Thơ Mới nhìn từ sự vận động thể loại
Hoàng Sỹ Nguyên
|
|||||||||||
Ngôn ngữ cảm thán, hô ngữ trong thơ Hàn Mặc Tử, ngoài dụng công giao tiếp đặc biệt như Thế Lữ, bộc lộ tình cảm, tâm trạng như Nguyễn Bính, còn chuyên chở nỗi đau tâm hồn, sự thác loạn thể xác:
Chao
ôi! Chúng tôi rú lên vì kinh động
(Rượt
trăng - Hàn Mặc Tử)
-
A ha hả! say sưa chê chán đã.
- Ôi
điên rồ! Khoái lạc đến ngất ngư
-
Chao ôi! Ghê quá trong tư tưởng
Một
vũng cô liêu cũ vạn đời
(Cô
liêu - Hàn Mặc Tử)
Việc đưa những yếu tố giao tiếp với những hô ngữ, thán ngữ,
lời than, lời kể... như trên vào thơ một cách tự nhiên làm cho ngôn ngữ sống
động, tươi nguyên, nhộn nhịp như nhịp sống đô thị. Nó vừa biểu hiện phương thức
thơ trữ tình hướng nội, vừa biểu hiện sự "xuân hóa" trong thơ thời
hiện đại.
Tần số sử dụng hô ngữ, thán từ... không đều giữa các nhà
thơ là do "chất giọng" riêng của từng tác giả. Buổi đầu, nhạy cảm với
thi pháp trung đại, Thế Lữ, Nguyễn Thị Kiêm... dùng nhiều chất giọng nói,
tăng cường tính giao tiếp trực tiếp để "tránh xa" khuôn khổ gò bó
cũ. Giai đoạn từ 1936, Huy Cận, Xuân Diệu nghiêng về trần thuật, bày tỏ nên
ít giọng thủ thỉ. Nguyễn Bính giàu chất tâm tình, van nài, nuối tiếc của những
mối tình lỡ làng. Hàn Mặc Tử tràn ngập những thảng thốt đau thương
và mất mát. Bởi vậy, ở Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử, câu thơ dùng ngôn ngữ, thán
từ nhiều hơn ở Xuân Diệu, Huy Cận.
Ảnh
hưởng của tư duy phân tích cụ thể phương Tây, cách nói bằng các con số cũng
xuất hiện trong Thơ mới. Cái tôi trữ tình cá nhân thường luôn cảm
thấy mình đơn lẻ, cô độc nên số MỘT được xuất hiện nhiều nhất. Từ
Thế Lữ đến Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử là vận động không đổi thay của
con số MỘT cụ thể đầy cảm tính:
Thế
Lữ: “Ta là một khách chinh phu”, “Trong nhà tranh, một mình tôi than thở”,
“Tôi mang theo một mối u hoài”, “Tôi chỉ là một khách tình si”, “Một ánh
hương tan, khói tỏa mờ”...; Nguyễn Bính: “Lẻ loi chỉ một góc trời riêng anh”,
“Có một chiếc xe màu trắng đục”, “Hai con ngựa trắng xếp hàng đôi/ Đem đi một
chiếc quan tài trắng”, “Người có đôi, ta chỉ một mình”, “Trọn đời làm một kẻ
vô duyên/ Trọn đời là một thân cô lẻ”...; Xuân Diệu: “Một chàng thi sĩ thoảng
hơi men”, “Một thoáng cười yêu thỏa khát khao”, “Rồi một ngày mai tôi sẽ đi”,
“Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ”...; Chế Lan Viên: “Một vì sao trơ trọi cuối
trời xa”, “Một chút thương an ủi tấm lòng”, “Trên một tấm mộ tàn ta nhặt được”,
“Một cô hồn về đây theo gió lộng” ...
Trong
việc sử dụng có ý thức hệ thống từ chỉ con số, Xuân Diệu là nhà thơ có nhiều
cách diễn đạt mới mẻ hơn cả. Ông đã đưa cách diễn đạt của câu văn Pháp vào
thơ mình trong cách nói định lượng về những cái trừu tượng vốn không có trong
Tiếng Việt: “Yêu, là chết ở trong lòng một ít”, “Hơn một loài hoa đã rụng
cành”, “Ai đem phân chất một mùi hương”, “Vài miếng đêm, u uất, lẫn trong
cành”, “Một ít nắng, vài ba sương mỏng thắm/ Mấy cành xanh, năm bảy sắc yêu
yêu”
...
