bỏ hoang hay những hang động nằm trong những địa điểm bí mật, ít ai đặt chân đến. Cũng trong chuyến du hành này, tôi đã mang về được nhiều bộ kinh điển quý giá phiên dịch bởi Đại sư Rinchen Zangpo, nhà dịch giả nổi tiếng đã truyền bá Phật giáo vào Tây Tạng trong thế kỷ 11. Chính Đại sư là người đã phiên dịch hai bộ kinh quan trọng nhất của Mật Tông, bộ Kangjur và Tangjur mà gần như người Tây Tạng nào cũng trì tụng. Hiện nay những bộ sách này đang được lưu trữ tại thư viện thành phố Dharamsala.
Khu chúng tôi vượt qua đỉnh Karakorum thì khí hậu bỗng trở nên ấm áp một cách bất ngờ. Tôi vội cởi bỏ ngay chiếc áo choàng dài cho thoải mái nhưng chỉ một lúc sau tôi biết mình đã lầm. Khí hậu Tây Tạng thay đổi vô cùng đột ngột, ngoài nắng nhiệt độ có thể lên gần đến một trăm độ nhưng trong bóng mát nó lại xuống gần không độ là chuyện thường. Ngồi trên ngựa, mặt và tay tôi sưng phồng lên vì nắng nhưng chân tôi ủ trong đôi giầy lại tê cóng vì lạnh. Mặc dù đã bôi đủ loại thuốc nhưng da tôi vẫn bị rộp lên, đau đớn vô cùng. May thay chỉ một thời gian sau, cơ thể tôi quen dần với khí hậu nơi đây nên không còn khó chịu nữa.
Bình nguyên Aksai là một trong những nơi hoang vu nhất Tây Tạng, rất ít ai đặt chân đến kể cả những người dân bản xứ. Trong cảnh thiên nhiên hùng vĩ bao la này tôi mới thực sự ý thức danh từ “tự do”, một danh từ thường bị lạm dụng trong đời sống “văn minh” ngày nay.
Làm sao có thể gọi là tự do khi từng chi tiết nhỏ nhặt của đời sống đều được hoạch định cẩn thận? Làm sao có thể gọi là tự do khi mỗi giây phút đều được kiểm soát bởi những thời khóa biểu hay cái đồng hồ? Tự do không có nghĩa là muốn làm gì thì làm, muốn đi đâu thì đi nhưng là khả năng chấp nhận tất cả mọi sự, kể cả những sự đến một cách bất ngờ. Tự do là đón nhận sự sống với vòng tay mở rộng, là khả năng thay đổi theo hoàn cảnh chung quanh nhưng vẫn không mất đi lòng tin vững chắc nơi mình. Tự do là kinh nghiệm tất cả với một tinh thần khách quan vô tư, là quan sát một cách hồn nhiên không thành kiến. Con người đã phát minh ra đồng hồ để đo lường thời gian nhưng họ cũng vô tình chia cắt sự sống đang cuồn cuộn chảy khắp nơi thành những mảnh vụn nhỏ rời rạc. Họ càng cố gắng tiết kiệm thời giờ chừng nào thì lại càng mất đi sự sống mầu nhiệm chừng đó. Tự do thật sự là sống từng giờ, từng phút khi quá khứ trở thành hiện tại và hiện tại chính là tương lai hay một thứ hiện tại vĩnh cửu.
Từ khi bước chân vào Tây Tạng, tôi ý thức được một sự chuyển hóa kỳ lạ diễn ra trong người. Công phu tu hành của tôi bỗng tiến bộ vượt bậc, tôi có thể nhập định, quán tưởng những điều đã được chỉ dạy một cách dễ dàng. Tôi tự hỏi phải chăng Tây Tạng có cái gì đặc biệt hơn những nơi khác chăng? Sau này suy nghĩ mãi tôi mới tìm được một cách giải thích mà tôi cho là có lý hơn cả: Hòa thượng Tomo đã truyền dạy cho tôi phương pháp thiền định trong đó hơi thở (Pranayama) phải đi đôi với cử chỉ, hành động (Asana) và đặt dưới sự kiểm soát của ý chí.
Trên độ cao của bình nguyên Aksai, không khí rất lỏng nên người ta phải hít vào thật sâu mới có đủ dưỡng khí. Sự thở hít thật sâu một cách vô tình này không khác cách kiểm soát hơi thở Pranayama là bao nhiêu. Trên đường thiên lý, người ta không thể ngồi mãi trên lưng ngựa mà có khi phải đi bộ cho lừa ngựa được nghỉ ngơi. Nhưng người ta không thể đi nhanh chậm tùy ý mà phải cố gắng tiết kiệm sức lực bằng cách đi thật đều và giảm bớt các cử chỉ vung tay, vung chân thừa thãi. Sự kiểm soát cử chỉ này cũng không khác các tư thế Asana là mấy. Ngoài ra lúc nào tôi cũng cố gắng định tâm để niệm các bài thần chú khẩu truyền (Mantra) ngày cũng như đêm. Nói tóm lại, tôi đã vô tình thực hiện phương pháp thiền định mà Hòa thượng Tomo truyền dạy trong suốt cuộc hành trình, có lẽ vì thế công phu tu hành của tôi tự nhiên tiến bộ một cách bất ngờ như vậy.
Trong sự tĩnh lặng bao la của thiên nhiên, khả năng tập trung tư tưởng để quan sát nội tâm trở nên dễ dàng hơn vì không còn bị chi phối bởi ngoại cảnh. Bầu trời rộng rãi trở nên một cái gương lớn phản chiếu tất cả những tư tưởng thầm kín bên trong và khuếch đại nó lên hàng trăm lần. Chính trong sự yên lặng này mà đầu óc con người trở thành vô cùng mẫn cảm, điều này giải thích hiện tượng “thần giao cách cảm” thường có ở các giống dân du mục miền này.
Nhà thám hiểm Sven Hedin đã viết trong cuốn du ký rằng ông đã theo chân một đoàn khách thương vượt bình nguyên Chang Tang để vào Tân Cương. Đoàn lữ hành mướn một người hướng đạo nhưng anh này thường cưỡi ngựa đi trước khoảng một dặm đường vì anh không thể tập trung tư tưởng dẫn đường khi đầu óc bị chi phối bởi những tiếng động ồn ào, náo nhiệt của đám khách thương. Đoàn người đi được ít lâu thì người hướng đạo bị bệnh rồi chết. Dĩ nhiên đoàn khách thương đành quay ngược về lối cũ chứ không thể đi thêm. Vừa đi được ít lâu họ gặp một thanh niên khác hối hả đi đến, anh này xưng là em ruột của người hướng đạo vừa chết. Anh cho biết trước khi chết, người hướng đạo đã tập trung tư tưởng chuyển một thông điệp cho em để nhờ người này hướng dẫn đoàn khách thương vượt qua giải bình nguyên như chương trình dự định.
Khi đọc cuốn sách của Sven Hedin, tôi không lấy gì làm tin tưởng cho lắm nhưng một trường hợp xảy ra đã làm tôi phải suy nghĩ nhiều: Trong lúc du lịch tại Tây Tạng, tôi vẫn lo lắng cho mẹ tôi ở nhà. Tôi lo rằng bà cụ có thể đau ốm hoặc chết trước khi tôi có thể về thăm bà lần cuối. Lần đó LiGotami, người bạn đồng hành của tôi đã bầy tỏ chuyện này cho những người hướng đạo. Hôm sau, một người hướng đạo cho biết mẹ tôi vẫn mạnh khỏe như thường nhưng bà cụ ít khi đi đâu vì chân bị phong thấp. Dĩ nhiên tôi không tin tưởng gì vào một điều tiên đoán vu vơ như vậy nhưng vài tuần lễ sau, tôi nhận thư mẹ tôi nói là bà vẫn mạnh khỏe nhưng khó đi đứng vì chân bên trái bị sưng to.
Li Gotami, Anagariki Govinda, Nyanaponika Thera vào cuối những năm 1960 hoặc đầu những năm 1970 (ảnh wikipedia)
Sau này tôi mới biết rằng chỉ trong sự tĩnh lặng, con người mới có thể đạt được những quyền năng khác thường. Sự yên lặng loại bỏ những chi phối của ngoại cảnh và tạo ra một khoảng trống mà tư tưởng có thể tập trung. Khi tinh thần lúc nào cũng tập trung, bất cứ một tư tưởng nào nẩy sinh cũng đều được khuếch đại lên, và tới một sự tập luyện cẩn thận người ta có thể làm được nhiều điều phi thường. Từ đó tôi nghiệm thêm rằng sự nghỉ ngơi trong yên lặng vô cùng cần thiết cho những người hoạt động bằng trí óc. Xã hộ văn minh đã bắt buộc con người phải làm việc một cách quay cuồng để kiếm sống. Sau đó người ta đã đặt ra đủ thứ giải trí để giúp con người được thoải mái hơn, nhưng đa số phương tiện giải trí lại còn ồn ào, náo nhiệt và quay cuồng hơn nữa. Làm sao cái thể xác mong manh đang mệt mỏi lại có thể chịu đựng thêm những sự náo nhiệt này được? Do đó xã hội càng văn minh càng nẩy sinh những căn bệnh thần kinh, sự khủng hoảng tinh thần hoặc các chứng bệnh nan y kỳ lạ.
Tóm lại, con người đã thực sự không biết nghỉ ngơi. Nếu họ biết tìm một chỗ vắng vẻ, ngồi yên cho thân thể tự động thanh lọc các chất ô nhiễm cặn bã tạo ra bởi nhịp độ quay cuồng của hoàn cảnh đường thì nhiều bệnh tật ắt đã không xảy ra.
– Tso! Tso! Pagong Tso…
Hai người hướng đạo reo lớn chỉ về phía trước. Trên bình nguyên mênh mông có một đống đá xếp cao như một cái tháp. Từ đây người ta có thể nhìn thấy hồ Pagong ở đàng trước. Đó là một cái hồ kỳ lạ màu xanh biếc như ngọc, lấp lánh phản chiếu ánh mặt trời như một tấm gương lớn. Chúng tôi ngả trại ở ven hồ, nước hồ trong vắt nhưng không thể uống được vì nhiễm chất muối diêm. Cũng vì chứa chất này, rong rêu không thể mọc được nên nước hồ lúc nào cũng trong suốt đến đáy.
Phong cảnh tại đây tuyệt đẹp nên tôi quyết định nghỉ ở đây ít hôm. Tôi rút tập giấy nhỏ và bắt đầu phác họa vài nét vẽ sơ sài về phong cảnh miền này nhưng rồi tôi không thể ngưng tay được. Hình như có một cái gì hấp dẫn lôi cuốn khiến tay tôi say mê và hết tấm này đến tấm khác. Tôi cở bỏ chiếc áo choàng dầy và đôi ủng nặng như đá, khí hậu ấm áp làm tôi thấy nhẹ nhõm khác thường. Tôi lang thang quanh hồ và bắt đầu vẽ tất cả những gì hấp dẫn nhãn quang của tôi.
Tôi không biết mình đã đi bao xa nhưng tôi nhìn thấy một bầy ngựa hoang đang tụ tập gần đó. Đây là một giống ngựa đặc biệt gọi là “Kyang”, thân hình chắc nịch với những chiếc bờm dài và bộ lông màu đỏ thẫm. Không như những loài ngựa khác có thể được huấn luyện, giống Kyang vô cùng bất khuất và không chịu sự kiềm chế của bất cứ ai. Bị bắt, ngựa Kyang không ăn uống cho đến chết. Tôi đã nghe kể ngày trước hoàng đế Mông Cổ Thành Cát Tư Hãn chỉ thèm có được một con ngựa lông đỏ này. Ông đã dùng đủ mọi cách để ghép giống loài ngựa này nhưng vô ích. Giống Kyang chỉ thích hợp trên bình nguyên bao la rộng rãi và đặc biệt không chịu giao hợp với loài ngựa khác không cùng nòi.
Tôi rón rén gần đến bầy ngựa để quan sát cho kỹ. Đám hoang mã cũng ý thức sự hiện diện của tôi nên chúng ngửng cổ lên thở phì phì như đe dọa. Tôi leo lên một ngọn đồi nằm sát ven hồ và tìm một nơi kín đáo để sửa soạn vẽ. Phong cảnh nơi đây thật là lý tưởng, tôi có thể nhìn thấy chiếc hồ rộng trong suốt trải dài ở dưới, những cánh đồng cỏ rộng bao la với bầy ngựa đang thản nhiên chạy nhảy, xa xa là những rặng núi phủ đầy tuyết trắng.
