Muôn kiếp nhân sinh 1
(MANY TIMES - MANY LIVES) GIỚI THIỆU SÁCH
“Muôn kiếp nhân sinh” là tác phẩm do Giáo sư John Vũ - Nguyên
Phong viết từ năm 2017 và hoàn tất đầu năm 2020 ghi lại những câu
chuyện, trải nghiệm tiền kiếp kỳ lạ từ nhiều kiếp sống của người bạn
tâm giao lâu năm, ông Thomas - một nhà kinh doanh tài chính nổi tiếng ở
New York. Những câu chuyện chưa từng tiết lộ này sẽ
giúp mọi người trên thế giới chiêm nghiệm, khám phá các quy
luật về luật Nhân quả và Nhân hồi của vũ trụ giữa lúc
trái đất đang gặp nhiều tai ương, biến động, khủng hoảng từng ngày.
“Muôn kiếp nhân sinh” là một bức tranh lớn với vô
vàn mảnh ghép cuộc đời, là một cuốn phim đồ sộ, sống động về những
kiếp sống huyền bí, trải dài từ nền văn minh Atlantis hùng mạnh đến
vương quốc Ai Cập cổ đại của các Pharaoh quyền uy, đến Hợp Chủng Quốc Hoa
Kỳ ngày nay.
Cuốn sách là câu chuyện về những tiền kiếp mà
một người bạn của GS John Vũ (Nguyên Phong) kể lại. Trong hành trình đó
và trong giới hạn của cuốn sách, người này được trải nghiệm bản
thân mình ở 2 tiền kiếp, một là ở nền văn minh Atlantis đã
từng xuất hiện trên trái đất và cuối cùng bị hủy diệt, chìm
sâu dưới đáy đại dương; hai là ở những kỳ cuối của nền văn minh Ai
Cập cổ.
Cuốn sách mở đầu bằng cuộc gặp gỡ giữa những nhà khoa học danh
tiếng và một vị hòa thượng. Từ những trang đầu, cuốn sách đã hấp
dẫn vì chính những nhà khoa học đã hoài nghi về nền khoa học thực
nghiệm, đánh đổ giả thuyết về sự hình thành vũ trụ qua vụ nổ
Big Bang, và cả thuyết tiến hóa của Darwin. Từ đó, dẫn người đọc vào câu
chuyện tiền kiếp ly kỳ của nhân vật Thomas, một doanh nhân Mỹ,
qua những kiếp sống ở châu Atlantis, ở Ai Cập cổ đại.
Đối với những đọc giả không có lòng tin vào đạo
Phật, sẽ thấy đây giống như sách khoa học viễn tưởng, nhưng đối với một người
đã quen với các triết lý đạo Phật như mình thì như một sự thật hiển
nhiên. Tác giả Nguyên Phong đồng thời cũng là một nhà khoa
học, nên ông dùng những lý thuyết khoa học để giải thích tác
dụng việc ăn chay đối với sức khỏe, giải thích tình yêu
thương có thể chữa lành, tác hại của khoa học công nghệ
lên trí não con người, làm rõ luật Nhân Quả, Luân Hồi, Tiến
Hóa… trên phương diện khoa học, khiến cuốn sách thêm phần thuyết
phục và dẫn câu chuyện ra nhiều không gian, thời gian khác
nhau để người đọc có cái nhìn tổng quát hơn.
Những câu chuyện cực kỳ lôi cuốn trong
sách không chỉ cho ta hiểu thêm về những quá khứ huy hoàng giờ chỉ
còn là cát bụi, mà còn để chứng thực một điều rất quan trọng: Luật Nhân quả và Luân
hồi là có thật.
Thực ra, điều này không mới mẻ với tôn giáo, nhất
là Phật giáo. Lục đạo luân hồi giảng rằng linh hồn con
người sẽ không chết đi khi thể xác này chết đi, mà tùy theo duyên
nghiệp, phúc đức, cùng những mối liên kết rất vi tế rất sâu
xa, mà chuyển sinh theo 6 ngả. Thân người có hạn, mà sinh mệnh quá
nhiều, vậy nên “nhân thân nan đắc” - thân người khó được, là điều Phật đã
giảng. Cơ hội để được chuyển sinh làm người quá khó, bởi con người sống
là tạo nghiệp, nên đa số chuyển sinh thành súc vật, sâu bọ, ngạ quỷ, thậm chí thực vật, trải qua hàng ngàn, hàng chục ngàn, thậm
chí hàng triệu đời như thế, mới lại có cơ hội được làm người.
Vì sao nói làm người là khổ? vì sao Thần Phật, hay những
bậc thánh nhân lại muốn “độ nhân”? Chính là vì con người cứ
luẩn quẩn trong cái vòng luân hồi này, không thoát ra được. Đời
người trôi qua trong nháy mắt, biết bao danh lợi, tiền tài địa
vị cố gắng phấn đấu, những người mà ta thương, rồi cũng phải bỏ lại. Kiếp
sau là quên hết. Chỉ có vượt thoát ra khỏi vòng luân hồi, tới một cảnh
giới cao hơn, thì mới hết khổ, mới là đại tự tại. Đó chính là ý
nghĩa của việc tu hành, hay tu luyện. Chỉ có thân người mới tu
luyện được, vậy nên được thân người là quá trân quý.
Hành trình tu luyện, do đó chính là hành trình trở
về vĩ đại nhất của mỗi sinh mệnh trong kiếp người, đó cũng
là hành trình gian khổ nhất, nên ít người muốn theo và có thể theo.
Trong hành trình đó, “kẻ thù” chỉ có một - đó chính là bản thân mình.
Kể cả không thể, hay không muốn tu luyện, thì khi người ta hiểu rõ về luật
nhân quả, luân hồi, rằng làm điều xấu ác sẽ phải nhận quả báo nặng
nề, người ta cũng có thể kiềm chế cái tâm và hành động của mình. Ai
cũng hiểu như vậy, thế giới này sẽ tốt đẹp hơn biết bao.
Cuốn sách “muôn kiếp nhân sinh” ra đời vào đúng hoàn cảnh thế
giới và lòng người đều đang loạn lạc. Có thể đọc nó, bạn sẽ muốn sống
chậm lại một chút để chiêm nghiệm, để bạn ý thức hơn về những
hành động của mình, về giá trị của tình yêu thương bạn sẽ
có thể muốn sống khác đi một chút để yêu thương nhiều hơn, và biết
đâu bạn sẽ có thêm động lực mạnh mẽ để thay đổi số phận của mình.
“Nếu một người có ý thức và làm những điều thiện
lành, dẫu chỉ là việc nhỏ, thì họ cũng có thể tạo ra những ảnh hưởng tích
cực, giúp thay đổi những người chung quanh. Nếu nhiều người cùng chung sức
làm những việc lành, thì cả thế giới sẽ thay đổi.”
“Có những người gặp nhau có khi là có duyên, có khi
là nợ, gặp nhau có lúc để trả nợ, có lúc để nối lại duyên xưa. Có biết
bao việc trong đời, tưởng chừng là ngẫu nhiên nhưng thật
ra đã được sắp đặt từ trước”
“Nhân quả đừng đợi thấy mới tin. Nhân quả chính là
bảng chỉ đường, giúp con người tìm về thiện lương”
“Có người có cơ duyên được chứng kiến luật
của nhân quả. Có người thì không, điều này còn phụ thuộc vào cơ
duyên, nhận thức, trải nghiệm và niềm tin ở mỗi con người” (Chiasemoi.com)
LỜI GIỚI THIỆU
HÀNH TRÌNH MUÔN KIẾP NHÂN SINH
Tôi chưa từng
có dịp gặp tác giả Nguyên Phong. Trước đó, tôi biết đến ông như một nhà khoa học
nổi tiếng thế giới và cũng là người phóng tác, viết lại những tác phẩm về văn
hóa, tâm linh kinh điển mà nhiều thế hệ bạn đọc Việt, trong đó có tôi, hằng yêu
mến.
Hơn năm năm trước tôi có nhân duyên được trò chuyện cùng tác giả Nguyên
Phong về những bí ẩn liên quan đến tác phẩm kỳ bí nổi tiếng Hành Trình về
Phương Đông - tác phẩm ra đời gần nửa thế kỷ trước nhưng không một ai trên thế
giới có thể truy tìm được bản gốc, để biết bao độc giả nhiều thế hệ còn thắc mắc
và khiến một nhà xuất bản ở Mỹ phải dịch ra tiếng Anh từ nguyên bản tiếng Việt
mà Nguyên Phong đã phóng tác. Tôi đã hiểu rộng hơn nghĩa phóng tác - là có thể
viết theo tiềm thức của mình, bằng kiến thức và những chiêm nghiệm cuộc sống.
Và tôi đã nghiệm ra, có những người Việt vô cùng khiêm nhường nhưng không hề
thua kém bất cứ ai trên thế giới rộng lớn này.
Tôi đã may mắn được ông chia sẻ
nhiều câu chuyện trong nhiều năm. Vào một đêm khuya năm 2016, trong cuộc trò
chuyện kéo dài gần về sáng, tôi đã hỏi ông về Nhân quả và Luân hồi. Ông đã kể lại
một mối nhân duyên xảy ra nhiều năm trước, về Thomas - một doanh nhân nổi tiếng
ở New York - và những câu chuyện tiền kiếp của mình. Tôi đã vô cùng ngạc nhiên
và linh cảm rằng câu chuyện này có liên quan đến những trăn trở trước giờ của
tôi, và chắc cũng của rất nhiều người. Tôi rất mong tác giả Nguyên Phong có thể
viết lại những câu chuyện đó thành một cuốn sách. Ông im lặng không trả lời, và
cũng không nhắc lại chuyện này trong những cuộc nói chuyện tiếp theo. Bẵng đi
hơn hai năm, tôi bất ngờ nhận được thư điện tử của ông, trong đó là những
chương đầu tiên của cuốn sách mà ông đặt tên là Muôn Kiếp Nhân Sinh. Đọc xong,
tôi đã thầm nghĩ không thể có cái tên nào chính xác hơn. Tôi biết được rằng
trong hai năm qua ông đã bay sang New York nhiều lần, phỏng vấn, trò chuyện với
ông Thomas để thực hiện cuốn sách. Trước đó, tác giả Nguyên Phong đã liên lạc với
ông Thomas để hỏi xin ý kiến về việc viết một cuốn sách kể lại các câu chuyện
tiền kiếp mà ông từng chia sẻ. Ban đầu ông không chắc ông Thomas sẽ chấp nhận,
vì nhiều câu chuyện quá riêng tư, nhạy cảm, nhưng bất ngờ thay, Thomas đã đồng
ý. Muôn Kiếp Nhân Sinh là một bức tranh lớn với vô vàn mảnh ghép cuộc đời, là một
cuốn phim đồ sộ, sống động về những kiếp sống huyền bí, trải dài từ nền văn
minh Atlantis hùng mạnh đến vương quốc Ai Cập cổ đại của các Pharaoh quyền uy,
đến Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ ngày nay - nơi nhân vật chính Thomas, người bạn tâm
giao lâu năm của tác giả Nguyên Phong - đang sống.
Muôn Kiếp Nhân Sinh cung cấp
cho bạn đọc kho kiến thức mới mẻ, vô tận của nhân loại lần đầu được hé mở, cùng
những phân tích uyên bác, tiên đoán bất ngờ về hiện tại và tương lai thế giới của
những bậc hiền triết thông thái. Thông điệp quan trọng xuyên suốt của tác phẩm
thức tỉnh con người chính là nguồn gốc và cách thức vận hành luật Nhân quả và
Luân hồi của vũ trụ. Đời người tưởng chừng rất dài nhưng lại trôi qua rất
nhanh, sinh vượng suy tử, mong manh như sóng nước. Luật Nhân quả cực kỳ chính
xác, chi tiết, phức tạp, được thu thập qua nhiều đời, nhiều kiếp, liên hệ tương
hỗ đan xen chặt chẽ lẫn nhau, không ai có thể tính được tích đức này có thể trừ
được nghiệp kia, không ai có thể biết được khi nào nhân sẽ trổ quả. Nhưng, một
khi đã gây ra nhân thì chắc chắn sẽ gặt quả - luật Nhân quả trước giờ không bao
giờ sai.
Những xung lực, năng lượng vô hình của vũ trụ qua luật Luân hồi và
Nhân quả đã tạo nhân duyên để người này gặp người kia. Gặp nhau có khi là
duyên, có khi là nợ; gặp nhau có lúc để trả nợ, có lúc để nối lại duyên xưa. Có
biết bao việc diễn ra trong đời, tưởng chừng như là ngẫu nhiên nhưng thật ra đã
được sắp đặt từ trước. Luân hồi là một ngôi trường rộng lớn, nơi tất cả con người,
tất cả sinh vật đều phải học bài học của riêng mình cho đến khi thật hoàn thiện
mới thôi. Nếu không chịu học hay chưa học được trọn vẹn thì buộc phải học lại,
chính xác theo quy luật của Nhân quả. Có người có cơ duyên được chứng kiến luật
Nhân quả hay Luân hồi, có người thì không, điều đó còn phụ thuộc vào cơ duyên,
nhận thức, trải nghiệm và niềm tin ở mỗi người.
Một lời tri ân chân thành tới
tác giả Nguyên Phong - người đã dày công viết nên cuốn sách đặc biệt này - là
không đủ. Qua những lần trò chuyện, tôi nhận ra ông chỉ có một ước mong duy nhất
khi viết cuốn sách này. Xin được cảm ơn ông Thomas - vì tất cả. Xin được chia sẻ
cùng bạn đọc những chiêm nghiệm sâu sắc, tâm huyết nhất của ông:
“Hiện nay thế
giới đang trải qua giai đoạn hỗn loạn, xáo trộn, mà thật ra thì mọi quốc gia đều
đang gánh chịu những nghiệp quả mà họ đã gây ra trong quá khứ. Mỗi quốc gia,
cũng như mọi cá nhân, đều có những nghiệp quả riêng do những nhân mà họ đã gây
ra. Cá nhân thì có ‘biệt nghiệp‘ riêng của từng người, nhưng quốc gia thì có ‘cộng
nghiệp‘ mà tất cả những người sống trong đó đều phải trả.
Hãy nhìn khắp thế giới
hiện nay với hơn bảy tỷ người, có bao nhiêu người đang hành động độc ác, vô
nhân tính? Có những quốc gia đang đối xử với người khác tàn độc như thế nào? Có
biết bao cái chết thương tâm và cuộc sống bi đát của nhiều con người vô tội đã
và đang diễn ra? Hãy thử nghĩ nếu tất cả đều chịu học hỏi và hiểu rõ về Nhân quả,
biết rõ một khi ‘gieo nhân gì sẽ gặt quả đó’ thì có ai dám hành động như thế
không? Thường thì con người, khi hành động, ít ai nghĩ đến hậu quả, nhưng một
khi hậu quả xảy đến thì họ nghĩ gì, làm gì? Họ oán hận, trách trời, trách đất,
trách những người chung quanh đã gây ra những hậu quả đó? Có mấy ai biết chiêm
nghiệm, tự trách mình và thay đổi không? Đó là động lực để tôi chia sẻ những
câu chuyện chưa từng kể với ai này - dù có những điều thiên cơ bất khả lộ - và
chấp thuận để anh chia sẻ những trải nghiệm, bài học vô tiền khoáng hậu này với
các bạn của anh, để viết thành một cuốn sách cho nhiều người trên thế giới cùng
chiêm nghiệm - giữa lúc hành tinh đang gặp nhiều tai ương, biến động từng ngày.
Tôi mong chúng ta - những cánh bướm bé nhỏ rung động mong manh cũng có thể tạo
nên những trận cuồng phong mãnh liệt để thức tỉnh mọi người.
Tương lai của mỗi
con người, mỗi tổ chức, mỗi quốc gia và cả hành tinh này sẽ ra sao trong giai
đoạn sắp tới là tùy thuộc vào thái độ ứng xử, nhìn nhận và thức tỉnh của từng
cá nhân, từng tổ chức, từng quốc gia đó tạo nên. Nếu muốn thay đổi, cần khởi đầu
bằng việc nhận thức, chuyển đổi tâm thức, lan tỏa yêu thương và chia sẻ sự hiểu
biết từ mỗi người chúng ta trước. Nhân quả đừng đợi thấy mới tin.
Nhân quả là bảng
chỉ đường, giúp con người tìm về thiện lương“. Nguyễn Văn Phước - Sáng lập
First News - Trí Việt.
PHẦN MỞ ĐẦU
ĐÀI BẮC NHÂN DUYÊN
Năm 2008, tôi có dịp tham dự một
hội thảo khoa học tại Đài Bắc. Nhân dịp đó, tôi liên lạc với một người bạn
thân, giáo sư Raymond Yeh, để đến thăm ông này. Giáo sư Yeh là cựu Trưởng khoa
Khoa học Máy tính tại trường Đại học Texas và Đại học Maryland. Ông là một nhà
khoa học, là tác giả của rất nhiều tài liệu nghiên cứu và của mười cuốn sách
giáo trình được dạy trong các trường đại học tại Hoa Kỳ. Ông đã đào tạo nhiều
thế hệ khoa học gia và giáo sư nổi tiếng ngày nay. Mặc dù đã về hưu và sống tại
Đài Bắc nhưng ông vẫn tiếp tục hoạt động trong lĩnh vực khoa học và có tầm ảnh
hưởng lớn trên thế giới. Giáo sư Yeh vui mừng mời tôi ghé qua tư gia ăn tối. Điều
bất ngờ là trong bữa ăn đó cũng có sự hiện diện của phi hành gia Edgar Mitchell
[1] và một người bạn của ông tên là Thomas K, cũng đến thăm giáo sư Yeh. Giáo
sư Yeh mở đầu giới thiệu với mọi người:
- Phi hành gia Edgar Mitchell là một
nhà khoa học lỗi lạc với nhiều công trình nghiên cứu nổi tiếng về không gian tại
Đại học Harvard và Viện Công nghệ Massachusetts (MIT). Ông là một trong sáu người
đã đặt chân lên mặt trăng bằng phi thuyền Apollo 14 vào ngày 31 tháng 1 năm
1971. Trên hành trình trở về trái đất, nhìn qua cửa sổ của phi thuyền, ông thấy
trái đất thật nhỏ bé so với vũ trụ bao la và bất ngờ trải nghiệm một cảm giác
bình an lạ lùng không thể diễn tả.
Khi trở về, ông tìm đủ mọi cách để tìm hiểu
về cái cảm giác đó. Là nhà khoa học, Edgar Mitchell cố gắng nghiên cứu để giải thích
sự bình an lạ lùng này qua các lý thuyết khoa học nhưng không thành công. Ông
quy tụ một số khoa học gia nổi tiếng, thành lập một viện nghiên cứu về mối liên
hệ giữa khoa học và trải nghiệm nội tâm (Institute of Noetic Science); nhưng
qua nhiều năm, những nhà khoa học lỗi lạc nhất này cũng chưa thể đi đến một kết
luận nào cả. Do đó, lần này tôi mời ông ấy đến gặp Hòa thượng Thánh Nghiêm,
mong rằng ngài có thể giúp ông ấy giải đáp thắc mắc về trải nghiệm này.
Trong bữa
ăn tối hôm đó, chúng tôi đàm đạo thân mật về các lý thuyết khoa học vừa được
phát minh vào lúc đó. Tôi nhận thấy phi hành gia Mitchell là người có đầu óc cởi
mở, với sự hiểu biết rộng và sâu sắc hơn những nhà khoa học khác mà tôi đã gặp.
Ông Mitchell nói:
- Các phát minh khoa học mới nhất hiện nay đang thúc đẩy nhân
loại phải thay đổi cách suy nghĩ và quan niệm của họ, ngay cả với những gì mà
trước đây chúng ta vẫn cho là đúng. Càng ngày càng có thêm nhiều khám phá mới,
dữ kiện mới, có thể hoàn toàn thay đổi nền tảng khoa học mà chúng ta đã xây dựng
từ mấy trăm năm nay. Thí dụ như, trong nhiều thế kỷ, chúng ta đã tin rằng trái
đất là trung tâm của vũ trụ và mọi hành tinh, kể cả mặt trời, mặt trăng đều
quay quanh trái đất. Dĩ nhiên hiện nay chúng ta biết rằng điều này hoàn toàn
sai. Mặt trời chỉ là trung tâm của một Thái Dương hệ, quả đất của chúng ta và
các hành tinh liên hệ đều quay quanh mặt trời. Tuy nhiên, vũ trụ thì vô cùng rộng
lớn và có rất nhiều Thái Dương hệ khác mà chúng ta chưa biết đến. Theo ước tính
của Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Mỹ (NASA) thì có khoảng hơn một tỷ Thái Dương
hệ trong vũ trụ bao la mà Thái Dương hệ của chúng ta chỉ là một phần nhỏ trong
đó. Ông Mitchell bất chợt trầm ngâm, giọng xúc động:
- Chỉ khi con người đi ra
ngoài không gian mới thật sự thấy được chúng ta quá nhỏ bé giữa vũ trụ bao la
ngoài sức tưởng tượng này. Hiện nay, chúng ta biết rằng sự sống đã có mặt trên
trái đất này từ hàng triệu năm nay, nhưng biết đâu sự sống cũng có thể hiện hữu
ở các hành tinh khác hay các Thái Dương hệ khác nữa. Chúng ta cho rằng loài người
là thông minh nhất khi so sánh với các loài vật, nhưng biết đâu có những sinh vật
thuộc hành tinh khác còn thông minh hơn mà chúng ta chưa hề biết đến.
Cách đây
không lâu, chúng ta cho rằng vật thể nhỏ nhất trên thế giới là phân tử
(Molecule), nhưng sau đó chúng ta tìm ra nguyên tử (Atom) và nghĩ rằng nguyên
tử là vật thể nhỏ nhất. Hiện nay, chúng ta biết rằng nguyên tử không phải là nhỏ
nhất mà còn có những hạt lượng tử nhỏ hơn nhiều (Quark). Nếu chúng ta tiếp tục
nghiên cứu thì có lẽ sẽ còn có những thứ nhỏ hơn nữa. Do đó, kiến thức của
chúng ta luôn luôn thay đổi theo các khám phá mới của khoa học. Nếu chúng ta có
thể chứng minh được rằng hạt vi lượng (Neutrino) di chuyển nhanh hơn vận tốc
ánh sáng thì quan niệm về thuyết Tương đối của Einstein phải thay đổi và quỹ đạo
của mọi hành tinh trong vũ trụ sẽ khác hẳn những gì chúng ta đo được ngày nay.
Ông ngừng lại và nhấn mạnh từng chữ:
- Vấn đề là chúng ta sẽ phản ứng như thế
nào với những dữ kiện mới được khám phá? Liệu chúng ta có chấp nhận rằng những
gì chúng ta tin tưởng từ bấy lâu nay chỉ là những lý thuyết không còn giá trị nữa
không? Hay chúng ta vẫn bám chặt lấy quan niệm cũ vì đã coi chúng như là chân
lý tuyệt đối?
Giáo sư Yeh đồng tình tiếp lời:
- Khoa học thực nghiệm chỉ là tập
hợp những kiến thức thu tập được từ nhiều cuộc thí nghiệm, với những dữ liệu được
đo lường, quan sát và kiểm chứng. Là khoa học gia, chúng ta luôn luôn tìm kiếm,
học hỏi và nghiên cứu dựa trên lý luận, đặt ra những giả thuyết, rồi chứng minh
rằng chúng đúng hay sai. Tất cả những gì chúng ta xây dựng đều hoàn toàn dựa
vào các công cụ đo lường; nhưng với sự tiến bộ của khoa học, khi các công cụ
này ngày một tinh vi hơn, chính xác hơn, chúng ta sẽ tìm thêm được những dữ liệu
mới để bổ sung cho những dữ liệu trước và tiếp tục xây dựng nền khoa học hiện
nay. Nói cho đúng thì khoa học thực nghiệm là một tiến trình luôn luôn thay đổi
để bổ sung cho những gì bất toàn trước đây.
Ông Mitchell mỉm cười:
- Nhưng sẽ
có một lúc nào đó chúng ta tìm ra những dữ liệu hoàn toàn khác với những dữ liệu
trước đó. Chúng ta sẽ đặt ra những giả thuyết mới để thay đổi các quan niệm hiện
tại và chúng ta sẽ có một cuộc cách mạng khoa học lật đổ tất cả những gì chúng
ta xây dựng trước đây.
Bất chợt, ông Mitchell quay qua hỏi tôi:
- Anh cũng là một
nhà khoa học, vậy anh nghĩ như thế nào?
Tôi suy nghĩ, rồi trả lời:
- Một cuộc
cách mạng khoa học như thế có lẽ cần nhiều thứ hơn là việc đưa ra một lý thuyết
mới để đánh đổ những lý thuyết trước. Theo tôi nghĩ, trước hết, chúng ta phải
nghiệm lại các quan niệm trước để tìm hiểu tại sao chúng không còn đúng nữa.
Như giáo sư Yeh đã nói, nếu chúng ta phát minh ra những công cụ tinh vi hơn,
chính xác hơn, thì chúng ta hiểu rằng công cụ trước đây không hoàn hảo. Nếu
chúng ta có thể chứng minh rằng những dữ liệu mới này hợp lý hơn, chính xác
hơn, giá trị hơn, thì chúng ta có thể đưa ra bằng chứng để biện minh cho lý
thuyết mới này và thay thế lý thuyết trước đã không còn giá trị nữa. Tuy nhiên,
tôi nghĩ có lẽ sẽ phải mất nhiều thời gian để thay đổi tư duy của mọi người.
Chúng tôi tiếp tục thảo luận về các phát minh khoa học, nhưng phần lớn là cuộc
đối thoại giữa phi hành gia Mitchell và giáo sư Yeh. Tôi và ông Thomas chỉ ngồi
nghe, đôi khi thêm vào vài câu xã giao. Tôi thấy ông Thomas chăm chú vào cuộc đối
thoại, thỉnh thoảng lại mỉm cười nhưng không nói gì. Có lẽ vì ông là một doanh
nhân chứ không phải là khoa học gia như chúng tôi nên ông kiệm lời hơn.
Sau bữa
ăn, ông Mitchell hỏi tôi:
- Ngày mai chúng tôi sẽ đến gặp Hòa thượng Thánh
Nghiêm, anh có muốn đi cùng với chúng tôi không?
Dĩ nhiên tôi không thể từ chối
một cơ hội hiếm có như vậy.
Buổi gặp gỡ được sắp đặt trước này diễn ra tại giảng
đường Đại học Đài Bắc cho một số sinh viên và giáo sư tham dự. Giáo sư Yeh là
người chủ trì buổi nói chuyện.
Giáo sư Yeh bắt đầu cuộc gặp mặt:
- Mitchell,
ông hãy kể về trải nghiệm lạ lùng khi bay trên không gian vũ trụ cho Hòa thượng
Thánh Nghiêm nghe và hỏi ngài về những thắc mắc của ông đi.
Phi hành gia
Mitchell lên tiếng:
- Thưa Hòa thượng, sau khi hoàn tất sứ mệnh trên mặt trăng,
chúng tôi bắt đầu bay trở về trái đất. Khi bay trong không gian, phi thuyền của
chúng tôi phải liên tiếp xoay tròn theo trục di chuyển 360 độ để giảm sức nóng
phát ra từ ánh sáng mặt trời. Do đó, cứ mỗi hai phút thì tôi lại nhìn thấy trái
đất, mặt trăng và mặt trời qua cửa kính của phi thuyền. Tôi cũng phải nói thêm
là bên ngoài không gian, vì không có bầu khí quyển nên chúng tôi nhìn thấy các
hành tinh rất rõ. Khi ở trên trái đất, chúng ta nhìn lên bầu trời và thấy các
vì sao lấp lánh vì ảnh hưởng của bầu khí quyển; nhưng trong không gian, tất cả
đều sáng rõ như một mạng lưới khổng lồ với hàng ngàn hàng vạn vì sao trông như
những hạt kim cương tỏa sáng. Đó là một hình ảnh tuyệt vời đối với các phi hành
gia chúng tôi lúc đó. Ngày nay, mọi người đều có thể nhìn thấy hình ảnh này qua
kính viễn vọng Hubble, hay qua các hình ảnh mà Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Mỹ
chụp được và đưa lên mạng. Nếu quan sát kỹ, chúng ta sẽ thấy vũ trụ đẹp vô
cùng, không lời nào có thể diễn tả được.
Là một nhà khoa học, tôi biết rằng tất
cả những tế bào, những nguyên tử trong cơ thể tôi, hay cơ thể của những người bạn
tôi trong phi thuyền, và ngay cả những nguyên tử cấu tạo nên phi thuyền, đều
phát xuất từ hành tinh của chúng ta hay chính là khởi nguồn trong vũ trụ. Mọi hiện
tượng vật chất đều phát xuất từ vũ trụ này. Từ đó, tôi ý thức rằng thân thể của
tôi và tất cả mọi vật trong vũ trụ không có gì sai biệt. Thay vì là một cá thể
độc lập, một thành phần riêng rẽ, tôi ý thức rằng tất cả cùng chung một nguồn gốc.