Như vậy, từ thơ trữ tình điệu ngâm sang thơ trữ tình điệu
nói, ngôn ngữ thơ tiếng Việt đã làm cuộc chuyển hóa nhanh chóng từ thi pháp
trung đại sang hiện đại. Số từ vựng càng giàu có, cách diễn đạt càng tự
nhiên, càng chuyên chở đầy đủ, tinh tế những cảm xúc phong phú, đa dạng, đa
cung bậc của cái tôi trữ tình tiểu tư sản trong xã hội Việt Nam
trước Cách mạng tháng Tám.
2. SỰ ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ NGÔN NGỮ THƠ
2.1. Giá trị biểu cảm, sự tinh tế của ngôn ngữ thơ
Từ 1934, không ai còn nói chuyện Thơ mới, thơ cũ
nữa mà người ta quan tâm đến thơ hay, thơ dở. Nếu giai đoạn đầu, trong thơ Thế
Lữ, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Nhược Pháp... câu thơ mang chất văn xuôi nhiều, hình
ảnh còn đơn điệu, nghiêng về tả thì đến giai đoạn 1936 - 1940, câu thơ cô đúc
hơn, hình ảnh mang tính ẩn dụ biểu trưng, nghiêng về gợi nhiều hơn. Cùng với
sự vận động làm hoàn hảo thể thơ, cái tôi thi nhân giai đoạn này rất
có ý thức đưa ngôn ngữ thơ vận động đến độ hàm súc, cô đọng...
2.1.1.
Sự chuyển nghĩa của ngôn ngữ thơ đã cung cấp lượng thông tin mới cho từ trong
hoạt động ngữ nghĩa. Thơ Thế Lữ ít có sự lạ hóa từ ngữ, cách sử dụng thường
quen thuộc. Đến Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, hệ
thống từ vựng mới và cách sử dụng mới xuất hiện nhiều. Đó là những cách dùng
từ rất lạ:
Nguyễn
Bính:
-
Chị ơi, em cưới mùa xuân nhé.
-
Xem những cành cây nó cưới nhau.
-
Tình xa lăng lắc dưới chăn bông.
-
Nằm mãi mà xem cái nhỡ nhàng
-
Lòng trạng lâng lâng màu phú
quý
Xuân
Diệu:
-
Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần.
-
Nghe chiều âu yếm lấn vô người.
-
Vườn cười bằng bướm, hót bằng chim
-
Hãy tuôn âu yếm, lùa mơn trớn
-
Hương ngây tội lỗi rái mơ màng.
-
Chiều góa không em lạnh lẽo sao
-
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân
Chế
Lan Viên:
-
Trưa gọi kêu, nâng ngực gió lên trời
-
Ôi, biển thanh niên vững già vạn tuổi
-
Dưới trời huyết, tháp chàm buồn tư lự.
-
Hàng dừa cao say sưa ôm bóng ngủ
-
Mà tiếng cười ghê rợn dậy vang mồ.
Hàn
Mặc Tử:
-Tôi
vo nhớ tiếc như vo lụa
-
Tôi riết thời gian trong nắm tay
-Tôi
lượm lá trăng làm chiếu trải
-
Lòng thiếp buồn như một tấm nhung
-
Xuân trẻ, xuân non, xuân lịch sự.
Bích
Khê:
-
Mắt ngời châu rung ánh sáng nghê thường
-
Sặc sụa hương nào thơm xác ma
-
Lụa mây nẩy vàng chạm
Tía
ngọc bén vàng ngân
-
Thủy tinh ai để lòng gương hồ
Nhà thơ "mới nhất trong các nhà Thơ mới" Xuân Diệu
có bảng từ vựng mới lạ rất phong phú. Theo ông, điều cốt trong tư tưởng thi
ca là ý thức sáng tạo theo quy luật cái mới: "Tôi muốn sát nhập thơ vào
cái xứ sở thần tiên mà âm thanh mở ra cho chúng ta. Không chỉ tạo những câu
thơ du dương, vang động, đầy tính nhạc mà còn tạo nên những chất xạ mê li đầy
ảo thuật huyền bí nhờ có phép luyện kim đơn của ngôn ngữ" [20,15]. Bằng
sự kết hợp bất thường những từ rất khó đi kèm nhau, Xuân Diệu đã cho ra đời
vô số những hình ảnh bất ngờ, thú vị ("Tuôn âu yếm", ''Lùa mơn trớn",
"Khúc nhạc hường", "Hạnh phúc vờn"...).