Đó là một ngọn đồi dốc với rất nhiều tảng đá khổng lồ hình thù kỳ lạ. Một phía dốc thoai thoải nhưng phía quay ra hồ lại dựng đứng như một bức tường thành. Tôi đang mon men leo lên một tảng đá nghiêng sang một bên, lôi kéo theo những tảng đá khác, rồi cả sườn đồi chuyển động. Thì ra những tảng đá này chồng lên nhau một cách bấp bênh, chỉ một chấn động nhỏ cũng đủ làm nó sụp đổ. Trong giây phút bất ngờ, tôi vội tung người nhẩy lên một tảng đá gần đó nhưng nó cũng nghiêng đi rồi lăn xuống dốc núi. Tôi hoảng hốt cố gắng vận sức để nhẩy lên một nơi khác nhưng cả ngọn đồi đều chuyển động, hàng chục tảng đá từ trên cao ùn ùn lăn xuống. Như có một mãnh lực vô hình nào xui khiến, tôi thấy toàn thân tôi nhẹ hẳn đi, chân tôi vẫn bước nhưng dường như nó không đi bằng những cử động bình thường nữa mà được kiểm soát bởi động lực kỳ lạ. Tôi thấy mình như đang mê ngủ, hai bên vách núi cát bay đá chạy mờ mịt nhưng thân hình tôi vẫn nhẹ nhàng ung dung tách qua những tảng đá to lớn một cách dễ dàng. Tôi thấy rõ chân mình dẫm lên những tảng đá đang di chuyển nhưng không hiểu sao tôi không còn chịu sự chi phối của trọng lực nữa. Có lúc tôi tưởng như sắp bị nghiền nát giữa những tảng đá khổng lồ nhưng chỉ một cái nhún chân, tôi đã tránh được hiểm nguy một cách dễ dàng. Đầu óc tôi trở nên mơ hồ, tôi không biết mình đang mê hay tỉnh nhưng mắt tôi vẫn thấy những tảng đá lăn xuống hồ làm nước bắn lên tung tóe…
Một lúc sau tôi nhìn thấy mình đang đứng ở một khoảng cách an toàn khá xa hồ nước. Tôi vẫn còn thấy những tảng đá tiếp tục lăn xuống hồ và khắp ngọn đồi cát bụi vẫn bay mù mịt. Chuyện gì đã xẩy ra? Tôi đứng lặng người rồi cố gắng đọc một bài thần chú có công hiệu nhiếp tâm, lòng tôi vô cùng xúc động. Trong lúc hốt hoảng tôi đã vô tình sử dụng một quyền năng đặc biệt mà người Tây Tạng gọi là “đi trên không” hay Khinh Công (Lung Gom).
Người Tây phương nghe nói đến phương pháp khinh công lần đầu tiên qua cuốn sách của bà Alexandra David Neel. Trong cuốn Huyền Thuật và Các Đạo Sĩ Tây Tạng (Mystics and Magicians of Tibet), bà David Neel đã viết: “Hôm đó trong khi đang đi ở một bình nguyên rộng, tôi nhìn thấy một cái chấm đen đang di chuyển trước mặt. Tôi bèn lấy ống nhòm ra quan sát thì thấy đó là người Tây Tạng cao lớn đang di chuyển với vận tốc hết sức nhanh. Hai chân của y nhún nhẩy gần như không chạm đất và thân hình của y cử động hết sức nhẹ nhàng như người đi tản bộ. Khi đến gần, tôi nhìn thấy rõ khuôn mặt của y vô cùng bình thản như người đang ở sâu trong trạng thái thiền định, cặp mắt y nhìn thẳng lên trời, hình như trụ cả vào một vì tinh tú nào đó. Y không có vẻ vội vã nhưng bước đi của y nhẹ nhàng đều đặn như quả lắc đồng hồ, không hiểu sao cứ mỗi bước thân hình của y lại bay bổng lên không trung như được một sợi dây vô hình nào đó kéo lên…”
Phải chăng trong lúc hoảng hốt, một tiềm năng huyền bí nào đó đã thức động khiến tôi bước vào trạng thái đặc biệt của những đạo sĩ khinh công? Tôi vẫn thắc mắc mãi về vấn đề này cho đến năm 1946, có dịp đến viếng tu viện Nyangto Kyi Phug, tôi mới hiểu biết thêm về quyền năng lạ lùng của môn khinh công.
Bà Alexandra David neel đã diễn tả rất đúng tình trạng của những đạo sĩ khinh công, nghĩa là tập trung tư tưởng vào một vì tinh tú. Tuy nhiên bà Alexandra đoán rằng các đạo sĩ này đã sử dụng một loài dược thảo làm tê liệt thần kinh chân vì chỉ có thế chân họ mới chịu đựng nổi cuộc hành trình như vậy. Nói như vậy thì chân họ phải sưng lên hoặc bị bầm dập, thâm tím nhưng trường hợp xảy ra cho tôi tại hồ Phangong lại khác hẳn. Tôi không hề thấy chân mình có dấu vết trầy nào.
5- Khinh công
Một số người cho rằng khinh công có thể luyện được qua việc huấn luyện thể xác, làm nẩy nở các bắp thịt ở chân. Điều này chỉ có thể đào tạo ra các lực sĩ nhảy sào, nhẩy xa mà thôi chứ không thể di chuyển hàng trăm dặm đường hay phóng qua các chướng ngại thiên nhiên một cách dễ dàng được.
Theo sự hiểu biết của tôi, khinh công (Lung Gom) là một phương pháp hoàn toàn dựa vào quyền năng của ý chí. Việc tập luyện đòi hỏi một sự tập trung tư tưởng để phát động các “phong đại” trong người. Giáo lý Tây Tạng cho rằng có sáu yếu tố căn bản tạo nên pháp giới hay lục đại: Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không và Thức. Nhờ tập trung tư tưởng và trì niệm những bài thần chú đặc biệt, các trung tâm thần kinh bí mật bắt đầu khai mở, nhất là những bí huyệt liên quan đến yếu tố “phong”. Danh từ “Lung Gom” đã diễn tả rõ ràng: “Lung” có nghĩa là không khí (air) nhưng đồng thời cũng có nghĩa là hơi thở (breath). Các tu sĩ luyện khinh công (Lung Gom) đều phải thở hít theo một phương pháp đặc biệt để làm khích động các bí huyệt chịu sự chi phối của yếu tố “phong”. “Gom” nghĩa là tập trung tư tưởng (concentration). Tóm lại, Lung gom có nghĩa là sự luyện tập tư tưởng để làm thức động các Phong đại trong người.
Tây Tạng có nhiều phương pháp tu luyện huyền bí mà khinh công chỉ là một. Nhờ hô hấp và ý thức từng hơi thở, người tu có thể chuyển hóa tâm và thân lên một bình diện cao hơn. Khi trước các luồng sức mạnh này vẫn tiềm ẩn hoặc di chuyển trên các lộ trình không nhất định nên bị hao tán. Nhờ tập trung tư tưởng để thức động rồi thúc đẩy nó đi vào những việc phi thường. Nhưng việc sử dụng thần thông có trái với giáo lý của Đức Phật không? Đối với một tu sĩ Nam Tông như tôi, thi hành giới luật là điều hết sức cần thiết và quan trọng. Không thể có việc đi trái với các giới luật căn bản hay khác với điều Đức Phật đã chỉ dạy được.
Tôi được các vị Lạt Ma cao cấp giải thích rằng Phật giáo Tây Tạng không bao giờ đề cập đến việc tu luyện thần thông như một mục đích. Thần thông chỉ là một kết quả tự nhiên (by-product) của việc tu thân cầu giải thoát. Khi chứng đắc một quả vị thì dĩ nhiên người tu sẽ có được thần thông. Tuy nhiên vì nằm trên một vị trí đặc biệt, một vài phương tiện vẫn được cho phép truyền dạy trong các tu viện.
Phương pháp chuyển nhiệt trong mình. (Tummo) là việc tập trung tư tưởng vào “Hỏa Đại” để kích thích các bí huyệt liên quan đến yếu tố “Hỏa” tạo thành một luồn hơi nóng di chuyển khắp châu thân. Nhờ vậy các tu sĩ có thể tu trong các hang động lạnh lẽo, mình trần ngồi giữa trời tuyết mà vẫn không sao.
Cũng như thế, khinh công được sử dụng vì phương tiện di chuyển tại Tây Tạng rất khó khăn, đường giao thông không thuận tiện và thời tiết vô cùng khe khắt. Điều quan trọng cần nhấn mạnh tại đây là cả hai phương pháp khinh công (Lung Gom), nhiệt công (Tummo) đều là những phép tu luyện rất cao mà trong đó việc làm cho thân thể nóng lên hay nhẹ bổng để di chuyển chỉ là một phần không đáng kể. Dĩ nhiên có người chỉ nhắm đến việc sở hữu các quyền năng này mà không chú trọng đến mục đích gì cao xa hơn nhưng họ sẽ thất vọng khi biết rằng việc luyện tập những phương pháp này đòi hỏi một ý chí cương quyết, một cá tính đặc biệt phi thường.
Lịch sử Tây Tạng cho biết rất nhiều người đã tốn công nhọc sức để luyện thần thông nhưng khi thành công thì họ nhận thức rằng cái mục đích nhỏ bé lúc đầu thật không xứng đáng với công phu tu hành bao năm tháng một chút nào.
Câu chuyện Lạt Ma Kadgapa (một trong 84 vị thánh Tây Tạng) có thể tượng trưng cho điều này: Kadgapa xuất thân là một võ sĩ lừng danh, võ nghệ tuyệt luân nhưng ông vẫn không hài lòng mà muốn tìm một võ công tối thượng, không ai địch nổi.
“Động lọt vào. Khi một tu sĩ phát nguyện tu nhập thất, người ta nghiên cứu các niên lịch lạ lùng để tìm ngày giờ thích hợp. Tu sĩ được đưa đến căn phòng đó trong sự yên lặng, họ âm thầm đi như một đám ma. Tôi có cảm tưởng như họ bước thật chậm như để kéo dài thời gian mà vị tu sĩ kia có thể thở hít bầu không khí trong lành và ánh sáng mặt trời. Người tu nhập thất biết rằng y đã lìa bỏ thế giới này vĩnh viễn để bước vào một thế giới khác, một thế giới mà chỉ mình y tìm cách sống với chính y.
Khi cánh cửa dầy được đóng lại, người ta xây luôn một bức tường mỏng ở bên ngoài để không ai có thể ra vào được nữa. Người nhập thất sẽ vĩnh viễn không nhìn thấy ánh sáng hay nói chuyện với bất cứ ai. Khi cầu nguyện y chỉ nghe được tiếng vọng của chính mình, nếu có nói lớn cũng chẳng ai nghe vì đối với thế giới bên ngoài, y được coi như là người đã chết. Sự liên lạc duy nhất giữa thế giới bên trong và thế giới bên ngoài là một lỗ hổng rất nhỏ để đưa thực phẩm vào. Thực phẩm là một bình nước lã và một mẩu bánh mì (Tsampa), tuyệt nhiên không hề có một thức ăn nào khác.
Nếu sau bảy ngày mà đồ ăn không được đụng đến, người ta biết vị tu sĩ đã chết và chỉ khi đó người ta mới phá vỡ bức tường, đem thi thể tu sĩ đi chôn. Người tu không hề biết mình đã ở trong đó bao lâu, y chỉ biết mùa đông đến khí hậu trở lạnh và mùa hè về khi khí trời oi bức hơn. Nhưng rồi y cũng quên hẳn thời gian… Cặp mắt không còn đường sử dụng nên trở nên mùa lòa nhưng trong bóng tối, điều này không quan trọng nữa… Tai y cũng không nghe được tiếng đọng nào trừ nhịp đập của trái tim nhưng một hôm y nghe thấy tiếng người gọi… y biết người mà y mong đợi từ bao nhiêu năm đã đến: Tử Thần, Y mở rộng vòng tay chờ đợi và khi sự chết không còn là một điều ghê gớm nữa, y đã vượt ra khỏi những sợ hãi tầm thường, y đã chết đi và sống lại…”
Dĩ nhiên Sven Hedin đã tiểu thuyết hóa việc này nhưng khi đọc tôi cũng không khỏi băn khoăn. Làm sao một người bình thường lại chịu giam mình trong một căn phòng tối tăm chật hẹp như vậy? Phật giáo không bao giờ chấp nhận các lối tu khổ hạnh và Đức Phật đã giảng rất kỹ, nói nhiều việc này thì tại sao Phật giáo Tây Tạng lại cho phép một lối tu hành kỳ lạ như thế?