Ngay khi đó, toàn thân tôi bỗng nhiên rung động mãnh liệt. Tôi thấy mình chìm đắm
trong một cảm giác bình an lạ lùng không thể diễn tả. Trải nghiệm này tiếp tục
diễn ra mỗi khi tôi không bận rộn. Là phi hành gia, dĩ nhiên chúng tôi rất bận
vì vừa phải điều khiển phi thuyền, vừa phải hoàn thành những thí nghiệm khoa học
trong phi thuyền, nhưng thỉnh thoảng tôi cũng dừng lại nhìn ra ngoài cửa sổ để
chiêm ngưỡng vẻ đẹp diệu kỳ của vũ trụ và cảm nhận cảm giác bình an lạ lùng
này.
Với mỗi vòng quay của phi thuyền, tôi lại nhìn thấy trái đất, mặt trăng, mặt
trời, cùng các vì tinh tú lấp lánh. Tôi thấy vũ trụ giống như một tấm lưới với
hàng triệu vì sao toát ra thứ ánh sáng rực rỡ, và tôi ý thức rõ ý niệm “vạn vật
đồng nhất thể”. Tôi hiểu rằng nếu đã đồng nhất với tất cả thì vạn vật đều liên
quan chặt chẽ với nhau, không thể tách rời được. Đây là một quan niệm mới lạ mà
từ trước đến nay, các nhà khoa học chúng tôi không ai nghĩ đến. Trong trải nghiệm
bình yên đặc biệt đó, tôi tự hỏi: “Tôi thực sự là ai? Tôi từ đâu tới đây? Rồi
tôi sẽ đi về đâu? Vũ trụ được hình thành và có mối liên hệ như thế nào với trái
đất cùng những con người sống ở đó? Có phải chúng tôi, những người đầu tiên du
hành ra ngoài không gian, đã cảm nhận được sự tương quan rõ rệt giữa con người
và vũ trụ, khác hẳn với ý niệm của những người chưa từng rời trái đất?”.
Từ ý
niệm này, tôi nghĩ rằng có lẽ đã đến lúc phải tìm cách thay đổi các quan niệm định
kiến chật hẹp đã giam cầm bao nhiêu thế hệ từ trước đến nay bằng một quan niệm
mới về sự tương quan giữa con người và vũ trụ. Có lẽ các định luật khoa học,
các kiến thức được xây dựng từ ngàn xưa sẽ phải thay đổi khi chúng ta nhìn lại
tất cả những gì chúng ta đã làm trên trái đất này, sau khi chứng kiến sự nhỏ bé
của chúng ta so với vũ trụ bao la. Ngay như nền khoa học hiện đại bắt đầu khoảng
bốn trăm năm trước với Isaac Newton cũng sẽ phải thay đổi khi con người bước ra
khỏi tầm ảnh hưởng của sức hút trái đất.
Khi lan man nghĩ đến đó, tôi chợt nghĩ
đến những bậc tiên phong như Copernicus, Galileo và những nhà khoa học lỗi lạc
khác đã đưa ra ý kiến về sự tương quan giữa trái đất và vũ trụ nhưng phải chịu
đựng sự chống đối, kỳ thị của những quan niệm thiển cận, hẹp hòi lúc bấy giờ.
Người thì bị thiêu sống, người thì bị giam cầm cho đến chết, nhưng sự thật vẫn
là sự thật, không thể chối cãi. Tất cả khuynh hướng bảo thủ, hẹp hòi trước sau
cũng phải thay đổi khi người ta biết hướng tầm mắt lên cao, xóa bỏ thành kiến
cũ và mở rộng tâm hồn để nhìn ra vũ trụ bao la.
Phi hành gia Mitchell ngừng lại
suy nghĩ, rồi tiếp tục:
- Khi trở về trái đất, tôi luôn thắc mắc về cái cảm
giác bình an lạ lùng này. Tôi tìm đọc rất nhiều sách vở khoa học nhưng không
tìm thấy gì có thể giải thích hiện tượng trên. Tôi chuyển qua nghiên cứu các
sách vở tôn giáo của phương Tây nhưng cũng không tìm được gì. Tôi tìm đến những
học giả thông thái nhưng không ai có thể trả lời được thắc mắc của tôi. Một người
bạn khuyên tôi nên tìm đọc các tài liệu về tôn giáo phương Đông, và tôi bắt đầu
nghiên cứu Phật giáo, nhất là các sách nói về đại định (Samadhi). Tôi thấy có
sự trùng hợp giữa trải nghiệm mà tôi đã trải qua trên không gian với trải nghiệm
của các hiền triết phương Đông, khi họ diễn tả về trạng thái thiền định.
Giáo
sư Yeh chợt hỏi:
- Phải chăng cảm giác đó là thấy mình hợp nhất với vạn vật?
Phi hành gia Mitchell trả lời:
- Đúng thế, lúc đó tôi không thấy có sự khác biệt
giữa mình và vạn vật nữa. Cái cảm giác hòa hợp, rung động cùng với sự chuyển động
của vũ trụ, là một trải nghiệm kỳ lạ không thể diễn tả được bằng lời.
Giáo sư
Yeh quay sang hỏi Hòa thượng Thánh Nghiêm:
- Bạch Hòa thượng, theo quan niệm của
Phật giáo, trải nghiệm không còn thấy sự phân biệt giữa mình và vạn vật của phi
hành gia Mitchell có phải là một sự chứng ngộ không?
Hòa thượng Thánh Nghiêm mỉm
cười nhìn ông Mitchell:
- Trước hết tôi rất mừng cho phi hành gia Mitchell đã
có một trải nghiệm đặc biệt. Trong hàng ngàn, hàng vạn người, không mấy ai có
được trải nghiệm như thế. Trong cuộc sống, khi người ta trải nghiệm một điều gì
đó hoàn toàn mới mẻ, có thể thay đổi hẳn các trải nghiệm cá nhân từ trước, ta
có thể coi đó như là một sự chứng ngộ. Tuy nhiên, đó cũng có thể chỉ là một cảm
giác nhất thời.
Thí dụ như, cách đây không lâu, một đệ tử của tôi cũng có một
trải nghiệm đặc biệt. Sau một khóa tu thiền kéo dài bảy ngày, anh ta trở về nhà.
Trên đường về, anh ta thấy tất cả cây cối, hoa lá, từ những con côn trùng nhỏ
bé cho đến những chiếc lá cây, ngọn cỏ đều vui mừng chào đón anh. Anh cảm nhận
được một niềm an lạc tuyệt vời như hòa nhập với ngoại cảnh và tin rằng mình đã
chứng ngộ. Anh vội vã trở lại kể cho tôi nghe về trải nghiệm đó. Tôi nói với
anh rằng tuy đó là một khoảnh khắc trải nghiệm tuyệt vời nhưng cũng có thể biến
đi ngay trong chốc lát. Đừng coi cảm giác đó là một sự chứng ngộ. Nếu không
tin, anh hãy thử trở lại khu vườn đó để xem những cây cỏ, hoa lá, muông thú có
chào đón anh như trước không.
Khi quay trở lại, anh không cảm nhận được trải
nghiệm như trước nên đã hỏi: “Làm thế nào để con có thể lấy lại cái cảm giác
tuyệt vời đó?”. Tôi trả lời: “Không ai có thể sở hữu mãi mãi trải nghiệm đã qua
đó. Nếu muốn nắm giữ nó mãi thì anh thật tham lam. Có được trải nghiệm này chỉ
là một kết quả của quá trình tu tập mà thôi. Đó không phải là sự chứng ngộ như
anh kỳ vọng. Mục đích của tu tập thiền định là để phát triển trí tuệ và xóa bỏ
bản ngã. Nếu chúng ta đạt đến trạng thái Vô ngã thì thế giới này còn tồn tại nữa
không? Nếu chúng ta đạt đến trạng thái Tâm vô phân biệt thì làm gì còn có chúng
ta hay thế giới này nữa? Đối với đa số mọi người, thế giới này thật sự hiện hữu,
nhưng đối với những người đã chứng ngộ thì thế giới này chỉ là huyễn ảo, không
có thật, do đó tất cả trải nghiệm dù là trải nghiệm gì đi chăng nữa, cũng chỉ
là huyễn ảo chốc lát mà thôi. Chúng ta không nên để ý đến nó hay muốn nắm giữ
nó mãi làm gì”.
Giáo sư Yeh hỏi thêm:
- Bạch Hòa thượng, như thế thì dù chúng
ta có được những trải nghiệm gì cũng không nên bám víu vào nó hay sao?
Hòa thượng
Thánh Nghiêm trả lời:
- Cho dù trải nghiệm đó diễn ra thế nào đi nữa, hãy để
cho nó đến và đi một cách tự nhiên. Có thể nó chỉ là điều xuất phát từ tâm thức,
sẽ thay đổi, vì tất cả mọi sự đều sẽ đổi thay. Dù nó hiện hữu như thật, vẫn hãy
coi nó chỉ là những hiện tượng của tâm thức mà thôi.
Tuy nhiên, đối với những
người đã trải nghiệm, rồi hoàn toàn thay đổi nhận thức của họ và luôn luôn sống
với tâm thức đó, thì chúng ta có thể kết luận rằng người đó đã chứng ngộ. Theo
quan niệm của Phật giáo, người này đã có một “nhân” lành từ trước và đến nay nó
bắt đầu trổ “quả”.
Hòa thượng Thánh Nghiêm chia sẻ tiếp:
- Phi hành gia
Mitchell là một nhà khoa học, nhưng không thể giải thích trải nghiệm đó bằng lý
luận của khoa học, không thể chứng minh nó qua các cuộc thí nghiệm, hay tạo ra
lý thuyết bằng phương pháp luận lý. Ông tin rằng đây là một kiến thức mới, mà
khoa học cần khám phá, nghiên cứu thêm. Tuy nhiên, ông nên biết rằng cảm giác
đó là một trải nghiệm tâm linh nằm trong phạm trù của tôn giáo mà khoa học
không thể giải thích. Triết học hay luận lý học cũng không thể giải thích được,
vì nó là một trải nghiệm tinh thần xảy ra cho một người duy nhất - là ông mà
thôi. Trải nghiệm ấy đã làm thay đổi hoàn toàn cách suy nghĩ của ông. Từ đó,
ông cảm thấy nó trở thành một phần của ông, không thể tách rời ra được nữa. Trải
nghiệm này vượt khỏi phạm trù của khoa học bởi vì những người trải nghiệm được
việc này không thể diễn tả, giải thích được, không thể chứng minh được, và cũng
không ai có cùng một trải nghiệm tương tự như thế, nó là một trải nghiệm có
tính chất duyên căn cá nhân. Ai uống nước thì tự mình biết nóng hay lạnh. Trong
trường hợp của ông, chỉ mình ông cảm nhận được sự an lạc hòa hợp cá nhân vào vũ
trụ, nhập với tất cả, không còn phân biệt giữa mình và vũ trụ nữa. Lúc đó cũng
có các phi hành gia khác ở trong phi thuyền. Tại sao họ không có được trải nghiệm
giống như ông? Tại sao chỉ mình ông có được cảm nhận đó? Nếu nói theo khoa học
thì một khi ông cảm nhận được điều gì, tất cả những người khác cũng đều phải thấy
như thế. Tóm lại, đây là điều mà khoa học không thể giải thích hay chứng minh,
vì nó nằm ngoài phạm trù của khoa học.
Giáo sư Yeh hỏi tiếp:
- Ông Mitchell, trải
nghiệm lạ lùng đó có trở lại với ông nữa không? Khi trở về trái đất, ông còn có
cảm nhận đó nữa không? Phi hành gia Mitchell trả lời:
- Có chứ, tôi vẫn cảm nhận
được và sống trong niềm an lạc vô biên này. Nó hoàn toàn thay đổi quan niệm của
tôi về con người và vũ trụ, vì thế tôi mới tìm cách giải thích nó theo khoa học,
luận lý học, triết học và tâm linh. Tôi đồng ý với Hòa thượng Thánh Nghiêm về
điều ngài dạy; nhưng là người nghiên cứu khoa học, tôi vẫn muốn tìm cách kết nối
khoa học với trải nghiệm nội tại, để mở ra một chân trời mới cho kiến thức còn
thiếu sót của nhân loại hiện nay.
Giáo sư Yeh tiếp tục đặt câu hỏi:
- Ông nghĩ
sao về các lý thuyết khoa học còn thiếu sót hiện nay? Chẳng hạn như giả thuyết
về sự hình thành vũ trụ qua vụ nổ Big Bang?
Phi hành gia Mitchell trả lời:
-
Khoa học thực nghiệm được xây dựng từ những lý luận, rồi được chứng minh qua
các cuộc thí nghiệm với những dữ liệu chính xác. Giả thuyết về sự hình thành vũ
trụ qua vụ nổ Big Bang mặc dù được đa số chấp nhận nhưng chưa ai có thể chứng
minh nó một cách chính xác. Do đó, nó vẫn chỉ là một giả thuyết. Nó giải thích
được một số hiện tượng, nhưng nó chưa hoàn chỉnh để có thể được công nhận là sự
thật tuyệt đối. Theo tôi thì với đà tiến triển của khoa học ngày nay, giả thuyết
này có thể trở nên lỗi thời, khi có thêm những bằng chứng hay dữ liệu khác. Tôi
không nghĩ vũ trụ chỉ là kết quả của một vụ nổ, mà là một cái gì đó vận động,
thay đổi không ngừng, do đó rất khó định nghĩa thật rõ ràng.
Giáo sư Yeh đặt vấn
đề:
- Nhưng nếu loại bỏ lý thuyết về vụ nổ Big Bang thì phải chăng thời gian
không bắt đầu từ lúc tạo lập ra vũ trụ mà là một cái gì đó không có khởi thủy?
Phi hành gia Mitchell giải thích thêm:
- Đối với tôi, thời gian chỉ là một sự
đo lường có tính tương đối. Chính con người đề xướng ra cái gọi là “thời gian”
trên trái đất này chứ tự nhiên không phân chia ra như thế. Con người tạo ra
quan niệm về thời gian, rồi chia nó ra thành nhiều mảnh vụn. Trái đất quay
quanh mặt trời một vòng thì được xem là một năm, rồi một năm có mười hai tháng,
mỗi tháng có một số ngày, rồi ngày chia ra giờ, giờ chia ra phút, phút chia ra
giây v.v… Sự phân chia này chỉ mang tính giới hạn trên trái đất mà thôi. Nếu
chúng ta đi lên Hỏa Tinh, hay Kim Tinh, chúng ta sẽ phải thay đổi thời gian
khác đi. Nếu chúng ta tiếp tục đi vào không gian thì thời gian trên trái đất sẽ
không còn giá trị nữa.
Giáo sư Yeh quay qua hỏi Hòa thượng Thánh Nghiêm:
- Bạch
Hòa thượng, một nhà khoa học không gian và là một phi hành gia nổi tiếng như
ông Mitchell đây cũng không hoàn toàn tin vào giả thuyết về sự hình thành vạn vật
qua vụ nổ Big Bang, mà cho rằng vũ trụ là một cái gì đó luôn luôn thay đổi. Nếu
thế phải chăng vạn vật không có khởi đầu hay chấm dứt, mà chỉ là một diễn trình
thay đổi không ngừng? Bạch Hòa thượng, liệu quan niệm này có khác với quan niệm
của Phật giáo trong kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka) không?
Hòa thượng Thánh Nghiêm
trả lời:
- Cho đến nay, mọi người đều cho rằng vạn vật được hình thành từ vụ nổ
Big Bang. Các nhà khoa học cũng dựa vào giả thuyết này để đưa ra các lý luận
khoa học về không gian, thời gian v.v... Tôi mừng vì một nhà khoa học lỗi lạc
và là phi hành gia nổi tiếng như ông đây lại nghĩ khác. Ông tin rằng vũ trụ
luôn luôn thay đổi và vận động không ngừng, do đó rất hợp với quan niệm “thành,
trụ, hoại, diệt” vì mọi sự vật, mọi hiện tượng luôn luôn thay đổi, không có khởi
đầu hay chấm dứt. Điều này rất hợp với quan niệm của Phật giáo.
Tuy nhiên, tôi
muốn nói thêm rằng vũ trụ quan của Phật giáo không phân chia thời gian và không
gian như là hai thực thể khác biệt mà bao gồm cả thời gian lẫn không gian. Thời
gian bao gồm cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Không gian cũng bao trùm cả sáu
hướng (Đông, Tây, Nam, Bắc, trên, dưới). Nhưng thời gian có thật sự hiện hữu
không? Không! Thời gian chỉ được tạo ra khi có một đối tượng trong không gian
chuyển động, và nếu ta đo được sự chuyển động đó thì thời gian hiện hữu.
Nói
cách khác, nếu ta cảm thấy không gian thay đổi thì thời gian hiện hữu. Nếu
không gian không chuyển động thì sẽ không có thời gian. Nhưng nói như thế thì
không gian có hiện hữu không? Cũng không! Nếu ta không cảm nhận được thời gian
thì không gian cũng không hiện hữu. Tất cả chỉ là một cái gì đó uyên nguyên rỗng
lặng. Nói cách khác, vũ trụ quan của Phật giáo là sự phối hợp giữa không gian
và thời gian. Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không, tất cả
đều liên hệ với nhau, tương tức và tương nhập chặt chẽ. Tóm lại, mọi sự vật
trong vũ trụ đều có tính tương đối, nghĩa là đều vô thường, vô ngã và duyên
sinh. Thời gian và không gian tuy có tên gọi khác nhau nhưng cùng chung một bản
thể, hay “vạn vật đồng nhất thể”, một là tất cả, tất cả là một.
Hòa thượng
Thánh Nghiêm tiếp tục giải thích:
- Ngày nay, ngành vật lý không gian đã chứng
minh điều này bằng thuyết Tương đối của Albert Einstein. Đặc biệt là quan niệm
về không gian bốn chiều, nêu rõ ý nghĩa: không gian và thời gian không phải là
hai điều tuyệt đối có tự thể riêng biệt, mà chỉ có tính tương đối thôi. Phải
dùng từ “kỳ gian” (space-time) để gọi chung cho cả hai mới đúng, vì tính chất của
chúng là dung thông, hòa hợp với nhau làm một, thâu nhiếp và tương nhập với
nhau một cách tuyệt diệu.
Với trí óc siêu việt, Einstein đã tìm ra được luật
Tương đối, thấy được vận tốc, thời gian, không gian, khối lượng đều là những gì
tương đối chứ không tuyệt đối. Công thức E = mc 2 của ông đã chứng minh rằng
năng lượng (energy) chính là khối lượng (mass) của vật đó khi di chuyển nhanh bằng
lũy thừa của vận tốc ánh sáng. Lúc đó, vật chất sẽ biến thành năng lượng và khi
năng lượng chuyển động chậm lại thì nó sẽ biến thành vật chất.
Hòa thượng Thánh
Nghiêm quay qua phi hành gia Mitchell rồi nói một cách rõ ràng:
- Như ông cũng
biết, năng lượng là khối lượng và khối lượng cũng là năng lượng, hay tinh thần
là vật chất và vật chất cũng là tinh thần. Đó chính là lời Đức Phật đã dạy
trong kinh Hoa Nghiêm từ hơn hai ngàn năm trăm năm trước: “Tâm là vật, vật cũng
là tâm - vạn vật đồng nhất thể, đó chính là nguyên lý 'sự sự vô ngại pháp giới'”.
Muốn tiếp thông với cảnh giới Hoa Nghiêm này, ông phải đi vào bằng cánh cửa tâm
linh chứ những cảm giác phân biệt hay luận lý dựa trên sự suy ngẫm của “thức”
thì không thể được. Chỉ có cánh cửa tâm linh mới có thể tổng hợp được thời gian
và không gian, đưa ông vào cuộc sống “hằng mà chuyển” thôi.
Lúc nãy, ông nói rằng
ông không tin vũ trụ này được hình thành bởi vụ nổ Big Bang, mà vũ trụ này thay
đổi không ngừng. Nhưng ai có thể cảm nhận được sự thay đổi của vũ trụ như thế?
Phải chăng chính là con người? Những sinh vật khác không thông minh như con người
nên không ý thức rõ về vũ trụ như con người. Con người có ý niệm rõ ràng về thời
gian và không gian. Khi thời gian hiện hữu, không gian cũng hiện hữu, đó chính
là quan niệm căn bản về sự tạo lập vũ trụ.
Hòa thượng Thánh Nghiêm quay sang
nói với giáo sư Yeh:
- Lúc nãy, ông hỏi quan niệm này có trùng hợp với quan niệm
của kinh Hoa Nghiêm không? Đúng thế, chủ trương của kinh Hoa Nghiêm là “pháp giới
duyên khởi”, nghĩa là mọi sự, mọi vật đều do nhân duyên hòa hợp mà thành, tất cả
đều nương vào nhau, nhân sinh quả, quả lại sinh nhân, lớp lớp trùng trùng, có
khi dung thông, có khi đối chọi, ảnh hưởng lẫn nhau mà sinh ra, không một cái
gì có thể tự tồn, tự lập riêng rẽ. Cái này có là nhờ cái kia, cái kia có là nhờ
cái này. Lớp lớp trùng trùng không cùng tận nên gọi là “trùng trùng duyên khởi”.
Vì thế, “một cũng là tất cả, tất cả cũng là một”, mọi sự, mọi vật đều có liên
quan mật thiết với nhau, đều tuân theo định luật của vũ trụ như vô thường, vô
ngã. Điểm đặc biệt của kinh Hoa Nghiêm là nói về cái thể “động” của vũ trụ mà đặc
tính của nó là biến hóa, thay đổi không ngừng.
Hòa thượng Thánh Nghiêm nhìn mọi
người một lượt và nhấn mạnh:
- Sự thay đổi này cũng là đặc tính của cuộc sống
vô thường của chúng ta mà không mấy ai để ý đến. Chúng ta sinh ra, lớn lên, rồi
già và chết. Trong mỗi giây, mỗi phút, cơ thể chúng ta đều thay đổi với hàng vạn
tế bào chết đi và hàng vạn tế bào được sinh ra. Sự thay đổi được đo lường qua
thời gian và chia làm ba thời: “Quá khứ, hiện tại và vị lai”. Thật ra, sự phân
chia này chỉ là tương đối mà thôi vì trong một thời vẫn có thể nói đến các thời
kia. Ba thời có thể riêng rẽ hay xen lẫn với nhau, thay đổi hay dung thông với
nhau. Thí dụ như khi suy tư, chúng ta có thể ý thức được nhiều việc trong quá
khứ, hiện tại, hay vị lai.
Mọi sự, mọi vật trong vũ trụ đều tác động với nhau
theo nhân duyên và tạo thành những sự, những vật. Sự tác động và biến chuyển
này diễn tiến và thay đổi không ngừng trong vòng sinh hóa. Chính nhờ có sự phân
chia thời gian này mà chúng ta có thể hiểu rõ được luật Vô thường, Vô ngã,
Duyên sinh và Nhân quả. Kinh Hoa Nghiêm giải thích cho chúng ta biết rõ vũ trụ
được tạo ra do vô tận duyên khởi, hình tướng tuy khác nhưng tất cả đều chung một
bản thể, bình đẳng và dung thông. Bản thể đây chính là tâm chân như. Từ chân
như phát sinh ra vạn hữu. Vạn hữu là giả huyễn mà chúng ta lại cho là thật.
Nhờ
biết cách quan sát thật tướng qua công phu thiền định sâu xa mà chúng ta hiểu
được và thấy rõ mọi sự, mọi vật như nó là. Khi chúng ta thực hành nhìn sâu vào
mọi sự, chúng ta vượt qua cái tướng bên ngoài để thấy rõ cái thể bên trong. Khi
chúng ta biết hướng tâm lên cao, vượt khỏi thế giới hiện tượng sai biệt để đạt
tới cảnh giới vô sai biệt này thì chúng ta mới hiểu rõ được thật tướng của sự vật.
Giáo sư Yeh hỏi phi hành gia Mitchell:
- Hòa thượng đã trình bày về sự thành lập
vũ trụ qua lăng kính của Phật giáo. Là một nhà khoa học về không gian, ông nghĩ
sao về quan niệm này?
Phi hành gia Mitchell trả lời:
- Có nhiều quan niệm khác
nhau về sự tạo lập vũ trụ. Ngay cả những nhà khoa học thông thái nhất cũng
không đồng ý với nhau, người nói thế này, người nói thế khác. Người đặt ra lý
thuyết này, người đưa ra quan niệm khác. Tất cả đều là những giả thuyết, chưa
ai chứng minh được một cách rõ ràng với các dữ liệu chính xác. Tuy nhiên, nếu
nói tất cả là "Không" thì đa số mọi người sẽ hiểu lầm là không có gì,
và nếu nói vũ trụ không có thật thì không ai tin được. Càng tìm hiểu về những
điều này, các nhà khoa học, ngay như chính tôi đây, cũng bối rối. Hãy cho rằng
vũ trụ là một cái gì đó thật sự hiện hữu đã, nhưng khoa học sẽ giải thích như
thế nào? Ai tạo ra nó? Nó đến từ đâu? Nó bắt đầu như thế nào? Khoa học thực
nghiệm đòi hỏi phải có sự chứng minh, giải thích, đưa ra những lý thuyết, rồi
tìm ra những dữ liệu để biện minh cho lý thuyết đó đúng hay sai.
Thế kỷ hai
mươi là thế kỷ của nhiều phát minh, và con người đã khám phá ra rất nhiều thứ
mà trước đó người ta chỉ tưởng tượng ra, nay đã thành sự thật. Hiện nay có rất
nhiều lý thuyết mới và quan niệm mới, nhiều hơn tất cả những lý thuyết từ trước
đến nay. Phải nói rằng nhân loại đã đi rất xa, đã đặt chân lên mặt trăng, đã tiến
vào vũ trụ, nhưng còn biết bao nhiêu thứ khác chúng ta chưa biết đến. Việc giải
thích về vũ trụ vẫn là điều mà những nhà khoa học như chúng tôi chưa hiểu rõ.
Tuy nhiên, quan niệm về sự tương thông và dung nhiếp chứ không phân chia này là
một quan niệm rất hợp với lý thuyết vật lý lượng tử. Từ nhiều năm nay, chúng
tôi đã nghiên cứu việc sử dụng những công cụ khoa học của ngành vật lý lượng tử
để tìm ra sự tương quan giữa khoa học và tâm linh. Dĩ nhiên, chúng tôi chưa đi
đến một kết luận nào rõ ràng nhưng đã có rất nhiều bằng chứng cho thấy vật lý
lượng tử sẽ đưa nền khoa học thực nghiệm tiến xa hơn trước.
Giáo sư Yeh thắc mắc:
- Nếu thế thì thuyết Big Bang sẽ không còn giá trị nữa sao?
Phi hành gia
Michell chia sẻ:
- Không những tôi mà các nhà khoa học khác cũng nghĩ như thế.
Đã có nhiều bằng chứng cho thấy giả thuyết này không hoàn toàn như mọi người vẫn
nghĩ. Đã có nhiều nghiên cứu khoa học tìm ra những dữ liệu mới, trái ngược với
các dữ liệu về vụ nổ Big Bang này. Dĩ nhiên phải cần nhiều cuộc thí nghiệm nữa
trước khi chúng ta có thể kết luận rõ ràng.
Nhưng theo tôi nghĩ, khoa học mỗi
ngày một phát triển, người ta sẽ tìm được nhiều dữ liệu mới để chứng minh rằng
một số lý thuyết trước đây không còn đúng nữa. Thí dụ như ngày trước Einstein
cho rằng tốc độ của ánh sáng là tuyệt đối, không gì có thể đi nhanh hơn tốc độ
của ánh sáng. Quan niệm của vật lý lượng tử về tính “vô định xứ” (quantum
non-locality) chứng minh rằng có những tín hiệu có thể đi nhanh hơn vận tốc của
ánh sáng. Trong thí nghiệm về cảm giác nhận thức siêu việt (Extrasensory
Perception - ESP), khi một tư tưởng nảy ra, người khác có thể nhận biết được
ngay lập tức. Tôi đã thực hiện thí nghiệm này trên mặt trăng và người ở trái đất
nhận ngay được những tín hiệu này, không những một lần mà hàng chục lần. Nếu
chúng ta đo lường thời gian và khoảng cách thì những tín hiệu này di chuyển
nhanh hơn vận tốc của ánh sáng rất nhiều. Theo quan niệm của vật lý lượng tử về
tính “vô định xứ” thì những tín hiệu của cảm giác, hay đơn giản hơn là tư tưởng
phát xuất từ bộ óc con người, có thể di chuyển nhanh không giới hạn.
Giáo sư
Yeh góp thêm lời:
- Một yếu tố của quan niệm về tính “vô định xứ” là lý thuyết
về sự tương quan giữa hai thực thể với nhau. Nếu một thực thể rung động hay cảm
nhận được điều gì thì thực thể kia cũng nhận thấy ngay lập tức. Điều này tuy vẫn
chỉ là một giả thuyết khoa học nhưng cũng có thể dùng để giải thích về sự cảm
thông giữa hai người hay quan niệm về Nhân quả.
Phi hành gia Mitchell gật đầu:
- Đúng thế, quan niệm về Nhân quả của Phật giáo rất thích hợp với các lý thuyết
khoa học ngày nay. Vật lý đã chứng minh rằng nếu ta ném một vật lên không
trung, vật đó sẽ phải rơi xuống vì sức hút của trái đất. Tương tự, một hành động
xảy ra cũng sẽ đem lại một kết quả. Bất cứ động lực nào phát ra cũng có một phản
lực ngược lại. Ngày nay, tất cả các nhà khoa học đều chấp nhận quan niệm này.