Trong hành trình truy tìm cái đẹp của ngữ nghĩa
Tiếng Việt, các nhà Thơ mới cũng từng bước "cấp" cho ngôn ngữ, hình
ảnh những thông tin mới, ý nghĩa mới. Theo Mã Giang Lân, trong câu thơ
"Chiều góa không em lạnh lẽo sao" của Xuân Diệu, từ "góa"
có nhiều liên tưởng nghĩa mới. Nếu tác giả viết "chiều vắng không
em..." thì chỉ là sự thiếu vắng. Đưa từ "góa" vào, ngoài nghĩa
trống vắng còn là sự đơn chiếc, "Lạnh lẽo sao" từ ý gợi của cảnh
"góa bụa". Trong câu "Trăng thương, trăng nhớ hỡi trăng ngần"
thì theo cách hiểu quen, thuộc từ "ngần" thường làm trợ ngữ cho
tính từ "trắng" (trắng ngần). Nhưng theo nhà ngôn ngữ học
Hoàng Thị Châu thì ở đây, Xuân Diệu đã tạo một cuộc sống mới cho từ "ngần",
độc lập với từ "trắng". Hình ảnh cây đa - bến nước, dòng sông - con
thuyền vốn là ẩn dụ của sự hò hẹn và chia li trong thơ dân gian, đến Nguyễn
Bính, nó có thêm ý nghĩa biểu tượng cụ thể của sự lỡ làng và lỡ bước:
-
Buông sào cho nước sông trôi
(Giấc
mơ anh lái đò - Nguyễn Bính)
-
Đi biệt không về với bến sông
(Cô
lái đò - Nguyễn Bính)
-
Chừ đây, bên nớ bên tê,
Sương
thu xuống, gió thu về bồng bênh,
Đàn
ai chừng đứt dây tình
Nổi
lên một tiếng buồn tênh rồi chìm
(Lửa
đò - Nguyễn Bính)
Cùng
với việc đổi mới câu thơ, đổi mới từ ngữ, Thơ mới giai
đoạn này có sự vận động tăng cường tầng nghĩa sâu theo
"Nguyên lí tảng băng trôi" (Hemingway) bằng các biện pháp ẩn dụ,
chuyển đổi cảm giác, tạo nghĩa gợi ý, ẩn ý, hàm ý. Theo Chế Lan Viên, trong
thơ có "bề mặt" ,"bề sâu" và cả "bề xa" nữa.
Câu
thơ mở đầu bài Đây thôn Vỹ Dạ của Hàn Mặc Tử: "Sao anh không về chơi
thôn Vỹ" là một câu hỏi phản ánh nội tâm phong phú và tuyệt vời tế nhị.
Từ "sao" là từ để hỏi, đặt ở đầu câu như nỗi niềm da diết, bức xúc
bị dồn nén quá lâu nay mới được bật ra. Câu thơ có 6 thanh bằng ở đầu, thanh
trắc ở cuối vút lên tạo âm điệu đặc biệt: nửa như trách cứ day dứt mà nhẹ
nhàng, nửa như mời gọi giục giã mà thiết tha. Người hỏi là ai? Một cô gái hay
chính thi sĩ? Có lẽ cả hai. Hay đúng hơn, chính Hàn Mặc Tử phân thân để tự đối
thoại. Từ tấm lòng thi sĩ vút lên câu hỏi khắc khoải vừa thương nhớ Huế, vừa
thương nhớ Người. Tình yêu đồng vọng với tình quê khiến hình ảnh thôn Vỹ hiện
về tràn ngập tâm hồn thi sĩ. Ở đây, sự giao tiếp của thơ thực hiện vừa bằng cảm
xúc, vừa bằng trí tuệ, vừa bằng cả thẩm mỹ các giác quan hòa quyện. Nhờ sự
giao hòa các giác quan mà Xuân Diệu viết:
Này
lắng nghe em khúc nhạc thơm
Say
người như rượu tối tân
(Huyền
diệu - Xuân Diệu)
Thu
lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn
ghê như nước, lạnh, trời ơi!
Long
lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng
nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người
(Nguyệt
Cầm - Xuân Diệu)
Một thế giới huyền ảo, thế giới của những cảm quan nghệ thuật
được mở rộng từ các giác quan thẩm mĩ. Điều này từ Xuân Diệu đến
Đoàn Phú Tứ, Bích Khê là sự vận động liên tục, là cuộc chạy tiếp sức. Có Xuân
Diệu mới hiểu được Đoàn Phú Tứ, hiểu được Bích Khê ở giai đoạn 1940 - 1945:
-
Màu thời gian không xanh
Màu
thời gian tím ngát
Hương
thời gian không nồng
Hương
thời gian thanh thanh
(Màu
thời gian - Đoàn Phú Tứ)
-
Người họa điệu với thiên nhiên, ân ái
Buồn
và xanh trời. Tôi trôi với bờ
Êm
biếc - khói với thu: lời úa ngô
Vàng...
khi cách biệt - giữa hồn xây mộ
Tình
hôm qua - dài hôm nay thương nhớ
Im
lặng nhìn bông ý, lặng lờ lên.
Những
dáng hình thanh khí... giữa mênh mênh
(Duy
Tân - Bích Khê)
Hai
khổ thơ trên đã có sự sáng tạo thử nghiệm của đủ các ẩn dụ: ẩn dụ tượng
trưng, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác... mà sau này nhóm Xuân thu nhã tập tiếp bước.
2.1.2.
Sự tăng cường tính nhạc trong thơ
Để có tính nhạc, ngôn ngữ thơ cần hội đủ ba yếu tố. Yếu tố
thứ nhất là kĩ thuật khai thác các đặc điểm của nguyên âm tiếng Việt bằng sự
khép - mở , bổng - trầm, phụ âm vang hay tắc và sự lựa chọn sắp xếp hệ thống
thanh điệu. Yếu tố thứ hai là nhịp điệu của hình ảnh, tình ý, nhịp điệu bên
trong của tâm hồn nhà thơ - nơi trú ngụ kín đáo của cảm xúc. Yếu tố
thứ ba là vần. Trong quá trình vận động của Thơ mới, ba yếu tố này được hội tụ
ở giai đoạn 1936 - 1940, giai đoạn kĩ thuật thơ hoàn hảo và cái tôi trữ tình
phát triển rực rỡ. Ngôn ngữ thơ Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Bích Khê là ngôn ngữ
thơ giàu nhạc điệu nhất. Nhạc điệu thơ Xuân Diệu là nhạc điệu của một tâm hồn
lúc nào cũng nồng nàn, tha thiết, say đắm với người, với đời. Nhạc điệu thơ
Hàn Mặc Tử, Bích Khê là nhạc điệu của tâm hồn "có nhiều trạng thái đặc
biệt" (Quách Tấn): vừa thiết tha sống vừa chứa chất bao bí ẩn u huyền của
cõi chết, của thượng giới. Biểu hiện tính nhạc trong thơ Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử
rất đa dạng. Xuân Diệu thường dùng vần chân trong thơ 7 tiếng; Vần gián cách,
vần lưng, vần ôm trong thơ 8 tiếng để giãi bày sự luyến láy của tâm trạng:
-
Lá úa, cành khô vẫn rung dồn
Lối
mòn, cỏ mạnh vẫn lên chôn
Chim
hôm run rẩy trong tim nhỏ
Thỏ
sợ giơ tai hứng tiếng ồn.
-
Sương bạc lấp cả một trời trắng sữa
Sương
mông lung như giữa khoảng giang hà.
Mắt
tuy mở mà lòng không thấy nữa,
Hồn
lạc rồi, không biết ngõ nào ra.
(Sương
mờ - Xuân Diệu)
Nguyệt
cầm của Xuân Diệu được cấu tứ bằng cảm giác tinh tế về âm nhạc. Việc lựa chọn,
kết hợp từ ngữ điêu luyện đã tạo ra những cung đàn đầy sức ám gợi trong miền
cảm giác vừa trong vừa lạnh:
Trăng
nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng
thương, trăng nhớ hỡi trăng ngần
Đàn
buồn, đàn lạnh, ôi đàn chậm!
Mỗi
giọt rơi tàn như lệ ngân
Rõ ràng âm nhạc có sức mê hoặc, gợi trường giao cảm rộng lớn,
tương ứng giữa lòng người với thiên nhiên, siêu nhiên. Ánh trăng lạnh, tiếng
đàn lạnh, ôm trùm bản nhạc lòng buồn thương lạnh lẽo. Âm nhạc đã tạo ra thế
giới linh cảm của con người tâm linh thấu thị cõi vũ trụ chứa đầy bí ẩn. Xuân
Diệu thường dùng lối điệp âm, điệp vần, điệp từ, điệp câu... tạo sự trùng điệp
dồn dập, nhấn mạnh cảm xúc và tạo nên âm vang trong tính nhạc của thơ
-
Đây là quán tha hồ muôn khách đến,
Đây
là bình thu hợp trí muôn phương,
Đây
là vườn chim nhả hạt mười phương
Hoa
mật ngọt chen giao cùng trái độc...
(Cảm
xúc - Xuân Diệu)
-
Sương lan mờ, bờ sông tưởng gần nhau
Sương
lan mờ, và hồn tôi nghe đau...
(Sương
mờ - Xuân Diệu)
Chủ
nghĩa tượng trưng đề cao tính nhạc trong thơ. Theo họ, âm nhạc luôn có sức gợi
và khả năng chuyển hồi, tương hỗ cảm giác. Vượt qua sự kể lể, mô tả kiểu thơ
lãng mạn, thơ tượng trưng đề cao sự ám thị, mà muốn có sự ám thị thì thơ phải
có nhạc. Mỗi bài thơ phải như một bản giao hưởng có sức gợi kì diệu về thế giới
tâm linh.
Với
Bích Khê, nhạc tính là điều quan trọng nhất trong thơ. Hàn Mặc Tử
lí giải: “Bởi mê man với sự “nhẹ nhàng, nhịp thở đều trong sương”, thi nhân
đã sáng tạo được rất nhiều bản ca thần tình diễm ảo”. Bích Khê có thể nhận ra
tiếng nhạc ở mọi nơi, mọi sự vật: nhạc ở trong gió, trong nắng, ở trên làn da
thớ thịt con người, ở trong lòng, trong tim, trong hương hoa, trong dòng chảy
của thời gian, bước đi của không gian... Nhạc, Tỳ bà, Mộng cầm ca, Hoàng Hoa
là những “bản đàn xốn xang”, “ngọt ngào vô cùng đến tê cả lưỡi và hàm răng”,
gây cả “một trời yêu thương da diết, một trời tương tư” (Hàn Mặc Tử). Thành
công lớn nhất của Bích Khê là dùng thanh bằng để tạo nhạc tính. Trong Thơ mới, việc
dùng thanh bằng để tạo nhạc tính đã được nhiều nhà thơ sử dụng. Lưu Trọng Lư
có Tiếng thu, Còn chi nữa, Xuân Diệu có Nhị hồ, Nguyễn Xuân Sanh có Xây mơ.
Nhưng trong những bài thơ này, việc dùng thanh bằng còn chỉ ở những câu thơ rải
rác. Đến Bích Khê, có nhiều bài thơ toàn thanh bằng hay chủ yếu là thanh bằng,
như Tỳ bà, Nhạc, Mộng cầm ca, Nghê thường, Tiếng đàn mưa, Hoàng hoa, Thi vị...
Tỳ
bà là một bản nhạc trầm buồn. Tác giả đã dùng âm nhạc ngôn ngữ để làm phương
tiện diễn tả ngôn ngữ âm nhạc:
Vàng
sao nằm im trên hoa gầy
Tương
tư người xưa thôi qua đây
Ôi!
Nàng năm xưa quên lời thề
Hoa
vừa đưa hương gây đê mê
Buồn
lưu cây đào xin hơi xuân
Buồn
sang cây tùng thăm đông quân
Ô!
Hay buồn vương cây ngô đồng
Bài
thơ sử dụng linh hoạt thanh bằng theo cả hai chiều dọc và ngang, tạo âm điệu
chậm rãi, khẽ khàng, mượt mà, ngân tỏa, dắt tâm hồn con người vào cõi đê mê của
cung bậc tình yêu ngọt ngào, nhẹ nhàng. Sự kết hợp hài hòa âm thanh và ngôn từ
đã tạo âm điệu trầm buồn, có sức thôi miên, lan tỏa. Việc sử dụng bằng thanh
như thế này đã loại trừ hoàn toàn những niêm luật, cách gieo vần, ước lệ
trong thơ cũ, khẳng định sự biểu đạt hồn nhiên cái tôi trữ tình cá nhân Thơ mới.
Đây là thành tựu lao động sáng tạo đáng ghi công Bích Khê trong việc nhào nặn
hoàn hảo phương pháp tượng trưng Pháp với phương pháp thơ truyền thống.
Không
chỉ với cách dùng toàn bằng thanh, Bích Khê còn khai thác triệt để nhạc tính
trong nhiều cách tạo tác âm điệu, ngôn từ khác. Đó là lối dùng điệp từ, điệp
khúc:
Lá
vàng rơi
(Tôi
khóc, anh ơi!)
Đàn
rung tiếng:
Người
yêu đương ngồi..
Trăng
vàng rơi,
(Tôi
khóc, anh ơi!)
Đàn
nghẹn tiếng:
Người
yêu dậy rồi...
(Thi
vị)
Việc
lặp lại: Lá vàng rơi/ Trăng vàng rơi/ Hoa vàng rơi? Sao vàng rơi; Tôi khóc
anh ơi/ Tôi khóc anh ơi/ Tôi khóc anh ơi/ Thôi hết anh ơi; Đàn rung tiếng/
Đàn câm tiếng/ Đàn nghẹn tiếng/ Đàn bẻ phím/ đã tạo ra những điệu nhạc du
dương xoáy sâu, gặm nhấm dần vào âm hưởng tàn phai của lòng người. Đó là cách
ngắt nhịp theo hướng riêng:
Ô!
Nắng vàng thơm... rung rinh điệu
ngọc,
Những
cánh hồng đơm, - những cánh hồng đơm
Nhẹ
nhàng, nhịp nhàng thở đều trong sương;
Màu
trăng không gian như gờn gợn sóng.
Từ
ở phương
mô nhạn
mang thư về,
Đàn
thơ cơ hồ lên
cung âm điệu.
Đây
giây trinh bạch khóc
mướt trong mơ;
Đây hồn
ngọc thạch xanh
xao như tờ?
Ô! Côi lầu
mây ánh
gì kim cương,
Áo nàng thơ
ngây nao
nao nghê thường.
Thơ bay! Thơ
bay vô
bàn tay ngà,
Thơ ngà ngà
say! Thơ
ngà ngà say!
Nàng ơi! Đừng động... có
nhạc trong giây,
Nhạc gây hoa mộng, nhạc
ngát trong mây;
Nhạc lên cung hường, nhạc
vô đào động,
Phụ
lục Kỷ yếu Hội thảo thơ Bích Khê tháng 2-2006 (Hội nhà văn- Hội văn học nghệ
thuật Quảng Ngãi tổ chức) [97] đã “tách” bài thơ ra theo đường kẻ dọc sau tiếng
thứ tư từ trên xuống như hai “cột” thơ bốn chữ, để rồi có thể đọc theo nhiều
cách khác nhau:
- Đọc theo thể tám chữ từ dòng thứ nhất đến dòng 16.
- Đọc theo thể bốn chữ từ dòng 1 cột 1 đến dòng 16, cột 2.
- Đọc theo thể bốn chữ từ dòng 1 cột 2 đến dòng 16 cột 2,
tiếp dòng 1 cột 1, kết thúc ở dòng 16 cột 1.
- Đọc ngược từ dòng 16 cột 1, đến dòng 1 cột 1, nối sang
dòng 1 cột 2, kết ở dòng 16 cột 2, hoặc nối ngược từ dòng 16 cột 2, ngừng ở
dòng 1 cột 2.
- Đọc ngược từ dòng 16 cột 2, nối sang dòng 1 cột 1, ngừng ở
dòng 16 cột 1.
- Đọc theo kiểu zic-zac: 1-2 (cột1), 1-2 (cột2), nối sang
3-4 (cột 1), nối sang 3-4 (cột 2); 5-6 (cột 1) sang 5-6 (cột 2), cứ thế, xen
2 dòng cột 1 với 2 dòng cột 2...
- Tương tự, đọc ngược từ cột 1, hai dòng, sang cột 2,...