Trong cuốn With Mystics and Magiccians of Tibet, bà Alexandra David Neel cũng tả rõ việc tu nhập thất nhưng không đi sâu vào chi tiết như Sven Hedin. Tuy nhiên bà xác nhận rằng các hang đá đó đều kín đáo, không có ánh sáng, với những điều kiện vệ sinh vô cùng tối thiểu.
Những thắc mắc của tôi đều được giải đáp khi tôi sống tại Tây Tạng nhiều năm. Tôi được biết phong tục Tây Tạng không hề có việc ”phát nguyện trọn đời” (Eternal Vow) như nhiều người đã diễn tả. Người nhập thất có thể lựa chọn thời gian họ muốn như vài tháng, vài năm hay vài chục năm. Ngoài ra căn phòng nhập thất đó được khóa lại ở phía bên trong chứ không phải bên ngoài, cũng không hề có việc xây tường bịt kín, chôn sống người tu như Sven Hedin đã kể. Sở dĩ nó được khóa ở trong để người bên ngoài khỏi làm phiền nhiễu người nhập thất nhưng dĩ nhiên người bên trong có thể mở cửa đi ra ngoài bất cứ lúc nào họ muốn.
Trong cuốn Huyền Thuật và Các Đạo Sĩ Tây Tạng (With Mystics and Magicians in Tibet), bà Alexandra David Neel đã viết: “Người ta có thể đánh giá trình độ của các tu sĩ luyện khinh công bằng cách đào một cái hố sâu khoảng bốn thước, trên miệng hố để một tấm ván có khoét một lỗ thủng vừa vặn cho một người chui lọt. Người luyện khinh công ngồi xếp bằng dưới hố rồi tìm cách nhảy vọt ra khỏi hố qua lỗ hổng của tấm ván nhưng họ phải nhẩy lên khi chân vẫn xếp bằng vì không được sử dụng bắp thịt chân hay tay?
Điều này nghe dường như vô lý, làm sao người ta có thể xếp bằng mà nhẩy vọt lên cao được, bà Alexandra David Neel viết tiếp: “Trước khi nhẩy, các đạo sĩ hít một hơi dài, lẩm bẩm đọc thần chú, hai mắt tập trung vào một điểm rồi tự nhiên thân hình y cứ nhấc bổng lên cao như được một sợi dây vô hình nào kéo lên. Việc nhấc bổng thân hình lên khỏi mặt đất đã lạ lùng nhưng làm sao để thân hình giữ nguyên tư thế đó rồi chui qua cái lỗ nhỏ trên tấm ván còn lạ lùng hơn nữa, dường như thân thể của họ không còn chịu sự chi phối của trọng lực nữa mà trở nên nhẹ nhàng như một luồng khói”.
Tôi không thể được chứng kiến việc này nên không có ý kiến nhưng ít lâu sau tôi được đọc tài liệu People of the Sun của giáo sư Jonh Blofeld viết về những bộ lạc người Mèo tại phía Bắc Thái Lan có những điểm trùng hợp lạ lùng: “Gã pháp sư ngồi trước đống lửa, miệng ngậm cái gì không rõ. Hắn chăm chú nhìn lên trên cao như đặt hết tâm hồn vào một điểm nào, bất chợt thân hình hắn vẫn yên ngồi xếp bằng, hai tay hắn xòe ra đằng trước, thân thể lửng lơ trên không khoảng vài giây rồi từ từ hạ xuống chỗ cũ. Tôi đứng yên không nói được câu nào, mồ hôi toát ra đầm đìa…”
Cả hai tài liệu trên cho thấy rằng khinh công là điều có thể xảy ra mà trong đó bắp thịt không hề được sử dụng. Tại sao thân thể con người có thể chống lại với sức hút của trái đất? Khoa học chưa thể giải thích tình trạng khinh thân (levitation) này và có lẽ vì chưa giải thích được nên khoa học đã phủ nhận nó.
Là một tu sĩ Phật giáo, tôi không có tham vọng giải thích sự kiện này nhưng chỉ muốn biết môn khinh công được sử dụng vào việc gì và như vậy có đúng với điều đức Phật đã chỉ dạy không? Thời gian lưu lại tu viện Nyang To Kyi Phug đã giúp tôi đi đến kết luận sau:
Khinh công (Lung Gom) không phải một phương pháp làm thân thể nhẹ nhõm, mất đi trọng lượng để di chuyển như nhiều người vẫn nghĩ. Việc di chuyển chỉ là một phần nhỏ trong phương pháp huấn luyện mà thôi. Như đã nói ở trên, muốn luyện thành môn khinh cong thì phải diệt ngã và khi bản ngã không còn, con người sẽ trở nên một luồng vận hà những sức mạnh lạ lùng khác. Trong thiên nhiên thường có những luồng điện từ rung động rất thanh nên con người không thể đón nhận nó được. Khi bản ngã được thanh lọc, con người sẽ có những rung động tương ứng với các luồng từ điện này và từ đó họ trở thành một cục nam châm có thể thu hút được các rung động tế nhị, thanh cao.
Vị Lạt Ma trụ trì tu viện Nyang To Kyi Phug đã cho tôi biết rằng trái đất nhận được rất nhiều vũ trụ tuyến (cosmic ray) xuất.
Tóm lại, theo sự hiểu biết của tôi thì khinh công “lung gom” chỉ là một phương tiện trợ giúp các tu sĩ chứ không phải mục đích. Dĩ nhiên sau khi tập thành công, các cu sĩ còn phải làm nhiều việc khác như nhập thế phổ độ chúng sinh hay đi chữa bệnh tùy theo tâm nguyện của họ.
Việc chữa bệnh của các đạo sư không phải một điều xa lạ gì đối với người Tây phương. Chính đức Chúa Jesus cũng đã từng làm các phép lạ này để mang lại niềm tin cho các tín đồ. Đức tin và quyền năng chữa bệnh liên hệ với nhau vô cùng chặt chẽ. Đức tin là khả năng nhận lãnh; quyền năng chữa bệnh là khả năng chuyển vận những luồng thần lực vào người khác để giúp họ điều hòa cơ thể.
Một điểm quan trọng cần nêu lên ở đây, người chữa bệnh chỉ là một con đường vận hà, một chất xúc tác, một động cơ để những luồng thần lực thiên nhiên tác động. Họ không phải là người sở hữu quyền năng đó, một tu sĩ đã diệt ngã không bao giờ vỗ ngực xưng là đấng này, đấng nọ hay khoe khoang một quyền năng nào.
Quan niệm của đa số mọi người đều cho rằng quyền năng là một cái gì có thể sở hữu, một phép lạ, một cái đũa thần chỉ đá hóa vàng, hô phong hoán vũ hay bay nhẩy trên không trung. Tóm lại, khi sử dụng quyền năng họ có thể là bất cứ gì theo ý muốn. Đó là một quan niệm ấu trĩ xuất phát từ trí tưởng tượng và lòng tham lam ích kỷ. Đối với họ, thế giới này là một cái gì phiền phức, một chướng ngại vật cho cái bản ngã của họ nên họ phải tìm cách thay đổi nó để nó hợp với ý mình. Đi xa hơn nữa, quan niệm này bắt nguồn từ cái bản ngã kiêu căng, nó nghĩ rằng nó có thể đạt được tất cả những gì nó muốn và nó thì muốn rất nhiều. Vì không thể thỏa mãn cái tham vọng điên cuồng đó nên nó nghĩ rằng nó cần phải có thêm quyền lực, một thứ quyền lực siêu nhiên do chính nó tưởng tượng ra và gọi là “quyền năng” (Magic).
Một người nhập thất bắt đầu bằng việc quán chiếu tánh không (Vold) để diệt ngã vì họ biết rằng tất cả thế giới này chỉ là huyễn, không thật. Do công phu tu hành mà họ ý thức được rằng quyền năng lớn lao nhất mà họ có thể sở hữu được là việc kiểm soát, chinh phục cái bản ngã của chính mình. Khi cái bản ngã không còn, họ không còn thấy thế gian này là một cái gì phiền phức, một thức thể cách biệt với họ nữa mà tất cả chỉ là một. Khi mình và thế gian không còn sai khác, không còn phân biệt thì đời sống trở nên thực tiễn hơn và tất cả mọi sự tầm thường nhất, nhỏ bé nhất đều trở nên mầu nhiệm lạ lùng.
Việc chữa bệnh thường được coi như một phép lạ vì nó không được giải thích một cách hợp lý. Thực ra quyền năng này chỉ là sự phối hợp những động lực thiên nhiên một cách trực tiếp. Khi bị bệnh, thân thể con người thường bị xáo trộn bởi những nguyên nhân khác nhau. Nếu bệnh nhẹ thì chỉ tĩnh dưỡng ít lâu, cơ thể họ có thể hồi phục vì người nào cũng có cái khả năng tự chữa bệnh, tự làm điều hòa cái trật tự sẵn có nơi mình.
Bệnh nặng là khi thân thể họ không đủ sức tái lập cái trật tự ban đầu nữa nên lâm vào tình trạng mất quân bình.
Thi thoảng ngài vẫn ghé qua đây mỗi khi có dịp đi lên rặng núi Kailas.
Trong suốt thời gian du hành qua Tây Tạng, tôi đã được nghe kể nhiều về công lao của hòa thượng Tomo. Gần như nơi nào ghé đến ngài cũng thuyết pháp độ sinh, chữa bệnh cho những người không thể chữa được và đem lại niềm tin cho hàng trăm ngàn người sống dọc theo dẫy Tuyết Sơn.
Tại thành phố Poo, tôi nghe nói một thiếu nữ bị liệt từ nhỏ không thể đi đứng được đã được ngài chữa khỏi. Khi người ta mang cô này đến trước mặt ngài thì tự nhiên cô ta ngồi bật dậy chắp tay niệm Phật như chưa từng đau ốm bao giờ. Lúc chúng tôi ghé qua Poo thì cô gái đó vẫn còn sống và dân chúng trong làng xác nhận rằng họ đã chứng kiến rõ ràng quyền năng chữa bệnh của hòa thượng Tomo. Tôi không nghi ngờ chút nào về khả năng chữa bệnh của ngài vì tất cả mọi người chung quanh dãy Tuyết Sơn người ta đã nói đến ngài với một sự sùng kính sâu xa. Ngay cả sau khi ngài nhập diệt, người ta vẫn thường nhắc nhở đến ngài như một vị đạo sư đã hướng dẫn và mang lại niềm tin cho tất cả mọi người. Dĩ nhiên, thói thường người ta vẫn hay thêu dệt nhiều huyền thoại vào cuộc đời của một người nổi tiếng nào đó nhưng hòa thượng Tomo đã là một huyền thoại ngay khi ngài còn sống vì tất cả những ai gặp ngài, được nghe ngài thuyết pháp đều công nhận rằng ngài là một trong số rất ít vĩ nhân đã xuất hiện trên mặt địa cầu này.
Cuộc đời của hòa thượng Tomo là một bằng chứng hùng hồn rằng kinh nghiệm tâm linh là một kết quả hiển nhiên qua công phu tu hành chứ không phải một điều trừu tượng dựa trên lý thuyết hay một cái gì cao xa mà không ai có thể đạt được.
Phật giáo Tây Tạng không quan niệm các tăng sĩ phải là người có tài ăn nói hùng hồn để rao giảng các giáo điều mà chủ trương rằng chính cuộc đời của các tăng sĩ phải là những tấm gương sáng để mọi người chung quanh nhìn vào đó soi chung hay một bằng chứng hiển nhiên rằng con đường thoát khổ, an nhiên tự tại là điều có thể đạt được. Một tu sĩ nhập thất mặc dù không hề thốt lên câu nào nhưng chính sự hiện diện của một người như vậy có thể làm phấn khởi những người khác khiến họ phát tâm tu hành, làm lành lánh dữ.
Đối với đa số mọi người, nhập thất là một hình phạt nặng nề. Không mấy ai có thể chịu đựng sự cô lập kéo dài quá lâu như vậy nhưng nếu ai đã nhập thất (Solitary confinement) mà không hề hấn gì thì hẳn họ phải sở hữu một tinh thần dũng mãnh, kiên cố vượt xa người thường. Cái tinh thần đó không phải một đầu óc trơ trơ như gỗ đá nhưng là một tinh thần phóng khoáng, tự do phản ảnh một nội tâm phong phú trải qua bao ngày tháng rèn luyện, quán tưởng.