Giáo sư Yeh tiếp tục đặt câu hỏi cho Hòa thượng Thánh Nghiêm:
- Bạch Hòa thượng,
phi hành gia Mitchell vừa giải thích về mối tương quan giữa hai thực thể. Vậy
điều này có thể giải thích về nghiệp lực trong thuyết Nhân quả của Phật giáo
như thế nào? Hòa thượng Thánh Nghiêm trả lời:
- Theo Phạn ngữ, Karma có nghĩa
là hành động. Bất cứ một hành động nào như cử chỉ (thân), lời nói (khẩu)
hay ý nghĩ (ý) cũng đều tạo ra một phản lực hay nghiệp. Tuy nhiên, phải nói
thêm rằng những hành động này phải dựa trên ý thức (consciousness). Do đó, giữa
nghiệp (karma) và thức có mối tương quan chặt chẽ với nhau, tương tự như giả
thuyết khoa học về sự tương quan lượng tử mà phi hành gia Mitchell vừa trình
bày.
Thức thuộc về phạm trù tinh thần. Phật giáo có rất nhiều cách giải thích về
thức. Theo phái Duy Thức (Vijnanamatra) thì thức có thể chia thành nhiều phần
chi tiết nhưng ta có thể tạm chia thức ra làm sáu phần là: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt,
thân và ý , tương ứng với sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và óc. Ngoài ra
còn thức thứ bảy hay căn thức (Mạt na thức) và thức thứ tám là tàng thức (A
lại da thức).
Nghiệp lực được tạo ra do thức thứ sáu (ý thức) vì nó tạo ra sự
phân biệt, do đó còn gọi là phân biệt thức. Chính thức thứ sáu này phân biệt phải
trái, tốt xấu, đúng sai v.v… Năm thức trước (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân)
không phân biệt, chỉ là nhận thức các cảm giác, nên không tạo nghiệp.
Khi các cảm
giác này diễn ra, thức thứ sáu sinh ra các ý niệm phân biệt và hợp tác với thức
thứ bảy hay căn thức (Mạt na thức) để tạo thành nghiệp nhân. Khi một nghiệp
nhân xảy ra, nó có thể đem lại một hậu quả ngay trong lúc này hay có thể xảy ra
ở một lúc khác. Một nhân có thể tạo ra quả ngay trong đời này hoặc có thể chờ đến
đời sau. Tuy nhiên, đã gây nhân gì thì gặt quả đó. Trồng đậu thì được ăn đậu,
trồng dưa thì được ăn dưa. Không thể có việc trồng đậu mà lại ra quả dưa được.
Nghiệp nhân gây ra trong kiếp này đôi khi được lưu trữ trong thức thứ tám hay
tàng thức và tác động ở kiếp sau.
Nói cách khác, từ kiếp sống này qua kiếp sống
khác, cái duy nhất được duy trì là nhân, hay chủng tử, được lưu trữ trong tàng
thức. Chính thức thứ tám này chứa đựng tất cả chủng tử của nghiệp lực và chúng
tiếp tục đi theo mỗi cá nhân như bóng với hình, từ kiếp này qua kiếp khác.
Theo
quan niệm của Phật giáo thì sự sống con người được hình thành bằng ba thực thể:
sinh lực, hơi ấm và tàng thức. Sinh lực giúp người ta sống, hơi ấm là sự chuyển
động của sinh lực tạo ra năng lượng, và tàng thức ảnh hưởng đến đời sống của mọi
người theo luật Nhân quả. Khi sinh lực cạn dần, người ta sẽ già và chết. Khi chết,
hơi ấm mất đi và cái cuối cùng ra đi là tàng thức. Nó sẽ dẫn dắt người ta đi
vào đời sống ở kiếp khác.
Vì trong đời sống hàng ngày con người tạo nghiệp tốt
hay xấu qua hành động, lời nói và ý nghĩ, nên những chủng tử của nghiệp lực này
được lưu trữ trong tàng thức. Một số chủng tử hoạt động không ngừng, ảnh hưởng
qua bảy thức trên, tạo thành tính tình, năng khiếu, thói quen của một cá nhân
vì bất cứ hành động nào (nghiệp nhân) cũng tạo ra những phản lực (nghiệp quả).
Tuy nhiên, một số chủng tử tiềm ẩn trong tàng thức không phát động ngay mà chờ
đến thời điểm thuận tiện khác nên con người tiếp tục trải qua kiếp sống này đến
kiếp sống khác. Khi có đủ duyên, những chủng tử này phát động theo luật Nhân quả
dưới một dạng thức khác. Thể xác có thể là một con người, hay cũng có thể là một
con vật do sự dẫn dắt của nghiệp lực.
Theo quan niệm của Phật giáo, kiếp sống
hiện nay chẳng phải là kiếp sống đầu tiên hay cuối cùng, mà chúng ta đã sống
hàng trăm, hàng triệu kiếp sống trước đây và sẽ có vô số những kiếp sống sau nữa.
Kiếp sống con người thì có hạn, kéo dài cao lắm là tám chục hay một trăm năm,
nhưng tàng thức thì không bao giờ hết, kéo dài liên tục và đó chính là vòng
luân hồi vô tận mà Đức Phật đã chỉ rõ trong giáo lý của Ngài.
Dĩ nhiên các bậc
thánh nhân thì khác, vì họ đã được giải thoát khỏi sự chi phối của nghiệp lực.
Họ đã biết cách tu hành để chấm dứt vòng sinh tử luân hồi, và đó chính là mục
đích tối hậu mà Đức Phật đã nhận ra và truyền dạy cho loài người. Sứ mệnh của
Phật giáo là được giải thoát khỏi sự chi phối của vòng Luân hồi. Giáo sư Yeh tiếp
tục đặt câu hỏi để làm rõ hơn nữa những chia sẻ của Hòa thượng Thánh Nghiêm:
-
Bạch Hòa thượng, vậy làm thế nào để hóa giải các nghiệp lực này đây?
Hòa thượng
Thánh Nghiêm trả lời:
- Nếu người ta biết cách chuyển hóa thức thứ tám (A lại
da thức), biến thức thành trí thì họ sẽ vượt ra khỏi sự kiềm tỏa của nghiệp thức.
Điều này đòi hỏi phải có công phu tu luyện, và chỉ có cách duy nhất ấy thôi. Dĩ
nhiên, sự tu luyện có nhiều lối, người thích tu Thiền, người thích tu Tịnh, người
thích tu Mật v.v… tùy theo căn cơ mỗi người.
Giáo sư Yeh hỏi thêm:
- Hòa thượng
đã chia sẻ rất rõ về Nghiệp, Nhân quả và vòng Luân hồi, nhưng là nhà khoa học,
ông nghĩ thế nào về việc này, thưa phi hành gia Mitchell?
Phi hành gia Mitchell
trả lời:
- Đứng trên phương diện khoa học, chúng tôi không có sự giải thích rõ
ràng về Nghiệp như Hòa thượng Thánh Nghiêm vừa trình bày. Chúng tôi chưa có một
công cụ khoa học nào để giải thích về Nghiệp thức hay chứng minh rằng có một đời
sống ở kiếp sau. Chúng tôi có thể vẫn đọc sách và tìm hiểu về quan niệm này,
nhưng chúng tôi không thể đo lường hay chứng minh được. Tuy nhiên, tôi đồng ý rằng
bất cứ hành động nào cũng tạo ra phản ứng. Do đó, khoa học có thể công nhận
quan niệm về luật Nhân quả, nhưng việc lưu trữ những lực này ở một nơi nào đó,
rồi để chúng khởi phát vào lúc khác là điều chúng tôi không thể chứng minh
trong phòng thí nghiệm.
Theo tôi thì quan niệm về Luân hồi hiện nay vẫn là một
điều không thể giải thích bằng khoa học. Chúng tôi biết từ ngàn xưa, mỗi quốc
gia, mỗi nền văn minh trên thế giới đều có những niềm tin mà ngày nay khoa học
không thể giải thích. Quan niệm đó đúng hay sai, có giá trị hay không, là điều
mà khoa học không thể thẩm xét. Do đó, chúng tôi chỉ có thể coi đó là những niềm
tin mà thôi. Người ta có thể tin thế này hay thế khác, nhưng không thể chứng
minh bằng những dữ liệu trong phòng thí nghiệm được. Tuy nhiên, là người đã có
một trải nghiệm chỉ có thể giải thích trên phương diện tâm linh chứ chưa thể giải
thích bằng khoa học, nên tôi có một ý nghĩ khác.
Theo tôi, đức tin tôn giáo và
lý thuyết khoa học có thể bổ sung cho nhau và tạo ra những lý thuyết mới, đó là
sức mạnh của một kiến thức mới. Phật giáo chủ trương mọi vật đều do nhân duyên
tạo thành, từ “Không” biến thành “Có”. Khoa học cũng biết rằng khi năng lượng
đông đặc lại sẽ kết thành vật chất. Nói cách khác, vật chất chính là do năng lượng
hợp thành. Do đó, chúng ta có thể sử dụng giác quan để nhận thức về vật chất,
tôi có thể nhìn, có thể sờ nắm vật chất - như cái bàn này hay cái ghế này. Sự
hiểu biết về năng lượng và vật chất là một ngành khoa học dựa trên óc thông
minh của con người. Chúng ta có thể coi sự thông minh là khả năng nhận biết dựa
trên những dữ kiện. Từ đó, chúng ta có thể đưa ra những định luật khoa học mới,
hay những danh từ mới, để giải thích về sự tương quan giữa con người và vũ trụ.
Mặc dù khoa học đã tiến triển rất nhiều nhưng vẫn còn nhiều thứ mà chúng ta cần
khám phá. Để tìm hiểu thêm về những thứ này, chúng ta cần sử dụng những công cụ
khoa học tối tân, những lý thuyết mới, để khám phá thêm và phát triển kiến thức
của nhân loại. Biết đâu một ngày nào đó khoa học sẽ có thể giải thích và chứng
minh các lý thuyết Phật giáo, và cả hai sẽ bổ sung cho nhau để thúc đẩy sự tiến
bộ của nhân loại.
Hòa thượng Thánh Nghiêm tiếp lời:
- Không đơn giản như thế
đâu. Tôi muốn nói rõ rằng khoa học và Phật giáo là hai môi trường hoàn toàn
khác biệt. Tuy cả hai có một số điểm tương đồng nhưng khoa học không bao giờ có
thể giải thích được những điều thâm sâu diệu vợi của Phật giáo. Tại sao thế? Bởi
vì giáo lý của đạo Phật vượt ra ngoài khả năng của ngôn ngữ, vượt ra ngoài nhận
thức về mặt tri giác, vượt ra ngoài sự hiểu biết thông thường mà các giác quan
đem lại, vì nó là những hoạt động sâu thẳm của trí tuệ chứ không được xây dựng
dựa trên sự thông minh.
Khoa học thực nghiệm hoàn toàn được xây dựng dựa trên
giác quan của con người, vốn giới hạn. Có rất nhiều thứ mà giác quan không thể
nhận biết được. Thí dụ như chúng ta không thể nghe được một số âm thanh có tần
số quá thấp hay quá cao. Mắt chúng ta không thể nhìn thấy một số thứ vì chúng
rung động ở một tần số khác. Ngay cả suy nghĩ của chúng ta cũng rất giới hạn vì
kiến thức chúng ta có hoàn toàn dựa trên những ký ức đã được tích lũy từ trước,
hay dựa trên những điều đã được truyền dạy. Suy nghĩ của chúng ta có tính thiên
chấp. Từ sự giới hạn này dẫn đến những lý thuyết sai lầm và thành kiến hẹp hòi.
Dĩ nhiên, theo thời gian, một số lý thuyết sai lầm sẽ được sửa đổi và thay thế
bằng những lý thuyết khác. Khoa học có thể giúp con người phát triển kiến thức
và chinh phục được thiên nhiên nhưng làm sao những thứ hữu hạn có thể giải
thích những cái vô hạn được? Khoa học giải thích mọi sự dựa trên ngôn từ nhưng
quan niệm của Phật giáo vượt khỏi giới hạn của ngôn từ. Khoa học dựa trên sự
suy luận nhưng quan niệm của Phật giáo vượt khỏi những lý luận thông thường, do
đó không thể nghĩ, bàn. Nếu không thể diễn tả được bằng các lý luận hay ngôn từ
thì làm sao khoa học có thể nghiên cứu những cái vô giới hạn này?
Khoa học thực
nghiệm đặt căn bản trên trí thông minh qua khả năng suy luận và phân tích của bộ
óc, nhưng quan niệm của Phật giáo không dựa trên sự thông minh của bộ óc, mà đặt
căn bản trên một thứ trí tuệ khác gọi là trí tuệ Bát nhã (prajna), nên không
thể giải thích bằng trí thông minh được.
Tuy nhiên, sự tiến bộ của khoa học có
thể giúp chúng ta hiểu thêm về các định luật bất biến của vũ trụ, mở rộng tầm mắt
cho mọi người. Khoa học cũng giúp ích cho sự phát triển của Phật giáo trong
tương lai để đem lại hạnh phúc cho nhân loại.
Giáo sư Yeh hỏi thêm:
- Phi hành
gia Mitchell, ông có đồng ý như thế không?
Phi hành gia Mitchell gật đầu:
- Tôi
hoàn toàn đồng ý với Hòa thượng Thánh Nghiêm. Hôm nay, chúng ta đã đề cập đến
nhiều vấn đề quan trọng. Mặc dù vẫn có một số quan niệm khác biệt, nhưng điều
đó không quan trọng. Khi tôi nhìn thấy vẻ đẹp của vũ trụ, tôi cảm nhận được mối
tương quan giữa tôi và vạn vật, nhưng tôi không thể đưa ra một phương trình
toán học để giải thích sự kiện đó. Tôi cảm nhận được một điều kỳ lạ xảy đến với
tôi, nhưng tôi không biết lý giải như thế nào nữa.
Là một nhà khoa học, tôi rất
quan tâm đến những hiện tượng không thể giải thích này nên vẫn muốn tìm ra một
giải pháp hợp lý hơn. Tôi biết điều này là không dễ. Có thể mất vài chục năm,
vài trăm năm nữa để giải thích, hay có thể không bao giờ giải thích được. Tuy
nhiên, tôi muốn đưa ra những câu hỏi, và đặt vấn đề về sự tương quan giữa khoa
học với trải nghiệm tâm linh để những nhà khoa học sau này tiếp tục nghiên cứu.
Tôi biết rằng sự chết, sự tái sinh, nghiệp lực là những khái niệm hết sức quan
trọng cần được nghiên cứu kỹ lưỡng, vì tôi tin đó là những biên giới mà hiện
nay khoa học chưa đạt đến, nhưng trước sau gì chúng ta cũng phải tìm hiểu thêm.
Tôi tin rằng theo thời gian, nhân loại sẽ tiến bộ và biết đâu một ngày nào đó sẽ
đạt được sự hiểu biết sâu sắc về các quan niệm mà hiện nay họ chỉ coi là niềm
tin tôn giáo. Nếu chúng ta không học hỏi và nghiên cứu thì tôi không biết tương
lai của nhân loại sẽ ra sao.
Phi hành gia Mitchell cảm thán:
- Khi tôi từ không
gian trở về trái đất với một trải nghiệm lạ lùng, tôi thấy mình hoàn toàn khác
hẳn. Tôi có thể nhận thức rõ ràng về tình trạng của nhân loại hiện nay. Tôi thấy
rõ sự tàn bạo đang gia tăng khắp nơi. Tôi cảm nhận được nỗi đau khổ của những nạn
nhân chiến tranh như thể nó xảy ra với chính mình vậy. Tôi thấy rõ những hậu quả
mà con người đang gây ra cho trái đất này, chẳng hạn như việc tàn phá môi trường
không thương tiếc. Càng ngày con người càng trở nên ích kỷ, tham lam, vô cảm,
lãnh đạm, mà không nhìn thấy những hậu quả họ đang gây ra cho chính họ, cho gia
đình họ, hay cho đất nước của họ. Do đó, tôi thấy chúng ta cần phải thay đổi những
quan niệm lỗi thời từ trước, vượt ra khỏi những tranh chấp thường tình để hướng
đến những gì cao thượng, tốt đẹp hơn. Tiếc thay, hiện nay, chính quốc gia của
tôi cũng đang tiếp tay cho ảnh hưởng xấu xa này. Làm sao chúng ta có thể nói là
nhân loại đã văn minh hơn trước, đã tiến bộ hơn trước trong khi chúng ta không
ý thức gì về những việc chúng ta đang làm?
Giáo sư Yeh tiếp tục đặt câu hỏi:
-
Bạch Hòa thượng, chúng ta chỉ có một kiếp sống rất ngắn. Như phi hành gia
Mitchell vừa nói, liệu chúng ta có thể hy vọng rằng sẽ có sự thay đổi trong
tương lai gần hay không? Tương lai của nhân loại sẽ ra sao?
Hòa thượng Thánh
Nghiêm trả lời:
- Tôi luôn luôn lạc quan về tương lai của con người. Hiện nay
đã có hơn bảy tỷ người sống trên trái đất này, tôi tin rằng nếu vẫn có những
người biết suy nghĩ như phi hành gia Mitchell đây và họ ý thức được về sự tàn bạo,
thù hận, ích kỷ, tham lam... rồi tìm cách nuôi dưỡng lòng từ bi, hướng đến chân
thiện mỹ, thì họ có thể tạo ra những ảnh hưởng tích cực lên những người chung
quanh. Chừng nào chúng ta còn hy vọng về một tương lai tốt đẹp, thì tương lai
đó sẽ diễn ra. Nếu chúng ta tuyệt vọng, và phó mặc cho mọi việc xảy ra, thì thật
đáng tiếc.
Tại sao tôi không cảm thấy bi quan? Bởi vì cách đây không lâu tôi có
đọc một cuốn sách khoa học đề cập đến thuyết Hỗn độn, trong đó tác giả, cũng là
một nhà khoa học, đã sử dụng một thí dụ về ảnh hưởng một cánh bướm nhỏ bé rung
động chập chờn tại khu rừng xứ Brazil nhưng lại có thể gây ra một trận cuồng
phong lớn ở Texas. Một việc tuy nhỏ nhưng có thể tạo ra những tác động lớn đến
không ngờ.
Điều này có thể giải thích cho tình trạng hiện nay. Nếu một người có
ý thức và làm những điều thiện lành, dẫu chỉ là việc nhỏ, thì họ cũng có thể tạo
ra những ảnh hưởng tích cực, giúp thay đổi những người chung quanh. Nếu nhiều
người cùng chung sức làm những việc lành, thì cả thế giới sẽ thay đổi.
Hòa thượng
Thánh Nghiêm quay qua các sinh viên đang ngồi dự thính và nhấn mạnh:
- Hiện
nay, đa số mọi người đều bận rộn với sinh kế nên họ không ý thức gì về hệ quả của
hành động, lời nói và tư tưởng của mình. Họ tiếp tục tạo nghiệp cho mình và cho
những người chung quanh. Song, vẫn có người ý thức về tình trạng khủng hoảng
đang xảy ra và không ngừng kêu gọi mọi người hãy tỉnh thức, tránh làm những việc
ích kỷ, tham lam, thù hận, năng làm những việc tốt lành. Dù chỉ một hay hai người
khởi xướng làm việc tốt cũng có thể ảnh hưởng đến những người khác, giống như
phi hành gia Mitchell đây. Tôi hy vọng các giáo sư và sinh viên tham dự buổi
nói chuyện hôm nay sẽ ý thức hơn về việc làm của mình và phóng tầm mắt lên một
bình diện cao hơn như, phi hành gia Mitchell đang cố gắng đề xướng để chấm dứt
những tranh chấp thường tình, xu hướng ích kỷ, tham lam hiện tại, nhờ đó chúng
ta sẽ có được một tương lai tốt đẹp hơn.
Phi hành gia Mitchell lên tiếng:
- Tôi
hoàn toàn tâm đắc với những lời chia sẻ của Hòa thượng Thánh Nghiêm. Đôi khi
tôi cũng bi quan, nhưng tôi không muốn như thế.
Giáo sư Yeh nói lời kết cho buổi
gặp gỡ:
- Hôm nay chúng ta đã có một buổi nói chuyện thú vị và hữu ích, nhưng
chúng ta không thể tiếp tục vì Hòa thượng Thánh Nghiêm còn phải trở về chùa chuẩn
bị cho khóa lễ. Thay mặt ban tổ chức, tôi xin cảm ơn Hòa thượng Thánh Nghiêm và
phi hành gia Edgar Mitchell, mong rằng trong tương lai chúng ta sẽ có thêm những
buổi nói chuyện như thế này.
Trong lúc Hòa thượng Thánh Nghiêm rời giảng đường
thì một số sinh viên kéo lên xin được chụp ảnh kỷ niệm với phi hành gia
Mitchell. Tôi và Thomas, người bạn của Mitchell, vẫn ngồi dưới hàng ghế khán giả.
Trong suốt buổi nói chuyện, ông này vẫn giữ im lặng, nhưng không hiểu sao lúc
này ông Thomas quay qua hỏi tôi:
- Anh nghĩ sao về buổi nói chuyện này?
Tôi trả
lời rằng tôi rất quan tâm khi nghe Hòa thượng Thánh Nghiêm giải thích về mối
tương quan giữa khoa học và Phật giáo, cũng như nêu lên sự khác biệt giữa hai
lĩnh vực này.
Ông Thomas gật đầu:
- Nhưng anh nghĩ thế nào về vòng Luân hồi và
luật Nhân quả?
Tôi trả lời:
- Tôi hoàn toàn tin tưởng luật Nhân quả và Luân hồi,
gây nhân gì thì gặp quả đó. Dĩ nhiên đối với những người chưa quen thuộc với
quan niệm này thì có thể đây là một điều khó tin, nhất là những người thiên về
khoa học hay những người luôn đòi hỏi phải có bằng chứng rõ ràng.
Ông Thomas tiếp
tục hỏi:
- Nếu thế, anh có tin rằng con người có linh hồn không? Sau khi chết,
linh hồn này sẽ đầu thai vào một thể xác khác, kiếp sống chứ?
Lần đầu tiên tôi
thấy vị doanh nhân vốn luôn giữ thái độ im lặng trầm tĩnh này lại chịu nói nhiều
như thế. Hẳn đây phải là một đề tài mà ông quan tâm.
Tôi giải thích:
- Linh hồn
chỉ là một danh từ thông thường được sử dụng để gọi tên một cái gì đó tồn tại
sau khi thể xác này chết đi. Lúc nãy, Hòa thượng Thánh Nghiêm giải thích rằng
theo quan niệm của Phật giáo thì cái duy nhất tồn tại sau khi chết là tàng thức
(A lại da thức), một cái kho chứa mọi loại hạt giống (chủng tử), tốt cũng như
xấu, mà chính người đó đã gieo.
Một lần nữa, tôi cảm thấy ngạc nhiên khi ông
Thomas hỏi tiếp:
- Nếu thế thì theo anh, linh hồn và tàng thức khác nhau như thế
nào?
Đây là một câu hỏi khó giải thích rõ ràng nên tôi trả lời vắn tắt:
- Theo
sự hiểu biết của tôi thì linh hồn ám chỉ một cái gì đó không thay đổi, di chuyển
từ kiếp này qua kiếp khác, giống như một người đi du lịch qua thời gian, qua
nhiều kiếp sống. Trong khi tàng thức là một cái gì đó sống động, luôn luôn thay
đổi, nó là tập hợp của nhiều chủng tử, được góp lại qua những trải nghiệm trong
nhiều kiếp.
Ông Thomas gật đầu như thể tâm đắc với một điều gì đó thú vị:
-
Theo như anh giải thích về linh hồn thì sau khi chết, người đó sẽ tái sinh
thành một người khác ở kiếp sau. Dù người đó làm gì chăng nữa thì vẫn tái sinh
trở lại thành người, vì linh hồn là một cái gì đó bất tử, không thay đổi. Trong
khi quan niệm của Phật giáo về tàng thức lại cho rằng tùy hoàn cảnh hay nhân
duyên, sau khi chết, một người có thể tái sinh làm người hay súc vật. Anh nghĩ
sao về điều này?
Tôi giải thích, dù tin rằng ông Thomas có thể đã biết:
- Đúng
thế, tùy nhân duyên tốt hay xấu mà sau khi chết, một người có thể tái sinh
thành người hay thành súc vật. Hơn nữa, họ cũng có thể trở thành ma, quỷ hay xuống
địa ngục. Do đó, vòng Luân hồi không chỉ giới hạn trong thế giới của loài người
mà còn có cõi giới khác nữa.
Ông Thomas mỉm cười, đồng cảm với tôi:
- Hay lắm!
Điều anh nói rất thú vị và làm tôi bất ngờ vì có người am hiểu, đồng cảm. Có lẽ
chúng ta cần gặp nhau thêm nhiều lần nữa để thảo luận, chia sẻ về đề tài thú vị
này. Tôi có những trải nghiệm riêng và muốn tìm hiểu thêm về các kiến thức của
Phật giáo về Luân hồi, Nhân quả, duyên nghiệp v.v… Tiếc rằng giờ đây giáo sư
Yeh và ông Mitchell đã xong việc. Tôi và ông Mitchell phải trở về khách sạn thu
xếp ra phi trường để kịp chuyến bay về New York chiều nay.
Chúng tôi tạm biệt
nhau, ông Thomas chủ động trao cho tôi tấm danh thiếp và thiện ý mời tôi nếu có
dịp ghé qua New York thì cho ông biết. Tôi cũng lịch sự đáp lại và hứa sẽ liên
lạc với ông ấy để trao đổi thêm về đề tài thú vị này.
Tuy nhiên, vì bận rộn với
nhiều công việc nên tôi dường như quên hẳn cuộc gặp gỡ và lời hứa này trong nhiều
năm.
Năm năm sau, vào năm 2013, tôi có dịp tham dự một buổi hội thảo về
khoa học ở New York và sau đó đi ăn tối tại một nhà hàng gần khách sạn. Vừa bước
vào nhà hàng và đang chờ đợi để được đưa đến bàn ăn thì tôi bất ngờ nghe có tiếng
gọi tên mình và thấy ông Thomas cùng vợ đang ngồi tại một bàn gần cửa sổ. Ánh mắt
ông lộ vẻ vui mừng khi thấy tôi và lịch sự mời tôi ngồi ăn cùng với vợ chồng
ông ấy.
Ông Thomas mở lời:
- Thật bất ngờ được gặp anh ở New York, sao anh đến
mà không báo cho tôi biết? May là có duyên gặp anh ở đây, chúng ta đã có lời hẹn
và chưa có dịp nói hết câu chuyện tại Đài Bắc năm năm về trước. Anh có muốn
chúng ta tiếp tục thảo luận sâu về đề tài này không?
Thật ra lúc đó tôi chưa kịp
nhớ về câu chuyện khi trước mà ông vừa nhắc, và cũng ngần ngại vì sự hiện diện
của Angie, vợ ông. Có lẽ đoán được ý tôi, ông Thomas trách nhẹ:
- Này anh bạn,
anh đã nhất trí rằng chúng ta cần nhiều thời giờ hơn để tiếp tục đề tài còn dở dang
này. Hay là anh ghé qua nhà tôi để chúng ta tiếp tục câu chuyện nhé. Anh thấy
được không? Anh còn ở đây đến bao giờ?
Đọc được sự chân thành trong ánh mắt
Thomas. Dĩ nhiên tôi không thể từ chối một lời mời thật lòng như thế nên đã đồng
ý ghé thăm ông ấy vào hôm sau. Ông Thomas căn dặn:
- Anh cho tôi địa chỉ khách
sạn và thời gian anh có thể đi, ngày mai tôi sẽ cho người đến đón anh.
Hôm sau
tôi dành buổi tối đến nhà riêng của ông. Chúng tôi tiếp tục trao đổi về đề tài
Luân hồi, Nhân quả. Buổi nói chuyện đặc biệt này kéo dài trong nhiều giờ, và đến
lúc đó tôi khẳng định được là ông Thomas có mối quan tâm đặc biệt đến Luân hồi.
Hôm đó, ông Thomas hỏi:
- Anh nói rằng anh tin vào sự Luân hồi, Nhân quả nhưng
đó chỉ là một niềm tin tôn giáo hay còn là điều gì khác nữa? Là một nhà khoa học
quan tâm nhiều đến triết học, đến nhiều tôn giáo, nhất là Phật giáo, ngoài niềm
tin ra, anh phải có bằng chứng nào đó chứ? Tôi trả lời:
- Là một nhà khoa học từng
nghiên cứu nhiều về Phật giáo, tôi không chỉ đơn thuần tin vào giáo lý của Đức
Phật mà đã trực tiếp trải nghiệm, quan sát, kiểm chứng một giai đoạn dài. Tôi
đã suy ngẫm, phân tích một cách khoa học về những lời dạy của Ngài trong khá
nhiều năm và thấy nó rất hợp lý và giải thích được vì sao nó trở thành một chân
lý. Do đó, đây không chỉ là một niềm tin thuần túy, dù ngày nay đạo Phật đã có
nhiều biến tướng không còn nguyên bản - ngay ở những nước Á Đông - mà không ít
người đã nhận ra nhiều người không tốt đã dùng đạo Phật, chùa chiền, tín ngưỡng
Phật giáo để trục lợi và phục vụ cho mục đích, lợi ích riêng của họ. Trở lại với
bằng chứng Luân hồi, đã có rất nhiều bằng chứng về sự tái sinh trong các kiếp sống
như trường hợp của Edgar Cayce, một nông dân tại tiểu bang Kentucky với học vấn
chưa quá bậc trung học. Chỉ qua một cơn bạo bệnh mà ông ấy đã nhớ lại kiếp sống
trước kia, kiếp sống mà ông là một thầy thuốc. Không những thế, từ đó ông có thể
chẩn bệnh, chữa bệnh chính xác hơn những y bác sĩ đương thời. Ông đã để lại nhiều
tài liệu y học giá trị mà hiện nay nhiều trường đại học y vẫn đang nghiên cứu
và áp dụng.