Chính
việc ngắt nhịp phá cách câu thơ 8 tiếng ở tiếng thứ tư (khác với thể tám tiếng
thông thường trong Thơ mới thường ngắt ở tiếng thứ 3,5,6) đã làm cho câu thơ
có thể tách làm đôi, tạo nên một điệu nhạc mới. Bài thơ không chuồi theo cảm
xúc một chiều mà triển khai cảm giác trong sự tương hợp nên đọc cách nào cũng
thấy có tính nhạc hài hòa, tương ứng.
Và
Bích Khê cũng đã sử dụng kết hợp hài hòa giữa thanh bằng với thanh trắc để tạo
nên những khúc nhạc thơ réo rắt, trầm bổng:
Lầu
ai ánh gì như lưu ly?
Nụ
cười ai trắng như hoa lê?
Thủy
tinh ai để lòng gương hồ?
Không
gian xà cừ hay san hô?
(Nghê
thường)
Thanh
trắc như những điểm nhấn kéo lòng người thức tỉnh trong cơn đê mê hút hồn mà
thanh bằng tạo ra ở phần trước. Đó là những nghịch biến của bản nhạc lòng
không xuôi chiều trong tâm sự lắm nẻo trắc trở của con người thời đại.
Hàn Mặc Tử hay dùng cách kết hợp các từ láy hay chú công
trong thanh điệu để diễn tả những khúc nhạc lòng buồn miên man hoặc trầm lắng
du dương:
Nàng!Lạy
Nàng! Hãy nghe tôi cầu khẩn:
Hãy
khoan tay cầm lại trí tương tư,
Đang
chờn vờn trong nguồn sáng ngất ngư,
Đang
lướt mướt ở trong màu hoa lệ.
Xuân Diệu và Hàn Mặc Tử đều dùng nhiều lối điệp âm, điệp vần,
điệp từ, điệp câu... tạo sự trùng điệp dồn dập, nhấn mạnh cảm xúc và tạo nên
âm vang trong tính nhạc của thơ:
-
Sương lan mờ, bờ sông tưởng gần nhau
Sương
lan mờ, và hồn tôi nghe đau
(Sương
mờ - Xuân Diệu)
-
Những ngày đau khổ nhuộm buồn thiu
Những
áng mây lam cuốn dập dìu
Những
mảnh nhạc vàng rơi lả tả
Những
niềm run rẩy của đêm yêu.
(Lưu
luyến - Hàn Mặc Tử)
Tính
chất trùng điệp này tạo âm hưởng của những điệp khúc mà ở trong thơ cổ và
trong Thơ mới giai đọan 1932 - 1935 ít có.
2.2. Cái tôi hiện đại và sự trở về với ngôn ngữ thơ cổ điển
Cả quá trình văn học viết thời trung
đại, văn học Việt Nam chủ yếu sử dụng tiếng Hán. Chữ Nôm ra đời đã để lại nhiều
thành tựu trong nền thơ ca dân tộc, tuy vậy, văn học chữ Nôm cũng chịu ảnh hưởng
nặng nề của văn học chữ Hán. Chữ quốc ngữ phát triển mạnh ở giai đoạn đầu thế
kỉ XX, đến Thơ mới đã khá hoàn thiện. Tuy vậy, Thơ mới chưa hề đoạn tuyệt với
các yếu tố Hán, từ Hán - Việt. Đặc biệt, ở giai đoạn đỉnh cao của Thơ mới
(1936- 1940), người ta lại thấy Thơ mới có sự trở về với ngôn ngữ thơ cổ điển,
tuy đã mang tình ý mới. Sự trở về với ngôn ngữ thơ cổ điển trong Thơ mới biểu
hiện trước hết ở việc các tác giả dùng nhiều lớp từ Hán - Việt. Chúng ta có
thể làm bảng thống kê yếu tố Hán, từ Hán - Việt ở một số phương diện tiêu biểu
qua một số tác giả, tác phẩm như sau:
|
Thứ Ba, 27 tháng 1, 2015
Thơ Mới nhìn từ sự vận động thể loại
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Khúc hát Marseilles
Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...
-
Vài nét về văn học Đông Nam Á Đặc điểm của văn học Đông Nam Á (ĐNA) Nói đến văn học Đông Nam Á là phải nói đến sức m...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
eva air của hãng nào
vé máy bay từ mỹ đi việt nam
đại lý vé máy bay korean air
khuyến mãi vé máy bay đi mỹ
săn vé máy bay giá rẻ đi canada
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Ngau Hung Du Lich
Tri Thức Du Lịch