Có lẽ vì thế, người Tây Tạng thường hết sức kính trọng các tu sĩ nhập thất, những người có can đảm sống một mình nơi rừng sâu núi thẳm hơn là những tu sĩ hoạt bát miệng nói trơn tru trong những ngôi chùa lộng lẫy. Chỉ những người đã tự chiến thắng chính mình, đã tự khắc phục hoàn cảnh chung quanh, đã có một nội tâm phong phú và lòng dũng mãnh tuyệt vời mới dám bước vào cái thế giới bên trong (inner world). Muốn bước vào thế giới này, họ phải có những cái chìa khóa đặc biệt để tháo mở những lần cửa đóng then cài, để có thể bước đi không sợ lầm lạc và sống trong thế giới nội tại mà vẫn không quên sợi dây thân ái với những chúng sanh đang si mê lầm lạc bên ngoài.
Cái chìa khóa đặc biệt để bước vào thế giới nội tại và việc thực hành thiền định dưới sự chỉ dẫn của một bậc chân sư. Qua những câu thần chú bí truyền, người tu có thể liên lạc với vị thầy và qua sự thực hành thiền định họ bước vào cái thế giới bên trong, quán chiếu các cảnh giới để hòa nhập vào hải hội của chư Phật, chư Bồ Tát.
Mặc dù tu sĩ ngồi yên bất động nhưng thật ra tâm thức họ hoạt động vô cùng mãnh liệt. Họ không ngồi chờ đợi một phép lạ xảy đến hay một linh ảnh nào xuất hiện như nhiều người thường diễn tả, họ cũng không cầu xin hay ao ước một điều gì như nhiều phương pháp đã đề cập.
Phật giáo Tây Tạng nhấn mạnh đến ba điều căn bản khi thiền định là phải luôn luôn quán tưởng đến tánh Không (Void) để diệt Ngã, mở rộng lòng từ bi để giữ sự liên hệ với pháp giới chúng sinh và giữ tâm vô sở cầu để tránh gặp ma chướng.
Chúng tôi tiếp tục di chuyển trên bình nguyên Aksai. Bầu trời xanh ngắt không một gợn mây, chung quanh tôi là những rặng núi chập chùng với muôn hình vạn trạng. Có những ngọn núi đá vôi hình thù kỳ dị do sự soi mòn của gió cát và thời gian. Có những đồi cát vàng nhấp nhô hắt lên những màu sao chói lọi làm tôi choáng váng, ngộp thở. Đôi khi tôi có cảm giác như đang đi trong một thế giới bị đảo ngược vì ánh sáng mặt trời phản chiếu trên cát rực rỡ đã át cả bầu trời xanh thẳm.
Khi bóng đêm vừa xuống thì những tinh tú hiện ra lấp lánh dày đặc trên nền trời. trong màn đêm bao la người ta nhìn thấy những ngôi sao đổi ngôi, những đốm sáng lạ lùng xuất hiện trên bầu trời và vũ trụ không còn là một cái gì trừu tượng nữa nhưng là một kinh nghiệm trực tiếp với nhịp điệu thiên nhiên huyền diệu.
Sự cô liêu tĩnh lặng mang lại những thay đổi lạ lùng trong tâm thức con người. Người ta thấy gần gũi hơn, thân mật hơn với thiên nhiên và hình như giữa mình và thiên nhiên không hề có sự phân cách. Dưới bầu trời bao la của muôn ngàn tinh tú, đầu óc con người trở nên mẫn cảm và mở rộng. Những tư tưởng chật hẹp, ích kỷ tự nhiên biến mất mà tất cả chỉ là một sự ngạc nhiên kỳ thú trước những đổi thay mầu nhiệm của thiên nhiên.
Tôi còn nhớ những ngày ấu thơ sống bên rặng Andes, xứ Bolivia tôi vẫn thường chiêm ngưỡng rặng núi uy nghi sừng sững này và ước mong sẽ có ngày được thám hiểm nó. Tô mơ ước thành nhà leo núi thiện nghệ vượt cao nguyên Queschila để leo lên đỉnh Cochachamba hay mạo hiểm vượt qua những khu rừng rậm tìm mỏ vàng, mỏ bạc rải rác quanh Rặng Andes.
Khi lớn lên, tôi nhìn thấy mình không còn muốn khai khẩn những khu rừng nhiệt đới nữa mà chỉ muốn khai phá đào sâu vào nội tâm của chính mình. Thay vì học kỹ sư mỏ tôi ghi tên học triết, nhưng đầu óc mạo hiểm của tôi không cho phép tôi đi theo một hệ thống triết học nào mà thúc đẩy tôi đi tới không ngừng trên con đường tìm Chân Thiện Mỹ. Từ tư tưởng Plato tôi say mê Schopenhauer và từ Thần học tôi đâm ra say mê Siêu hình học… Ngay từ năm đầu đại học tôi đã bắt đầu viết những bài tiểu luận đối chiếu tôn giáo như một hình thức làm sáng tỏ đầu óc còn non nớt của tôi. Tôi không muốn đi theo một con đường nào, một tôn giáo nào vì cha mẹ hay xã hội tôi đang sống chấp nhận nó. Thay vì tin tưởng tôi muốn hiểu biết cặn kẽ trước khi chấp nhận và thay vì chấp nhận tôi muốn sống với nó, thở với nó, hòa nhập với nó. Phật giáo đã mở cho tôi một chân trời rộng rãi, đây là tôn giáo duy nhất mà tôi được biết không đòi hỏi một đức tin tuyệt đối, không có một đấng tối cao cầm cân thưởng phạt mà là một lối sống tự do, phóng khoáng thích hợp với tôi hơn cả.
Tại đại học Naples, tôi thường xuyên nghiên cứu và học hỏi những sách vở viết về Phật giáo. Vì số sách được phiên dịch còn rất ít nên tôi phải tự học Pali để có thể tìm hiểu thêm về tôn giáo này. Ít lâu sau tôi đã qua Tích Lan thọ giới với Đại sư Nyanatiloka Mahathera, một học giả uyên thâm về Pali lúc đó. Tôi sống tại tu viện Polgasduwa, vừa học hỏi truyền thống Phật giáo Nam Tông vừa nghiên cứu và dịch thuật sách vở Pali ra ngoại ngữ. Cuộc sống tu hành êm đềm này kéo dài nhiều năm nhưng tôi vẫn cảm thấy thiếu thốn một thứ gì không thể diễn tả. Điều tôi khám phá được ở Yigah Cholin đã mở một chân trời rộng rãi bao la để từ đó tôi có thể ý thức rõ chân trời rộng rãi bao la để từ đó tôi có thể ý thức rõ rệt ý nghĩa mầu nhiệm của sự sống.
Trên bình nguyên bao la rộng rãi, bên dòng suối nhỏ chảy róc rách, ngồi cạnh đống lửa ấm áp, tôi chợt thấy mình đang sống như chưa hề sống như thế bao giờ. Tôi nhìn hai người bạn đồng hành say sưa ngủ bên cạnh bầy ngựa yên lặng ăn cỏ, một niềm vui lạ lùng như thấm vào từng làn da thớ thịt. Tôi nhủ thầm hạnh phúc quả không thể tìm kiếm trong lầu son gác tía, trong sự thỏa mãn những tham vọng điên cuồng nhưng là những giây phút mà người ta thực sự sống, thực sự chiêm ngưỡng sự sống.
Tôi đặt pho tượng Phật mà hòa thượng Tomo đã trao cho lên một tảng đá lớn rồi tập trung tinh thần vào đó. Tôi không biết mình đã đắm mình trong cơn đại định bao lâu nhưng bầu trời đột nhiên đổ mưa, những hạt mưa nhỏ rơi xuống thấm qua làn áo lót vào da thịt tôi như những ân huệ thiêng liêng nào đó.
Tây Tạng với những rặng núi hiểm trở quanh năm tuyết phủ, những cánh đồng bao la bát ngát, những kỳ hoa dị thảo và những tu sĩ ẩn mình trong động đá đã trở thành đề tài của không biết bao nhiêu huyền thoại. Ngay những quốc gia láng giếng như Trung Hoa, Ấn Độ, A Phú Hãn hay Mông Cổ cũng đều có những giai thoại đề cập đến “xứ tuyết” này. Lịch sử Trung Hoa kể rằng Lão Tử làm quan nhà Châu, khi thấy triều đình suy thoái, ông từ quan cưỡi một con trâu nhắm hướng Tây (Tây Tạng) mà đi. Khi đến biên giới, quan giữ ải thiết tha giữ lại, ông bèn viết cuốn Đạo Đức Kinh truyền lại cho đời sau rồi tiếp tục cuộc hành trình. Người ta tin rằng ông đã nhập thất tu đạo, luyện đơn trên đỉnh Tuyết Sơn.
Một nhân vật lịch sử khác, tổ Bồ Đề Đạt ma sau khi truyền bá Thiền tông tại Trung Hoa đã nhập tịch, xác được nhập tháp tại núi Hùng Nhĩ nhưng ít lâu sau người ta lại thấy ngài tay cầm một chiếc dép phi hành qua đỉnh Thông Lãnh về phương tây (Tây Tạng). Vua Trang đế nghe chuyện kể đã truyền lệnh mở tháp ra coi thì tháy bên trong chỉ còn một chiếc dép. Nhà vua cho đưa chiếc dép đó về thờ ở chùa Thiếu Lâm.
Ấn Độ cũng có rất nhiều giai thoại kể rằng các thánh nhân, đạo sĩ xứ này cũng thường ngộ đạo hoặc được điểm hóa bởi các đạo sư tu trên tỉnh Tuyết Sơn. Ngày nay người ta vẫn thấy nhiều đạo sĩ hành hương lên phía Bắc như bị một sức mạnh vô hình nào đó lôi cuốn.
Hiển nhiên Tây Tạng phải có một cái gì khác thường mới thu hút được những người như vậy. Phải chăng vì nằm ở một vị trí biệt lập, xa cách các quốc gia nên Tây Tạng vẫn còn gìn giữ được tinh hoa của một nền văn minh tôn giáo?
Nếu Tây Tạng có những tinh hoa đặt biệt thì tại sao người ta không thể tìm được nó tại các tu viện to lớn như Sera, Drepung hay ganden hoặc trong sách vở cất giữ trong các thư viện tại Lhassa?
Trước khi đi xa hơn, người ta cần biết rằng tôn giáo nào cũng thường chia làm hai phần: Công truyền (Exoteric) hay Hiển giáo và Bí truyền (Esoteric) hay Mật giáo. Phần công truyền được đề cập rõ rệt trong các kinh điển, sách vở, các bộ luật và luận nhưng phần bí truyền chỉ đạo được truyền dạy cho một thiểu số chọn lọc trong vòng bí mật. Các kinh điển chỉ đề cập đến phần này một cách hết sức lờ mờ, không rõ rệt. Do đó người ta chỉ có thể học hỏi qua hình thức khẩu truyền với các bậc tu chứng ẩn mình trong những hang động hẻo lánh. Nhưng tại sao các tu sĩ này không xuất hiện truyền dạy chân lý mà lại ẩn mình nơi non cao núi thẳm? Cuộc du hành lên Tuyết Sơn đã giúp tôi tìm được câu trả lời. Chân lý không phải điều để mang ra tuyên bố một cách ồn ào, hời hợt trên đầu môi chót lưỡi, nhưng là một thứ mà người ta chỉ có thể kinh nghiệm được mà thôi. Ngôn ngữ không thể diễn tả những sự kiện tuyệt đối này và không phải người nào cũng có kinh nghiệm như nhau. Tùy căn cơ mà người ta nghiệm được một cách khác nhau, đôi lúc điều người ta tưởng như là một chân lý vĩnh cửu lại chỉ là một ảo ảnh, một hư vọng của tâm thức, người ta đâm ra bàng hoàng sợ hãi mà không dám nhìn thẳng vào đó, không dám đối đầu với nó. Vì nghiệp chướng còn dày, chúng sinh chỉ thích nghe, thích thấy những gì hợp với điều mong ước của mình chứ không muốn nhìn thẳng vào sự thật. Đó cũng là lý do các bậc tu chứng ít xuất hiện và chỉ dậy dỗ cho một thiểu số người thiết tha cầu đạo, có căn cơ vững chắc, sau khi đã vượt qua các thử thách để xứng đáng nhận lãnh các tinh hoa này.