Ông Thomas mỉm cười và gật đầu đồng ý:
- Tôi có đọc qua một số tư
liệu về trường hợp Edgar Cayce. Đây thực sự là một trường hợp đặc biệt về Luân
hồi, nhưng chắc còn những trường hợp khác nữa chứ?
Tôi nói tiếp:
- Nếu không
hoàn toàn tin tưởng vào vòng Luân hồi thì có thể giải thích sao về trường hợp của
những đứa trẻ với năng khiếu đặc biệt mà chúng ta thường gọi là thần đồng? Chắc
ông cũng biết Mozart soạn nhạc từ năm lên bốn và chủ trì các buổi hòa tấu từ
năm lên tám. Tuy còn rất nhỏ nhưng Mozart đã có thể soạn nhạc cho hàng chục loại
nhạc khí khác nhau chỉ trong vài ngày mà không hề qua một lớp dạy nhạc nào.
Beethoven cũng thế, ông ấy bắt đầu soạn nhạc từ lúc mới lên ba và có thể sử dụng
hàng chục loại nhạc khí khác nhau. Ai đã dạy những đứa trẻ này như thế nếu
không phải họ đã trải qua rất nhiều kiếp sống từng học và am hiểu sâu về âm nhạc?
Hẳn ông cũng biết Galileo vừa là một nhà toán học, vừa là một nhà thiên văn học
đã đưa ra bằng chứng về quỹ đạo của các hành tinh từ khi còn bé. Ông ấy đã vẽ bản
đồ vũ trụ với những hành tinh mà khi đó kính viễn vọng còn chưa được phát minh
ra. Ngay cả những nhà khoa học thông thái thời bấy giờ chưa mấy ai biết về những
hành tinh này. Ai đã dạy cho một đứa bé chưa đầy mười tuổi, chưa học qua bậc tiểu
học những kiến thức tuyệt vời như thế, nếu không phải ông ấy đã từng được sinh
ra vào những kiếp sống ở những nền văn minh mà nay đã biến mất trên bề mặt địa
cầu?
Ông nghĩ sao về một đứa bé mới lên năm như Blaise Pascal có thể giải những
bài toán cực kỳ phức tạp, kể cả những phương trình toán làm nhức đầu những bậc
thầy về toán khi đó? Khoa học giải thích trường hợp này như thế nào nếu chúng
ta không tin rằng con người đã trải qua nhiều kiếp sống và đã từng được dạy bảo,
học hỏi trong quá khứ?
Ông Thomas hỏi:
- Anh nghĩ rằng những người này có thể hồi
tưởng lại kiến thức mà họ đã trải qua, đã học được ở kiếp trước hay sao? Tại
sao những người khác lại không nhớ được gì?
Tôi trả lời:
- Nếu một người được
rèn luyện kỹ lưỡng một chuyên môn nào đó và tiếp tục theo đuổi chuyên môn ấy
trong nhiều kiếp sống tiếp theo, do những nhân duyên đặc biệt, họ sẽ có thể nhớ
lại được những kiến thức tiềm thức này.
Thí dụ như văn hào John Stuart Mill có
thể nói, viết thông thạo tiếng Hy Lạp và tiếng Latinh khi mới lên bốn tuổi mặc
dù ông sinh ra ở nước Anh và cha mẹ ông chỉ biết nói tiếng Anh. Không những thế,
khi vừa lên tám, ông đã viết hẳn một cuốn sách gần tám trăm trang về lịch sử
triều đại các vua chúa La Mã với những niên đại, năm tháng rõ ràng đến từng chi
tiết, đến nỗi các nhà sử học phải ngạc nhiên về độ chính xác của nó.
Đi xa hơn
vào lĩnh vực văn chương, ta sẽ thấy từ năm lên ba, văn hào Voltaire thuộc lòng
những bài luận xuất sắc của các bậc thầy văn chương sống ở thế kỷ trước. Theo
quan niệm của Phật giáo thì tất cả những gì mình làm hay suy nghĩ đều được lưu
giữ lại trong tàng thức (A lại da thức) dưới hình thức là những chủng tử. Khi
nào những chủng tử này phát động đều do những nhân duyên đặc biệt, vượt ngoài sự
hiểu biết của chúng ta.
Có lẽ ông cũng thấy, trong cùng một gia đình, cùng cha
mẹ, được nuôi dưỡng trong cùng hoàn cảnh như nhau, được giáo dục như nhau nhưng
tại sao anh chị em, mỗi người một tính nết, không ai giống ai. Có người thích
âm nhạc, có người thích khoa học, có người thích thể thao. Có người mới nghe giảng
bài đã hiểu ngay, trong khi người khác học mãi cũng không hiểu gì cả. Tại sao lại
có sự khác biệt như thế? Nếu không vận dụng quan niệm về nhân quả thì người ta
phải giải thích như thế nào đây? Phải chăng tính tình, nhân cách con người đều
chịu ảnh hưởng của cái nhân, hay những chủng tử, đã được gieo trồng trong quá
khứ? Một người thợ giỏi vì đã từng hành nghề đó trong quá khứ. Một học sinh
thông minh vì đã học qua môn đó từ trước rồi. Điều này có thể giải thích tại
sao có người giỏi toán trong khi người khác có tài về âm nhạc.
Chúng tôi tiếp tục
bàn luận về đề tài này đến khuya và cảm thấy rất tâm đắc vì có nhiều ý tưởng
trùng hợp. Đến lúc đó tôi thực sự ngạc nhiên khi biết vị doanh nhân này có một
kiến thức rất rộng và rất quan tâm đặc biệt về luật Luân hồi. Ông cũng tỏ ra rất
cởi mở, khác hẳn lần gặp đầu tiên.
Ông Thomas khẩn khoản mời tôi ghé lại thăm
ông mỗi khi có dịp ghé qua New York. Lần này tôi bắt tay ông hứa sẽ ghé thăm
ông để tiếp tục đàm đạo về đề tài này. Kể từ lúc đó, chúng tôi đã trở thành bạn
thân với nhau.
Nhiều năm sau tôi mới biết lý do tại sao ông Thomas lại quan tâm
đến đề tài này, vì ông đã có những trải nghiệm sâu sắc về Luân hồi qua một trường
hợp đặc biệt mà ông đã kể lại cho tôi.
Vào một ngày cuối thu năm 2016,
tôi đến thăm ông Thomas tại căn nhà nghỉ dưỡng của ông ở Colorado. Hôm đó chỉ
có hai người, cuộc chuyện trò được bắt đầu với những phát minh khoa học công
nghệ hiện đại, ông hỏi tôi:
- Là một khoa học gia chuyên nghiên cứu về công nghệ,
anh nghĩ sao về những phát minh công nghệ ngày nay?
Tôi trả lời:
- Ngày nay,
khoa học đã phát triển vượt bậc. Công nghệ phát triển nhanh với tốc độ chóng mặt.
Một sản phẩm vừa được phát minh ra đã có thể trở nên lỗi thời vì ngay sau đó đã
có sản phẩm khác mới hơn xuất hiện. Một lý thuyết mới vừa được đề xướng đã có
những lý thuyết khác được đưa ra, thay đổi lý thuyết đó.
Ông Thomas lắc đầu tỏ
vẻ không tán đồng:
- Nếu công nghệ phát triển nhanh như anh nói thì chúng ta cần
xem xét cẩn thận ảnh hưởng của nó trong thời đại này, rồi tự hỏi xem liệu chúng
ta có đi quá trớn hay không. Tuy khoa học đã đạt được những bước tiến lớn và
đây được coi là điều tốt, nhưng chúng ta cũng cần thận trọng đối với tác động của
nó trong tương lai. Tiến trình lịch sử đôi khi lặp lại những sai lầm quá khứ mà
chúng ta vô tình không nhận thức rõ hay chưa học được bài học chúng ta cần học.
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao ông nghĩ như thế?
Ông Thomas mỉm cười trả lời:
-
Anh là người nghiên cứu về công nghệ nhưng có bao giờ anh nghĩ rằng trong sự tiến
bộ lại ẩn chứa mầm mống của tai họa không ai ngờ đến không? Thí dụ như việc
phát minh ra thuốc súng đã châm ngòi cho những cuộc chiến tranh khốc liệt. Sự
tiến bộ của khoa học về nguyên tử đưa đến thảm họa chiến tranh hạt nhân. Hiện tại,
anh nghĩ sao về những thiết bị như iPhone mà Apple đang quảng cáo khắp nơi?
Tuy
ngạc nhiên về câu hỏi của ông Thomas nhưng tôi cũng rút cái điện thoại iPhone
trong túi mình ra:
- Theo tôi thì đây là một phát minh tuyệt vời. Ông xem này,
nó vừa là điện thoại, vừa là máy nghe nhạc, vừa là máy ảnh, vừa là máy điện
toán có thể giúp ta tìm kiếm tin tức trong vài giây. Tất cả thu gọn vào một vật
nhỏ bé có thể đút vừa túi áo. Nếu nó không phải là một phát minh tuyệt vời thì
còn gì nữa đây?
Ông Thomas lắc đầu:
- Trên phương diện công nghệ thì đó là một
phát minh tuyệt vời, nhưng chúng ta cũng cần xét đến hệ quả của nó nữa chứ.
Theo tôi, những thứ này có thể là một tai họa cho nhân loại. Có thể anh không để
ý đến đấy thôi, nhưng anh hãy nhìn bọn trẻ mà xem. Thay vì chú tâm vào việc học,
chúng chỉ biết theo dõi mọi thứ qua chiếc iPhone và bị “thôi miên” trong một
“thế giới ảo” qua màn hình nhỏ bé này. Những người trẻ ngày nay như đều bị một
loại “ma lực” hấp dẫn, rút hết sinh lực và trí thông minh của chúng. Trong
tương lai, công nghệ sẽ tàn phá nhân loại vì họ sẽ đánh mất rất nhiều thứ mà thế
hệ trước đã xây dựng. Công nghệ là con dao hai lưỡi, nhưng đa số không hiểu rõ
điều này. Họ coi đó là văn minh, là tiến bộ mà không biết rằng thế hệ tương lai
sẽ phải trả một cái giá rất đắt cho những phát minh mà họ coi là kỳ diệu này.
Những điều ông Thomas nói làm tôi liên tưởng đến việc các sinh viên của tôi
ngày hôm nay không còn chăm chỉ học như trước nữa. Nhiều người đến lớp nhưng vẫn
bị xao lãng bởi những tin tức trong chiếc iPhone, không chú tâm vào những điều
đang được giảng dạy. Tôi thường phải nhắc nhở họ chăm chú nghe bài giảng nhưng
chỉ vài phút sau, một số sinh viên lại lén lút rút iPhone ra, lướt Facebook, rồi
gửi tin nhắn cho nhau.
Ông Thomas tiếp tục:
- Tệ hơn nữa là những cái như video
game. Những thứ này đã dạy cho người trẻ những hành vi kỳ lạ, khác thường, khó
lòng tưởng tượng được. Chúng học cách bắn giết, cướp bóc trong những cuộc phiêu
lưu của “thế giới ảo”, rồi về sau không còn biết rõ đâu là thật và đâu là ảo nữa.
Do đó, chúng sẽ mất đi khả năng phân biệt đâu là đúng, đâu là sai. Từ những đứa
trẻ cho đến những thanh niên lớn tuổi, ai ai cũng say mê với những điều nguy hại
mà phần lớn chỉ coi là trò chơi vô hại này. Không ai hiểu rằng tuy công nghệ có
thể mang đến nhiều lợi ích nhưng chúng cũng tiềm ẩn nhiều mối hiểm nguy. Những
người trẻ chưa biết phân biệt, chưa được dạy bảo cẩn thận nên dễ dàng trở thành
nạn nhân của thứ “ma lực” này. Chúng dán tai, dán mắt vào chiếc điện thoại nhỏ
bé và quên đi tất cả mọi sự xảy ra chung quanh, bởi vì chúng chỉ biết sống
trong “thế giới ảo” mà thôi. Có những đứa trẻ quên ăn, quên ngủ và sống trong
“thế giới ảo” này, do đó chúng không thể trưởng thành, không có trách nhiệm với
thế giới chung quanh, trở nên dửng dưng vô cảm, vì đầu óc của chúng đã bị “thôi
miên” rồi.
Tuy có phần đồng ý với nhận xét của ông Thomas, nhưng tôi cũng góp
thêm vài lời để bào chữa:
- Khoa học công nghệ đã giúp ích cho con người rất
nhiều. Chúng ta cần có cái nhìn cởi mở với những phát minh trong nhiều lĩnh vực,
thay vì quy tội cho chiếc iPhone.
Ông Thomas bật cười:
- Khoa học công nghệ hiện
nay còn nhiều thiếu sót cần phải bổ túc thêm. Người ta không thể dạy khoa học kỹ
thuật mà không đề cập đến đạo đức hay bổn phận của những người có trách nhiệm
làm việc trong đó. Khoa học mà không có lương tâm, công nghệ mà không có trách
nhiệm thì chỉ mang lại thảm họa cho nhân loại sau này.
Ông Thomas cảm thán:
- Với
tốc độ phát triển quá nhanh, với thị trường tiêu thụ khổng lồ, với số thu nhập
quá cao, người ta khó có thể kìm hãm được đà phát triển của những sản phẩm này,
từ đó dẫn đến những lỗi lầm khó sửa. Tôi không lên án khoa học hay công nghệ,
tôi chỉ muốn nói rằng điều chúng ta cần làm là phát triển khả năng phân biệt
đúng sai, tốt xấu và sử dụng trí tuệ để biết rõ những hậu quả chúng ta có thể
tránh được.
Ông Thomas im lặng một lúc như để hồi tưởng về một điều gì đó, rồi
nói tiếp:
- Anh có biết rằng điều này đã xảy ra nhiều lần trong quá khứ rồi
không? Vì thiếu ý thức nên con người đã để cho những sản phẩm có “ma lực” này
rút hết sinh lực của họ. Đa số mọi người trở nên thụ động, quên đi tất cả mọi sự
chung quanh. Họ không còn sống với sự tỉnh thức nữa mà đã trở thành những cỗ
máy hoàn toàn vô cảm trước hoàn cảnh xã hội. Họ chỉ biết nghĩ đến mình và trở
nên ích kỷ, tham lam, tàn bạo không khác gì loài vật. Theo thời gian, nhân loại
sẽ mất đi khả năng nhận xét hay hiểu biết, vì những thứ được gọi là “công nghệ”
này sẽ kết nối vào bộ óc của họ, làm tê liệt cơ quan này, khiến con người không
còn biết suy nghĩ mà trở thành một kiểu người sống không ra sống, chết không ra
chết, hoàn toàn thụ động theo mệnh lệnh của cái “ma lực” kia.
Nếu không ý thức
rõ ngay từ lúc này, sự thông minh của chúng ta sẽ dần dần bị thay thế bởi những
hiện tượng tâm thức “máy móc” mà chúng ta cho là tiến bộ. Chúng ta phải biết
phân biệt giữa bộ óc thông minh (intelligence) và trí tuệ nội tại (wisdom).
Thông minh mà thiếu trí tuệ sẽ đưa con người vào những nhận xét mê lầm. Khi đó,
con người sẽ trở thành những cỗ máy, những “xác sống”. Bộ óc không biết suy
nghĩ sẽ dễ dàng bị kiểm soát để làm những việc phi nhân tính. Trong tương lai,
nếu không biết sử dụng bộ óc để phân biệt phải trái, đúng sai, con người sẽ trở
thành những cỗ máy chỉ biết làm những gì được sai khiến.
Ông Thomas ngừng lại
như để cho tôi suy nghĩ về điều ông nói, rồi tiếp tục với lời lẽ xúc động:
- Là
nhà khoa học về công nghệ, anh có thể nghĩ rằng tôi là người không am hiểu về sự
tiến bộ của khoa học ngày nay, nhưng anh có biết tôi đã từng sống trong hoàn cảnh
tương tự từ hàng ngàn năm trước rồi không? Tôi đã trải nghiệm nhiều điều mà
ngày nay tuy chưa xảy ra nhưng rồi sẽ xảy ra, và tôi hiểu rõ hậu quả của nó. Hiện
nay anh cũng biết, với sự tiến bộ của khoa học, người ta có thể ghép những tế
bào của động vật vào cơ thể con người, hay đặt vào cơ thể con người những thiết
bị gọi là “trí tuệ nhân tạo” khiến họ phát triển những khả năng mà người thường
không thể làm được. Anh có thể coi đó là người hay là “nửa người, nửa siêu
nhân” (cyborg) cũng được. Anh có biết hệ quả của việc này là thế nào không?
Hiện
nay thế giới đang trải qua giai đoạn hỗn loạn, xáo trộn, mà thật ra thì mọi quốc
gia đều đang gánh chịu những nghiệp quả mà họ đã gây ra trong quá khứ. Mỗi quốc
gia, cũng như mọi cá nhân, đều có những nghiệp quả riêng do những nhân mà họ đã
gây ra. Cá nhân thì có “biệt nghiệp” riêng của từng người, nhưng quốc gia thì
có “cộng nghiệp” mà tất cả những người sống trong đó đều phải trả. Chu kỳ
“thành, trụ, hoại, diệt” như anh đã biết là thứ mà mỗi người, mỗi quốc gia, đều
không thể tránh khỏi. Ngay như trái đất cũng thế, nó cũng phải trải qua thời
gian được hình thành, phát triển, rồi suy thoái và tàn lụi. Tuy nhiên, đời người
thì ngắn, còn sự thay đổi của một quốc gia hay một nền văn minh thì kéo dài lâu
hơn nên không mấy ai ý thức được điều này. Nếu nhìn vào lịch sử, anh có thể thấy
những nền văn minh phát triển cực thịnh rồi suy tàn như Ai Cập, Hy Lạp, La Mã,
gần đây Tây Ban Nha, Anh, Pháp, Đức, Ý cũng đang trên đà suy thoái, và không biết
chuyện gì sẽ xảy ra trong tương lai.
Tôi lặng người một hồi lâu. Tôi thật không
ngờ một người vốn ít nói như ông Thomas lại hùng hồn với những nhận xét sâu sắc
đến thế. Điều ông nói cũng là điều mà tôi đang trăn trở bấy lâu nay. Trong cuộc
nghiên cứu về trí thông minh nhân tạo (AI) và học máy (machine learning), tôi
đã bàng hoàng khi thấy những con robot thông minh trong phòng thí nghiệm tại Đại
học Carnegie Mellon nơi tôi làm việc, có thể làm được những điều mà chúng tôi
không ngờ. Khi tôi cài những thuật toán học máy phức tạp vào những con robot
này để chúng chơi cờ vua với nhau, chúng đã có thể học và tính hàng trăm nước cờ
để thắng đối thủ. Điều mà tôi và các giáo sư tại đây không ngờ là những con
robot “vô tri giác” này lại có thể tìm cách lừa nhau để thắng cuộc - không phải
bằng việc đoán trước nước cờ của đối thủ, mà tìm cách lừa bịp lẫn nhau và đây
là điều chúng tôi không hề lập trình cho chúng. Sự tiến bộ của trí thông minh
nhân tạo đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát của chúng tôi.
Tôi gật đầu đồng ý:
- Ông
nói đúng đó, phần lớn những khoa học gia như chúng tôi vẫn đang chìm đắm trong
những ảo tưởng về sự tiến bộ của khoa học nhưng không mấy ai nghĩ đến những hậu
quả trong tương lai. Hiện nay, một số phụ huynh đã bắt đầu đặt vấn đề về việc
trẻ em nghiện Internet, video game; và một số khoa học gia cũng lưu ý đến việc
phát triển quá nhanh của trí thông minh nhân tạo nhưng chưa ai tìm được giải
pháp hợp lý cho tình huống này. Nhưng ông vừa nói rằng ông đã trải qua kinh
nghiệm này trong quá khứ, vậy câu chuyện là thế nào?
Ông Thomas im lặng suy
nghĩ, rồi ôn tồn trả lời:
- Thật tình tôi cũng không muốn nói ra điều này.
Nhưng khi xưa, tôi rất tâm đắc khi nghe Hòa thượng Thánh Nghiêm nói rằng chỉ cần
một số người ý thức làm những việc thiện lành, dù là việc nhỏ, họ cũng có thể tạo
ra ảnh hưởng tích cực, có thể đem lại sự thay đổi lớn. Nếu một cánh bướm nhỏ có
thể tạo ra một trận cuồng phong thì việc chia sẻ những trải nghiệm của tôi qua
những kiếp sống cũng có thể giúp nhiều người hiểu biết về những quy luật bất biến
trong vũ trụ, và biết đâu họ sẽ nhận ra điều gì đó để thay đổi. Khi trước chúng
ta đã bàn luận rất nhiều về Luân hồi và Nhân quả, nhưng tôi chưa nói rõ cho anh
biết tại sao tôi lại quan tâm đến việc này. Nhân buổi nói chuyện ngày hôm nay,
tôi có thể chia sẻ với anh về những kiếp sống của tôi trong quá khứ.
Tôi lặng
người nhìn ông Thomas. Ông dừng lại một lúc như để cho tôi suy nghĩ. Tuy ngạc
nhiên nhưng tôi vẫn giữ im lặng, không muốn cắt đứt dòng tư tưởng của người bạn
này. Ông Thomas đắm chìm trong suy tư một lúc khá lâu, rồi nói:
- Điều tôi chia
sẻ sau đây chỉ là trải nghiệm của tôi qua những kiếp sống trước kia mà thôi. Dĩ
nhiên anh có thể tin hoặc không tin, tùy theo sự hiểu biết của anh.
Trong thế
giới khoa học quay cuồng ngày nay, dĩ nhiên khó ai tin được những điều kỳ lạ mà
ông Thomas đã kể cho tôi ngày hôm đó.
Có nói ra thì hầu hết mọi người sẽ cho rằng
đó chỉ là sự tưởng tượng, do đó tôi không có ý định chia sẻ câu chuyện được
nghe với ai mà chỉ giữ riêng cho mình.
Tôi đã thấy một người nổi tiếng như phi
hành gia Edgar Mitchell khi đề xướng việc nghiên cứu các hiện tượng tâm linh,
các quy luật vũ trụ ẩn tàng trong thiên nhiên, sự hiện hữu của sinh vật ngoài
hành tinh, sự tương quan giữa vũ trụ và con người mà còn bị dư luận truyền
thông chỉ trích thì mấy ai tin được những chuyện về tiền kiếp hay luân hồi?
Khi anh Nguyễn Văn Phước, người sáng lập Công ty Văn hóa Sáng tạo Trí Việt -
First News trao đổi về những kiến thức tâm linh trong những cuốn sách tôi đã
phóng tác, viết lại từ nhiều năm về trước, tôi vô tình nhắc đến câu chuyện đó,
anh Phước đề nghị tôi nên chia sẻ câu chuyện thú vị này với độc giả Việt thông
qua một cuốn sách. Lúc đầu, tôi rất ngại vì đã không viết về những đề tài này
trong nhiều năm. Tôi đã dự định gác bút, kể cả việc viết về các đề tài liên
quan đến công nghệ. Tuy nhiên, với sự khích lệ và nguồn cảm hứng từ anh Phước
khi anh tin tưởng câu chuyện từ những nhân vật có thật này sẽ có thể giúp đỡ
cho nhiều người về mặt tinh thần - tôi đã liên lạc với ông Thomas để hỏi xin ý
kiến về việc viết một cuốn sách kể về các trải nghiệm tiền kiếp của ông. Thoạt
đầu tôi đã nghĩ ông Thomas có thể sẽ không chấp thuận, vì câu chuyện của ông
quá đặc biệt và riêng tư. Nhưng bất ngờ thay ông đã đồng ý, với một điều kiện
duy nhất là không để tên tuổi thật của ông và những người có liên quan trong những
câu chuyện này. Ông nói: “Anh có thể viết và chia sẻ những điều này với những
người bạn của anh nhưng không nên để tên thật của tôi trong đó. Tôi không muốn
trở thành đề tài cho dư luận bàn ra tán vào”.
Tôi biết ông Thomas là một doanh
nhân nổi tiếng và thành công trên thị trường tài chính New York. Những cộng sự,
đồng nghiệp và bạn bè của ông đều là những nhân vật tên tuổi trong xã hội nước
Mỹ và thế giới hiện nay. Hiển nhiên không ai muốn trở thành đề tài cho những tờ
báo lá cải hay các trang mạng xã hội đàm tiếu.
Trong mấy năm qua, tôi bay đến
New York gặp ông Thomas nhiều lần để ghi kỹ lại về những câu chuyện tiền kiếp lạ
thường của ông. Chúng tôi nói chuyện với nhau một cách rất khẩn trương nhưng
thân mật, tự nhiên để ông có thể chia sẻ sâu và chi tiết hơn về những trải nghiệm
tiền kiếp của mình. Lúc đầu, chúng tôi không đi theo thứ tự nào vì đây không phải
là một cuộc phỏng vấn hay để viết một cuốn hồi ký. Tôi ghi chép lại tất cả những
chi tiết quan trọng, rồi hệ thống lại những thông điệp trong câu chuyện của
ông. Tôi cũng trao đổi liên tục với ông trong quá trình viết, để ông góp ý và
biên tập, chỉnh sửa kỹ lưỡng hơn, đúng theo những gì ông muốn truyền đạt.
Sau
đó, ông đề nghị: “Theo tôi thì chúng ta nên thay đổi vài chi tiết trong đó, viết
lại theo thứ tự thời gian, để có thể trở thành một cuốn sách sinh động chứ
không phải chỉ là những mẩu đối thoại liên tục giữa chúng ta. Đây không phải là
tài liệu nghiên cứu hay một cuộc phỏng vấn dài với những câu hỏi và trả lời”.
Và ông khẳng định sau một lúc trầm ngâm: ”Đây sẽ là một cuốn sách đặc biệt!”.
Vì thế tôi chỉnh sửa lại theo thứ tự thời gian, qua các kiếp sống, theo dòng lịch
sử, và viết ”văn học hóa” một số chi tiết, câu chuyện để trở thành một cuốn
sách lôi cuốn, chuyển tải những thông điệp quan trọng chứ không chỉ là tổng hợp
các tư liệu. Tôi mong các bạn đọc xong cuốn sách cũng đồng ý như thế, và nếu có
sơ suất gì, xin hãy lượng thứ bỏ qua.
Và sau đây là câu chuyện của ông Thomas.
PHẦN MỘT
COLORADO CUỘC GẶP TIỀN ĐỊNH
Hôm đó, tôi - Thomas - đang làm việc thì
Angie, vợ tôi, bước vào với tờ quảng cáo trên tay:
- Em vừa tìm thấy một căn
nhà nghỉ dưỡng đang rao bán ở Colorado. Xem hình ảnh thì thấy nó đúng như ý anh
muốn. Anh có muốn đi xem không?
Tôi liếc vội qua tờ quảng cáo. Quả thật đó là một
căn nhà rất đẹp, tọa lạc trên một ngọn đồi nhìn xuống hồ nước trong xanh, chung
quanh cây cối um tùm, trông rất thanh bình. Đã từ lâu tôi đã có ý định tìm mua
một căn nhà nghỉ dưỡng trên núi thuộc vùng Colorado, nhưng không thích những
thành phố đông đúc đầy du khách như Vail hay Colorado Spring mà chỉ muốn tìm một
nơi thật yên tĩnh, vắng vẻ, gần gũi thiên nhiên. Là chủ của một công ty tài
chính lớn đang phát triển, tôi cần có một căn nhà nghỉ dưỡng yên tĩnh để có thể
thư giãn khi cần thiết. Tôi đã đi xem nhiều nhà nghỉ dưỡng ở khắp nơi, từ New
England, Maine, đến Florida, Arizona nhưng không nơi đâu tôi thích bằng
Colorado với rặng Rocky uy nghi, cao lớn sừng sững.
Tôi nói với Angie:
- Hiện
nay anh đang bận, em cứ đi xem trước, thấy được thì mua. Em gọi Charles cho
mang phi cơ đến để đi cho nhanh. Nếu cần thì rủ Andrew hay Connie cùng đi với
em cho vui.
Charles là quản gia của gia đình. Andrew và Connie là đôi vợ chồng
trẻ, tuy làm dưới quyền tôi nhưng chúng tôi vẫn coi họ như con vì chúng tôi
không có con cái.
Angie nói đùa:
- Không có anh thì làm sao em quyết định được?
Nếu mua mà không đúng như ý anh thì sao?
Tôi liếc qua tờ quảng cáo với những
con số, rồi bật cười:
- Nếu em thấy được thì cứ mua. Giá như vậy thì có sao
đâu. Angie cũng bật cười vì thường mọi công việc chi tiêu trong gia đình, ít
khi nào tôi để ý đến. Sở hữu một công ty lớn trị giá hàng trăm triệu đô-la, con
số vài trăm ngàn cho căn nhà nghỉ dưỡng không phải là số tiền tôi phải quá bận
tâm.
Khi Angie vừa ra khỏi phòng, tôi gọi điện ngay cho Charles:
- Anh gọi phi
công lấy phi cơ riêng đưa nhà tôi đi Colorado nhé. Tôi nghĩ Angie đã tìm được một
căn nhà thích hợp rồi. Nếu Angie thấy được thì gọi ngay cho Brian biết để làm
thủ tục.
Brian là luật sư riêng của gia đình, rất thành thạo trong mọi công việc,
kể cả vấn đề tài chính. Thấy thái độ của Angie, tôi biết nàng đã ưng ý ngôi
nhà. Một khi Angie thích thì không có lý do nào để tôi từ chối.
Chiều hôm đó,
tôi nhận được điện thoại của Angie:
- Anh ơi, căn nhà đẹp lắm, đẹp hơn em nghĩ
nhiều. Em thích vô cùng. Connie cũng nói rằng đó là căn nhà tuyệt vời. Có đầy đủ
tiện nghi, đã được tân trang cẩn thận. Chung quanh nhà rất yên tĩnh. Căn nhà gần
nhất cũng cách đó khá xa nên không lo ai nhòm ngó hay quấy rầy chúng ta nghỉ
ngơi. Anh nghĩ sao?
Tôi bật cười và hỏi đùa:
- Căn nhà tốt như vậy liệu chúng
ta có mua nổi không?
Angie cũng cười theo:
- Em đã gọi cho Brian để thu xếp mua
căn nhà này. Có lẽ mọi việc sẽ hoàn tất vào tuần sau. Bao giờ anh có thể qua
xem căn nhà này đây?
Tôi nhìn vào tờ ghi chép thời gian biểu làm việc trên bàn
chằng chịt những buổi họp, rồi nói:
- Hiện nay anh rất bận, nhưng sau khi giấy
tờ hoàn tất, anh sẽ qua đó xem.
Đó là một ngày cuối thu, thời tiết bắt đầu chớm
lạnh nhưng Angie cứ giục tôi phải đi xem căn nhà nghỉ dưỡng mới mua. Tôi đã từ
chối mấy lần vì bận việc. Từ nhiều tuần trước, Angie và Connie đã bay qua đó để
sắm sửa và trưng bày đồ đạc cho căn nhà này. Angie nói:
- Thế là đến Giáng sinh
năm nay anh có thể mời bạn bè về đây ít hôm. Chúng ta không cần phải đi nghỉ dưỡng
ở đâu xa nữa. Căn nhà này có sáu phòng ngủ tiện nghi, đủ cho vợ chồng Andrew, vợ
chồng Brian, vợ chồng Charles và cả Andy nữa.
Những người này đều là những nhân
viên thân tín đắc lực của tôi trong nhiều năm. Mỗi năm tôi đều rủ họ đi nghỉ dưỡng
chung, vừa có dịp nghỉ ngơi thư giãn vừa có thể bàn tính công việc cho năm sau.
Chiều hôm đó, tôi nhận điện thoại của Andrew nói rằng cuộc họp cuối tuần đã bị
hủy bỏ vì khách hàng bất ngờ phải đi xa. Andrew khuyên:
- Đây là dịp để ông đi
xem căn nhà nghỉ dưỡng. Bà Angie đã chờ đợi lâu rồi. Nếu bằng lòng, tôi sẽ gọi
Charles chuẩn bị phi cơ cho ông bà.
Tôi suy nghĩ rồi trả lời:
- Không cần đâu,
tôi sẽ tự lái phi cơ. Tuần qua phi công đã làm việc nhiều rồi, cậu ấy cũng cần
nghỉ ngơi.
Chiếc Cessna Citation là phi cơ riêng của chúng tôi và tôi cũng có bằng
lái máy bay nên chỉ vài giờ sau chúng tôi đã có mặt tại Colorado. Lần này vì
không có nhân viên đi theo nên tôi phải thuê một chiếc xe để lái. Khi vừa khởi
hành thì trời đổ tuyết khiến trục giao thông bị tắc nghẽn. Sau gần hai tiếng đồng
hồ, chúng tôi mới rời khỏi xa lộ chính để đi vào con đường nhỏ dẫn lên núi. Lúc
đó trời đã nhá nhem tối. Càng lên cao, tuyết càng trút xuống dày, phủ trắng xóa
con đường. Đi được một quãng thì hệ thống chỉ đường GPS không còn hỗ trợ được,
vì căn nhà không nằm trên đường giao thông chính.
Angie vừa nhìn đường vừa chỉ
cho tôi rẽ vào những con đường nhỏ ngoằn ngoèo dẫn lên núi. Càng đi xa, tuyết
càng đổ xuống nhiều hơn, ngập hết lối đi nên rất khó nhìn. Xe chạy được một lúc
thì sụp xuống một hố trũng bên lề đường. Mặc dù tôi đã cố gắng nhưng chiếc xe vẫn
không nhúc nhích.
Angie than:
- Biết thế chúng ta cứ vào khách sạn nghỉ ngơi chờ
đến sáng. Tình trạng này chắc chúng ta phải ngủ qua đêm trên xe rồi.
Tôi khoác
vội chiếc áo ấm rồi bước ra khỏi xe để định hướng, nhưng chung quanh cảnh vật tối
đen, không thấy gì hết. Tôi cố gắng vận toàn lực để đẩy chiếc xe lên khỏi miệng
hố nhưng vô hiệu.
Trong lúc đang thất vọng, tôi bỗng thấy một ánh đèn ở xa đang
từ từ tiến đến gần, rồi một người đàn ông cao lớn cầm chiếc đèn pin bước đến:
-
Chắc ông bà lạc đường rồi. Tôi nghe tiếng máy xe rú lên nên bước ra xem. Ông bà
có cần giúp đỡ gì không?
Angie mừng rỡ trả lời:
- Chúng tôi vừa mua căn nhà gần
đây, chủ nhà cũ tên là Hart nhưng hiện nay chúng tôi không tìm được lối vào.
Người đàn ông lạ gật đầu:
- Thì ra là thế! Tôi biết nhà ông Hart. Ông bà đi lạc
đường rồi. Đáng lẽ phải rẽ trái ở khúc quanh ngay bìa rừng nhưng ông bà đã đi
quá xa rồi.
Nhìn thấy vẻ bối rối của tôi bên cạnh chiếc xe bị sụp hố, ông nói
tiếp:
- Trời đã tối rồi, chiếc xe của ông cũng không đi được. Nếu ông bà không
ngại thì hãy ghé vào nhà tôi nghỉ qua đêm nay. Ngày mai tôi sẽ đem xe trục đến
kéo lên. Hiện trời đã tối mà tuyết lại rơi nhiều thế này.
Tôi chưa kịp nói gì
thì Angie đã vui vẻ nhận lời ngay. Chúng tôi mang hành lý theo chân người đàn
ông đến một căn nhà nằm khuất dưới rặng thông phủ đầy tuyết. Chủ nhân mời chúng
tôi vào nhà. Dưới ánh sáng của ngọn đèn, tôi nhận ra đó là một người gốc Ấn Độ,
hay Trung Đông, với hàm râu quai nón rất rậm. Vì lý do nào đó, tôi thấy ông ta
trông rất quen mặc dù tôi không nhớ đã gặp người này ở đâu.
Vị chủ nhân lịch sự
dẫn chúng tôi vào một căn phòng riêng:
- Ông bà có thể dùng căn phòng đó, nếu
không ngại, xin mời ông bà dùng bữa tối với tôi.
Angie hồn nhiên nhận lời ngay:
- Cảm ơn ông, thật quý quá, vì từ sáng đến giờ chúng tôi chưa có gì vào bụng.
Sau khi sửa soạn xong, chúng tôi bước vào phòng ăn thì vị chủ nhân đã chờ sẵn
trước bàn ăn đơn giản toàn trái cây tươi. Angie đưa mắt nhìn quanh căn phòng rộng
lớn với những bức tranh trông lạ lùng:
- Ông ở một mình sao?
Vị chủ nhân khẽ gật
đầu:
- Vâng, tôi sống một mình.
Chúng tôi ngồi vào bàn.
Vị chủ nhân lên tiếng:
- Tôi rất tiếc vì không kịp chuẩn bị các món khác. Bình thường tôi chỉ ăn trái
cây…
Angie nhanh nhẹn:
- Cảm ơn ông, thế cũng tốt rồi. Tôi cũng thích trái cây
hơn những thứ khác.
Tôi quan sát vị chủ nhân, ông ta có một vẻ gì đó rất quen
thuộc trong tiềm thức mà tôi không nhớ đã gặp ở đâu. Tôi là người có trí nhớ rất
tốt, gần như gặp ai tôi cũng có thể nhớ tên người đó. Làm việc trong lĩnh vực
thương mại nhiều năm, tôi có thói quen ghi nhớ tên tuổi những người mà tôi giao
thiệp. Trong khi Angie và vị chủ nhân trò chuyện thân mật, tôi cố gắng đào bới
trí nhớ để tìm kiếm nhưng không sao nhớ được. Bất chợt vị chủ nhân hình như
đoán được điều tôi đang nghĩ, quay qua tôi và tự giới thiệu:
- Xin lỗi ông bà,
tôi quên chưa giới thiệu về mình. Tên tôi là Ramakrishnan, nhưng ông bà có thể
gọi tôi ngắn gọn là Kris cho dễ nhớ.
Chúng tôi cũng tự giới thiệu về bản thân.
Ông Kris mỉm cười đưa ly nước cam lên:
- Rất hân hạnh được quen biết ông bà.
Trong lúc chúng tôi cũng đưa ly nước cam lên như cử chỉ xã giao thì tôi nhìn thấy
ngón tay của ông Kris có đeo một chiếc nhẫn hình con bọ hung, khảm một viên hồng
ngọc đỏ sẫm. Chiếc nhẫn có một điều gì đó khiến tôi cảm thấy quen thuộc một
cách kỳ lạ. Tôi chăm chú nhìn người đàn ông có hàm râu quai nón này. Ông ta có
một cặp mắt rất sáng thể hiện một nội tâm, hiểu biết phong phú. Cử chỉ của ông
chậm rãi, điềm đạm nhưng vẫn toát lên vẻ oai nghi lạ lùng. Tôi đã gặp nhiều vị
nguyên thủ quốc gia, những nhà quản lý công ty lớn, những người lãnh đạo cao cấp
nhưng chưa thấy ai có vẻ sang trọng, oai nghi như người này.
Angie là người hồn
nhiên, thích xã giao, gần như gặp ai nàng cũng có thể nói chuyện dễ dàng trong
khi tôi thích suy ngẫm và ít nói. Các bạn tôi vẫn nói rằng chúng tôi là cặp vợ
chồng đẹp đôi. Nếu cần gì thì Angie nói, nhưng nếu tính toán cái gì thì tôi mới
là người quyết định.
Trong khi Angie và vị chủ nhân tiếp tục câu chuyện trên
bàn ăn, tôi đưa mắt nhìn quanh căn nhà có những bức họa vẽ các ký hiệu ngoằn
ngoèo lạ lùng. Tuy tôi không biết nhiều về nghệ thuật nhưng vẫn có thể phân biệt
được các trường phái hội họa của những nghệ sĩ đương thời như Picasso, hay
Dali. Tuy nhiên, những bức họa này lại khác hẳn những bức họa thông thường,
chúng có những đường nét trông như thư pháp mà không phải là thư pháp. Trong
công ty của tôi cũng có treo mấy bức thư pháp của các danh gia Nhật Bản và
Trung Hoa do chính thân chủ tặng làm kỷ niệm. Tuy nhiên, những bức họa ở đây có
những đường nét khác hẳn các bức thư pháp kia.
Thấy tôi chú ý đến bức tranh,
ông Kris mỉm cười:
- Ông thấy những bức họa này thế nào? Hình như ông thích nghệ
thuật?
Tôi chưa kịp trả lời thì Angie đã chỉ vào một bức tranh và nói ngay:
-
Em nhận ra rồi, đó là những dòng chữ tiếng Phạn. Đó là chữ “Om”, có phải không ạ?
Vị chủ nhân gật đầu:
- Phải rồi, chính là chữ Phạn, bà nói đúng đó. Chữ đó là
“Om”. Angie reo lên vui sướng:
- Tôi có thấy những chữ giống như thế treo ở
phòng tập Yoga.
Vị chủ nhân mỉm cười:
- Thì ra bà cũng tập Yoga.
Angie gật đầu:
- Hàng tuần tôi đều đi tập Yoga với các bạn. Đó là một hình thức thể dục để duy
trì sức khỏe. Ngoài ra tôi cũng tập thiền nữa. Không muốn câu chuyện đi quá xa,
tôi hỏi:
- Thì ra đó là chữ Phạn, nhưng tại sao phòng tập Yoga lại treo chữ
này? Tại sao họ không treo những bức tranh khác đẹp hơn? Ông Kris bật cười:
-
Có lẽ đó chỉ là một hình thức trang trí. Yoga xuất phát từ Ấn Độ, nên treo chữ
Phạn lên đó cũng là một hình thức quảng cáo… Angie lắc đầu:
- Không đâu, thầy dạy
Yoga của tôi nói rằng đó là một chữ hết sức linh thiêng và khi thiền định phải
tập trung tư tưởng vào đó.
Ông Kris gật đầu nói:
- Thì ra thế! Vậy bà thấy gì
khi tập trung vào chữ đó?
Angie lúng túng:
- Tôi chẳng thấy gì hết. Đó chỉ là một
phương pháp để giữ cho tư tưởng không chạy loạn xạ mà thôi. Tuy nhiên, bạn tôi,
Connie, lại nói rằng cô ấy thấy nó phát ra ánh sáng và có khi lại biến hiện ra
nhiều dòng chữ khác nhau nữa, nhưng tôi chưa từng có trải nghiệm đó.
Tôi bật cười
vì biết Connie rất rõ:
- Connie là người giàu trí tưởng tượng và biết đâu đã
phóng đại mọi việc…
Ông Kris quay qua nhìn tôi và nói:
- Không hẳn thế, nếu thiền
định đến mức độ nào đó người ta có thể nhìn thấy ánh sáng hay những hình ảnh lạ
lùng.
Angie tò mò:
- Như thế hẳn ông biết rõ về thiền hay đã trải nghiệm điều
này? Ông Kris không trả lời mà quay qua hỏi tôi:
- Ông nghĩ sao? Tôi nhìn đôi mắt
rất sáng của người đàn ông, với những nét dí dỏm.
Tôi trả lời:
- Tôi chưa hề tập
thiền hay Yoga. Đó chỉ là một hình thức thể dục thịnh hành hiện nay, cũng như
vài năm trước có phong trào tập thể dục nhịp điệu vậy.
Ông Kris đưa mắt nhìn
tôi với vẻ tinh quái:
- Như thế là ông chưa hề tập thiền?
Tự nhiên tôi cảm thấy
khó chịu:
- Dĩ nhiên, tôi tập những thứ đó làm gì?
May thay, Angie xen vào:
-
Chồng tôi bận lắm, ngay cả chơi thể thao còn không có thời giờ lấy đâu ra mà tập
Yoga hay thiền.
Ông Kris chỉ vào một bức tranh:
- Vậy ông thấy bức tranh này thế
nào?
Tôi đưa mắt nhìn bức tranh, đó cũng là những ký hiệu lạ lùng nhưng trông
không giống như chữ Phạn. Ký hiệu này khác hẳn. Càng nhìn, tôi càng thấy có một
cái gì đó quen thuộc và như bị cuốn hút vào đó. Tự nhiên tôi bật lên nói mà
không suy nghĩ:
- Tôi thấy nó quen thuộc, hình như đã thấy nó ở đâu. Nhưng nó
không giống như chữ Phạn.
Ông Kris mỉm cười với một biểu cảm khác lạ:
- Ông nói
đúng, đó không phải là chữ Phạn, mà là một cổ ngữ đã thất truyền từ rất lâu rồi.
Nhưng ông thấy nó thế nào?
Tôi nhìn những đường nét ngoằn ngoèo lạ lùng nhưng
không sao nhớ được đã thấy nó ở đâu. Angie bỗng xen vào:
- Tôi cũng thấy nó
quen thuộc làm sao. Hình như tôi cũng thấy ở đâu rồi.
Ông Kris cười, vẻ bí ẩn:
- Hiện nay thì ông bà không nhớ đâu, nhưng rồi sẽ nhớ.
Angie chỉ tay lên chiếc
hộp kính gần đó:
- Còn cây gậy kia nữa, tôi cũng thấy nó có vẻ quen thuộc. Đó
là cái gì vậy?
Đến khi đó tôi mới nhìn thấy trên chiếc bàn nhỏ đặt gần lò sưởi
có một chiếc hộp dài bằng kính, trong đó đặt một chiếc gậy màu bạc dài khoảng
sáu gang tay. Vị chủ nhân bước đến chiếc hộp, lấy cây gậy ra đưa cho tôi. Đó là
một cây gậy làm bằng chất liệu trông như pha lê, màu bạc, có gắn bảy viên đá
quý to bằng ngón tay cái, mỗi viên có một màu khác nhau. Tôi vừa cầm lên thì cảm
nhận ngay một luồng điện cực mạnh từ cây gậy truyền vào tay khiến tôi giật
mình. Tôi run giọng:
- Cái gì vậy?
Ông Kris nhẹ nhàng chạm tay lên cây gậy một
cách trịnh trọng:
- Nó là một vật có công dụng chữa bệnh, nếu người ta biết
cách sử dụng.
Tôi chăm chú nhìn vào cây gậy, những viên đá quý trên cây gậy bỗng
tỏa ra những luồng sáng kỳ lạ khiến mắt tôi hoa lên. Tôi run run cầm cây gậy mà
vị chủ nhân vừa trao cho. Rồi những viên đá quý bỗng xoay nhẹ như bánh xe và
phát ra những tia sáng lạ lùng.
Angie lên tiếng:
- Khi nó phát ánh sáng, tôi đã
nghĩ nó là một cái đèn pin, nhưng bây giờ những viên đá này lại xoay với màu sắc
lạ lùng. Ông Kris, nó là cái gì thế?
Vị chủ nhân nói thầm vào tai tôi:
- Ông
không nhận ra nó sao?
Lúc đó tôi như người bị mộng du. Tôi nắm chặt cây gậy
nhưng đầu óc hoang mang khôn tả. Tôi tự hỏi:
- Tại sao mình lại ở đây? Tại sao
mình lại gặp một người lạ trong căn nhà với những đồ vật lạ lùng như thế này?
Cũng ngay lúc đó, tôi cảm nhận được một luồng sức mạnh từ cây gậy truyền vào
thân thể khiến cả người nóng ran lên. Ngực tôi bị nghẹn lại, đầu óc trở nên rối
loạn, không tự chủ được nữa. Tôi muốn buông cây gậy ra nhưng nó có một sức hút
kỳ lạ khiến tôi không thể bỏ xuống. Tai tôi nghe có tiếng rì rào của sóng biển
và những âm thanh lạ lùng khác.
Tôi cố gắng giữ bình tĩnh, quay qua Angie, tôi
thấy nàng vẫn đứng yên. Tôi quay lại phía vị chủ nhân nhưng không thấy gì ngoài
cặp mắt sáng quắc của ông đang nhìn thẳng vào tôi. Ông nói bằng một giọng thân
mật:
- Cứ bình tĩnh đi ông bạn. Hãy để cho tiềm thức làm việc, rồi ông sẽ hiểu.
Đầu óc tôi trở nên mơ hồ. Tiếng sóng biển càng lúc càng lớn và tôi nghe rõ những
tiếng động lạ lùng dù không phân biệt được là những tiếng gì. Mọi vật dần dần
trở nên lộn xộn, quay cuồng trong đầu tôi. Bất thình lình, tôi cảm thấy một sức
mạnh dội vào lồng ngực khiến tôi thiếp đi…
PHẦN HAI
ATLANTIS TIỀN KIẾP DẬY SÓNG
Tôi thấy mình đang đứng trước một bãi biển hoang vu với tiếng sóng vỗ rì rào, gần
đó là những cỗ máy đang phát ra những âm thanh lạ lùng mà tôi không biết để làm
gì. Không hiểu sao tôi thấy lòng tràn ngập một cảm giác buồn bực, khó chịu. Tôi
vừa cúi mặt xuống thì giật mình thấy bàn chân mình to hơn trước. Ngay lúc đó,
tôi nhận ra rằng mình đang ở trong một thể xác khác.
Tôi dụi mắt, vung mạnh tay
để đánh thức mình và tự nhủ: “Phải chăng đây là một giấc mơ?”. Nhưng tôi không
mơ chút nào cả. Tay tôi vừa vung lên thì chạm vào một vật đeo bên hông, tôi cầm
lên xem thì đó chính là cây gậy pha lê có gắn bảy viên ngọc mà tôi vừa thấy ở
nhà người lạ kia. Tôi cố gắng giữ bình tĩnh nhưng đầu óc cứ quay cuồng, rồi những
hình ảnh trong đầu lần lượt hiện ra như một bộ phim quay chậm.
Tôi thấy mình
đang sống tại một lục địa lớn với nhiều hòn đảo nhỏ vây quanh. Không hiểu sao
tôi biết rằng đó chính là châu Atlantis. Huyền thoại Hy Lạp nói rằng Atlantis
hiện hữu vào thời xa xưa, ở giữa Đại Tây Dương, được coi là cái nôi của nền văn
minh Ai Cập cũng như Hy Lạp, và rất có ảnh hưởng đến nền văn minh hiện thời.
Tuy nhiên, ngay khi đó tôi cũng biết văn minh Atlantis đã tiến xa hơn nền văn
minh hiện nay rất nhiều vì nó được xây dựng dựa trên những kiến thức khác hẳn
ngày nay. Từ ngàn xưa, người Atlantis đã phát triển một thứ kiến thức đặc biệt,
giúp cho họ sử dụng được những năng lực tiềm tàng trong thiên nhiên và tạo nên
một nền khoa học kỹ thuật khác hẳn ngày nay. Đầu óc tôi trở nên hoang mang, những
hình ảnh của một ký ức lạ lùng nào cứ từ đâu tràn về.
Vào lúc đó, người
Atlantis đã chế tạo ra những dụng cụ, máy móc tối tân cho những mục đích mà
ngày nay không thể nào giải thích được. Lý do tôi thấy khó chịu là vì mình đang
nhập vào một thể xác khác, với những cảm nhận và kiến thức khác lạ. Là người có
ý chí mạnh mẽ, tôi có thể nhận ra sự khác biệt lớn giữa cách suy nghĩ, cảm nhận
của tôi lúc này đây và tôi của thời hiện đại. Lý trí suy luận của tôi đóng một
vai trò rất nhỏ và yếu ớt trong thể xác này. Sau một lúc đấu tranh vô vọng giữa
hai sự hiểu biết tương phản, tôi đành để cho tiềm thức làm chủ, đưa tôi trở lại
quá khứ, như một người đang quan sát một cuốn phim của dĩ vãng.
Tôi đang thấy
rõ những hình ảnh lịch sử của Atlantis dần dần hiện ra trong tâm trí. Từ ngàn
xưa, người Atlantis đã phát triển một nền khoa học chú trọng vào việc sử dụng
các năng lực ẩn tàng trong thiên nhiên. Họ có thể sử dụng ánh sáng mặt trời
cùng sự rung động của các loại kim thạch [2] để thay đổi nguyên tử vật chất. Họ
có thể làm mất trọng lượng của một vật thể để xây dựng nên những công trình kiến
trúc khổng lồ, kiên cố mà không cần sử dụng đến máy móc hiện đại như ngày nay.
Họ có thể thay đổi nguyên tử trong cơ thể con người để phục vụ cho việc chữa bệnh
bằng những cây gậy gắn đá quý.
Vào lúc đó, Atlantis gồm có ba nước là Og,
Poseida và Arya. Xứ Og nằm ở phía Tây của Đại Tây Dương, gồm ba hòn đảo được nối
liền với nhau bởi những cây cầu đá vĩ đại. Poseida nằm ở phía Đông của Đại Tây
Dương, gồm một hòn đảo lớn với rất nhiều đảo nhỏ bao bọc xung quanh. Arya nằm ở
phía Bắc của Đại Tây Dương, được xây dựng trên cao nguyên của một hỏa sơn. Văn
minh Atlantis đã kéo dài hàng ngàn năm với rất nhiều triều đại vua chúa. Xã hội
Atlantis được phân chia thành nhiều đẳng cấp khác nhau. Những người thuộc đẳng
cấp cao thẳng tay đàn áp, bóc lột những người thuộc đẳng cấp thấp một cách dã
man, tàn bạo. Văn hóa xứ này chủ trương “mạnh được, yếu thua” chứ chưa phát triển
luật pháp hay hệ thống công lý như xã hội ngày nay. Lúc đó, trừ một thiểu số đã
phát triển khả năng suy luận qua lý trí, đa số người Atlantis vẫn sống bằng bản
năng, do đó họ rất ích kỷ, tham lam và hung bạo.
Vì tình dục là một bản năng tự
nhiên, nên người dân xứ này chưa biết kiểm soát dục tính. Việc giao hợp nam nữ
là điều thông thường trong xã hội và không một luật lệ nào cấm đoán hay kiểm
soát được. Ký ức của tôi trở nên rối loạn hơn nữa khi nhìn thấy những cảnh tượng
giao hợp của con người lúc đó thật không khác loài vật hiện nay bao nhiêu.
Trong xã hội đó, sự giao hợp nam nữ diễn ra khắp nơi, không phân biệt, không dựa
trên tình cảm mà chỉ là sự chiếm đoạt theo bản năng và sức mạnh.
Thật khó giải
thích điều này vì mỗi khi cố gắng suy luận thì đầu óc tôi lại bị những tư tưởng
kỳ lạ xâm chiếm, khiến đầu tôi đau nhức khôn tả. Tôi biết rằng nền văn minh xứ này
đã tiến bộ khoa học rất cao, hơn hẳn ngày nay, nhưng không hiểu sao xã hội
Atlantis lại có thể sống man rợ với các tục lệ lạ lùng như thế? Có lẽ vì chưa
biết phát triển tình thương hay lý trí nên đa số người Atlantis lúc đó đều sống
ích kỷ, tham lam và hung dữ. Trong suốt lịch sử xứ này, chiến tranh giữa các nước
xảy ra liên miên, dường như chưa bao giờ ngừng.
Văn minh Atlantis được xây dựng
dựa trên kiến thức khoa học, một thứ khoa học khác hẳn bây giờ, người có khả
năng chuyên môn được đặc biệt ưu đãi nên các môn khoa học phát triển rất mạnh,
với những phát kiến mà ngày nay có thể coi là “phép lạ”. Dựa trên sự rung động
của kim thạch và âm thanh, người Atlantis có thể phân tích ánh sáng mặt trời
thành năng lượng để phục vụ cho cuộc sống cũng như tạo ra các loại vũ khí giết
người. Họ có thể thay thế bộ óc con người bằng những dụng cụ gắn vào óc, khiến
những người này trở nên khờ dại, không còn biết gì và chịu sự chi phối của người
khác.
Qua kỹ thuật làm mất trọng lượng vật chất để nâng những tảng đá khổng lồ
hay những vật nặng lên cao, người Atlantis có thể xây cất những công trình kiến
trúc hết sức vĩ đại. Nhờ thế, châu Atlantis phát triển với hàng vạn công trình,
hàng trăm kim tự tháp khổng lồ, hàng ngàn ngôi nhà san sát, với đường sá rộng
rãi và những cây cầu bằng đá vĩ đại nối liền những đảo nhỏ với nhau. Qua kỹ thuật
thay đổi nguyên tử, người Atlantis có thể thay đổi những cơ quan đã bị yếu, tổn
thương trong cơ thể người để chữa khỏi bệnh. Phương pháp này cũng có thể biến đổi
con người thành một sinh vật khác khi ghép cơ quan nội tạng trong cơ thể của họ
bằng cơ quan của loài vật và tạo ra một loại người mới. Một loại sinh vật “nửa
người, nửa thú”, một sinh vật giống người, với khả năng đặc biệt để sử dụng vào
những mục đích mà con người ngày nay không tưởng tượng được.
Một số người, phần
lớn thuộc đẳng cấp thấp, hay tù binh chiến tranh thường bị đưa vào phòng thí
nghiệm để tác hợp với nguyên tử của những loài thú có sức mạnh như trâu, bò,
voi, ngựa, lạc đà, rồi họ được giao phó những công việc nặng nhọc như xây dựng,
chuyên chở. Đó là một lực lượng lao động không còn biết suy nghĩ mà chỉ tuân
theo mệnh lệnh.