Sư trưởng Gomchen Lachen (Gomchen Lachen Rinpoche) là một trong những bậc tu chứng nổi tiếng của Tây Tạng lúc đó. Ngài nhập thất trên đỉnh một ngọn núi cực kỳ hiểm trở, mặc dù rất ít tiếp xúc với ai nhưng hầu hết các tu sĩ trên dãy Tuyết Sơn đều coi ngài như một vị chân tu đã đắc những đạo quả rất cao.
Hầu tước Ronaishay, thống đốc tỉnh Bengal đã viết về ngài trong cuốn Land of Thunderbolt như sau: “Trong suốt hai mươi sáu năm liền, ông tĩnh tu tại một hang động hẻo lánh với một số lương thực tối thiểu. Cái công năng thúc đẩy con người rời bỏ tất cả để sống trong cô tịch, chịu đựng tất cả những thay đổi khắt khe của thời tiết để quán tưởng về sự giải thoát quả thực hết sức phi thường và xứng đáng được kính phục”.
Danh tiếng sư trưởng Lachen vang lừng nên một người Âu không quản đường xá vạn dặm đã đến tận nơi để cầu đạo. Sư trưởng Gomchen Lachen chỉ vào một hang đá gần đó nói: “Chỉ khi nào ngươi có thể tĩnh tu ba năm liền trong hang đá đó thì ta mới dạy bảo cho ngươi”. Người nọ chấp nhận điều kiện, nhập thất trong ba năm liền rồi được sư trưởng Lachen nhận làm đệ tử. Người Âu đó không ai khác hơn là bà Alexandra David Nell, nhà thám hiểm người Phật mà những cuốn sách viết về Tây Tạng đã làm say mê độc giả khắp thế giới. Tôi có thể nói rằng có lẽ thế giới biết đến Tây Tạng một cách đứng đắn, chính xác là nhờ công trình biên khảo công phu, giá trị của bà David Neel. Phần lớn sách của bà đã được dịch ra hàng chục ngoại ngữ và cho đến nay (1966) vẫn là những cuốn sách bán chạy nhất.
Sở dĩ cuốn sách của bà David Neel có một giá trị độc đáo vì bà có một kiến thức rất rộng về phong tục, ngôn ngữ cũng như các hiện tượng siêu nhiên huyền bí của Tây Tạng. Những kiến thức này chỉ là kết quả của thời gian tu học dưới sự chỉ dẫn của sư trưởng Lachen. Dù không rời khỏi động đá, không hề phải tiếp xúc với thế gian nhưng ngài vẫn gửi được những “thông điệp” cho thế gian qua những cuốn sách của bà David Neel.
Danh từ “thông điệp” ở đây không có tính cách cá nhân hay giáo điều nhưng nó mở ra cho thế giới nhìn thấy cái kho tàng tâm linh từ lâu vẫn được cất giấu cẩn thận tại Tây Tạng. Tôi nghĩ rằng nếu không có ý định đó thì chưa chắc ngài đã nhận bà David Neel làm đệ tử và dạy dỗ, huấn luyện cho bà này.
Một bậc ẩn tu không nhắm mắt quay mặt vào tường để trốn tránh thế gian nhưng các ngài đã nhận thức rõ rệt về thế gian như nó là (as is) và sống thường trực trong thế giới đó. Chính chúng ta vì mê đắm nên mới quan niệm thế giới này là một cái gì tách biệt với mình và nẩy sinh ý tưởng “trốn chạy” hoặc “theo đuổi” nó.
Trong cuốn Hành Trình Đi Lhassa (Journey to Lhassa), bà David Neel đã viết: “Tâm trí và giác quan của tôi đã hoàn toàn thay đổi nhờ sự quán chiếu nội tâm. Phải chăng đầu óc tôi trở nên mẫn cảm hơn hay đến lúc đó tôi mới bừng tỉnh và nhận thức được sự mầu nhiệm của sự sống?”
Vượt qua bình nguyên Aksai, chúng tôi đã đến trung tâm của rặng Tuyết Sơn. Từ đây đi về phía Nam, tôi có thể đến ngọn Kallas, ngọn núi linh thiêng nhất hoặc nếu rẽ về hướng đông chúng tôi sẽ đến đỉnh Thangu nơi sư trưởng Gomchen Lachen ẩn tu. Tôi quyết định đi về phía đông rồi vượt đèo Eche để vào: tiểu quốc Slkkim.
Sau mấy tuần lễ trèo đèo lội suối, chúng tôi dừng chân trước một ngọn núi cao ngất phủ đầy tuyết trắng: đỉnh Thangu. Từ chân núi chúng tôi men theo những con đường mòn nhỏ hẹp quanh co mới leo được đến đỉnh. Gió lạnh rít lên từng chập, tuyết phủ ngập lối đi, người ta không thể làm gì hơn là cắm cúi tiến bước. Một ý tưởng, dù chỉ một ý tưởng muốn được nghỉ ngơi chốc lát cũng có thể khiến người ta dừng chân và rồi chết cứng trong làn gió lạnh ghê hồn từ đỉnh Thangu đổ xuống.
Gần nửa đêm chúng tôi đến một căn nhà nhỏ xây sát vào vách núi. Đây là căn nhà nhỏ xây cất để cho những đệ tử của ngài tạm trú mỗi khi đến thăm ngài. Từ đó người ta có thể nhìn thấy hang động của sư trưởng Lachen cách đó không xa nhưng khi đó chúng tôi đã mệt nhoài. Tôi quyết định tạm nghỉ ở đây qua đêm trước khi yết kiến ngài.
Như thường lệ, trước khi ngủ tôi ngồi yên sắp bằng nhận định và trì tụng những bài thần chú khẩu truyền. Tự nhiên một sự kiện lạ lùng đã xảy ra, tôi có cảm tưởng như một sức mạnh vô hình ở đâu từ từ xâm nhập chiếm lấy đầu óc tôi khiến tôi mất tự chủ, không thể tập trung tư tưởng được nữa. Tôi ý thức ngay rằng cái sức mạnh đó chính là tư tưởng của sư trưởng Lachen, ngài đang chú ý đến tôi nhưng luồng tư tưởng của ngài quá mãnh liệt nên nó đã xâm chiếm trọn vẹn đầu óc tôi khiến tôi trở nên tê liệt. Tôi có cảm tưởng như mình là một hành tinh đang bị thu hút vào quỹ đạo của một hành tinh khác. Đầu óc của tôi trở nên hoang mang vô định, tôi thấy mình đang từ từ tan biến vào một cái gì không diễn tả. Tự nhiên tôi bỗng nghĩ rằng nếu không tìm cách cưỡng lại, tôi có thể bị mất mình vĩnh viễn. Tư tưởng này vừa chớm lên thì tôi đâm ra hoảng hốt, trong khoảnh khắc ý niệm về bản ngã đã nổi lên. Tôi cố gắng nhẩy ra khỏi giường như để thoát khỏi ảnh hưởng của luồng sức mạnh kia. Chưa bao giờ tôi cảm thấy rằng mình có thể tan biến vào trong cái gì uyên nguyên rỗng lặng (plenum-vold) như vậy. Tôi cuống quýt lấy tấm gương vẫn dùng để soi mặt cạo râu ra để ngắm nhìn mình trong đó. Phải chăng tôi còn là tôi hay không? Để chứng minh rằng mình vẫn còn là mình, tôi chụp lấy tập giấy trên giường và vẽ ngay một bức tự họa (self-portrait).
Mặc dù nhiệt trong phòng lạnh như băng nhưng mồ hôi của tôi toát ra đầm đìa, khi tôi vẽ xong bức tự họa thì sức mạnh kia tự nhiên biến mất. Tôi ngồi yên một lúc như xuất thần rồi lẩm bẩm đọc những bài thần chú để nhiếp tâm cho đến sáng.
Sáng hôm sau mặc dù vẫn còn xúc động nhưng tôi cũng thay y phục chỉnh tề để ra mắt sư trưởng Lachen. Đó là một ông lão đã già lắm nhưng khuôn mặt hồng hào quắc thước đang ngồi trên một tấm thảm bện bằng rơm. Sư trưởng Lachen mời tôi dùng trà, thân mật hỏi tôi từ đâu đến và có mục đích gì. Khi biết tôi là đệ tử của hòa thượng Tomo thì ngài gật đầu.
– Thầy con là một bực chân tu đạo hạnh, một bậc đại lạt ma mà ta rất kính phục.
Tôi đưa cho ngài xem pho tượng nhỏ mà hòa thượng Tomo đã trao cho tôi như một tín vật. Ngài thận trọng cầm nó đưa lên trán ba lần bằng một cử chỉ tôn kính. Tôi kể cho ngài nghe về những cuốn sách của bà Alexandra David Neel đã trợ giúp rất nhiều người Âu trong vấn đề tìm hiểu nền văn minh cao cả của Tây Tạng, khuôn mặt ngài trở nên rạng rỡ khi nghe nhắc đến bà David Neel. Ngài mở một chiếc hòm gỗ gần đó đưa ra một tờ báo cũ nát có nói về cuộc du hành của bà này. Chúng tôi tiếp tục đàm đạo một lúc rất lâu. Khi biết tôi xuất thân từ Tích Lan, ngài bật cười chỉ vào mớ tóc dài bù xù trên đầu rồi khôi hài:
– Nếu các tu sĩ Nam Tông nhìn thấy tôi thì họ nghĩ sao.
Tôi cũng bật cười:
– Ngay như đức Phật cũng đâu có cạo hết tóc nhưng ngài vẫn thành đạo kia mà.
– Con nói đúng đó, nhiều người chỉ biết kính trọng những hình thức bên ngoài chứ không biết giá trị thực sự của người tu là chiến thắng chính mình và giữ sao cho thân, tâm được an tịnh.
Chúng tôi tiếp tục nói về những phương pháp tu tập, quán tưởng, thiền định và đã có lúc tôi định hỏi ngài về câu chuyện xảy ra đêm qua nhưng rồi lại ngại ngùng. Cái cảm giác bị tan biến trong hư không làm tôi sợ hãi ít nhiều nên tôi không muốn nhắc đến nó nữa. Sau cùng tôi mở cuốn sách nhỏ vẫn mang theo bên người nhờ ngài viết cho ít lời chỉ dẫn để làm kỷ niệm.
Ngài mỉm cười chăm chú nhìn tôi và nói rằng ngài đã già yếu, tay chân run lẩy bẩy không thể viết được nữa nhưng rồi ngài vẫn cầm bút vào thảo ngay một bài trường thi bằng tiếng Tây Tạng.
– Đây là đề tài để con suy ngẫm mỗi khi thiền định. Đề tài này đề cập đến mười tám phương pháp quán tưởng về tánh không (vold).
Tự nhiên tôi bỗng giật mình. Thì ra ngài biết rõ chuyện xảy ra đêm hôm trước. Trong khoảng khắc tôi hiểu ngay rằng ngài đã cố ý hướng dẫn cho tôi kinh nghiệm về tánh không (sunyata) nhưng tôi chưa đủ trí tuệ để hòa nhập vào cái không hải rỗng lặng uyên nguyên kia, công phu thiền quán của tôi còn nhiều thiếu sót, bản ngã của tôi còn mạnh chưa chịu tiêu dung vào hư không để bước vào cảnh giới “Không Vô Biên Xứ Định”.
Thấy tôi có vẻ ngượng ngùng, sư trưởng Lachen mỉm cười:
– Một công phu tu tập siêng năng chưa đủ mà còn phải chú trọng việc mở mang trí tuệ nữa. Con cần trì tụng chú Đại Bi và bộ Bát Nhã Ba La Mật để suy ngẫm về tánh không cho thật đáo thì mới mong có thể tiến bộ thêm được.
Tôi cúi đầu cám ơn lời chỉ bảo của ngài, quả thật tôi rất chăm chỉ thực hành các nghi thức nhưng chưa đạt được đến trạng thái ung dung tự tại của các bậc tu chứng đã thực sự kinh nghiệm được tánh Không (suyata). Cho đến nay, mỗi khi nhớ lại cái kinh nghiệm lạ lùng trên đỉnh Thangu tôi không khỏi thầm biết ơn ngài đã chỉ điểm cho tôi thấy rằng cái bản ngã mà ta tưởng đã diệt được nó qua công phu tu hành vẫn còn rất mạnh và chỉ khi thực sự kinh nghiệm được tánh Không, người tu mới có thể bước vào cái thế giới bao la rộng rãi của những cảnh giới bất khả tư nghĩ”.