Những sinh vật người được tác hợp với nguyên tử của những loài
vật hung dữ (như sư tử, cọp, beo, chó sói v.v…) thì được giao phó nhiệm vụ kiểm
soát những người thuộc đẳng cấp thấp hay những người đã bị biến đổi để trở
thành những sinh vật “nửa người, nửa thú”, phục vụ cho quyền lợi của đẳng cấp
cao hơn. Đó là những binh lính cực kỳ hung dữ, sẵn sàng hành ác, hoàn toàn vô cảm,
bất chấp sự đau khổ của các sinh vật khác.
Vì có đội quân thiện chiến hung dữ,
những nhà lãnh đạo đầy tham vọng của Atlantis thường gây chiến với nhau để bành
trướng thế lực và những trận chiến đổ máu dữ dội đã xảy ra thường xuyên giữa
các xứ này.
Xứ Og là trung tâm của một tôn giáo thờ rất nhiều thần linh với những
nghi thức lạ lùng, xuất phát từ ảnh hưởng của những sinh vật thuộc về một thế
giới khác với loài người. Đây cũng là nơi mà những người thuộc đẳng cấp thấp
hay tù binh chiến tranh thường bị giết để tế thần, hoặc được đưa đến “lò luyện
người” để biến thành lực lượng lao động.
Triều đại Belia của xứ Og kéo dài hàng
trăm năm với những hoàng đế có tham vọng bành trướng thế lực tôn giáo bằng việc
gây chiến với những xứ khác. Vì đức tin được xây dựng dựa trên một thứ tôn giáo
thờ rất nhiều quỷ thần từ cõi giới xa xăm, luôn luôn đòi hỏi những nghi thức
cúng tế bằng huyết thịt, nên người xứ Og đã quen sống trong bạo lực, ích kỷ, vô
cảm và thù hận. Xã hội xứ Og đầy những tranh chấp, thù hằn giữa con người với
nhau do chủ trương “mạnh được, yếu thua”. Đây cũng là nơi mà loài người sống lẫn
lộn, giao hợp với loài “nửa người, nửa thú” và sản sinh ra một giống “quái vật”
dị hợm được gọi là “con của Belia”. Vì sự tranh chấp, thù hận luôn tồn tại giữa
những người dân xứ này nên các hoàng đế triều đại Belia đã âm mưu gây dựng lòng
căm thù với các nước khác, hòng chuyển lòng hận thù trong dân chúng sang các cuộc
chiến tranh, tránh cho xã hội đi vào tình trạng hỗn loạn hay nội chiến.
Trong
ba xứ của Atlantis thì Poseida lớn nhất, phồn thịnh nhất, với tài nguyên dồi
dào, binh lực hùng hậu. Poseida gồm một số đảo nhỏ quây chung quanh một hòn đảo
lớn với những khu rừng bát ngát và muông thú kỳ lạ. Vì đất đai màu mỡ, nhiều
tài nguyên thiên nhiên nên đời sống xã hội xứ này phát triển cao hơn những xứ
khác. Người Poseida cũng thờ rất nhiều thần linh như thần biển, thần sông, thần
núi, thần cây v.v… nhưng không có những nghi thức giết người tế thần như tôn
giáo của xứ Og.
Nền khoa học của Poseida phát triển rất mạnh với nhiều phát kiến
và máy móc tối tân. Dân chúng Poseida được hưởng đời sống tiện nghi vật chất hết
sức đầy đủ nhưng cũng vì thế mà đa số sống xa hoa, phung phí, ích kỷ và có tính
dâm dục rất cao. Họ thường bắt cóc phụ nữ từ các xứ khác mang về để phục vụ cho
nhu cầu xác thịt. Điều này tạo ra một mối thù rất lớn giữa Poseida và những xứ
khác. Trong lịch sử Atlantis, Og và Poseida luôn luôn gây chiến với nhau nhưng
Poseida thường chiếm phần thắng. Qua những lần chiến thắng, Poseida bắt được rất
nhiều tù binh “nửa người, nửa thú” và biến những người này thành nô lệ phục vụ
cho người dân tại đây. Điều này càng khiến mối hận thù giữa hai xứ này trở nên
sâu sắc.
Arya là xứ nhỏ nhất nằm ở phía Bắc, xây dựng trên bình nguyên của một
hỏa sơn, dân cư thưa thớt. Tuy điều kiện khắc nghiệt, đất đai khó canh tác
nhưng xã hội Arya lại phát triển theo một đường lối khác hẳn với hai nước kia.
Văn hóa xứ này dựa trên tôn giáo tôn thờ mặt trời với những giáo điều, kỷ luật
hết sức khắt khe như không cho phép loài người giao hợp với giống “nửa người, nửa
thú”. Do đó, người Arya thường tự hào rằng họ là tộc người Atlantis thuần khiết
nhất.
Nền khoa học Arya được xây dựng dựa trên kiến thức về ánh sáng mặt trời
và sự rung động của các loại kim thạch. Từ lâu, người Arya đã chế tạo được những
cây gậy ngọc có thể thay đổi nguyên tử vật chất để chữa bệnh, cũng như các loại
vũ khí sử dụng ánh sáng để phá hủy vật chất. Nhờ thế mà Arya duy trì được sự độc
lập trong một thời gian dài.
Thật khó có thể tưởng tượng lịch sử Atlantis lại
hiện ra rõ rệt trong tiềm thức của tôi như một bức tranh sống động. Đầu óc tôi
tiếp tục xoay chuyển qua những biến cố lạ lùng.
Tôi thấy mình được sinh ra tại
xứ Arya trong một gia đình quyền quý, thuộc đẳng cấp cao nhất trong xã hội. Cha
tôi là người đứng đầu trường y, chuyên sử dụng cây gậy ngọc để chữa bệnh. Từ nhỏ,
tôi đã được chỉ dạy về các năng lực tự nhiên tiềm tàng trong các loại đá quý.
Khi lớn lên, tôi được huấn luyện bởi các danh sư nên trở thành một y sĩ tài giỏi
trong nước.
Là người thuộc đẳng cấp cao, được xã hội kính trọng nên tôi trở nên
kiêu căng và nhiều tham vọng khác thường. Tuy đã được huấn luyện về y học nhưng
tôi không thỏa mãn mà muốn thu thập thêm kiến thức về các năng lực siêu nhiên vốn
chỉ được tín truyền riêng cho các giáo sĩ trong đền thờ Thái Dương.
Có lần tôi
đã hỏi cha tôi về điều này, nhưng ông nói:
- Có một ranh giới rất rõ rệt giữa sự
hiểu biết mà chúng ta có thể sử dụng hiện nay và sự hiểu biết dựa trên những kiến
thức mà chúng ta không kiểm soát được. Để nghiên cứu về năng lực siêu nhiên,
con người cần phải có khả năng kiểm soát nội tại. Ngoại trừ một số rất ít giáo
sĩ trong đền thờ Thái Dương biết phương pháp này, hầu như không ai có thể học
được. Nếu không kiểm soát được mình mà sử dụng các năng lực này một cách vô
trách nhiệm, thì có thể đưa đến những hậu quả vô cùng tai hại. Đó là lý do mà
con phải ý thức rõ rệt về mối nguy hiểm tiềm tàng của những kiến thức này và
không được sử dụng những gì con không thể kiểm soát được.
Tôi thắc mắc:
- Tại
sao lại chỉ các giáo sĩ trong đền thờ Thái Dương mới có đặc quyền thu nhận kiến
thức về các năng lực siêu nhiên?
Cha tôi trả lời:
- Con nên biết, trong mỗi con
người đều có hai động lực tương phản: một là hướng thượng - hai là hướng hạ.
Khi con người chưa biết phát triển sự suy luận để kiểm soát nội tâm mà chỉ sống
bằng bản năng thì động lực bản năng hướng hạ thường làm chủ. Nó dẫn dắt con người
hành động theo dục vọng. Con có thể thấy người dân xứ Og và Poseida thiên sống
bằng bản năng và hậu quả là những cuộc chiến tranh kéo dài, không thể chấm dứt.
Hiện nay, tại Arya chỉ có riêng các giáo sĩ trong đền thờ Thái Dương, nhờ thực
hành những kỷ luật tự giác, biết phát triển óc suy luận để kiểm soát nội tâm
nên không bị ảnh hưởng. Nhờ biết kiềm chế dục vọng, những người này mới có thể
sử dụng các năng lực siêu nhiên đặc biệt trong vũ trụ. Những người như chúng ta
chỉ được dạy một số kiến thức giới hạn vì nội tâm chúng ta vẫn còn là bãi chiến
trường, một sự tranh đấu giữa hai khuynh hướng tương phản. Do đó, nếu chưa thể
làm chủ được mình thì phải biết tự giới hạn, đừng để tham vọng chi phối, điều
khiển.
Tuy đã được cảnh cáo nhưng tôi vẫn ngầm muốn sở hữu quyền năng từ các
năng lực siêu nhiên kia. Có lần tôi đã hỏi một giáo sĩ có kiến thức về môn này
thì ông nói:
- Hiện nay đầu óc ngươi chưa phát triển đủ về khả năng suy luận mà
thường để bản năng chi phối. Muốn sở hữu quyền năng siêu nhiên thì ngươi phải
trải qua những giai đoạn tu tập phát triển đức tính hy sinh, nhẫn nại, để kiểm
soát chính mình.
Tôi hỏi:
- Như vậy thì tôi phải làm gì?
Giáo sĩ trả lời:
- Trước
hết ngươi phải tập tính hy sinh để làm những gì “trái ngược” với những điều mọi
người thường làm. Nếu mọi người ham muốn thứ gì thì ngươi phải đi ngược lại,
nghĩa là từ bỏ cái ham muốn đó. Nếu mọi người chỉ làm điều có lợi cho bản thân
thì ngươi phải làm ngược lại, nghĩa là chỉ làm những gì có lợi cho người khác.
Ngươi phải cho người khác những gì tốt nhất, làm những điều mà không ai muốn
làm, và chỉ nhận lấy những gì không ai muốn nhận. Đó là bước đầu trong việc rèn
luyện kỷ luật hy sinh, nhẫn nại, để kiểm soát nội tâm. Liệu ngươi có làm được
như thế không?
Văn minh Atlantis lúc đó hoàn toàn được xây dựng dựa trên “luật
của kẻ mạnh”, không ai biết gì đến sự hy sinh hay tinh thần tự chủ. Phần lớn mọi
người đều sống một cách tham lam, ích kỷ và hung bạo, sẵn sàng chiếm đoạt mọi thứ
cho riêng mình nên việc thực hành những điều vị giáo sĩ nói hết sức lạ lùng,
khó hiểu.
Là người kiêu căng và ích kỷ, dĩ nhiên tôi không chịu nghe lời dạy bảo
của vị giáo sĩ này. Tuy nhiên, do đã muốn có quyền năng này nên tôi phải quyết
đạt cho bằng được. Tôi tính toán và tìm đến những người sở hữu kiến thức này
qua một con đường tắt.
Đầu tiên, tôi làm quen với Biru, một người dân xứ Arya
nhưng đã sống nhiều năm tại Og nên biết những nghi thức kêu gọi các quyền năng
từ cõi giới khác. Tôi được hắn hướng dẫn những nghi thức đó, mặc dù pháp luật
và tôn giáo xứ Arya hoàn toàn ngăn cấm việc này.
Chúng tôi bí mật trao đổi sự
hiểu biết với nhau trong một căn hầm nằm sâu dưới lòng đất. Từ đó, tôi chìm đắm
trong các nghi thức tế thần, sử dụng máu huyết để kêu gọi những động lực lạ
lùng, liên lạc với những sinh vật thuộc cõi khác mà không hề ý thức gì đến hậu
quả có thể xảy ra.
Đang miên man với những hình ảnh này, bỗng nhiên đầu óc tôi
chuyển qua một ký ức khác. Tôi thấy mình đứng trong một tòa nhà to lớn, nguy
nga, với lối chạm trổ tinh xảo, hơn hẳn các công trình kiến trúc đẹp nhất của
ngày nay. Đó là đền thờ thần Thái Dương trang nghiêm, với các nghi thức tôn
giáo được thực hiện bởi các thánh nữ. Bất ngờ, tôi nhìn thấy đôi chân trần gợi
cảm, trắng ngần của một thánh nữ thoáng lộ ra khi đang duyên dáng múa hát với
điệu nhạc huyền bí trong ánh sáng đuốc bập bùng huyền ảo. Tôi lén hỏi và biết
tên cô ấy là Kor. Không hiểu sao hình ảnh cô thánh nữ Kor này lại lập tức xâm
chiếm, ngự trị tâm trí tôi khiến tôi không còn tự chủ được nữa. Không rời mắt
khỏi người thiếu nữ yêu kiều, trong đầu tôi bắt đầu nóng rực nảy sinh ý tưởng
chiếm đoạt người thánh nữ. Là người thuộc đẳng cấp cao của xã hội, một khi đã
muốn sở hữu cái gì thì tôi thường phải tìm mọi cách chiếm đoạt cho kỳ được.
Vừa
nghĩ đến đó, không hiểu sao đầu óc tôi bắt đầu xáo trộn bởi những hình ảnh ma
quái chập chờn, những nghi thức thờ cúng huyền bí lạ lùng, những súc vật bị giết
để tế thần, những ly rượu pha bằng máu súc vật tanh tưởi, những hình ảnh hoan lạc
của đám đông nam nữ buông thả dưới những ánh đuốc chập chờn hoang dại, rừng rú.
Bất chợt tôi thấy những cảnh tượng hãi hùng, máu đổ thịt rơi, với những trận
giao tranh khốc liệt của những đội binh ”nửa người, nửa thú” cấu xé những nạn
nhân của chúng. Nỗi sợ hãi mỗi lúc một tăng lên khiến tôi hốt hoảng kêu lớn, rồi
choàng tỉnh dậy.
Tôi thấy mình đang nằm trong một căn phòng xa lạ, toàn
thân ướt đẫm mồ hôi. Angie nhìn tôi với vẻ mặt lo lắng:
- Anh làm sao vậy?
Lúc
đó, tôi thấy trời đã sáng và biết mình vừa trải qua một giấc mơ lạ lùng. Angie
lo lắng hỏi:
- Anh có sao không? Tự nhiên anh la lớn làm em giật cả mình.
Tôi
hoảng hốt:
- Mình đang ở đâu đây?
Angie bật cười:
- Anh không nhớ sao? Hôm qua
xe của chúng ta bị trượt xuống hố, may là có ông Kris đưa mình về nhà ông ấy.
Khi đó tôi mới nhớ ra rằng mình đang ở trong nhà một người lạ. Angie nhắc khéo:
- Trời đã sáng rồi, anh hãy vào phòng tắm thay quần áo đi, rồi xuống dưới nhà.
Em nghe tiếng ông Kris mở cửa ra ngoài từ sớm nhưng thấy anh ngủ say nên chưa
muốn đánh thức.
Tôi cố giữ bình tĩnh mặc dù chưa tỉnh táo hẳn:
- Thì ra thế,
nhưng hôm qua chúng ta vào phòng lúc nào?
Angie trả lời:
- Chúng ta đang nói
chuyện dở dang, nhưng em thấy anh mệt quá cứ thiếp đi nên ông Kris bảo em đưa
anh về phòng nghỉ sớm. Anh không nhớ sao?
Khi chúng tôi bước vào phòng ăn thì
ông Kris đã chờ sẵn:
- Ông bà ngủ ngon chứ, mời ông bà dùng bữa ăn sáng. Tôi
đang chuẩn bị mang xe trục kéo chiếc xe của ông bà lên.
Trong khi Angie hồn
nhiên kéo ghế ngồi, tôi nhìn quanh căn phòng với những bức họa lạ lùng và chiếc
hộp đựng cây gậy thất bảo bằng pha lê. Nó vẫn nằm nguyên trên chiếc bàn nhỏ bên
cạnh lò sưởi. Thì ra đó không phải là một giấc mộng mà là một sự thật. Giờ thì
đầu óc tôi đã hoàn toàn tự chủ. Tôi nhủ thầm: “Mình phải tìm ra sự thật về cây
gậy ngọc này”.
Sau bữa ăn sáng, chúng tôi theo ông Kris ra chỗ chiếc xe bị sụp
xuống hố. Tôi thấy vị chủ nhân đã chu đáo chuẩn bị đầy đủ chiếc xe tải lớn với
sợi dây xích sắt đã buộc vào chiếc xe của tôi để kéo lên.
Angie mừng rỡ:
- Thật
phiền ông quá, tôi không ngờ ông đã chuẩn bị cẩn thận từ sớm.
Sau khi chiếc xe
được kéo lên, ông Kris chỉ rõ cho chúng tôi đường đến căn nhà mới. Tôi im lặng
quan sát người đàn ông có bộ râu quai nón rậm rạp này như để chờ đợi một sự giải
thích nào đó, nhưng ông vẫn thản nhiên như không hề có chuyện gì xảy ra. Sự im
lặng của ông làm cho tôi thêm nóng lòng, bối rối, tôi muốn lên tiếng nhưng
không hiểu sao lại im lặng. Cả hai chúng tôi nhìn nhau nhưng không nói gì.
Theo
sự chỉ dẫn của ông Kris, chúng tôi đến căn nhà mới. Đúng như Angie đã nói, đó
là một căn nhà tuyệt đẹp, xây cất đơn giản, nằm trên một ngọn đồi thấp nhìn xuống
thung lũng và một hồ nước xanh biếc phía dưới.
Angie nhanh nhẹn mở khóa cửa bước
vào:
- Anh thấy căn nhà này ra sao? Nó có như ý anh muốn không? Tôi gật đầu đồng
ý nhưng tâm trí vẫn hoang mang về những việc xảy ra đêm qua. Tôi tự hỏi phải
chăng đó là một giấc mơ?
Trong khi Angie thu xếp hành lý, tôi ngồi xuống chiếc
ghế bành và tự hỏi: “Tại sao mình có thể nhớ lại một ký ức xa xôi với những chi
tiết rõ rệt như thế? Liệu châu Atlantis có thật hay chỉ là một huyền thoại?”.
Hiện nay, người ta biết đến Atlantis qua tài liệu giảng dạy của triết gia Hy Lạp
Plato được ghi lại trong cuốn Timaeus và Crotias. Plato đã kể cho học trò rằng
chính Solon, sử gia lừng danh của Hy Lạp khi du hành qua Ai Cập để học hỏi đã
được các vị trưởng lão xứ này tiết lộ về một đại lục lớn bị chìm sâu xuống đáy
biển vào khoảng hai mươi ngàn năm trước đó. Plato ghi chép lại lời dạy bảo của
Solon về lục địa với nền văn minh rực rỡ nhưng đã suy thoái vì tham vọng điên
cuồng của những người lãnh đạo, rồi bị chìm sâu xuống biển bởi trận động đất khủng
khiếp.
Hiện nay có nhiều giả thuyết khác nhau về Atlantis. Có người cho rằng đó
là một đại lục có thật vì bờ biển Địa Trung Hải còn sót lại một vài di tích của
một nền văn minh cổ xưa mà không ai biết rõ. Người khác cho rằng đó chỉ là một
huyền thoại được người xưa tạo ra để dọa nạt dân chúng mà thôi. Trải nghiệm vừa
qua đã cho tôi một cảm giác khác thường vì tôi thấy rõ mình đã từng sống ở đó
và lịch sử xứ này hiện rõ trong đầu tôi như một cuốn phim sống động. Không một
giấc mơ nào lại có thể hiển hiện rõ rệt với từng chi tiết như thế.
Suốt ngày
hôm đó, đầu óc tôi cứ liên miên suy nghĩ về ký ức kỳ lạ này nhưng không tìm được
lời giải đáp nào. Trong khi Angie vui vẻ chỉ cho tôi những đồ đạc trưng bày, những
bức tranh nghệ thuật mà nàng vừa mua, và phong cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp của
căn nhà, thì đầu óc của tôi hoàn toàn bị chi phối bởi giấc mơ lạ lùng đêm qua.
Tôi tự hỏi: “Nếu đó là một giấc mơ thì tại sao tôi lại bị ám ảnh một cách sâu sắc
như thật đến tận lúc này?”. Từ trước đến nay, tôi không hề đọc một tài liệu nào
về Atlantis hay quan tâm gì đến huyền thoại lịch sử này, nhưng tại sao hiện giờ
tôi lại biết về nền văn minh đã biến mất này đến từng chi tiết như vậy? Tuy là
người bình tĩnh trong mọi hoàn cảnh nhưng lúc này tôi lại rất hoang mang trước
trải nghiệm không thể giải thích này.
Chiều hôm đó, Angie đề nghị:
- Em muốn nấu
một bữa ăn thật ngon để cảm ơn ông Kris. Anh nghĩ sao? Nếu không có ông ấy, chắc
chắn chúng ta đã phải ngủ ở trong xe rồi.
Tôi gật đầu mặc dù đầu óc không thoát
khỏi những hình ảnh lạ lùng của giấc mơ kia. Angie hồn nhiên nói:
- Tiếc quá,
em không xin số điện thoại của ông Kris. Hay là anh mang xe đến đó mời ông ấy
qua đây ăn tối với chúng ta đi. Anh nghĩ sao? Có gì gọi điện cho em biết với.
Angie là người có tài nấu ăn tuyệt vời. Trong tủ lạnh ở nhà không bao giờ thiếu
đồ ăn nhưng tôi không ngờ nàng cũng đã mua sắm đồ ăn cần thiết cho căn nhà nghỉ
dưỡng này từ trước. Tôi ngần ngại:
- Hình như ông ấy chỉ ăn trái cây thì phải?
Angie gật đầu:
- Không sao, em đã có sẵn một số trái cây ở đây. Anh cứ hỏi ông ấy
muốn gì thì em sẽ chuẩn bị được ngay.
Khi xe tôi vừa đến trước cửa thì thấy
ông Kris bước ra, dường như ông ấy đã biết trước sự có mặt của tôi lúc đó.
Chúng tôi cùng nhau bước vào nhà, ông Kris thong thả mời tôi ngồi xuống ghế. Có
lẽ nhìn thấy khuôn mặt đăm chiêu lo lắng của tôi nên ông đã chủ động hỏi một
cách thân mật:
- Hình như ông có điều gì đó muốn hỏi tôi thì phải? Tôi cố bình
tĩnh nhưng như thể có một động lực nào đó thúc đẩy, tôi chỉ vào chiếc hộp để
cây gậy ngọc, ngập ngừng hỏi:
- Tôi muốn biết... à không phải, tôi muốn hỏi...
cây gậy đó là gì vậy?
Tôi nói chưa hết câu thì ông Kris gật đầu như biết tôi muốn
gì. Ông nói một cách chậm rãi:
- Tôi biết ông sẽ hỏi về cây gậy này. Nó chính
là vật của ông đấy. Tôi giật mình:
- Như thế… như thế... chuyện hôm qua không
phải là giấc mơ sao?
Ông Kris mỉm cười:
- Không đâu, nó giúp ông khôi phục lại
một ký ức xa xôi, một kiếp sống mà ông đã quên từ lâu rồi.
Nhìn thấy vẻ bối rối
của tôi, ông Kris thong thả giải thích:
- Tôi không muốn ông thắc mắc về việc
này, tôi sẵn sàng trả lời những câu hỏi đang làm ông hoang mang. Cách tốt nhất
là giải thích những điều căn bản trước, với hy vọng chúng sẽ giúp ông hiểu biết
thêm về quy luật vũ trụ và hoàn cảnh hiện nay của ông. Tôi có thể giúp ông có
trải nghiệm thực tiễn, nhờ vậy ông có thể tự chứng nghiệm việc này.
Từ trước đến
nay, tôi không bao giờ tin vào những chuyện mơ hồ, viển vông. Tôi không tin
chuyện có nhiều kiếp sống như một số tôn giáo đề xướng. Tôi không tin con người
chết đi rồi đầu thai vào một kiếp khác. Tôi không mấy khi bận tâm về những chuyện
viển vông này. Tôi là người thực tế, không dễ tin người, nhưng lúc đó không hiểu
sao đầu óc tôi trở nên rất dao động, hoang mang. Tôi run giọng:
- Như ông nói,
quả thật là một người có nhiều kiếp sống hay sao? Ông Kris mỉm cười:
- Dĩ nhiên
rồi, nhưng ông không phải tin, mà cần trải nghiệm điều đó. Đến khi đó ông sẽ thấy
những sự kiện thay đổi trên bề mặt địa cầu, những quy luật bất biến của vũ trụ
và trả lời được câu hỏi hiện nay của ông.
Tôi bối rối:
- Như thế… tôi đã từng sống
tại đó? Tại Atlantis ư?
Ông Kris nhìn thẳng vào mặt tôi:
- Tại sao không? Ông
đã sống ở nhiều nơi, trải qua nhiều kiếp, và đã đến lúc ông cần nhớ lại những
điều này. Đó chính là những điều ông đã dặn tôi rất kỹ.
Tôi ngạc nhiên:
- Tôi
đã từng yêu cầu ông thế sao? Khi nào cơ chứ?
Ông Kris gật đầu:
- Chúng ta đã biết
nhau từ lâu rồi. Chính ông yêu cầu tôi giúp nên chúng ta mới có duyên gặp nhau
hôm nay. Một lần nữa, tôi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác:
- Chúng ta
đã gặp nhau từ lúc nào? Tại sao tôi không nhớ?
Ông Kris thong thả trả lời:
-
Đây là lần đầu chúng ta gặp nhau tại kiếp này, nhưng còn những kiếp khác nữa chứ.
Chúng ta đã có mối liên hệ với nhau trong nhiều tiền kiếp rồi.
Tôi bối rối tự lẩm
bẩm nói một mình:
- Nếu thế thì tại sao tôi không nhớ được gì cả? Nếu có những
kiếp trước thì tôi phải nhớ được như ông chứ?
Ông Kris bật cười:
- Có những
chuyện xảy ra không lâu trước đây ông còn không nhớ thì làm sao ông có thể nhớ
được những chuyện đã từng xảy ra từ những tiền kiếp xa xôi?
Tôi đâm ra khó chịu
khi không muốn chấp nhận:
- Không lẽ đầu óc của tôi lại kém đến thế sao?
Ông
Kris chăm chú nhìn tôi và giải thích:
- Ông bạn ơi, đầu óc của ông hiện nay chỉ
chứa đựng những kiến thức ông học trong kiếp sống này mà thôi. Nó có những giới
hạn của nó. Ông không thấy sao? Có khi ông nhớ được một vài việc xảy ra tuần
trước, có khi ông quên. Có khi ông nhớ được một số việc xảy ra vài tháng trước,
vài năm trước nhưng cũng có khi ông quên.
Khi mới sinh ra, trí não của ông chưa
phát triển nên ông đâu nhớ được những việc xảy ra khi chào đời hay khi nằm
trong bụng mẹ, đúng không? Khi trí não của ông bắt đầu phát triển, ông nhớ được
vài việc xảy ra khi còn thơ ấu, từ khoảng hai hay ba tuổi gì đó. Tuy nhiên, đó
chỉ là một vài hình ảnh mơ hồ, những mảnh ký ức vụn vặt thôi vì trí não của ông
lúc nhỏ còn non kém. Khi ông lên sáu, bảy tuổi thì ông nhớ được nhiều hơn vì
trí não đã phát triển đầy đủ. Tùy theo sự phát triển của trí não và thói quen
trong cuộc sống mà người ta nhớ được một số việc nhưng cũng dễ quên đi một số sự
việc, dữ kiện khác. Trí não có giới hạn của nó, do đó chúng ta khi nhớ, khi
quên. Khi già yếu, trí não không hoạt động hữu hiệu thì người ta quên nhiều hơn
nhớ. Nhưng tất cả kinh nghiệm, tư tưởng, lời nói và hành động đều được lưu trữ
lại ở một “trí não” khác và nó luôn luôn theo cùng ông qua những kiếp sống khác
nhau.
Tôi thắc mắc:
- Vậy làm sao tôi có thể nhớ được những việc đã xảy ra từ
kiếp trước?
Ông Kris thong thả trả lời:
- Đôi khi, bằng cách thôi miên tiềm thức,
người ta có thể liên lạc được với “trí não” kia và nhớ được vài chi tiết, nhưng
thôi miên cũng có giới hạn của nó. Một vài người có thể nhớ lại tiền kiếp nhưng
chỉ là những trải nghiệm mập mờ, những mảnh vụn của một ký ức chứ không rõ rệt.
Việc nhớ lại tiền kiếp đòi hỏi một công phu tu tập mà ông đã từng luyện tập
trong quá khứ, do đó ông mới nhớ được một kiếp sống ở Atlantis khi nhìn thấy
cây gậy ngọc này.
Tôi ngạc nhiên:
- Tôi có thể nhớ lại các kiếp sống từ trước
sao?
Ông Kris nhìn thẳng vào tôi và nói một cách nghiêm nghị:
- Những điều tôi
sắp nói ra đây có thể lạ lùng với ông trong lúc này. Tôi không đòi hỏi ông phải
chấp nhận những gì tôi nói là chuyện có thật, vì ông chỉ có thể thấy nó là thật
khi tự mình biết chúng là đúng hay sai, thông qua trải nghiệm của chính ông mà
thôi.
Thấy tôi do dự, ông Kris giải thích thêm:
- Ông không phải tin những điều
tôi sắp nói đây, trừ phi ông thấy điều đó hợp với suy nghĩ của ông. Bây giờ ông
có thể xem đó như là một lý thuyết cũng được, nhưng ông phải tự mình chứng nghiệm
lấy những điều này, để rồi đi đến kết luận, niềm tin cho riêng ông.
Tôi thắc mắc:
- Nhưng tôi phải làm thế nào? Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra hôm qua? Tại
sao chúng ta lại gặp nhau tại đây? Phải chăng đã có sự thu xếp từ trước?
Ông
Kris mỉm cười:
- Đúng thế, đây không phải là một sự tình cờ đâu. Đã có những
nhân duyên từ trước thu xếp cho cuộc gặp gỡ này. Thật ra việc này đã được sắp đặt
từ lâu rồi và đến nay mới xảy ra.
Tôi ngạc nhiên:
- Nhưng ai đã thu xếp việc
này chứ? Ông Kris từ tốn trả lời:
- Chính ông là người đã thu xếp việc này từ
nhiều thế kỷ trước. Tôi hốt hoảng:
- Tại sao tôi không biết gì về việc này? Tại
sao lại là từ nhiều thế kỷ về trước?
Ông Kris gật đầu:
- Hiện nay ông không biết
rõ nhưng chúng ta đã quen biết nhau từ nhiều thế kỷ rồi. Lúc này ông chưa khôi
phục được khả năng nhớ lại tiền kiếp nhưng rồi ông sẽ có dịp biết những điều
ông muốn biết.
Tôi bỗng cảm thấy vừa ngạc nhiên vừa khó chịu và một chút tự ái,
khiến tôi không giữ được bình tĩnh. Tôi hỏi:
- Nhưng có bằng chứng nào cho thấy
có những kiếp sống trước đó hay việc con người đã trải qua nhiều kiếp khác
nhau?
Ông Kris mỉm cười, bình tĩnh chỉ vào chiếc gậy ngọc:
- Vật này có thể
giúp ông trải nghiệm một kiếp sống cho đến khi ông khôi phục lại khả năng sẵn
có nơi ông. Dĩ nhiên tôi không muốn tâm trí mình bị thôi miên hay dẫn dắt bởi một
vật lạ lùng nên cảnh giác:
- Tôi không biết gì về cây gậy này. Ông có thể giải
thích cho tôi tại sao ông lại có cây gậy này không?
Ông Kris gật đầu:
- Tôi giờ
có nói ra ông cũng không tin nhưng trước sau gì ông cũng sẽ biết.
Kris thong thả
bước đến chiếc hộp để cây gậy ngọc, rồi cầm lên đưa cho tôi. Tôi ngần ngại chưa
muốn cầm lấy nó. Tôi không muốn bị ảnh hưởng bởi cây gậy lạ lùng này, nhưng
không hiểu sao tôi vẫn đưa tay ra như có một lực hút. Cây gậy tự nhiên phát ra
ánh sáng, những viên ngọc cũng đồng loạt phát ra những tia sáng khác nhau có vẻ
quen thuộc. Tôi vừa chạm vào cây gậy, bỗng như có một sức hút khiến tôi nắm chặt
lấy nó. Tôi cảm nhận có một luồng điện lạ lùng từ cây gậy truyền qua tay, chạy
dọc toàn thân khiến tôi ngây ngất. Tôi cố giữ bình tĩnh, nhưng cứ thấy mình như
bị thu hút vào luồng ánh sáng kỳ lạ của cây gậy...
Ông Kris nói rất khẽ:
- Cứ tự
nhiên, nó sẽ giúp ông trở về với quá khứ, vì chỉ có ông mới có thể sử dụng cây
gậy này mà thôi...
Tâm trí tôi quay lại với ký ức về cuộc sống tại
Atlantis như đêm qua, nhưng lần này tôi thấy mình đang bị dằn vặt bởi cảm giác
muốn chiếm đoạt người thánh nữ xinh đẹp trong đền thờ Thái Dương. Đó không phải
là một kiểu tình yêu mà chỉ là lòng tham của một người thuộc đẳng cấp quyền uy
trong xã hội, cho rằng mình có quyền làm tất cả những gì mình muốn. Dĩ nhiên việc
chiếm đoạt một thánh nữ là điều không thể vì những người này thuộc phạm vi “bất
khả xâm phạm”. Với tôi khi đó, Kor là một thứ “trái cấm” mà ngay cả người có
quyền như tôi dù muốn cũng không thể chiếm đoạt được. Thật khó có thể diễn tả cảm
giác này vì đầu óc của tôi lúc đó đang bị xâu xé bởi một ý nghĩ hung bạo và ích
kỷ, hoàn toàn khác hẳn với tâm trí của tôi ở hiện tại.
Đang quay cuồng với những
ý tưởng dục vọng kia thì cha tôi từ đâu bước đến, bằng vẻ mặt nghiêm nghị, ông
nói như ra lệnh:
- Con đi theo ta! Chúng ta có việc cần làm ngay lúc này.
Nhìn
khuôn mặt và ánh mắt quyết đoán của cha, tôi ngạc nhiên vì ông vốn là người
bình tĩnh, ngay cả trong những tình trạng khẩn cấp. Tôi hỏi:
- Chúng ta đi đâu
vậy cha?
Cha tôi không trả lời mà chỉ ra dấu cho tôi đi theo. Hiển nhiên, ông
đang suy nghĩ về chuyện gì đó rất hệ trọng.
Tôi theo cha tôi đi qua những con
đường rộng lớn dẫn đến cung điện của Hoàng đế Heracles xứ Arya. Đây không phải
là lần đầu tôi đến nơi này, vì thỉnh thoảng cha cũng đưa tôi đi cùng khi vào
cung. Là thành viên của Hội đồng Trưởng lão xứ Arya, ông thường tham dự vào những
việc quan trọng trong triều, đôi khi ông cũng cho tôi đi theo.
Chúng tôi bước
vào căn phòng lớn, tôi thấy một số nhân vật của triều đình trong Hội đồng Trưởng
lão cũng đang hiện diện, nhưng vẻ mặt ai cũng đăm chiêu, ra chiều nghiêm trọng.
Buổi họp bắt đầu khi Hoàng đế Heracles ra dấu cho một trưởng lão ngồi gần đó:
-
Này Mar, ông hãy nói cho mọi người biết sự việc đi.
Mar là quan thiên giám và
cũng là một nhà tiên tri nổi tiếng của Arya. Ông này nghiêm nghị nói:
- Hiện
nay, chúng ta đã thấy rõ những dấu hiệu bất thường mà các nhà tiên tri khi xưa
đã cảnh báo, về hiện tượng địa cầu chuyển trục. Các giáo sĩ trong đền thờ Thái
Dương cũng xác nhận rằng luồng từ lực của địa cầu đã di chuyển theo phương hướng
bất lợi. Từ nhiều năm nay, thời tiết khắp nơi đều thay đổi với những trận hạn
hán kéo dài nhiều tháng, phá hoại mùa màng. Có những cơn bão mạnh gây lụt lội
khắp nơi. Có những trận cháy rừng kéo dài hàng tháng khiến súc vật chết hàng loạt.
Có những dịch bệnh mà các y sĩ tài giỏi nhất cũng bó tay, khiến người chết vô số.
Hiện tại cuộc chiến giữa xứ Og và Poseida đi đến giai đoạn ngày càng quyết liệt
và mối đe dọa xâm lăng Arya ngày một gần hơn. Do đó, không còn nghi ngờ gì nữa,
chuyện phải đến sẽ xảy ra. Không phải trong nhiều năm hay nhiều tháng mà chỉ
trong vài ngày nữa. Đã đến lúc chúng ta phải thi hành kế hoạch trù liệu từ trước
là thu xếp đưa một số người đã được chọn đến các bến bờ an toàn.
Từ lâu, các
nhà tiên tri Atlantis đã cảnh cáo mọi người về tình trạng thay đổi của trục địa
cầu. Họ nói rằng sẽ có những trận cuồng phong dữ dội hay những cơn địa chấn có
thể đưa Atlantis đến tình trạng diệt vong nên đây không phải là một thông tin mới,
nhưng lần này, qua giọng nói của quan thiên giám tôi đã cảm thấy có điều bất
thường.
Hoàng đế Heracles lên tiếng:
- Ông hãy xác nhận những điều ông tiên
đoán cho mọi người biết để chuẩn bị.
Mar trả lời, sự nghiêm trọng thể hiện
trong giọng nói:
- Tôi đã quan sát rất kỹ những thay đổi của ảnh hưởng từ các
tinh tú xuống địa cầu và kiểm tra những lời tiên tri trong quá khứ. Tôi và các
giáo sĩ hoàn toàn đồng ý với nhau rằng chỉ vài ngày nữa sẽ có một biến động hết
sức to lớn, ngoài sức tưởng tượng. Hoàng đế Heracles trầm tĩnh suy nghĩ, rồi lên
tiếng:
- Chắc gì nó sẽ xảy ra đúng như dự đoán? Liệu có thay đổi gì khác không?
Mar lắc đầu:
- Tôi đã xem xét kỹ nhiều lần sự di chuyển của các vì tinh tú và
quả quyết rằng tai họa chắc chắn sẽ xảy ra, đúng như lời tiên tri từ nhiều năm
trước.
Hoàng đế Heracles gật đầu:
- Nếu thế, chúng ta phải thi hành ngay kế hoạch
đưa số người đã được chọn đến các bờ bến an toàn. Hôm nay ta muốn duyệt xét lại
danh sách này một lần nữa và cho tiến hành ngay kẻo trễ. Các ông đã chuẩn bị
danh sách đầy đủ chưa?
Cha tôi quay sang tôi nói nhỏ:
- Nếu lời tiên tri này
đúng thì sẽ có một trận cuồng phong rất lớn ập đến, có thể gây thiệt hại khủng
khiếp cho Atlantis. Để bảo tồn nền văn minh của chúng ta, Hoàng đế Heracles đã
lựa chọn một số người đại diện cho Atlantis lên những thuyền lớn để đưa họ đến
những vùng khác an toàn hơn. Trên mỗi chiếc thuyền, ngoài thủy thủ đoàn là những
người với nhiệm vụ đã được chỉ định rõ: giáo sĩ, chiêm tinh gia, khoa học gia,
kiến trúc sư, nghệ sĩ, y sĩ, kỹ sư, và thánh nữ. Những người này đều được chọn
lựa bởi Hội đồng Trưởng lão từ trước. Và hôm nay sẽ là ngày quyết định.
Tôi hỏi:
- Nếu đã biết trước có tai ương như thế tại sao chúng ta không ra đi hết mà chỉ
chọn một số người thôi?
Cha tôi lắc đầu:
- Không ai có thể biết chắc rằng việc
này sẽ xảy ra đúng như lời tiên tri. Nếu điều này không xảy ra thì sao? Và dù
có muốn đi nữa, chúng ta cũng không đủ thuyền bè để đưa tất cả mọi người đến những
nơi đó, nên đa số chúng ta tình nguyện ở lại, chấp nhận số phận nếu tai họa xảy
ra.
Theo thứ tự, mỗi vị trưởng lão bước ra trình danh sách những người được chọn
cho Hoàng đế Heracles duyệt xét lần cuối. Là trưởng lão đứng đầu trường y, cha
tôi có trách nhiệm chọn ra những y sĩ được thu xếp lên thuyền. Điều bất ngờ là
khi công bố danh sách, tôi không thấy mình có tên trong đó. Tại sao lại như thế
được? Tôi là một trong những y sĩ có kiến thức cao, hơn cả những người có tên
trong danh sách kia. Chuyện gì đã xảy ra? Trong lúc tôi đang bất mãn muốn lên
tiếng hỏi cha tôi thì một trưởng lão khác đã bước lên trình danh sách các thánh
nữ được chọn. Tôi choáng váng! Kor, người thiếu nữ mà tôi đang muốn chiếm đoạt,
có tên trong đó. Một cảm giác mất mát, hụt hẫng lạ lùng khiến tôi đâm ra khó chịu
và tức giận.
Sau khi duyệt qua danh sách, Hoàng đế Heracles chỉ thị cho viên tướng
hầu cận đứng gần đó:
- Ngươi liên lạc ngay với những người có tên trong danh
sách này, đưa họ đến địa điểm đúng vào giờ giấc đã định. Những con thuyền sẽ phải
nhổ neo ra khơi ngay, không được chậm trễ. Thuyền trưởng và thủy thủ đoàn đã biết
họ phải làm gì. Đây là việc hệ trọng, phải thi hành thật chuẩn xác.
Tuy vẫn
đang bất bình về việc cha không chọn mình, nhưng đầu óc tôi lúc đó lại bị chi
phối quá mạnh bởi việc người thánh nữ mà tôi muốn chiếm đoạt sẽ phải rời xa nơi
đây, đồng nghĩa với ham muốn của tôi sẽ không đạt được. Hơn lúc nào hết, ý nghĩ
chiếm đoạt “trái cấm” kia đã hoàn toàn chi phối tôi. Đầu óc tôi nổi lên vô vàn
mưu tính nên tôi không còn để ý gì đến chung quanh, cho đến khi buổi họp kết
thúc, và mọi người rời cung điện ra về . Khi đó, cha nhìn tôi lạ lùng, rồi giải
thích:
- Ta biết con sẽ hỏi tại sao ta không chọn con vào danh sách những người
được đưa đi xa. Nhưng những người được lựa chọn sẽ ảnh hưởng đến tương lai của
Atlantis, ta không thể đưa tên con vào đó được.
Tôi hết sức bất mãn:
- Cha
không nghĩ con xứng đáng hơn những người đã được chọn ư? Hay cha nghĩ kiến thức
của con không bằng những người khác?
Cha tôi lắc đầu:
- Không phải thế, kiến thức
của con vượt xa những người kia, nhưng sở dĩ con không được chọn vì chúng ta
không muốn mang nền tà giáo mà con đang theo đuổi đến bờ bến an toàn kia.
Một
tiếng sét ngang tai! Tôi không ngờ cha tôi lại biết việc tôi đang theo học những
nghi thức bí mật của nền tôn giáo xứ Og.
Trong lúc tôi vẫn bối rối chưa biết phải
nói gì thì ông tiếp tục:
- Lúc đầu ta đã đưa tên con vào danh sách này, nhưng
khi duyệt xét với các trưởng lão trước khi trình lên Hoàng đế Heracles thì ta
được báo cáo về việc con đã bí mật theo đuổi những nghi thức của các giáo sĩ xứ
Og. Ta biết lòng ham mê học hỏi của con, nhưng việc sử dụng những động lực mà
con không thể kiểm soát này sẽ mang đến những hậu quả không thể lường được.
Chúng ta không thể để cho cái tôn giáo ma quái kia ảnh hưởng đến tương lai tươi
sáng của nền văn minh mà chúng ta sẽ xây dựng ở bờ bến an toàn được.
Cha tôi
nghiêm giọng:
- Là người Arya, con đã vi phạm một nguyên tắc rất quan trọng của
xứ này và phải chịu trách nhiệm về việc con làm. Đáng lẽ con đã bị bắt giam
ngay nhưng ta đã xin phép để nói chuyện riêng với con. Đối với ta, con không xứng
đáng là người xứ Arya nữa và cây gậy ngọc mà con sở hữu sẽ phải hoàn trả lại
cho ta.
Tôi thấy cha tôi ra dấu cho hai người lính đang đứng gần đó bước lại.
Tuy chấn động vì sự kiện bất ngờ này nhưng tôi cũng phản ứng ngay bằng cách
hung hãn rút cây gậy ngọc ra. Thay vì trao cho cha tôi, tôi lùi lại vung cây gậy
lên trước mặt để đe dọa kẻ nào muốn đến gần. Mặc dù đó là cây gậy dùng để chữa
bệnh nhưng cũng là một thứ vũ khí toàn năng vì người điều khiển có thể dùng nó
để tách rời nguyên tử trong cơ thể người khác.
Dĩ nhiên những người lính kia biết
rõ sự lợi hại của cây gậy ngọc, tuy có gươm giáo sẵn trên tay nhưng không ai
dám tiến đến gần tôi, chỉ dám bao vây chung quanh. Tôi bất ngờ xoay người lại,
dùng gậy mở đường tháo chạy khỏi cung điện. Cha tôi quát lên ngăn cản nhưng tôi
vẫn cắm đầu chạy thẳng, bỏ xa quân lính đang đuổi theo. Tôi không hiểu sao mình
lại có thể chạy nhanh đến thế. Tôi mải miết chạy qua các đường phố quanh co cho
đến khi dừng chân trước căn nhà mà tôi thường đến học nghi thức tế lễ của nền
tôn giáo xứ Og. Beru vừa mở cửa tôi đã trút tất cả giận dữ trong lòng ra và kể
cho hắn nghe về kế hoạch của Hoàng đế Heracles.
Beru nghe xong rồi bật cười:
-
Việc địa cầu chuyển trục đưa tai họa đến Atlantis không phải là điều gì mới.
Các nhà tiên tri Atlantis đã nói về việc này từ lâu rồi. Từ xưa, mọi nước đều
đã có kế hoạch đưa người đến những lục địa chưa có người ở để định cư. Tuy
nhiên, hiện nay chưa nước nào thực hiện được vì chiến tranh giữa Og và Poseida
đang đến hồi quyết liệt. Có lẽ Hoàng đế Heracles muốn chiếm độc quyền việc di
cư này vì số người được chọn đến đó đều là người Arya, theo luật lệ và tôn giáo
của Arya, không phải của Og hay Poseida. Tôi hơi giật mình vì sự hiểu biết của
hắn. Beru nói tiếp:
- Những lời tiên tri này đã được đề cập đến cả mấy năm nay
rồi chứ đâu phải là điều gì mới đâu. Việc Hoàng đế Heracles lại vội vàng đưa
người rời khỏi đây ngay như thế cho thấy ông ta có một âm mưu gì khác, đúng
không?
Beru trầm ngâm, rồi gật đầu như đã tìm được câu trả lời:
- Hiện nay cuộc
chiến giữa Og và Poseida trước sau cũng sẽ lan đến Arya. Phe nào thắng sẽ quyết
định số phận của Arya. Từ trước đến nay, Arya vẫn là một cái gai đối với Og và
Poseida vì tôn giáo thờ Thái Dương với những giáo điều khắt khe, khác hẳn với
tôn giáo của Og và Poseida. Người dân Arya vẫn tự hào là một tộc người thuần
khiết, không bao giờ ngẫu phối với những giống người khác. Chiến tranh đang lan
rộng khắp nơi, nếu Og hay Poseida xâm lăng Arya thì liệu triều đại của Heracles
có thể tồn tại được không? Có lẽ thấy không thể giữ được ngôi vị tại đây nên
Hoàng đế Heracles muốn dời đô đi nơi khác chăng?
Lý giải đó của Beru đã đáp ứng
được cho thắc mắc của tôi. Trong cuộc chiến gần đây, đội binh ”nửa người, nửa
thú” của Og đã sáng chế ra những vũ khí mới lạ nên đã chiếm phần thượng phong.
Nếu Poseida thất thủ thì Arya cũng không thể tránh khỏi số phận như Poseida.
Trước sau gì người dân xứ này cũng sẽ bị bắt làm nô lệ hay bị thay đổi thành một
giống người khác.
Tôi run giọng:
- Nếu Hoàng đế Heracles âm mưu dựa vào những lời
tiên tri vu vơ bỏ xứ ra đi để tiếp tục cai trị ở một nơi nào đó tức là mọi người,
kể cả những vị trưởng lão, đã mắc mưu của hắn rồi. Thay vì trốn đi một mình, hắn
lại mang theo một số người có khả năng xây dựng một xã hội mới, tại một nơi chốn
an toàn. Đã thế hắn lại còn kéo theo một số giáo sĩ và thánh nữ trong đền thờ
Thái Dương để mang nền tôn giáo này đi theo. Quả là âm mưu thâm độc.
Beru đồng
tình phụ họa theo:
- Khi Heracles và số người thân tín bỏ Arya ra đi thì trước
sau gì nơi đây cũng sẽ thuộc về Og hay Poseida và cái tôn giáo thờ Thái Dương sẽ
bị loại bỏ. Khi đó, chúng ta muốn gì chẳng được.
Tôi không kìm được nữa:
-
Thánh nữ Kor cũng được đưa đi lánh nạn phương xa, tôi thì không. Mà cô ta lại
là người mà tôi đang thèm muốn.
Beru bật cười lớn:
- Tôi không ngờ anh lại
thích cô thánh nữ đó? À mà cũng dễ hiểu thôi, cô ấy xinh đẹp quá mà! Nếu muốn,
tại sao chúng ta không lập mưu bắt cô này về hầu hạ ít lâu. Trong lúc Hoàng đế
Heracles bận rộn mang hàng trăm người lên thuyền, đâu ai để ý đến một người bị
thất lạc.
Beru là người đa mưu túc trí khác thường nên chỉ một thoáng hắn đã
đưa ra ngay một kế hoạch hết sức táo bạo. Theo kế hoạch, một viên quan triều
đình sẽ liên lạc với những người có tên trong danh sách để đưa họ đi. Mặc dù
đang bị truy nã nhưng tôi vẫn tìm ngay được người giữ trọng trách đưa những
thánh nữ lên thuyền. Chỉ một liều thuốc mê, tôi đã khiến hắn ngủ mê mệt, rồi đoạt
lấy binh phục và ấn tín của hắn để đi đến đền Thái Dương.
Đền thờ Thái Dương của
các thánh nữ được coi là một nơi chốn linh thiêng, rất ít ai được phép lui tới,
nhất là đàn ông. Tuy nhiên, bà thánh trưởng đã được thông báo từ trước nên
không hỏi gì mà đưa tôi, trong binh phục của viên quan triều đình, tiến thẳng
vào một căn phòng phía sau đền thờ. Những thánh nữ có tên trong danh sách được
đưa vào gặp tôi.
Bà thánh trưởng căn dặn:
- Các con đã được ta huấn luyện từ
nhiều năm nay cho việc này. Bây giờ đã đến lúc các con thi hành. Đây là người
có nhiệm vụ đưa các con đi, các con phải tuyệt đối tuân theo chỉ dẫn của người
này.
Tôi lên tiếng:
- Những chiếc xe đón các cô lên đường đã sẵn sàng. Tôi sẽ
chỉ định người nào đi xe nào vì mỗi xe sẽ đưa các cô đến những địa điểm khác
nhau, nơi những con thuyền đang chờ sẵn.
Những thánh nữ đã biết trước nhiệm vụ
của họ nên không ai tỏ vẻ ngạc nhiên. Họ mau chóng yên lặng thu xếp hành trang
rồi theo tôi lên đường. Bước khỏi đền thờ, tôi vừa cảm thấy lo lắng, lại vừa phấn
khích như loài thú dữ sắp vồ được con mồi. Mặc dù cố tự chủ nhưng đầu óc tôi đột
nhiên rối loạn như linh cảm được một điều gì bất thường có thể sắp diễn ra.
Trước
mặt tôi là những chiếc xe đã chờ sẵn trong màn đêm tối. Tôi thấy Beru cũng ngồi
chờ trên một chiếc xe gần đó. Dưới sự chỉ dẫn của tôi, các thánh nữ lần lượt bước
lên những chiếc xe đã được chỉ định. Trong khi những chiếc xe khác chở các
thánh nữ theo kế hoạch tiến ra bờ biển để lên thuyền thì chiếc xe của Beru lại
chở Kor đi ngược hướng đến căn nhà riêng của hắn.
Vì biết các thánh nữ đều có lời
thề giữ mình trong sạch, thà chết chứ không chịu khuất phục bất cứ một sức mạnh
nào nên theo mưu tính của Beru, tôi đã tổ chức ngay một buổi tế lễ tà thuật với
một số nam nữ mà trong đó rượu và các dược chất chuẩn bị trước được sử dụng tối
đa. Thánh nữ Kor được hộ tống đưa xuống một căn hầm kín riêng biệt được đục âm
sâu vào vách núi và bị ép uống một ly rượu trộn với máu súc vật cùng các dược
chất kích thích đặc biệt để cô không còn khả năng tự chủ hay kháng cự tôi nữa.
Sau ly rượu, Kor chỉ yếu ớt phục tùng con thú dữ đang bùng phát dữ dội trong
tôi. Tôi không hiểu tại sao lúc đó mình lại có thể làm một việc đồi bại và đầy
thú tính từ chinh phục đến giày vò một thánh nữ trong trắng ngây thơ trong niềm
hoan lạc, hả hê đến như thế. Nhưng lúc đó tôi không phải là tôi ngày hôm nay,
mà là một con người hoàn toàn khác, một kẻ có thú tính, tham lam và ích kỷ như
đa số đàn ông Atlantis lúc bấy giờ. Đến gần sáng Kor đã thiếp đi cùng với tôi.
Điều không ai ngờ là khi Hoàng đế Heracles và quân sĩ hộ tống những người được
chọn vừa rời khỏi thành phố thì một đội binh ”nửa người, nửa thú” của xứ Og đã bí
mật đột nhập vào Arya. Những “đứa con của Belia” mặc áo giáp bằng một thứ kim
loại đặc biệt, gươm giáo không đâm thủng, tấn công binh sĩ phòng thủ của xứ
Arya. Chẳng bao lâu, đám binh sĩ hung dữ đã chiếm Arya, dân chúng trở thành những
miếng mồi ngon cho đội quân hung hãn này.
Trong khi chiến tranh xảy ra khắp
Arya thì chúng tôi vẫn đắm mình trong cuộc truy hoan vô độ dưới căn hầm sâu,
không biết gì về những việc xảy ra bên ngoài. Hôm đó, tôi tỉnh giấc trong một
trạng thái bơ phờ sau đêm hoan lạc điên cuồng với những vò rượu pha máu và dược
chất khi thực hành những nghi thức ma thuật với người thánh nữ đáng thương kia.
Tuy thỏa mãn vì đạt được điều tôi muốn nhưng thật ngạc nhiên là rốt cuộc nó lại
không đem lại cho tôi cảm giác mà tôi từng mong ước.
Việc chiếm đoạt được người
thánh nữ xinh đẹp lúc đang bị mê man không thể chống cự này, không hiểu sao lại
khiến cho tôi cảm thấy dằn vặt khó chịu, khác hẳn những lần ái ân với những cô
gái khác trước đó. Tôi lảo đảo bước ra khỏi căn hầm tối đầy những thân thể trần
truồng vẫn ngủ say sau cuộc truy hoan và chợt nghe thấy tiếng kêu la thảm thiết
từ bên ngoài đường phố vang vọng vào.
Tôi vừa mở cửa bước ra khỏi nhà thì đã thấy
ngay một cảnh tượng khủng khiếp với những xác chết nằm la liệt, lũ quái vật ”nửa
người, nửa thú” đang cấu xé, ăn thịt nạn nhân. Binh lửa khắp nơi. Đám lính hung
dữ xứ Og đang hung hăng cướp phá và tàn sát những người dân lành vô tội.
Một
đám lính xứ Og nhìn thấy tôi nên lập tức xông đến. Biết không thể chống cự, tôi
tháo chạy vào đường hầm. Đám quái vật lập tức xông vào theo. Tôi chạy đến chỗ
Kor đang nằm, nhặt lấy cây gậy ngọc khiến nó bật lên những tia sáng chói lọi.
Đám quân sĩ hung dữ vội vã lùi lại vì chúng biết rõ sự lợi hại của thứ vũ khí
này. Một khi đụng vào cây gậy này thì nguyên tử trong thân thể chúng có thể bị
phá tan ngay.
Chưa bao giờ tôi thấy mình sợ hãi như lúc đó. Mặc dù có vũ khí
trong tay nhưng nhìn đám binh sĩ lông lá xồm xoàm kia, tôi không biết phải đối
phó thế nào. Một tên có vẻ như là người chỉ huy chăm chú nhìn cây gậy ngọc, rồi
ra lệnh:
- Các ngươi tránh ra cho hắn đi, và chớ có đụng vào vật đó.
Mặc dù đám
lính có ý tránh sang một bên để cho tôi đi nhưng chúng vẫn nhìn chằm chằm những
người tham dự buổi tiệc đang sợ hãi rút vào một góc nhà. Tôi quay lưng dựa vào
vách tường, cầm chặt cây gậy thủ thế, bước chậm từng bước một, lách qua kẽ hở
mà đám lính đã nhường cho tôi đi để thoát thân. Ngay lúc đó, khi quay lại, tôi
bắt gặp ánh mắt long lanh đang sợ hãi của Kor nhìn tôi như van lơn. Nếu tôi bước
ra khỏi căn hầm, Kor và những người trong đó chắc chắn sẽ trở thành nạn nhân thảm
thương của đám quái vật kia.
Không hiểu sao một cảm giác thương xót kỳ lạ trào
dâng trong tôi. Thật khó có thể giải thích cảm giác này vì với thân xác hung bạo,
tham lam, ích kỷ của người Atlantis khi đó, tình thương hay lòng trắc ẩn vẫn là
một cảm giác mới lạ, chưa hề có. Như có một sức mạnh nào đó thúc đẩy, tôi quay
người chạy nhanh vào nắm chặt tay Kor, kéo cô đi theo, tay kia vẫn nắm chặt gậy
ở thế sẵn sàng đánh trả.
Đám binh sĩ hung dữ trừng trừng mắt tức tối nhìn theo
tôi mang Kor đi ngay trước mắt nhưng không dám ra tay vì biết rằng nếu chạm vào
cây gậy này thì thân thể chúng sẽ nát như bụi. Khi ra khỏi nhà Beru, tôi không
biết đi đâu vì khắp nơi lửa cháy ngùn ngụt, khói đen bốc mù trời, chung quanh
là tiếng kêu la thảm thiết của nạn nhân chiến cuộc.