Từ đó tôi nghiệm rằng chỉ khi ý thức thực sự được tính chất vô ngã của mình thì người tu mới có thể tiến bộ trên con đường đạo. Các phương pháp thiền định của ngoại đạo tuy cũng cao siêu, cũng giúp các hành giả lên được những cảnh trời nhưng vì cái “ngã” dù là tiểu ngã hay đại ngã vốn còn chấp có nên đã trở thành một chướng ngại ràng buộc, khiến người tu không sao vượt lên cao hơn nữa. Tuy trụ ở các cảnh trời hưởng phước một thời gian, khi các phước báu này tiêu tan thì họ lại sa đọa trở lại vào vòng luân hồi sinh tử. Một người tu khi đã đến sát bờ phải biết dùng trí tuệ để vượt lên, vượt qua, chiến thắng mọi chướng ngại cuối cùng để qua đến “bờ bên kia” vì nếu không thì họ vẫn chỉ chơi với giữa dòng, lúc chìm đắm khi nổi trôi không sao đạt đến thực tại cuối cùng được.
Sau khi từ giã sư trưởng Lachen, chúng tôi dừng chân tại Sikkim, một tiểu quốc nằm sát biên giới Ấn Tạng. Tôi ghé vào chùa Podang nơi bà Alexandra Divid Neel đã từng tu ở đó. Vị Lạt Ma trụ trì mời tôi nghỉ trong căn phòng mà trước đó ít năm bà David Neel đã trú ngụ. Chính tại căn phòng này mà khi tiểu vương Koshan Maharajah đến viếng, bà David Neel đã nghe thấy một tiếng nói vô thanh cảnh cáo ông về chính sách “cải cách xã hội” đang được thi hành lúc đó.
Tiểu vương Koshan Maharajah là người theo Âu học, đã từng du học nhiều năm ở Âu châu. Khi về nước, ông chủ trương Âu hóa và triệt để bài trừ những điều mà ông cho là cổ hủ, lỗi thời. Ông ra lệnh đóng cửa chùa chiền, bắt giam các tu sĩ, cấm dân chúng thực hành các nghi thức tôn giáo cổ truyền. Ông tin rằng khoa học, lý luận và một nền giáo dục rập khuôn Âu châu mới là con đường đưa xứ sở ông trở nên văn minh, tiến bộ.
Cuộc cải cách xã hội của Koshan Maharajah thất bại sau đó vì gặp phải sự chống đối mãnh liệt của dân chúng. Tiểu vương Tashi Namgyang Maharajah, em ruột của Koshan lên nối nghiệp và thay đổi chính sách này bằng một đường lối ôn hòa hơn. Ông khuyến khích việc bảo tồn truyền thống cổ truyền, đề cao giá trị sẵn có và thay đổi các tập tục mê tín dị đoan bằng việc giáo dục các tu sĩ qua các đại học Phật giáo. Nhờ vậy xứ Sikkim trở nên một trung tâm Phật giáo quan trọng, trong thời gian du lịch tại đây tôi đã sưu tầm được rất nhiều bộ sách cổ giá trị. Tại chùa Eche (Eche Gompa) tôi đã họa lại rất nhiều hình vẽ, các chủng tự huyền bí thâu thập được nhiều tài liệu viết từ thế kỷ thứ 14.
Biết tôi là một học giả đã biên soạn nhiều sách vở về Phật giáo, tiểu vương Tashi Maharajah đã ra lệnh cho nhà quý tộc Enche Kazi phải lo liệu cho tôi thật chu đáo. Từ việc cung cấp vật thực đến việc lo lừa ngựa di chuyển để hướng dẫn tôi đi khắp các chùa chiền, di tích lịch sử trong vùng.
Enche Kazi là một tín đồ Phật giáo thuần thành, dòng họ của ông sở hữu rất nhiều đất đai tại đây và từ nhiều đời trước tổ tiên họ đã cho xây cất nhiều đền chùa, tu viện khắp xứ. Tôi sống với gia đình Kazi hơn một tháng và họ đối đãi với tôi như người nhà. Tôi được biết gia đình này đã giúp đỡ và trợ cấp cho hàng trăm tu sĩ để họ yên tâm tu học. Phần lớn gia đình người dân xứ này đều trông cậy vào những người con trai buôn bán, canh tác chăn nuôi nhưng nếu những người này muốn từ bỏ gia đình để trở nên một tu sĩ thì gia đình đó ắt phải chịu các thiệt thòi vật chất. Enche Kazi đã chu cấp cho tất cả những gia đình này để họ yên tâm và khuyến khích con cái tu học. Chính tại đây mà tôi được biết rằng Lạt Ma Yongden cũng đã được nuôi dưỡng, tài trợ bởi gia đình này. Trong khu du hành, bà Alexandra David Neel đã từng tạm trú nơi đay, bà đã nhận Yongden làm nghĩa tử và cùng ông này du hành khắp Tây Tạng. Công trình nghiên cứu của bà David Neel và Lạt Ma Yongden đã giúp cho hàng triệu người khắp thế giới biết đến Tây Tạng và định mạng cho thấy gia đình Kazi sẽ đóng một vai trò quan trọng trong thời gian sắp đến.
Trước khi rời Sikkim, tôi viết thư cảm ơn tiểu vương Tashi Maharajah về tấm thịnh tình ngài đã dành cho tôi. Nhà vua cho người triệu tôi đến dùng cơm riêng với ngài, một hân hạnh mà tôi không thể từ chối.
Đó là một buổi chiều êm ả, tiếng ve sầu ngân nga vang lừng khu thượng uyển, chúng tôi ngồi trên một hàng hiên cao nhìn về những rặng đồi thấp chập chùng quanh Podang. Câu chuyện bao quanh vấn đề tôn giáo, triết học, xã hội rồi chuyển qua các đề tài như kinh tế, thương mại, giao thông v.v…
Tôi chỉ lên một ngọn đồi gần đó, nơi hàng đêm tôi vẫn nhìn thấy những vệt sáng di chuyển giống như những ngọn đèn xe hơi:
– Tôi không thể ngờ ngài cho thiết lập cả một trục giao thông xuyên qua ngọn đồi kia, một xa lộ như vậy ắt hẳn tốn kém lắm.
Tashi Maharajah ngạc nhiên:
– Nhưng làm gì có xa lộ nào trên đồi đó, con đường giao thông duy nhất từ Ấn qua đây là con đường lộ dưới thung lũng Tisha.
– Nhưng tôi nhìn thấy rất nhiều vệt sáng như đèn pha xe hơi di chuyển rất nhanh dọc theo sườn đồi kia mà…
Tashi Maharajah mỉm cười nói nhỏ:
– Đó không phải là xe hơi đâu! Có rất nhiều hiện tượng lạ lùng xảy ra quanh đây nhưng dĩ nhiên tôi không bao giờ muốn nói cho những người ngoài biết vì họ có thể cho rằng tôi là người mê tín dị đoan hay trông gà hóa cuốc. Tuy nhiên ông đã nhìn thấy nó thì tôi có thể cho ông biết rằng ngọn đồi đó là vị trí hết sức hiểm trở, lừa ngựa đi còn khó huống chi xe hơi. Những luồng sáng đó vẫn thường xuất hiện và di chuyển hết sức nhanh, chúng có thể đổi vị trí hay hướng đi trong chớp mắt. Có lần chúng lao thẳng vào cung điện của tôi rồi bất chợt chuyển hướng quay ngược lại, không một phi cơ nào có thể chuyển hướng 360 độ trong một thời gian kỷ lục như vậy. Chúng lướt trên không trung một cách dễ dàng như những đốm lửa khổng lồ, dân chúng xứ tôi tin rằng đó là những vị thần linh tu luyện trên Tuyết Sơn đang dạo chơi… Tôi không biết phải giải thích như thế nào nhưng tôi biết chắc rằng đây là một hiện tượng mà khoa học không thể giải thích được.
Tôi im lặng kính phục sự thành thực của vị tiểu vương trẻ tuổi. Có lẽ không giải thích được những sự kiện này một cách chính xác, rõ rệt nên người dân xứ này đã giải thích nó bằng những quan niệm về thần linh và chấp nhận nó như một sự hiển nhiên. Điều này khác hẳn với lối giải thích của người Âu, nếu không thể giải thích điều gì, họ phủ nhận ngay rằng điều đó không có thật. Nếu đầu óc lý luận, khoa học không thể chấp nhận một cái gì thì họ lên án ngay rằng đó chỉ là một sự tưởng tượng.
Nhưng khoa học giải thích thế nào về đời sống? Tại sao sự kiện xảy ra trong đời sống như vậy? Nếu tư tưởng con người chỉ là những luồng điện chạy trong thần kinh quan phản ứng hóa học và điện học thì người ta giải thích thế nào về hiện tượng thần giao khi tư tưởng được phóng ra không trung và được tiếp nhập bởi một người khác? Nếu bộ óc có khả năng của dòng điện sẽ như thế nào? Khoa học đã biết gì về điện lực hay họ chỉ dựa trên một số định luật và các phản ứng của nó để đưa ra một quan niệm trừu tượng, một cái gì mà họ có thể sử dụng nhưng không hề hiểu đích thực nó là gì? Những danh từ như “protons, electrons, neutrons” của khoa học thực nghiệm quả không có một nghĩa lý gì hết đối với những người dân bản khai nhưng họ đâu cần biết đến những thứ này mà vẫn sống một cách thoải mái được. Sự sống không hề phân biệt một nhà thông thái hay một bác nông phu vì sống không phải là một cái gì bất động, tuân theo các định luật khoa học nhưng là một cách gì sống động trong cơ thể, tư tưởng, tình cảm con người.
Hiện tượng những vệt sáng di chuyển tại Podang cũng không khác những ghi nhận tại nhiều nơi trên thế giới là bao. Dĩ nhiên có kẻ tin, người không tin và người ta cũng thêu dệt rất nhiều sự kiện hoang đường lạ lùng đi kèm theo nó. Điều này không phải mãi đến thế kỷ 20 mới xảy ra, các tài liệu lịch sử đã nói về những đốm lửa bay nhảy trên không gian từ nhiều thế kỷ trước Tây lịch.
Hiện tượng này được ghi nhận xảy ra nhiều nhất tại Ngũ Đài Sơn bên Trung Hoa. Phía nam rặng Ngũ Đài Sơn người ta đã xây một cái tháp khá cao để khách hành hương có thể nhìn thấy rõ phong cảnh quanh đó. Nhưng thật ra ngọn tháp này được sử dụng để chiêm ngưỡng những vật sáng thường di chuyển quanh những đỉnh núi này mà người ta gọi là những đốm lửa thiêng (divine ball of fire).
Nhà mạo hiểm John Biofeid đã bỏ ra hơn một năm trời sống tại đây để nghiên cứu hiện tượng lạ lùng này. Ông viết trong cuốn The Wheel of Life như sau: “Quanh rặng Ngũ Đài có rất nhiều chùa chiền thờ đức Văn Thù Bồ Tát mà người Trung Hoa tin rằng ngài thường trú ngụ tại đây. Chúng tôi leo lên ngọn núi thứ năm, ngọn cao nhất trong tất cả năm ngọn vào một buổi chiều. Nắng vừa tắt và không gian thật yên tĩnh, tôi nhìn thấy một ngọn tháp khá cao xây ở phía sau chùa, đó không phải là một tháp chuông vì lối kiến trúc của nó không giống những tháp chuông thông thường, có lẽ đó là một đài quan sát thì đúng hơn vì nó chỉ có một cái sân nhỏ trên nóc và một chiếc thang dài để leo lên. Đêm đó, trong lúc đang ngồi trong chánh điện thì một vị tăng cầm đèn lồng xuất hiện nói với vị sư trụ trì: “Đức Bồ Tát đã xuất hiện”. Chúng tôi vội theo chân vị tăng đó leo lên đỉnh tháp… Điều chúng tôi nhìn thấy quả hết sức kỳ diệu, không thể diễn tả. Hàng trăm quả cầu lửa liên tiếp bay lượn trên đỉnh những ngọn núi hùng vĩ trước mặt, tôi không thể phỏng đoán kích thước, vận tốc của chúng. Chúng từ đâu đến hay đi về đâu? Tôi chỉ biết thộn mắt ra ngắm những quả cầu lửa màu sắc chói lọi lơ lửng giữa không gian… Một hình ảnh lạ lùng, huyền bí, linh thiêng đến tuyệt vời”.
6- Chết và tái sinh
Trong thời gian ở Sikkim, tôi đã được nghe kể về chuyến hành hương của hòa thượng Tomo tại Ấn Độ. Cả một rừng người nô nức theo chân phái đoàn của ngài đi thăm viếng các Phật tích. Tại Sarnath hàng trăm ngàn người đã sắp hàng nghênh đón ngài dài mấy chục cây số. Báo chí Ấn Độ chạy những hàng tít lớn: “Một vị đại Lạt Ma, quan trọng vào hàng thứ tư sau đức Đại Lạt Ma đang viếng thăm Ấn Độ”, “Đại lão hòa thượng Tomo Geshe Rinpoche đang thăm viếng các Phật tích” v.v…
Người ta đã thêu dệt nhiều chi tiết ly kỳ vào cuộc hành hương này mặc dù không một ký giả nào được ngài tiếp kiến và như tôi đã đề cập trước đây, không ai chụp được tấm hình nào của ngài. Tuy thế người ta vẫn phóng đại tất cả mọi điều lên bản báo và số người tò mò theo dõi phái đoàn của ngài mỗi ngày một đông. Tờ Calcuts Daily cho biết hòa thượng Tomo không bao giờ ngủ và điều này đã tạo ra những cuộc bàn cãi lớn, nhiều nhà khoa học cho rằng không ngủ là điều không thể xảy ra được. Người ta đã chất vấn ngài về điều này nhưng hòa thượng Tomo không bao giờ trả lời những câu hỏi vô ích như vậy. Tôi biết rõ hòa thượng Tomo không bao giờ nằm, ngài luôn luôn ngồi thiền ngày cũng như đêm trên một chiếc ghế gỗ. Ngài cho biết khi nằm người ta có thể ngủ quên lúc nào không biết và như vậy là không hoàn toàn kiểm soát được thân thể. Để hoàn toàn làm chủ cả thân lẫn tâm, hòa thượng Tomo thường ngồi trong tư thế liên hoa một cách ngay ngắn, nghiêm chỉnh và ngài đã làm thế trong suốt mấy chục năm nay. Tôi tin rằng với khả năng của ngài thì nằm hay ngồi cũng không thành vấn đề nữa nhưng có lẽ vì thói quen nên ngài thích ngồi hơn. Tôi biết thêm rằng một người đã nhập đại định (Samadhi) không cần ngủ vì họ đã kiểm soát thân và tâm hoàn toàn nên việc ngủ để thân thể nghỉ ngơi, tái lập quân bình không còn quan trọng nữa.
Hòa thượng Tomo vốn không thích những gì ồn ào, náo nhiệt nhưng lần này chuyến hành hương của ngài còn có sự hiện diện của Sardar Bahadur ladena, tùy viên thân cận của đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ mười ba và rất nhiều nhân vật trong chính quyền Tây Tạng nên quần chúng mới biết đến và làm ồn ào như vậy. Hòa thượng Tomo và Ladena được lệnh đến Sarnath làm lễ an vị cho một pho tượng Phật lớn do tiểu vương Maharajah of Bhutan tặng cho ngôi chùa tại đây. Lịch sử pho tượng này cũng vô cùng đặc biệt và liên quan mật thiết đến lịch sử Tây Tạng mà tô sẽ đề cập đến trong chương kế tiếp khi nói về cái triều đại vua chúa xứ Tây Tạng. Có lẽ vì sự quan trọng của pho tượng này mà đức Đạt Lai Lạt Ma đã triệu một phái đoàn gồm những nhân vật cao cấp nhất trong nội các đặt dưới quyền lãnh đạo của một vị hòa thượng nhiều giới đức như hòa thượng Tomo.
Ít lâu sau tôi được đọc tài liệu của Hầu tước Von Veheim Ostrau viết về chuyến công du này. Tuy là một viên chức ngoại giao cao cấp, ông cũng không được ngài tiếp kiến nên chỉ đứng trong đám đông quan sát buổi lễ. Baron Von Ostrau đã viết: “Hàng ngàn người chen chúc nhau trên một khoảng đất chập hẹp trước ngôi chùa. Họ đến để chiêm ngưỡng một vị Lạt Ma nổi tiếng, người được dân chúng Tây Tạng coi như bậc Bồ Tát hóa thân. Tuy nhiên vị Lạt Ma này chỉ ngồi yên lặng không phát biểu hay tuyên bố một điều gì. Ông ngồi đó như một pho tượng trang nghiêm đắm mình trong một trạng thái thiền định nhưng hình như có một sự bình an nào đó toát ra từ vị Lạt Ma già yếu này khiến cho số người đông đúc như vậy mà không có một tiếng động ồn ào nào, tất cả chỉ lặng lẽ chắp tay cầu nguyện một cách thành kính. Làm sao một cá nhân đơn độc có thể cảm hóa được cả một đám đông hỗn tạp ồn ào như vậy trừ khi người đó đã đạt đến những trạng thái rất cao, có thể tạo ra một bầu không khí trang nghiêm, thanh tịnh quanh mình…”
Nhiều người hy vọng hòa thượng Tomo sẽ qua viếng thăm Ấn Độ một lần nữa để họ có dịp chiêm bái nhưng không ai ngờ đây là chuyến hành hương cuối cùng của ngài vì sau đó ít lâu ngài đã từ bỏ thể xác tại làng Tomo.
Hòa thượng Tomo qua đời khi tôi đang trên đường rời Sikkim về Tích Lan. Được tin tôi vội ghé lại YiGah Cholin tham dự buổi lễ tri ân ngài. Xa cách mấy năm nhưng cảnh xưa vẫn không thay đổi, hình như thời gian không ảnh hưởng gì đến ngôi chùa bé nhỏ nép mình dưới bóng rặng Tuyết Sơn hùng vĩ này.
Kachenia vô cùng mừng rỡ khi gặp lại tôi, ông sốt sắng đưa tôi đến thăm căn phòng của hòa thượng Tomo. Căn phòng được giữ nguyên vẹn như khi ngài còn tạm trú tại đây, cái ghế ngồi được lau chùi sạch sẽ, chiếc áo khoác của ngài vẫn treo trên vách, ngọn đèn dầu vẫn thắp sáng trên chiếc bàn nhỏ, bên cạnh các khí cụ hành lễ như chuông, mõ, khánh, v.v… Nhìn cảnh vật quen thuộc, tôi không khỏi bùi ngùi, mới ngày nào chúng tôi còn quỳ dưới chân ngài để nghe dậy bảo mà giờ đây ngài đã khuất bóng…
Đối với Kachenia thì hòa thượng Tomo vẫn tiếp tục hiện diện tại đây như hồi nào. Hàng ngày ông vẫn đun trà, đốt trầm và lau dọn căn phòng sạch sẽ. Nhìn ông thong thả vừa niệm chú vừa làm các công việc hàng ngày như không có chuyện gì xảy ra khiến tôi thầm cảm phục công phu tu hành, trì giới nghiêm mật của vị lão tăng này.
Kachenia kể cho tôi nghe về những ngày cuối cùng của Hòa thượng Tomo: Từ lau ngài cho các đệ tử biết rằng đã đến lúc ngài phải rời bỏ thể xác già yếu đang sắp sửa hư hoại này. Tuy nhiên ngài nhấn mạnh rằng ngài sẽ trở lại thế gian dưới một thể xác khác vì công việc của ngài tại đây còn dở dang. Sau chuyến hành hương tại Ấn Độ, ngài trở về tu viện Dungkar cho chư tăng biết rằng ngài sẽ nhập định ít hôm và căn dặn đừng ai làm rộn đến ngài. Ngài nhập định trong nhiều ngày liên tiếp nhưng vị tăng hầu cận cứ cảm thấy bồn chồn lo ngại làm sao. Sau mười ngày vẫn thấy ngài ngồi yên bất động, ông ta đánh bạo đưa một tấm gương nhỏ gần lỗ mũi ngài xem ngài còn thở không. Đến khi đó ông ta mới biết rằng ngài đã qua đời trong lúc thiền định.
Kachenia cho tôi biết thêm rằng trong lúc thiền định, Hòa thượng Tomo đã tập trung tư tưởng hướng dẫn sự sống chuyển vào một mầm sống mới, để tiếp tục công việc phổ độ chúng sinh theo đúng hạnh nguyện Bồ Tát của ngài.
Theo quan niệm của nhiều môn phái triết học Ấn Độ, kể cả Phật giáo, thì cuộc đời là bể khổ và người tu phải tìm lối thoát ra khỏi các khổ đau này. Nguyên nhân của sự đau khổ bắt nguồn từ bản ngã, vốn có khuynh hướng phân biệt và từ đó nẩy sinh các tham vọng, ái dục. Làm sao thoát ra khỏi đau khổ? Có hai con đường thoát khổ: Con đường thứ nhất chủ trương từ bỏ thế gian, tu tập thiền định để đi ngược về cội nguồn, vượt qua sự phân chia để hòa nhập vào cái bản thể chân như, từ bỏ cái Tiểu Ngã để hòa nhập với Đại Ngã. Đó là con đường của những môn phái Ấn Độ giáo, nhất là những phái chịu ảnh hưởng kinh Veda.
Con đường thứ hai không chủ trương từ bỏ thế gian mà trái lại chấp nhận nó, tu tập thiền định để nhận định rõ rệt nguyên nhân sự đau khổ để chuyển hóa, thay đổi chính mình. Thay vì cho thế gian là chốn xâu xa tìm cách tách ra, từ bỏ nó thì con đường này lại tìm cách chuyển biến chính mình, biến lòng ích kỷ thành tình thương rộng lớn, biến cõi Vô Minh thành chốn Niết Bàn. Người đi trên đường này không phân biệt giữa mình và mọi vật, Niết Bàn hay Địa Ngục vì biết rằng tất cả đều do Tâm tạo mà do Tâm tạo thì chỉ cần chuyển hóa tâm thức đến chỗ trang nghiêm, thanh tịnh, đạt đến Niết Bàn của Diệu Tâm. Đó là con đường của Phật giáo.
Theo Phật giáo, mục đích của thiền định không phải nhập vào một trạng thái vô thức, an tĩnh, bất động (tranquility) nhưng là một sự chuyển hóa (transformation) để ý thức tất cả cho thật rõ rệt như nó là. Thiền định là quay vào bên trong để nghe rõ tiếng nói của Tâm, tiếng nói của Vô Thanh và người ta chỉ có thể nghe được những âm thanh huyền diệu này khi thân và tâm thật thanh tịnh, sáng suốt không còn tham sân si. Khi đã nghe được tiếng nói chân thật này thì đã có Định mà có Định thì sẽ phát sinh Trí Huệ Bát Nhã. Khi có Trí Huệ này, người tu sẽ không còn thấy mình và mọi vật có sự khác biệt nữa, mình và chúng sinh đều là một và đã là một thì ắt phải nghe thấy tiếng kêu cầu cứu của chúng sinh đang đau khổ… Người tu khi đó phải quay về thế gian để cứu đời, độ đời, quên mình, hy sinh, thực hành Bồ Tát Đạo, vô ngã, lợi tha.
Một người đi trên con đường Bồ Tát Đạo không nhập Niết Bàn mà thường tiếp tục trở lại giúp đỡ chúng sinh dưới hình thức một vị Hóa Thân (Tulku).
Một vị Hóa Thân không phải là một đấng thần linh hay cái gì khác thường nhưng chỉ tượng trưng cho một tư tưởng vì tư tưởng vốn trừu tượng và được biểu lộ qua một hình ảnh tượng trưng. Vì trừu tượng nên tư tưởng chỉ có thể hành động qua cái vật tượng trưng cho nó. Vật này có thể là một biểu hiện, hình ảnh hay cũng có thể sống động như một con người. Thí dụ như đức Đạt Lai Lạt Ma thường được coi là hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Điều này không có nghĩa đức Quán Thế Âm đã nhập vào một con người nào đó mà chỉ có nghĩa là một người mà đời sống trong sạch đã được lựa chọn để tượng trưng cho con đường của Bồ Tát Quán Thế Âm: từ bi, hỉ xả, vô ngã, lợi tha.
Hóa Thân thường là một người đã tu cao, vượt ra khỏi các giới hạn tầm thường của cuộc sống, vượt qua khỏi biên giới của sinh tử và có thể lựa chọn một đời sống theo ý muốn vì đối với họ mỗi kiếp sống chỉ là những giai đoạn của một diễn tiến mà thôi.
Theo luật Nhân Quả, tất cả mọi hành động, tư tưởng của con người đều không bao giờ mất đi nhưng được lưu trữ trong Tàng Thức và chính cái này đã sắp đặt nên cá tính (personality) con người, Nói một cách khác, cá tính con người là tổng số những kinh nghiệm thu tập trong quá khứ và sự phối hợp của những kinh nghiệm này cùng tư tưởng, hành động trong hiện tại sẽ trở thành những yếu tố chi phối đời sống trong tương lai. Đa số con người không ý thức được sự tiếp diễn không ngừng này nên họ chỉ hành động theo hoàn cảnh nhất thời mà thôi. Vì tính chất vô minh của bản ngã mà họ đồng hóa mình với kiếp sống hiện tại và hành động tùy theo điều kiện chung quanh. Nói theo kinh điển Tây Tạng thì họ chỉ vật vờ từ kiếp sống này qua một kiếp sống khác mà không hề định hướng do đó họ cứ tiếp tục trôi nổi trong vòng sinh tử luân hồi.
Khi người ta nhận định rõ đời sống chỉ là những giai đoạn của một diễn tiến và tìm cách định hướng cho nó thì họ mới có hy vọng thoát khỏi vòng kiềm tỏa khổ đau của luân hồi. Muốn được như vậy, người ta cần phát các hạnh nguyện lớn như một hình thức định hướng, tu sửa thân khẩu ý vì biết rằng ý tưởng, hành động trong hiện tại là những yếu tố chi phối tương lai và khi làm chủ được tư tưởng cũng như hành động thì người ta có thể cởi bỏ các ràng buộc của vô minh để giải thoát.
Việc chinh phục sự chết đã được ghi nhận rõ rệt trong cuốn Tử Thư (Bardo Thodol), một cuốn sách ghi những chi tiết về giai đoạn giữa cõi sống và cõi chết. Tôi chỉ tóm lược một vài nét chính như sau:
Một người bình thường sẽ chịu chi phối bởi sự chết nhưng một người đã hoàn toàn kiểm soát thân và tâm có thể chiến thắng tử thần vì họ có thể làm chủ cái giây phút quyết định đó. Sự chiến thắng tử thần không thể coi như người đó sống mãi không chết vì cái thể xác hữu hình, hữu hoại này dù sao vẫn chịu chi phối bởi luật tạo hóa nhưng điều này chỉ có nghĩa là người đó có thể kinh nghiệm được lúc chết trong một trạng thái ung dung tự tại và có thể chuyển hóa sinh lực của mình đến một nơi nào tùy theo ý muốn.
Trường hợp của hòa thượng Tomo đã chứng minh rõ rệt rằng không những ngài đã kiểm soát được tâm để đầu thai vào một kiếp sống khác mà còn kiểm soát được thân thể ngay cả sau khi chết. Mặc dù đã trút hơi thở cuối cùng nhưng thể xác của ngài vẫn ngồi yên trong vị trí liên hoa, không ai biết rõ ngài đã qua đời lúc nào và thể xác của ngài vẫn còn nguyên vẹn, không hề hư hại trong một thời gian rất lâu.
Hầu tước H.E.Richardson, đại sứ Anh tại Tây Tạng đã ghi rõ điều này trong một văn kiện ngoại giao. Ông đang công du gần đó thì được tin hòa thượng Tomo từ trần. Vì đã có dịp tiếp xúc với hòa thượng Tomo nhiều lần nên ông vội vã đến lăng Tomo tỏ lòng kính ngưỡng. Ông được vị Lạt Ma trụ trì cung kính mời vào và trước khi có dịp ngỏ lời chia buồn thì vị Lạt Ma này sốt sắng đưa ông vào chánh điện. Đại sứ Richardson đứng lặng người vì rõ ràng Hòa thượng Tomo vẫn đang ngồi trên chiếc ghế gỗ thường nhật. Richardson nghĩ có lẽ ông đã được báo cáo sai về cái chết của ngài nên ông vui vẻ bước đến trước mặt hòa thượng ngỏ lời chào và khi đó ông mới biết rằng ngài đã thực sự qua đời. Đứng trước cái xác tươi tốt nguyên vẹn không một dấu vết hư hại, Hầu tước Richardson đã viết: “Sự kiện một người chết mấy tuần lễ mà da thịt vẫn hồng hào, không một dấu hiệu hư hại quả là một sự kiện lạ lùng nhất mà tôi đã chứng kiến. Tôi xem xét kỹ lưỡng thì thấy các Lạt Ma không hề sử dụng một loại hóa chất nào để giữ cho thân thể như vậy. Vị Lạt Ma trụ trì cho biết họ đã lựa chọn ngày lành tháng tốt để làm lễ nhập tháp và thân thể ngài sẽ được để yên như vậy trong nhiều tháng cho đến khi nhập tháp.
Một người Tây phương chắc chắn không thể chấp nhận được việc này nhưng người Tây Tạng vẫn quan niệm sống và chết không phải là hai trạng thái đối nghịch nhau nhưng chỉ là hai bề mặt của sự thật. Sự chết chỉ có thể ảnh hưởng đến những ai sợ hãi nó, nếu sống và chết là một việc hiển nhiên như ngày và đêm, như mùa hè và mùa đông thì cái chết đâu có gì đáng sợ.
Khi một người đã đạt đến trạng thái giác ngộ nào đó, tất cả tế bào trong thân thể người đó cũng đều được chuyển hóa bởi các rung động cao cả và phát ra những luồng từ điện hết sức tinh tế ảnh hưởng đến những người chung quanh. Dĩ nhiên những người có lòng tin, những tín đồ thuần thành sẽ được lợi lạc rất nhiều vì như tôi đã trình bày, đức tin là một chất dẫn điện rất mạnh có thể nối liền tâm thức các tín đồ với luồng từ điện mạnh mẽ kia. Luồng từ điện này có thể chống lại sự hủy hoại của thời gian lên thân thể người chết. Hầu hết thân thể các vị thánh đều ít bị ảnh hưởng bởi thời gian (xác vị thánh Thiên chúa giáo Francis Xavier tại thành Goa vẫn y nguyên như khi ngài còn sống mặc dù thời tiết nhiệt đới nóng bức, ẩm ướt vô cùng).
Vì lý do trên, xác các vị Đại Lạt Ma, các vị hòa thượng được giữ gìn cẩn thận trong những tháp (chorten) thay vì hỏa táng. Một ngôi tháp lớn đã được xây dựng trong thung lũng Tomo và tín đồ các nơi đã cúng dường trọng thể cho việc dựng tháp này.
Hòa thượng Tomo hứa sẽ trở lại trong ít lâu, ngài để lại một số ấn chứng để các đệ tử có thể tìm thấy ngài. Điều bất ngờ nhất là ngài đã trở lại dưới mái nhà mà cách đó không lâu tôi đã tạm tru tại Gangtok: căn nhà của Enche Kazi xứ Sikkim.
Tôi biết Enche Kazi là một tín đồ thuần thành, một gia đình đã góp công rất nhiều trong việc phục hưng Phật giáo tại Sikkim. Năm 1949, khi ghé thăm Enche tôi đã được ông ta kể rõ chuyện này.
Mặc dù hãnh diện đã đem một đấng hóa thân vào đời, Enche cũng không khỏi rơi những mắt khi kể lại cho tôi. Vợ ông ta qua đời ngay khi sanh đứa con đầu lòng, vài năm sau khi được biết đứa nhỏ này không ai khác hơn là Hòa thượng làng Tomo, ông ta lại phải gạt lệ tiễn con về Tây Tạng. Lúc đầu ông không muốn mất con nhưng chính tiểu vương Maharajah đã khuyên ông không nên can thiệp vào sứ mạng cao cả của một bậc Hóa Thân như vậy.
Ngay khi còn nhỏ, đứa bé con của Enche Kazi đã tỏ ra khác thường, khi ông này gọi nó là “Puchung” (thằng bé tí) thì nó đã nghiêm nghị nhấn mạnh rằng tên của nó là “Jigme” (Vô úy – không sợ hãi).
Bài kệ của Hòa thượng làng Tomo để lại tại chùa Nachung không những nói rõ rằng ngài sẽ mang tên Jigme trong kiếp sau mà còn nói rõ địa điểm ngôi làng cũng như đường đến căn nhà mà ngài sẽ hóa thân vào đó. Bài kệ cho biết rõ tuổi tác cha mẹ và hình ảnh căn nhà trước có trồng hai cây ăn trái v.v…
Khi phái đoàn tu viện Dungkar đến nơi thì đứa nhỏ Jigme đã lên bốn tuổi. Vừa thấy phái đoàn nó đã reo lên: “Cha ơi, các đệ tử của con đến đón con về Tây Tạng đây này”. Các tu sĩ thay phiên nhau mang ra những chiếc hộp kín và đứa nhỏ đã nói đúng những đồ vật để trong hộp. Nó có thể phân biệt rõ những chiếc chuông, khánh của Hòa thượng Tomo trong số hàng chục chiếc chuông, khánh giống nhau như đúc được mang ra để giảo nghiệm. Ngoài ra nó còn giải đáp được những bài kệ vô cùng bí hiểm mà chỉ một số rất ít Lạt Ma trưởng lão mới có thể hiểu được ý nghĩa.
Sau khi kết luận rằng Jigme chính là hậu thân của Hòa thượng làng Tomo, phái đoàn long trọng rước cậu bé Jigme về Tây Tạng. Vừa đến Dungkar, đứa nhỏ đã nhận ra Amnchi, vị Lạt Ma đã chăm sóc sức khỏe cho Hòa thượng Tomo.
– Này Amchi, ngươi không nhận ra ta hay sao? Chính ngươi đã săn sóc cho ta ngày trước kia mà…
Sau khi oai nghiêm ngồi lên chiếc ghế gỗ, Jigme thong thả gọi tên từng vị sư già trong tu viện lên để ban phép lành. Người ta không còn nghi ngờ gì nữa, quả thật Jigme chính là hóa thân của Hòa thượng Tomo. Khi tin này vừa được truyền ra bên ngoài, hàng ngàn người đã kéo nhau về Dungkar và một buổi lễ long trọng đã được cử hành trọng thể.
Thông thường một nhóm trưởng lão sẽ được triệu đến để giúp vị Hóa Thân phục hồi trí nhớ tiền kiếp hay bổ khuyết những thiếu sót gây ra bởi sự chuyển kiếp. Trường hợp của Jigme thì khác hẳn, tuy vẫn còn những nét ngây thơ của một đứa nhỏ lên bốn nhưng Jigme đã thông thuộc mọi kinh điển kể cả những bộ kinh khó nhất, dài nhất mà ngay cả các vị Lạt Ma dầy công tu luyện cũng khó lòng thuộc nổi. Jigme có thể làm chủ những khóa lễ long trọng không kém bất cứ một vị trưởng lão nào. Sau một thời gian sống tại Dungkar cậu bé Jigme được đưa vào tu viện Sera, viện đại học Phật giáo lớn nhất Tây Tạng. Tại đây Jigme đã theo học chương trình giáo dục dành cho các tu sĩ uyên thâm nhất và cậu đã liên tiếp thi đậu những kỳ thi hết sức khó khăn cho đến năm vừa lên bảy tuổi thì Jigme đã tốt nghiệp thủ khoa và được ban cho địa vị Sư trưởng (Geshe Rinpoche).
Chuyện này dường như vô lý hoang đường đối với các độc giả phương Tây. Ngay như tôi lúc đầu cũng còn nghi ngại không biết có nên tin hay không nhưng thời gian du hành qua các quốc gia Á châu đã giúp tôi chứng kiến và sưu tầm nhiều trường hợp trùng hợp lạ lùng. Tôi có thể khẳng định rằng tái sinh không phải một quan niệm mơ hồ hay một lý thuyết trừu tượng trên sách vở nhưng là một sự thật hiển nhiên với những bằng chứng rõ rệt.
Trước khi trình bày những bằng chứng kể trên tôi muốn nhân cơ hội này đặt câu hỏi với những nhà khoa học về việc duy trì những kinh nghiệm quá khứ vào đời sống hiện tại. Những khoa học gia tin tưởng ở yếu tố di truyền (herldity) có khi nào tự hỏi di truyền còn có nghĩa gì không? Phải chăng nó là một nguyên lý bảo tồn kinh nghiệm để tiếp tục một diễn tiến được chi phối bởi những động lực vô cùng tế nhị? Di truyền phải chăng chỉ là một danh từ khác ám chỉ ký ức? Khi chúng ta sử dụng chữ ký ức, chúng ta không phân biệt nó là tinh thần hay vật chất, tâm lý hay sinh lý vì cả hai cũng chỉ là những mức độ cao thấp khác nhau của một diễn tiến vô cùng tế nhị.
Lama Anagarika Govinda
Nguyên Phong dịch
Theo https://thuvienhoasen.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cái còn lại hóa cái không

Cái còn lại hóa cái không Nhà thơ Tạ Bá Hương vừa được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Anh tốt nghiệp Khóa 7 Trường Viết v...