Trong phút hoảng sợ, tôi đã
có ý định bỏ mặc Kor lại để tìm lối thoát thân nhưng Kor vẫn nắm chặt tay tôi
không rời. Mới vài hôm trước, Kor là một thứ “trái cấm” mà tôi ao ước, nhưng hiện
nay người thánh nữ này không còn là điều quan trọng đối với tôi nữa. Những gì
tôi muốn tôi đã chiếm được, tôi đã thỏa mãn và giờ là lúc tôi phải tìm cách
thoát thân, giữ lấy mạng sống.
Đối với người Atlantis, vô cảm là một điều bình
thường vì đa số mọi người vẫn sống bằng bản năng man rợ chứ chưa phát triển về
tình cảm. Tuy Kor chỉ yên lặng đi theo nhưng nhìn nét mặt sợ hãi tuyệt vọng của
cô, tôi hiểu rằng nếu bỏ mặc Kor lại thì chắc chắn cô không thể thoát khỏi nanh
vuốt của đám quái vật kia. Bỗng nhiên ngực tôi rung động một cách lạ lùng dù
tôi không biết đó là cảm xúc gì. Không hiểu sao tôi vẫn nắm chặt tay Kor tiếp tục
chạy đi.
Trên đường, có lúc tôi phải chiến đấu với một vài tên lính xứ Og và
tôi đã giết chúng bằng cây gậy ngọc. Đây là lần đầu tôi giết người, nhưng lúc
đó tôi không ý thức gì về việc làm của mình vì chỉ muốn thoát thân. Chúng tôi
chạy băng qua những con phố khói lửa, đầy xác người, máu me lênh láng. Nỗi sợ
hãi mỗi lúc một tăng khiến đầu óc tôi căng thẳng như muốn nổ tung nhưng tôi vẫn
nắm chặt lấy tay Kor không rời.
Tôi gặp một đám lính Arya đang cố thủ ở vài địa
điểm quan trọng, họ cho biết phần lớn các trưởng lão đều rút vào đền thờ Thái
Dương trên đỉnh núi và chỉ có nơi đó là tương đối an toàn. Tôi bèn kéo Kor chạy
thẳng lên đó.
Khi bước vào đền thờ Thái Dương, tôi thấy cha tôi và các trưởng
lão, họ vẫn bình tĩnh ngồi yên như đang chờ đợi điều gì. Mặc dù thấy tôi nhưng
cha tôi vẫn không nói gì. Tuy nhiên, bà thánh trưởng của đền thờ kinh ngạc khi
thấy Kor phờ phạc trong y phục tơi tả, bà vội vã bước lại. Ngay lúc đó, Kor tuột
ra khỏi tay tôi, ngã gục xuống đất khóc nức nở. Không khí trong đền thờ đột
nhiên trở nên ngột ngạt vì tiếng khóc ấm ức của Kor.
Tôi rụt rè bước đến cạnh
cha tôi. Ông vẫn ngồi im không tỏ thái độ gì. Tôi chưa kịp lên tiếng thì bất ngờ
một tiếng nổ long trời vang lên, khắp mặt đất rung chuyển. Đền thờ cũng rung động
dữ dội, bụi cát văng lên tứ tung. Tôi bàng hoàng chưa biết phải làm gì thì cha
tôi đã chỉ tay ra cửa sổ nói:
- Đến lúc rồi!
Tôi hiểu ngay điều ông muốn nói.
Cơn địa chấn được tiên đoán sẽ xảy ra đã bắt đầu.
Đền Thái Dương được xây trên
đỉnh núi cao, từ đó người ta có thể nhìn thấy toàn bộ kinh đô Arya ở phía dưới.
Từ cửa sổ trên cao, tôi thấy một luồng nước khổng lồ từ dưới biển đang dâng
lên, cuốn trôi nhà cửa ở phía dưới. Thật là cảnh tượng hãi hùng. Luồng nước
dâng lên cuồn cuộn, ngập khắp thành thị, đồng bằng, cây cối ngã rạp, bật gốc dưới
sức mạnh của luồng nước. Sóng bủa cao như núi, mặt đất rung rinh rồi nứt ra từng
mảnh, nhà cửa khắp nơi sụp đổ, lửa cháy đỏ trời, đất đá bể nát văng khắp nơi.
Tiếng người kêu la khóc than thảm thiết pha lẫn với những tiếng sấm nổ vang trời.
Tôi hoảng hốt muốn tìm chỗ thoát thân. Cha tôi lên tiếng:
- Không chạy được
đâu. Số phận của tất cả đã đến lúc kết thúc. Chúng ta đã biết trước việc này rồi,
chỉ tiếc cho con không nghe lời ta mà phạm vào những điều cấm.
Ông không nói hết
câu vì khi đó mặt đất tiếp tục rung chuyển dữ dội, những cây cột đá chống đỡ đền
thờ cũng đồng loạt chuyển động theo. Tôi lặng người đi vì sợ hãi, chỉ chốc lát
thôi mái đền sẽ sụp xuống, đè nát mọi vật bên dưới, và nước triều sẽ dâng lên
đây, tất cả sẽ chìm sâu trong dòng nước.
Ngay lúc đó, bà thánh trưởng xông đến
chỗ tôi, quát lớn:
- Tên khốn nạn kia, mi đã làm gì con ta? Đáng lẽ nó đã thoát
được tai biến này, sao mi lại dám…
Bà không thể nói hết câu vì đất đá bay lên
mù mịt và tiếng gầm rú của luồng nước đã át đi giọng nói của bà. Tôi thấy các
trưởng lão đang trừng mắt nhìn tôi, tiếng quát tháo của bà thánh trưởng chìm
vào tiếng gầm rú của dòng nước hung dữ đang ập lên đến đền thờ.
Tôi bất ngờ cảm
thấy trong mình một sự chuyển biến lớn, trong tôi nhen nhóm những cảm giác mà
tôi chưa từng biết đến trước đây. Một cảm giác vừa thương xót vừa hối hận, dù
tôi chưa thể gọi tên. Tôi thấy Kor vẫn nằm phủ phục dưới nền đá bất chấp luồng
nước của trận đại hồng thủy đang bắt đầu tràn vào đền. Như có một điều gì đó
thôi thúc từ bên trong, tôi bước nhanh đến người thánh nữ đáng thương của mình.
Trong lúc mọi vật chung quanh đang vỡ nát dưới sức mạnh của cơn địa chấn, tôi
quỳ một chân, cúi người xuống sát Kor, cầm chặt tay nàng thì thầm một câu mà có
lẽ chưa từng có trong ngôn ngữ của người Atlantis chúng tôi:
- Kor nàng ơi! Ta
rất lấy làm tiếc. Ta xin lỗi nàng! Ta...
Chưa kịp nói dứt câu những gì trái tim
tôi muốn nói, mái đền đã đổ sụp xuống đè nát tất cả mọi vật bên dưới. Tôi
thoáng nhìn thấy đôi mắt Kor cũng đang nhìn tôi lạ lùng, đôi môi cô mấp máy như
muốn nói nhưng không kịp vì dòng nước đã ập vào cuốn phăng mọi thứ. Tôi rất tiếc
là Kor không nghe được câu sau cùng tôi chưa nói hết:
"...Ta sẽ không bỏ
nàng!" khi nước đã tràn vào cổ họng tôi. Tôi cố nắm chặt lấy tay Kor nhưng
không được nữa, Kor đã bị luồng nước mạnh giật khỏi tay tôi, bị cuốn đi mất
hút... Tôi gào thét nhưng không kịp thành tiếng... Vạn vật đã chìm trong luồng
nước xoáy hung dữ điên cuồng, rồi tôi không còn hay biết gì nữa...
Tôi thấy
mình lại đang ngồi trên chiếc ghế bành trong căn phòng khách nhà ông Kris. Chiếc
gậy ngọc để bên cạnh nhưng bảy viên ngọc đã không còn phát ra ánh sáng nữa. Ông
Kris thân mật hỏi:
- Ông thấy thế nào?
Tôi bàng hoàng một lúc, rồi lên tiếng:
-
Không lẽ… chuyện này có thật sao?
Ông Kris im lặng nhìn tôi, không trả lời. Tôi
cố gắng lấy lại bình tĩnh nhưng mồ hôi vẫn toát ra như tắm. Tôi lẩm bẩm nói một
mình:
- Sao lại như thế được? Không lẽ tôi lại có thể nhớ được tiền kiếp?
Phải
chăng tôi bị thôi miên hay một lực truyền dẫn nào đó tái hiện quá khứ cho tôi?
Nhưng dù có thôi miên thì mọi thứ không thể nào hiện ra rõ mồn một như một cuốn
phim như vậy được? Những người bị thôi miên khi tỉnh dậy thường không nhớ gì hết
nhưng tôi thì nhớ rõ đến từng chi tiết.
Sau một lúc xúc động, tôi lấy lại bình
tĩnh và hỏi:
- Ông có thể giúp tôi giải thích việc này được không?
Đến lúc đó,
ông Kris mới trả lời:
- Ông đã hồi tưởng trở lại kiếp sống xa xưa khi ở
Atlantis, nhưng ông còn sống nhiều tiền kiếp khác nữa. Nếu muốn, ông có thể hồi
tưởng lại những kiếp đó vì ông đã từng làm việc này từ trước rồi. Dĩ nhiên hiện
nay ông không nhớ đâu, nhưng rồi ông sẽ nhớ.
Tôi thắc mắc:
- Nhưng ông có thể
giải thích cho tôi việc này được không?
Ông Kris suy nghĩ một lát, rồi lên tiếng:
- Này ông bạn, cuộc đời chúng ta trải qua hiện nay chỉ là một phần nhỏ của một
đời sống kéo dài hàng trăm ngàn năm mà trong đó chúng ta học hỏi, thu thập kinh
nghiệm để tiến tới sự hiểu biết thật sự. Đời sống là một trường học vĩ đại mà
trong đó người ta học những gì cần phải học. Có người học rất nhanh qua những
kinh nghiệm; và có những người không chịu học hay học chậm, do đó họ cứ phải học
mãi. Trong trường đời này, đau khổ là bài học tốt nhất vì chỉ trong đau khổ người
ta mới chịu học. Nếu quá dễ dàng sung sướng, ít ai học được gì cả.
Tôi ngạc
nhiên:
- Nhưng chúng ta phải học gì?
Ông Kris mỉm cười:
- Chúng ta học để biết
rõ mình thật sự là ai? Để biết mối liên hệ giữa chúng ta và những người khác. Để
biết sự liên quan giữa chúng ta với vũ trụ. Để biết về những quy luật của sự sống
và vũ trụ. Trong vũ trụ có những quy luật bất biến, không bao giờ thay đổi
nhưng không mấy ai để ý đến. Quy luật quan trọng ông cần phải học lúc này là luật
Luân hồi và Nhân quả.
Ông Kris nhìn tôi thăm dò, rồi tiếp tục giải thích:
- Con
người thật ra chỉ là những năng lượng trong vũ trụ. Những năng lượng này tạm được
gọi là “thực thể”, mặc dù cách gọi này không chính xác lắm. Thực thể sẽ hóa hiện
trong các thân xác khác nhau, trải qua nhiều kiếp sống khác nhau, để học hỏi,
lúc tái sinh thành người, lúc thành thú vật, lúc thành các sinh vật ở các cõi
giới khác để học những bài học mà họ được định phải học. Vậy những thực thể này
học như thế nào? Chúng học qua một quy luật gọi là luật Nhân quả. Luật này nói
rằng mọi tư tưởng, lời nói hay hành động phát xuất từ thực thể sẽ tạo ra những
kết quả, xấu hoặc tốt, trong tương lai, và kết quả này sẽ bắt buộc thực thể phải
chịu trách nhiệm về những việc làm của mình. Cũng giống như một học sinh trải
qua các kỳ thi, có khi học sinh thuộc bài và thi đậu nhưng có khi thi rớt và phải
học lại cho đến khi học được bài học. Điều này đã được ghi rõ qua câu “Gieo giống
nào, gặt giống đó”, hay “Trồng cam được cam, trồng ớt được ớt”, hay “Gây nhân
nào, gặt quả nấy”.
Tôi hỏi:
- Nếu tôi gây ra đau khổ cho người khác thì tôi sẽ
phải trả giá bằng sự đau khổ mà người khác tạo ra ngược lại cho tôi đúng không?
Ông Kris mỉm cười:
- Dĩ nhiên rồi! Như ông đã biết, vật lý cũng đã nói rõ “Bất
cứ một lực tác động nào cũng đều có phản lực tương ứng”. Tuy nhiên, có khi phản
lực xảy ra ngay, có khi nó tiềm ẩn và xảy ra vào lúc khác, có thể trong kiếp
này, có thể trong kiếp sau.
Lúc đó tôi nghĩ đến cô thánh nữ Kor và hối hận về
việc mình đã gây ra với cô ấy. Tôi hỏi:
- Nếu thế, một ngày nào đó Kor cũng sẽ
trả thù tôi bằng hành động tương tự sao?
Ông Kris gật đầu:
- Giữa ông và Kor đã có một mối liên hệ trải qua rất nhiều kiếp
sống, khi hồi tưởng lại những kiếp sống quá khứ, ông sẽ hiểu rõ hơn. Lúc ở
Atlantis, ông chỉ là một thực thể non dại, nên tư tưởng và hành động có tính
ích kỷ, độc ác mang tính bản năng, vì ông của khi đó đã quen sống trong một môi
trường mà sự ích kỷ, độc ác, tham lam, chiếm đoạt là điều bình thường. Ở kiếp sống
đó ông chưa thức tỉnh về tình thương, lòng trắc ẩn, hay sự hối hận. Nếu ông
không học về những đức tính này qua những kiếp sống sau đó để thay đổi thì ông
chắc chắn không thể được như ngày nay. Tuy nhiên, có rất nhiều người mặc dù trải
qua nhiều kiếp sống nhưng vẫn chưa học được gì để tốt hơn, vì thế cuộc đời của
họ ngày nay vẫn triền miên đau khổ. Họ là những người cần phải học thêm bởi vì
trong đau khổ họ mới thức tỉnh để học.
Tương tự như thế, có những người tưởng
mình đã học được điều gì đó, nhưng khi gặp đúng hoàn cảnh thích hợp thì thói
quen, tính xấu khi trước lại nổi lên và hành động của họ không khác gì người xấu.
Điều này có nghĩa là họ chưa nắm vững bài học trước đây và sẽ phải học lại, tư
tưởng, lời nói và hành động của họ là nguyên nhân đưa đến sự đau khổ để buộc họ
phải học. Người có lương tâm, trách nhiệm, biết lắng nghe và cảm thông với người
khác thường là những thực thể đã học được bài học mà họ cần học. Họ đã trải qua
nhiều kiếp, có kinh nghiệm học hỏi, nhờ vậy tính tình, tư tưởng và hành động của
họ mới tốt đẹp như thế.
Một thực thể phải trải qua nhiều kiếp sống, lúc làm người,
lúc làm thú vật, lúc làm sinh vật ở cõi giới khác để trải qua những tình huống
khác nhau mà học tập. Tùy theo những tư tưởng và hành động mà họ làm, họ sẽ tái
sinh vào những hình hài khác nhau chứ không phải lúc nào cũng đầu thai thành
người. Kẻ hung dữ thường tái sinh thành con vật bị đánh đập tàn nhẫn để học bài
học về sự đau khổ mà họ đã gây ra cho người khác. Dĩ nhiên khi phải trải qua
nhiều kiếp sống bị đày đọa, đánh đập tàn nhẫn, họ mới ý thức được hậu quả việc
làm của mình và chịu học.
Khi người này bắt đầu học được, mỗi khi họ có hành động
độc ác, tự nhiên có một cái gì đó thúc giục họ ngừng tay, ta gọi là tiếng nói của
lương tâm. Tiếng nói thầm lặng này phát xuất từ những trải nghiệm thu được qua
những kiếp sống trước. Nó nằm bên trong một “bộ óc” đặc biệt để nhắc nhở người
đó về bài học mà họ cần phải học. Lúc đầu, tiếng nói này không hiệu lực cho lắm
vì họ không chịu nghe, nhưng sau nhiều kiếp sống, trải qua nhiều kinh nghiệm đớn
đau, nó trở nên mạnh mẽ, đến khi nào thực thể thay đổi và không hành động như
thế nữa thì xem như họ đã học được những điều cần phải học.
Tôi chợt thắc mắc:
- Nhưng... nếu vậy, thì tôi đã học được gì?
Ông Kris đăm chiêu nhìn tôi:
- Ông
đã học được rất nhiều vì ông là một thực thể thông minh. Nhưng ông phải tự nhận
ra những điều ông đã học. Tôi chỉ có thể giúp ông một phần nào thôi vì tự ông
phải tìm ra những gì ông muốn biết. Nếu tôi nói ra thì đó chỉ là ý kiến của tôi
và ông sẽ dễ dàng bỏ qua hay có thể không tin vào những điều tôi nói. Nhưng khi
chính ông trải nghiệm những điều này thì ông sẽ có sự thấu hiểu một cách tự
nhiên và rõ ràng hơn.
Ông Kris mỉm cười nhìn tôi rồi nói tiếp:
- Thật ra những
điều này không có gì mới lạ vì đã được các tôn giáo đề cập từ lâu rồi, nhưng đa
số mọi người lúc tin lúc ngờ vực, vì đó chỉ là những điều đã được dạy bảo chứ
không phải là kinh nghiệm thật sự của riêng mình. Người có đức tin thì dễ tuân
theo những bài học răn dạy lý thuyết, nhưng đa số chỉ nghe rồi bỏ qua, do đó họ
phải học đi học lại cho đến khi nào họ thật sự thẩm thấu bài học này.
Khi xưa,
phần lớn con người đều có đức tin nên tôn giáo giúp cho họ học rất nhanh những
gì cần học. Ngày nay, người ta đa số có tính nghi ngờ, chỉ nghe những gì họ muốn
được nghe và bỏ qua những gì họ không thích. Do đó, họ thường hành động theo ý
thích của mình, bất chấp hậu quả, nên họ sẽ còn phải học rất nhiều.
Tôi hồi tưởng
lại ký ức xảy ra, rồi hỏi: -
Theo như trải nghiệm vừa qua, tôi có thể kết luận
rằng nền văn minh Atlantis thật sự hiện hữu. Cũng như triết gia Plato đã khẳng
định rằng Atlantis đã có một nền văn minh phát triển rực rỡ nhưng sau cùng đã
chìm xuống biển qua trận đại hồng thủy, vậy thì những người từng sống ở đó hiện
nay ra sao?
Ông Kris chăm chú nhìn tôi:
- Ông có thật sự muốn biết điều đó
không?
Tuy ngạc nhiên vì câu hỏi bất ngờ, nhưng tôi cũng gật đầu.
Ông Kris
thong thả nói:
- Đa số mọi người không tin rằng từ ngàn xưa từng có những nền
văn minh cao hơn ngày nay nhưng đã biến mất trên bề mặt địa cầu, không còn để lại
dấu vết gì. Tuy nhiên, điều này cũng không lạ vì hai trăm năm trước nếu ai đó
nói rằng con người có thể bay lên không gian hay tạo ra những thứ vũ khí có thể
xóa sổ cả một lục địa thì chẳng ai tin. Nếu quan sát những biến cố xảy ra trong
thời gian gần đây, chúng ta thấy rằng chỉ qua hai trận thế chiến mà bao nhiêu
quốc gia đã bị xóa sổ và bao nhiêu quốc gia được hình thành. Nếu nhìn xa hơn nữa,
chúng ta có thể thấy những đế quốc như Ai Cập, Hy Lạp, La Mã, hay Mông Cổ với
các triều đại kéo dài hàng trăm năm, nhưng hiện nay cũng không còn tồn tại, thì
việc một nền văn minh đã tồn tại hàng ngàn năm rồi biến mất qua trận đại hồng
thủy cũng không phải là điều không thể xảy ra. Biết đâu vài trăm năm nữa, người
ta không còn biết gì đến nền văn minh cơ giới với những phát minh khoa học kỹ
thuật ngày nay nữa. Chỉ vài biến cố như chiến tranh, đại dịch, thiên tai thì tất
cả đều thay đổi và biết đâu lịch sử lại tái diễn vì chẳng ai học được gì.
Ông
Kris dừng lại như để cho tôi suy nghĩ, rồi tiếp tục:
- Nếu biết quan sát, ông sẽ
thấy phần lớn những người đã từng sống tại Atlantis khi xưa đang trở lại thời đại
này để học bài học mà họ cần học. Mỗi cá nhân có những bài học riêng, nhưng nói
chung tất cả đều phải học lại những bài học chưa hoàn thành, và khi học xong
thì lại học những bài học lớn lao hơn.
Ông Kris nhấn mạnh:
- Nếu để ý, ông sẽ
thấy chỉ trong một thời gian rất ngắn, chưa đầy một thế kỷ, mà đã có biết bao
nhiêu phát minh khoa học kỹ thuật ra đời. Trong năm mươi năm qua, số lượng phát
minh khoa học kỹ thuật đã vượt trội hơn tất cả những phát minh trong mấy ngàn
năm trước. Có bao giờ ông tự hỏi tại sao lại có nhiều phát minh như thế không?
Các kiến thức khoa học này từ đâu đến? Phải chăng những người sống tại Atlantis
khi xưa đã tái sinh trở lại và mang theo những kiến thức siêu phàm của họ vào
thế kỷ này? Ông Kris ngừng lại một chút dò ý tôi, rồi nói:
- Trong vòng hai
mươi năm nữa, ông sẽ thấy có những phát minh hết sức tối tân mà hiện nay mọi
người nghĩ không thể xảy ra. Thế kỷ hai mươi mốt này sẽ là khoảng thời gian mà
phát minh kỹ thuật tiến bộ vượt xa những thế kỷ trước, nhưng đồng thời những
thói quen xấu mà người xưa đã có cũng sẽ cùng lúc trở lại. Ông sẽ thấy tình trạng
tham lam, ích kỷ, bóc lột, chiếm đoạt, áp bức xảy ra nhiều hơn trước. Ông sẽ thấy
xã hội phân chia ra nhiều đẳng cấp, mà đẳng cấp trên sẽ đàn áp đẳng cấp dưới
không thương tiếc. Tình trạng vô cảm, dửng dưng trước sự đau khổ của người khác
đã và sẽ xảy ra khắp nơi. Ngay ở nước Mỹ này, tình trạng bất bình đẳng giàu
nghèo hay phân biệt chủng tộc đang và sẽ là vấn đề lớn trong tương lai. Ngay tại
đây, nơi mà phần lớn người Atlantis đầu thai trở lại, ông có thể thấy khoa học
kỹ thuật phát triển mạnh hơn những nơi khác. Câu hỏi là mặc dù đã trải qua bao
kiếp sống, nhưng những người này đã học được gì? Mặc dù đây là câu hỏi mang
tính cá nhân nhưng cũng là câu hỏi dành cho toàn thể nhân loại. Họ đã học được
gì?
Ông Kris ngừng lại một lúc để tôi suy nghĩ, rồi tiếp tục:
- Nếu một lục địa
như Atlantis có thể biến mất trên bề mặt địa cầu thì các lục địa khác như châu
Mỹ, châu Âu, châu Á hay châu Úc hiện đang hưng thịnh cũng có thể vỡ nát thành
nhiều mảnh hay chìm sâu xuống đáy đại dương. Nếu một nền khoa học có thể thay đổi
được nguyên tử trong cơ thể để chữa bệnh thì nó cũng có thể biến con người
thành một thứ sinh vật “nửa người, nửa thú“, và tôi nghĩ điều này có thể xảy ra
vì một số người vẫn chưa học được điều họ phải học, dù đã trải qua nhiều kiếp sống
sau đó. Nếu những người tham lam, ích kỷ chưa học được bài học về hậu quả của
những gì họ đã gây ra cho người khác thì họ sẽ phải học lại bài học này qua những
biến cố cùng cực hơn mà họ không thể tưởng tượng được. Như tôi đã nói, phần lớn
con người chỉ học được qua sự đau khổ và bài học đau khổ này sẽ diễn ra vô cùng
khốc liệt, ngoài sức tưởng tượng của con người.
Tôi giật mình:
- Ông nghĩ rằng
điều này sẽ xảy ra hay sao?
Ông Kris gật đầu khẳng định:
- Nếu để ý, ông sẽ thấy
hiện nay đã có những biến động trong tự nhiên như là lời cảnh cáo về sự vô ý thức
của con người. Ông có thể thấy các tảng băng khổng lồ từng tồn tại hàng triệu
năm ở hai đầu cực trái đất đang tan rã vì hành tinh đang nóng lên, và ít lâu nữa
nước biển sẽ dâng lên gây ngập lụt khắp nơi. Những quốc gia ở sát bờ biển sẽ
chìm xuống đại dương. Chỉ ít lâu nữa sẽ có những trận hạn hán khủng khiếp và
cháy rừng thiêu đốt địa cầu gây ra sự biến đổi khí hậu không thể vãn hồi. Rồi nạn
đói, thiên tai, dịch bệnh sẽ tràn lan khắp nơi. Người chết có thể lên đến con số
hàng triệu hay nhiều hơn nữa.
Tuy nhiên, đã mấy ai thấy trước được điều này? Hiện
nay đa số vẫn sống một cách dửng dưng, vô ý thức, vì tai họa chưa xảy đến với
chính họ, gây hệ lụy cho gia đình họ hay quốc gia mà họ đang sống. Nếu nó xảy
ra ở một nơi chốn nào khác thì họ thường chẳng quan tâm. Càng ngày con người
càng sống một cách ích kỷ, tham lam, phung phí và vô cảm. Họ không biết thế nào
là đủ, mà vẫn ham muốn nhiều thứ. Họ tiếp tục phá hoại thiên nhiên không thương
tiếc để thỏa mãn lòng ham muốn chiếm đoạt mọi thứ. Họ không bao giờ biết đủ và
tiếp tục vơ vét những gì họ có thể chiếm đoạt nên sẽ phải học bài học này dưới
những hoàn cảnh mà họ không bao giờ nghĩ là có thể xảy ra cho mình được. Bất chợt
ông Kris ngừng lại:
- Chắc bây giờ Angie đang sốt ruột vì bữa cơm tối rồi. Hình
như ông bà muốn mời tôi dùng cơm hôm nay thì phải. Buổi gặp gỡ bữa nay cũng đã
đủ, chúng ta còn gặp nhau nhiều lần nữa và tôi sẵn sàng giúp ông truy tìm lại
những gì ông muốn biết.
Trong lúc chúng tôi nói chuyện về châu Atlantis,
ông Thomas cho biết thêm rằng khi xưa, lịch sử Atlantis có ghi nhận những trận
động đất, bão tố và sóng thần gây ra nhiều thiệt hại rất lớn, nhưng người dân xứ
này chỉ coi đó là những biến cố tự nhiên chứ không để ý đến hậu quả mỗi ngày một
nghiêm trọng và kinh khủng hơn trước khi xảy ra trận đại hồng thủy có một không
hai. Ông đã nhớ lại kiếp sống lúc Atlantis bị cơn đại hồng thủy nhận chìm xuống
đáy biển và cả nền văn minh này bị tiêu diệt hoàn toàn. Tôi có hỏi ông rằng ông
có thể nhớ lại những kiếp sống trước đó nữa không? Ông cho biết chắc chắn ông
đã có những kiếp sống trước đó nhưng không nhớ được vì khả năng hồi tưởng của
ông còn rất giới hạn.
Tôi hỏi thêm chi tiết về đời sống tại châu Atlantis. Ông
nói rằng rất khó có thể diễn tả về đời sống lúc đó cho người hiện tại hiểu được.
Lý do là người dân xứ này sống thiên về bản năng, do đó họ hết sức ích kỷ và vô
cảm gần giống như loài vật, kiến thức về khoa học của họ cũng phát triển từ bản
năng và trực giác, trong khi hiện nay kiến thức của chúng ta phát triển từ bộ
óc và sự suy luận. Qua bản năng, người Atlantis có thể hiểu được một vài sự kiện
xảy ra trong thiên nhiên và biết sử dụng những năng lực tiềm ẩn này.
Ông tiết lộ
rằng người ta có thể tìm thấy di tích những cây cầu xây bằng đá nối liền những
hòn đảo của xứ Og với nhau ở ngoài khơi Đại Tây Dương (Bimini road) với các cột
chống bằng đá hình tròn (scott stone). Ông còn cho biết thêm rằng ngoài khơi
Florida vốn chính là nơi xứ Og tọa lạc khi xưa, người ta có thể tìm thấy di
tích các đền thờ sinh vật của cõi giới khác dưới đáy biển. Ông cho biết ảnh hưởng
của luồng từ lực ở nơi này vẫn tồn tại và là nguyên nhân gây ra hiện tượng “Tam
giác quỷ Bermuda”, nơi tàu thuyền đi ngang thường bị mất tích một cách bí ẩn.
Ông cho biết rằng khi tinh tú di chuyển vào vị trí nào đó, sẽ khích động, đánh
thức luồng từ lực cực mạnh lạ lùng này tạo ra những trận cuồng phong bất ngờ,
đánh chìm tất cả mọi vật quanh đó.
Nguyên Phong
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét