Sức mạnh của tưởng
tượng thi ca - Những khởi nguyên của thi pháp
Thi pháp học
của thi ca luôn là vấn đề mở. Sự thật thì có rất nhiều trường phái nghiên cứu
và đề xuất các khái niệm, nội dung nghiên cứu thi pháp thi ca. Năm 2010, khi
trả lời báo chí nhà thơ Thi Hoàng – người thành công nhất trong đổi mới
thi ca của thi đàn Viẹt sau 1975 đã nói “Thi pháp là không thi pháp”. Tôi đã
may mắn được ông tâm sự về điều này. Theo đó ông cho rằng nếu thi pháp quy định
một cái khung nào đó, như luật Đường Thi, hay lục bát, ngũ ngôn…một nhà thơ có
giỏi cũng chỉ là giỏi làm theo cái khuôn đó mà thôi, trong khi thi ca đòi hỏi
sự bùng nổ và sáng tạo. Chúng tôi xin giới thiệu bài viết này của
Wilhelm Dilthey theo nguồn: Sự đỏng đảnh của phương pháp do Đỗ lai Thúy dịch.
Thi pháp học do Aristote lập ra tồn tại trong suốt
các thế kỷ của đời sống ý thức của nghệ thuật thơ ca và trở thành công cụ cho
các nhà thơ trong sáng tạo của họ và là thước đo nghiệt ngã của các nhà phê
bình cho đến nửa sau của thế kỷ 18, thời của Boileau, Lessing. Tác phẩm này
cũng còn là sách giáo khoa có hiệu quả nhất của ngữ văn học trong việc diễn
giải, phê bình và đánh giá thơ ca Hy Lạp. Cùng với ngữ pháp học, tu từ học và
lô gích học, thi pháp học là một bộ phận tạo nên học vấn cao cấp. Sau công
trình này của Aristote, một mỹ học mới được sinh ra bởi tinh thần Đức trong cái
kỷ nguyên thơ ca Đức vĩ đại đã chỉ đạo sáng tác của Goethe, Schiller, làm sâu
sắc thêm khả năng hiểu biết của Humboldt, Schlegel và làm nền tảng cho suy luận
phê phán của họ. Dưới ánh sáng của hai ngọn nến Goethe và Schiller này, mỹ học
Đức đã thống trị toàn bộ nền thơ ca Đức với sự hỗ trợ của những người phục vụ
cho nghệ thuật của cái đẹp đã bị nó chinh phục là Humboldt, Schlegel, Schelling
và cuối cùng là Hegel. Nó chỉ đạo lại ngành ngữ văn học. Nó cũng làm phong phú
thêm sự đánh giá phê bình trước hết dựa vào tiêu chuẩn của lý trí và các quy
định ngữ pháp, niêm luật học và kỹ thuật tu từ và dần dà thay thế nó bằng phê
bình mỹ học xuất phát từ sự phân tích hình thức.
Tại Pháp và Anh,
mỹ học Đức cũng đã đẩy nhanh sự sụp đổ của các hình thức cũ và ảnh hưởng đến
những sáng tạo đầu tiên của một thời đại thơ ca mới còn chưa đủ tự tin.
Ngày nay, không
gian văn học ở tất cả các nước đang ngự trị sự hỗn độn, bởi thi pháp học mà
Aristote lập ra đã chết. Những hình thức và quy định của nó đứng trước các tác
phẩm tuyệt vời của Sterne, Rousseau trở thành những cái bóng mờ nhạt của một
cái gì đó không có trong thực tế, trở thành những công thức khuôn sáo được sao
lại từ các mô hình nghệ thuật cổ. Và bây giờ, mỹ học Đức, đến lượt mình, lại
rơi vào tình trạng mà thi pháp học Aristote đã trải qua. Tuy nhiên, mỹ học Đức
vẫn còn thoi thóp ở đâu đó tại một số khoa của trường đại học, nhưng trong ý
thức của các nghệ sĩ, các nhà phê bình đầu đàn mà chỉ ở nơi đó nó mới có thể
sống được thì nó đã không còn chỗ nữa. Một khi ở nghệ thuật tạo hình Pháp,
David mất đi ý nghĩa của mình còn Pelaros và Gale bước lên hàng đầu, một khi ở
nghệ thuật tạo hình Đức, các bức tranh của Kornelius lùi vào bóng tối của bảo
tàng nhường chỗ cho những con người hiện thực, thì cũng là lúc bộ luật về cái
đẹp lý tưởng của bộ môn nghệ thuật này, do Goethe và những người thuộc trường
phái Weimar tạo ra, trở nên mất giá trị. Sau Cách mạng Tư sản Pháp, con mắt của
nhà thơ và công chúng hướng nhiều hơn đến một thực tế tưởng như khó mà có thật
của London, Paris, nơi đang tràn đầy hơi thở của một loại thơ ca mới. Khi ở đó
Dickens và Balzac bắt đầu sáng tạo các sử thi của cuộc sống thì cũng là lúc cáo
chung của các nguyên tắc thi ca đã được bàn luận một lúc nào đó bởi Schiller, Goethe,
Humboldt trong trường phái thơ điền viên Weimar. Chúng ta bị bao bọc ngày càng
chặt bởi vô vàn các hình thức nghệ thuật của các dân tộc, các thời đại hết sức
khác nhau. Chúng đồng thời cũng đang gây ra sự tan vỡ của mọi ranh giới giữa
các thể loại thơ ca và mọi khuôn mẫu. Đặc biệt là Đông Âu đang nhấn chìm chúng
ta trong dòng chảy thơ ca, âm nhạc, hội họa tự phát, vô hình thức. Tuy trong đó
còn có nhiều tính man rợ, song nhiều hơn vẫn là cái nghị lực không vơi cạn của
các dân tộc trẻ, mà những cố gắng tinh thần của họ được thể hiện trong những
tiểu thuyết và những bức tranh hoành tráng. Giữa mớ hỗn độn này, người nghệ sĩ
bị tước mất các quy tắc, còn ở nhà phê bình thì thước đo duy nhất còn lại là
trực giác. Công chúng tự ngự trị. Những đám đông quần chúng chen chúc trong các
phòng trưng bày thênh thang, các rạp hát to nhỏ, trong các thư viện đang tạo
dựng và hạ bệ nhanh chóng danh tiếng của người nghệ sĩ. Một sự hỗn mang như vậy
của các thị hiếu là nhân danh thời đại, khi mà cách tiếp nhận thực tế theo lối
mới phá vỡ các hình thức và quy định hiện tồn, tạo một nền móng cho sự xuất
hiện của những hình thức nghệ thuật mới. Nhưng không thể để cho sự hỗn độn này
cắm rễ sâu; và một trong những nhiệm vụ sống còn của triết học, lịch sử nghệ
thuật và văn học là phải khôi phục mối tương quan lành mạnh giữa tư tưởng thẩm
mỹ và nghệ thuật.
Nhiệm vụ của thi
pháp học mới xuất phát từ mới quan hệ sinh động của nó với thực tiễn nghệ thuật
có thể được biểu hiện qua những câu hỏi hướng vào nó: liệu nó có thể tìm ra
những quy luật chung có ý nghĩa trở thành những quy định sáng tạo hay là các
tiêu chuẩn phê bình hay không? Thi pháp của một thời đại hay một dân tộc có
liên quan gì đến các quy định chung này? Cần phải giải quyết như thế nào vấn đề
tách biệt những giá trị chung đang đeo đuổi mọi khoa học về tinh thần khỏi kinh
nghiệm của suy tư nội tâm luôn hạn chế trong cái cá nhân, không xác định và đa
nghĩa, đồng thời cũng không biểu lộ ra được hết. Nhiệm vụ trước đây của thi
pháp học lại một lần nữa đặt ra trước chúng ta, và hiện tại còn chưa rõ là có
giải quyết được không nếu chỉ dựa vào các phương tiện phụ trợ mà chúng ta có
được nhờ việc mở rộng chân trời khoa học. Những nhận thức kinh nghiệm chủ nghĩa
và công cụ phương pháp luận của khoa học hiện đại dù sao và chắc chắn vẫn cho
phép vượt lên các nguyên tắc thẩm mỹ riêng rẽ mà vẫn thuộc khoa học thẩm mỹ
chung.
Và ở một phương
diện khác, thi pháp học đã trở thành một nhu cầu của hiện tại. Một khối lượng
khổng lồ các tác phẩm thơ ca của tất cả các dân tộc cần phải được sắp xếp, đánh
giá nhằm mục đích đem lại khoái cảm sống và phải được sử dụng để nghiên cứu con
người và lịch sử người. Nhiệm vụ này chỉ giải quyết được nếu cùng với lịch sử
văn học nghệ thuật bước lên diễn đàn một khoa học chung về các cơ sở và quy
luật cấu trúc thơ ca. Cả hai khoa học này có cùng một chất liệu và không có một
sai lệch phương pháp luận nào mang lại tác hại hơn là việc từ bỏ bao quát một
cách rộng rãi các sự thực lịch sử, trong đó có cả các yếu tố tiểu sử, khi xây
dựng một khoa học chung về bản chất người và công việc sáng tạo mà chúng ta chỉ
nghiên cứu được trên cái nền xã hội người. Ở đây vẫn là mối tương quan giữa một
khoa học tổng hợp và việc phân tích các hiện tượng lịch sử giữa tất cả những
biểu hiện quan trọng khác của đời sống xã hội. Điểm xuất phát của một lý thuyết
như vậy phải là sự phân tích khả năng sáng tạo quy định nhà thơ. Trí tưởng
tượng của nhà thơ trong mối quan hệ với thế giới kinh nghiệm là điểm xuất phát
cần thiết đối với bất kỳ một luận thuyết nào thực sự mong muốn giải thích được
thế giới thơ ca đầy màu sắc trong trình tự biểu hiện của nó. Thi pháp học hiểu
theo nghĩa này là phương pháp tiếp cận thực sự đến lịch sử văn học nghệ thuật,
như là một phương pháp luận của khoa học về tinh thần, chính là đường vào lịch
sử của các vận động tinh thần. Nghệ sĩ và công chúng đang cần có một tiêu chuẩn
chắc chắn nhất để phân định giá trị các tác phẩm thơ. Chúng ta đã bước vào thời
đại duy sử. Toàn bộ quá khứ lịch sử đang quây chúng ta lại trong lĩnh vực thơ
ca. Nhà thơ cần xác định vị trí của mình trong lịch sử và chỉ có thi pháp học
với thế giới quan lịch sử mới có thể đưa lại cứu cánh cho nhà thơ. Ngôn ngữ
học, bộ môn đầu tiên xem xét sự tương tác giữa các tác phẩm thơ ca của một dân
tộc trong mối liên hệ với đời sống tinh thần của dân tộc ấy, cũng không tách
khỏi kỹ thuật thơ ca mang tính lịch sử cụ thể, còn vấn đề quan hệ của cuộc sống
tinh thần dân tộc với các quy luật thơ ca chung chắc chắn sẽ đưa nhà ngôn ngữ
học đến với các cơ sở ban đầu của thi pháp học.
Như vậy, chúng
ta đã đi tới vấn đề căn bản nhất và chỉ trong phương diện lịch sử của nó. Liệu
chúng ta có đủ sức hiểu được bằng cách nào đó những quy luật được cắm rễ sâu
trong bản chất người, và chính vì vậy đang tác động ở khắp nơi, làm nảy sinh ra
các kiểu thơ ca khác nhau và thay đổi từ dân tộc này sang dân tộc khác, từ thời
đại này sang thời đại khác. Ở đây, chúng ta động chạm đến thực chất của một
khoa học về tinh thần: tính lịch sử của cuộc sống tinh thần được biểu hiện
trong các hệ thống cụ thể của nền văn hóa do nhân loại tạo ra. Tính đồng nhất
bản thể người của chúng ta thể hiện qua những văn hóa tương đồng gắn liền với
tính bất biến, tính lịch sử của nó như thế nào?
Có thể, trên
bình diện nghiên cứu yếu tố căn cốt này của các khoa học về tinh thần, về tính
lịch sử của bản chất tự do của con người, thi pháp học đã có trước một ưu thế
lớn so với các lý luận về tôn giáo và đạo đức. Không ở một lĩnh vực nào, phải
chăng là trừ triết học, các kết quả của quá trình sáng tạo được lưu giữ đầy đủ
như vậy. Trình tự của chúng được mở ra trước ta trong văn học, nghệ thuật.
Những động lực của nó hình như vẫn đang còn giữ được nhịp đập sống động chung.
Hơn nữa, các quá trình thơ ca vẫn còn đang khai triển ngày nay cũng giống như ở
bất kỳ một kỷ nguyên nào trước kia. Nhà thơ sống ngay trước mắt ta và chúng ta
được chứng kiến sáng tạo của anh ta. Tóm lại, sáng tạo hình tượng thơ ca, cấu
trúc tâm lý của nó có thể dễ dàng nghiên cứu được. Hy vọng rằng thi pháp học sẽ
cho phép soi sáng các quá trình tâm lý trong lịch sử với một sự chính xác đặc biệt.
Trên cơ sở lịch sử văn học, việc tìm hiểu lịch sử mang tính triết học của chúng
ta được phát triển. Có thể, thi pháp học cũng sẽ có ý nghĩa lớn như thế đối với
việc nghiên cứu các biểu hiện lịch sử của cuộc sống.
Ngày nay, thi
pháp học không đi quá sự nhận thức các mối quan hệ qua lại có tính nhân quả
kinh nghiệm chủ nghĩa, và việc đầu tiên là nó cố gắng học ở các bộ môn gần gũi
với nó những gì liên quan đến phương pháp và các phương tiện phụ trợ.
Môn gần gũi nhất
với thi pháp học là tu từ học đáng tiếc vẫn ở trong tình trạng đã đạt được từ
thời cổ đại. Tu từ học đến nay vẫn là học thuyết đơn giản về các hình thức và
các thủ pháp kỹ thuật. Thậm chí nó cũng chẳng dấn thêm một bước để tiếp cận đến
nhận thức các mối liên hệ nhân quả. Nhưng dù sao thì cách hiểu cổ lỗ, hạn hẹp
của nó cũng như trong nghĩa rộng của lý thuyết nhằm mục đích chứng minh và
thuyết phục, tu từ học vẫn có lợi cho ngữ văn học và thực tiễn cuộc sống. Thực
ra, ngoài ngữ pháp học và âm luật học thì các phương tiện mà một nhà ngữ văn
học có tư duy lô gích và cảm xúc thẩm mỹ tinh tế có thể huy động được hầu như
đã được tận dụng hết. Và cũng vậy, chỉ bằng phương pháp so sánh và giải thích
tâm lý mới có thể xác định được trong phạm vi nào và trong mối tương quan nào
các yếu tố phong cách có thể biến hóa ở một tác giả. Và như thế đã có thể xuất
hiện cơ sở hệ thống để nghiên cứu các vấn đề nhất định của nền phê bình báo chí
cũng như bác học. Gần gũi về loại hình với thi pháp học là từ chương học. Song
cũng như thi pháp học, sau khi nó được F. Schleiermacher nâng lên tầm của sự
chiêm quan hình thức thẩm mỹ cho tới lúc này nó cũng chẳng nhích lên được chút
nào.
Ngữ pháp học và
âm vận học là cơ sở của thi pháp học và trở thành các hình mẫu cho thi pháp học
trong việc xác lập phương pháp so sánh mà nó có thể, trước hết vạch ra cho các
mối phụ thuộc nhân quả riêng rẽ một hình tượng, còn sau đó tiếp cận dần dần đến
sự nhận thức tổng quát các mối liên hệ.
Tuy nhiên, không
nên bỏ qua sự khác biệt không thể tránh khỏi hiện nay giữa các phương pháp ngữ
pháp học và các phương pháp thi pháp học. Nhà ngữ pháp học nghiên cứu những
thay đổi hết sức sơ đẳng trong khuôn khổ của ngữ âm học và anh ta có khả năng
đưa ra một loạt những thay đổi ở các ngôn ngữ khác nhau và so sánh hàng loạt
những thay đổi như vậy. Anh ta có thể dựa vào sự giống nhau về gia hệ giữa các
ngôn ngữ. Anh ta có thể vạch ra những tiền đề sinh lý học của sự đồng nhất của
các thay đổi âm vị học sơ đẳng này. Thi pháp học không thể sử dụng bất kỳ sự
phân chia gia hệ nào của các trường phái thơ ca. Nó cũng không thể biến một
kiểu thơ ca hay một motive thơ ca nào đó vào thành những quy tắc chặt chẽ. Sinh
lý học của quá trình sáng tạo thơ ca không đạt được việc sử dụng như vậy cho
việc giải thích sơ đẳng thi pháp, cũng như trong ngữ âm học, sinh lý học của
tiếng nói không được sử dụng.
Tất nhiên, trò
chơi ngữ âm, ngữ điệu, tiết tấu thấm nhuần toàn bộ thơ cho đến thơ văn xuôi,
nhưng phương diện này của thơ ca ít có lợi hơn cho việc giải thích các cơ sở
của thi pháp học so với việc sử dụng ngữ âm học để giải thích các cơ sở của ngữ
pháp. Những cố gắng vạch ra các dấu hiệu sinh lý học kèm theo các quá trình
sáng tạo thơ ca chẳng hạn như các học thuyết về ảo giác mà người Pháp đã sử
dụng hiện chưa cho thấy kết quả. Tóm lại, trong thi pháp học chưa chắc chúng ta
đạt được những kết quả khả quan như trong ngữ pháp học nếu trong thi pháp học
chúng ta chỉ dừng lại ở sự quan sát mang tính kinh nghiệm bề ngoài, ở sự soi
sáng có tính qua lại các bình diện song song của các mối liên hệ nhân quả, ở
việc khái quát hóa bằng phương pháp so sánh và ở lập luận sinh lý học. Đương
nhiên, chúng ta phải hướng đến sử dụng tối đa những phương tiện phụ trợ như
vậy. Nhưng, những nguyên nhân dưới đây buộc chúng ta phải vượt ra ngoài các
ranh giới của các thủ pháp của ngôn ngữ học:
Nhà ngữ pháp học
coi ngôn ngữ như một hệ thống có sẵn mà trong đó những thay đổi diễn ra chậm
chạp đến mức khó mà chỉ ra được chúng bằng phương pháp quan sát trực tiếp.
Trong quá trình sáng tạo ngôn ngữ có tác động của những động lực sáng tạo được
thấy cả trong cuộc sống tinh thần nói chung, song sự hiện hữu của chúng trong
những từ được nói ra không thể cảm nhận trực tiếp. Nó thấy được nhờ các suy lý.
Ở đây chúng ta có quyền nói về sự tương đồng giữa phương pháp ngôn ngữ học và
phương pháp khoa học tự nhiên. Mặt khác, quá trình xuất hiện sinh động của thơ
ca từ giai đoạn manh nha cho tới khi trở thành một hình tượng trọn vẹn có thể
thấy qua ví dụ về một nhà thơ đương thời nào đó. Và mỗi một người có khả năng
cảm thụ thơ ca đều có thể cảm nhận thấy điều gì đó tương tự như vậy. Thêm vào
đấy là sự thừa nhận của chính các nhà thơ về quá trình sáng tạo được hình thành
trong bản thân họ, những tượng đài văn học cho phép chúng ta dựng lại một lịch
sử sinh động mà trong tiến trình đó những tác phẩm thơ ca xuất sắc được sinh
ra. Hơn nữa, con đẻ của quá trình sáng tạo thơ ca vẫn được giữ lại trong cái
biển văn học khổng lồ và ngang hàng với các tác phẩm văn xuôi, chúng có những
nét đặc trưng khiến có thể nghiên cứu được những mối quan hệ nhân quả đa dạng
của chúng. Trong các tác phẩm thơ ca dường như thấy rõ được nhịp thở của sức
mạnh sáng tạo ra chúng. Diện mạo của chúng là cánh cửa rộng mở cho việc tìm
hiểu những quy luật sáng tạo ra chúng. Chừng nào chúng ta có thể quan sát trực
tiếp sáng tạo thơ ca cùng với việc cảm thụ thẩm mỹ cùng với nó đồng thời lại có
các bằng chứng về những quá trình này, chừng nào sự cảm thụ thẩm mỹ đạt tới
bằng cách này được ứng dụng vào lịch sử bên ngoài của việc sáng tạo các tác
phẩm thơ ca, và cuối cùng chừng nào diện mạo đã được đẽo gọt xong có thể phân
tích được và làm phong phú, củng cố thêm sự am hiểu của chúng ta về nguồn gốc
của nó, thì chừng đó một viễn cảnh khá sáng sủa trong lĩnh vực này được mở ra
trước chúng ta. Ở đây có thể đạt được sự giải thích mang tính nhân quả các hiện
tượng dựa trên các quá trình sáng tạo thơ ca. Rõ ràng ở đây thi pháp học có mọi
tiền đề cần thiết để đi đến việc giải thích một chỉnh thể tinh thần – lịch sử
nhất định.
Việc thu thập và
chỉnh lý bằng các phương pháp phân tích văn học hay phương pháp tiểu sử những
đặc điểm vốn có ở tất cả các nhà thơ là nhiệm vụ đầu tiên và đơn giản nhất.
Chúng thể hiện ra trên nền của cái vốn cố hữu cho các nhà thơ ở mức ngang bằng
với các nhà triết học, bác học hay các chính khách. Nói về điều này là thừa,
nếu như các khuynh hướng cổ điển và lãng mạn không nhắm mắt trước sự phụ thuộc
này của các nhà thơ vào thế giới thực tại và đã không đưa họ lên những đám mây
của các mẫu lý tưởng hay đến các miếng đất của các ảo tưởng về cuộc sống.
Đối tượng của
thơ theo Aristote là những công việc của con người. Dù công thức này quá hạn
hẹp, nhưng chúng ta vẫn có quyền nói rằng yếu tố cuộc sống tâm hồn hay tổ hợp
của các yếu tố như vậy có thể trở thành bộ phận cấu thành của thơ ca chỉ ở mức
độ tương quan với xúc động và việc tái tạo xúc động đó. Lớp đệm lót của bất kỳ
một thứ thơ ca chân chính nào là xúc động, các kinh nghiệm sống động, các diễn
biến của tâm hồn đều gắn liền với kinh nghiệm này. Mọi hình tượng của thế giới
bên ngoài được gắn kết bằng một mối liên hệ như vậy đều có thể trở thành chất
liệu cho sáng tạo nghệ thuật. Hoạt động bất kỳ nào của lý trí làm phong phú,
hoàn chỉnh kinh nghiệm của chúng ta và qua đó có ích hơn cho chúng ta đều phục
vụ cho sáng tạo của nhà thơ. Lĩnh vực này của kinh nghiệm – môi trường hoạt
động của nhà thơ – không khác với lĩnh vực vốn là đất sống của các nhà triết
học hay chính trị gia. Nếu từ các thực tiễn văn học chúng ta muốn rút ra câu
trả lời cho câu hỏi sáng tạo thơ ca được sinh ra từ mảnh đất mẹ này như thế
nào, thì trước hết cần phải xác định xem công việc đặc thù, hay như vẫn nói,
chức năng của nhà thơ là ở chỗ nào, sau đó chúng ta mới có thể quan sát và mô
tả những dấu hiệu riêng rẽ của một số quá trình của công việc sáng tạo thơ ca.
Thực chất và
chức năng của nghệ thuật không nên đưa ra từ cách hiểu cao hơn cách hiểu ngày
nay của chúng ta về lý tưởng như là mỹ học lý tưởng đã làm. Đa số các lý thuyết
về thế giới tinh thần được đề ra trong kỷ nguyên của triết học tư biện Đức đều
có thiết sót như nhau. Những gì được hình thành trong những điều kiện đặc biệt
thuận lợi không nên coi là nguyên nhân sinh động của toàn bộ chuỗi các hiện
tượng trong đó cuộc sống nghệ thuật được triển khai. Nghệ thuật có ở khắp mọi
nơi; dù đó là các âm thanh hay là một vật liệu mang tính vật chất hơn thì vẫn
là một cái gì đó không phục vụ trực tiếp cho nhận thức thực tại và không đòi
hỏi phải được thực hiện vào cuộc sống, nhưng tự bản thân nó đáp ứng được hứng
thú của người quan sát. Từ các tấm da hươu hay cá voi mà người Eskimô dùng làm
bao súng, từ những chiếc mặt nạ của những người châu Phi hay các sáng tạo của
Goethe, Raphael đều là cả một không gian của sự sáng tạo muôn hình muôn vẻ đang
được hoàn thiện dần. Nét chung của nó là chính bản thân quá trình tái tạo như
nó có và việc chiêm nghiệm những kết quả của nó đưa lại khoái cảm trực tiếp.
Đặc điểm này khả năng đem lại niềm vui cho các khán giả hay thính giả đều có
thể thấy ở bất kỳ tác phẩm nghệ thuật nào. Nhưng cũng nên biết kiềm chế ý muốn
cho rằng trong cái đặc điểm đơn này là tất cả thực chất của nghệ thuật. Đây là
mối nguy hiểm mà Aristote cũng không tránh khỏi. Cũng phải kiềm chế ý muốn liệt
kê ngay lập tức ở đây tất cả những gì làm cho nghệ thuật phong phú hơn.
Nhà thơ thể hiện
các hình tượng của mình trong các tập hợp từ. Có thể nghĩ rằng cùng thời gian
thực chất của phương tiện biểu đạt này là ngôn ngữ đã thúc đẩy việc chuyển các
đối tượng mô tả cho các loại hình nghệ thuật vốn dễ dàng tái tạo chúng hơn là
ngôn ngữ. Còn dành lại cho ngôn ngữ là những đối tượng phù hợp hơn với nó là
tiếng nói. Nếu thế thì có thể tuyên bố rằng việc mô tả trực tiếp thiên nhiên
hay các cơ thể lý tưởng không phải là công việc của thơ ca vì không có đủ các
phương tiện để làm việc đó, trong khi ở bức tranh hay pho tượng những hình
tượng nhìn được sờ nắm được này có khả năng làm rung động tâm hồn hay làm
“thích mắt” hơn. Đương nhiên sự cạnh tranh giữa các nghệ thuật khác nhau thúc
đẩy một sự phân chia như vậy. Nhưng cái tách biệt thơ ca khỏi các loại hình
nghệ thuật khác và xác định chức năng đặc biệt của nó trong lòng một xã hội
không phải là phương tiện ngôn từ, mà là một nội dung nào đó, tạo nên hạt nhân
của nó.
Phương pháp so
sánh, như vẫn nói, có thể đưa ra những tế bào, những hình thức sống đầu tiên và
đơn giản nhất của thơ ca. Hãy tạm để vấn đề này sang một bên. Ở đây tôi chỉ cố
gắng xác định cái nội dung căn bản, cái hạt nhân của thơ ca có ở mọi hình thức
của nó bắt đầu từ những hình thức đơn giản nhất. Sáng tạo của nhà thơ ở
mọi nơi, mọi lúc được đặt cơ sở trên năng lượng của cảm xúc. Cơ cấu tâm hồn của
nó vốn rất nhạy bén đáp lại tiếng nói của cuộc sống. Tâm hồn của chúng ta luôn
luôn khao khát một sự trọn vẹn và khoảng không thoáng đãng cho tâm hồn của mình
thông qua sự khuếch đại cái tôi thầm kín. Tình cảm sống muốn được rót thành âm
thanh, ngôn từ, hình tượng. Sự chiêm vọng chỉ thỏa mãn được chúng ta hoàn toàn
khi nó tràn đầy mọi nội dung cuộc sống như vậy. Sự đan quyện này, cuộc sống
nguyên thủy hoàn chỉnh, trọn vẹn của chúng ta, cái nhìn tràn đầy tình cảm, sự
tỏa sáng của cảm xúc trở thành những hình tượng lấp lánh – đó là đặc trưng nội
dung căn bản của bất kỳ thứ thơ ca nào. Một cảm xúc như vậy hoàn toàn trở thành
sở hữu của chúng ta chỉ khi nó có mối quan hệ nội tại với các cảm xúc khác và
qua đó mà có được ý nghĩa, không khi nào nên đơn giản hóa nó, quy về tư tưởng
hay ý tưởng. Nhưng bằng con đường suy nghiệm, khái quát hóa, xác lập các mối
liên hệ đặt nó vào cái nền tổng thể của tồn tại người và bằng cách đó hiểu được
bản chất của nó, tức là ý nghĩa của nó. Từ cảm xúc theo như cách hiểu trên xuất
hiện toàn bộ thơ ca. Cảm xúc bao gồm các yếu tố, các hình thức kết hợp của
chúng. Mọi quan sát cuộc sống của nhà thơ đều được điều khiển bởi một tâm trạng
sinh động làm phong phú và định hình sự quan sát này. Nhà thơ tồn tại và hưởng
thụ thú vui tồn tại nhờ sức mạnh tình cảm của mình, nhờ các dao động mạnh mẽ
của niềm vui cũng như nỗi khổ, sự rõ ràng và thuần khiết trong việc cảm nhận
tình huống, hình tượng của sự tồn tại. Chức năng của thơ ca là ở chỗ nó thức
tỉnh, nhân lên trong ta cái sức sống này. Thơ ca luôn luôn sưởi ấm ta bằng cái
năng lượng này của tình yêu cuộc sống trong những phút giây kỳ diệu, cho ta đến
gần với cái nhìn thấu suốt, cho phép ta hưởng niềm vui sống. Trong tồn tại đời
thường, chúng ta luôn vội vã chuyển từ ước muốn sang hưởng thụ, và hạnh phúc
trọn vẹn đến với ta cũng hiếm hoi như các ngày lễ hội. Nhưng nhà thơ xuất hiện
mang lại cho ta một sức mạnh tươi mát và thỏa mãn chúng ta bằng những hình
tượng mà không vương nét bi lụy; nó dạy chúng ta cảm nhận, tận hưởng một thế
giới toàn vẹn trong toàn bộ sự lành mạnh, đầy sinh lực của con người.
1887
Thi pháp học của
thi ca luôn là vấn đề mở. Sự thật thì có rất nhiều trường phái nghiên cứu và đề
xuất các khái niệm, nội dung nghiên cứu thi pháp thi ca. Năm 2010, khi trả
lời báo chí nhà thơ Thi Hoàng – người thành công nhất trong đổi mới thi
ca của thi đàn Viẹt sau 1975 đã nói “Thi pháp là không thi pháp”. Tôi đã may mắn
được ông tâm sự về điều này. Theo đó ông cho rằng nếu thi pháp quy định một cái
khung nào đó, như luật Đường Thi, hay lục bát, ngũ ngôn…một nhà thơ có giỏi
cũng chỉ là giỏi làm theo cái khuôn đó mà thôi, trong khi thi ca đòi hỏi sự
bùng nổ và sáng tạo. Chúng tôi xin giới thiệu bài viết này của
Wilhelm Dilthey theo nguồn: Sự đỏng đảnh của phương pháp do Đỗ lai Thúy dịch.
Thi pháp học do Aristote lập ra tồn tại trong suốt
các thế kỷ của đời sống ý thức của nghệ thuật thơ ca và trở thành công cụ cho
các nhà thơ trong sáng tạo của họ và là thước đo nghiệt ngã của các nhà phê
bình cho đến nửa sau của thế kỷ 18, thời của Boileau, Lessing. Tác phẩm này
cũng còn là sách giáo khoa có hiệu quả nhất của ngữ văn học trong việc diễn
giải, phê bình và đánh giá thơ ca Hy Lạp. Cùng với ngữ pháp học, tu từ học và
lô gích học, thi pháp học là một bộ phận tạo nên học vấn cao cấp. Sau công
trình này của Aristote, một mỹ học mới được sinh ra bởi tinh thần Đức trong cái
kỷ nguyên thơ ca Đức vĩ đại đã chỉ đạo sáng tác của Goethe, Schiller, làm sâu
sắc thêm khả năng hiểu biết của Humboldt, Schlegel và làm nền tảng cho suy luận
phê phán của họ. Dưới ánh sáng của hai ngọn nến Goethe và Schiller này, mỹ học
Đức đã thống trị toàn bộ nền thơ ca Đức với sự hỗ trợ của những người phục vụ
cho nghệ thuật của cái đẹp đã bị nó chinh phục là Humboldt, Schlegel, Schelling
và cuối cùng là Hegel. Nó chỉ đạo lại ngành ngữ văn học. Nó cũng làm phong phú
thêm sự đánh giá phê bình trước hết dựa vào tiêu chuẩn của lý trí và các quy
định ngữ pháp, niêm luật học và kỹ thuật tu từ và dần dà thay thế nó bằng phê
bình mỹ học xuất phát từ sự phân tích hình thức.
Tại Pháp và Anh,
mỹ học Đức cũng đã đẩy nhanh sự sụp đổ của các hình thức cũ và ảnh hưởng đến
những sáng tạo đầu tiên của một thời đại thơ ca mới còn chưa đủ tự tin.
Ngày nay, không
gian văn học ở tất cả các nước đang ngự trị sự hỗn độn, bởi thi pháp học mà
Aristote lập ra đã chết. Những hình thức và quy định của nó đứng trước các tác
phẩm tuyệt vời của Sterne, Rousseau trở thành những cái bóng mờ nhạt của một
cái gì đó không có trong thực tế, trở thành những công thức khuôn sáo được sao
lại từ các mô hình nghệ thuật cổ. Và bây giờ, mỹ học Đức, đến lượt mình, lại
rơi vào tình trạng mà thi pháp học Aristote đã trải qua. Tuy nhiên, mỹ học Đức
vẫn còn thoi thóp ở đâu đó tại một số khoa của trường đại học, nhưng trong ý
thức của các nghệ sĩ, các nhà phê bình đầu đàn mà chỉ ở nơi đó nó mới có thể
sống được thì nó đã không còn chỗ nữa. Một khi ở nghệ thuật tạo hình Pháp,
David mất đi ý nghĩa của mình còn Pelaros và Gale bước lên hàng đầu, một khi ở
nghệ thuật tạo hình Đức, các bức tranh của Kornelius lùi vào bóng tối của bảo
tàng nhường chỗ cho những con người hiện thực, thì cũng là lúc bộ luật về cái
đẹp lý tưởng của bộ môn nghệ thuật này, do Goethe và những người thuộc trường
phái Weimar tạo ra, trở nên mất giá trị. Sau Cách mạng Tư sản Pháp, con mắt của
nhà thơ và công chúng hướng nhiều hơn đến một thực tế tưởng như khó mà có thật
của London, Paris, nơi đang tràn đầy hơi thở của một loại thơ ca mới. Khi ở đó
Dickens và Balzac bắt đầu sáng tạo các sử thi của cuộc sống thì cũng là lúc cáo
chung của các nguyên tắc thi ca đã được bàn luận một lúc nào đó bởi Schiller,
Goethe, Humboldt trong trường phái thơ điền viên Weimar. Chúng ta bị bao bọc
ngày càng chặt bởi vô vàn các hình thức nghệ thuật của các dân tộc, các thời
đại hết sức khác nhau. Chúng đồng thời cũng đang gây ra sự tan vỡ của mọi ranh
giới giữa các thể loại thơ ca và mọi khuôn mẫu. Đặc biệt là Đông Âu đang nhấn
chìm chúng ta trong dòng chảy thơ ca, âm nhạc, hội họa tự phát, vô hình thức.
Tuy trong đó còn có nhiều tính man rợ, song nhiều hơn vẫn là cái nghị lực không
vơi cạn của các dân tộc trẻ, mà những cố gắng tinh thần của họ được thể hiện
trong những tiểu thuyết và những bức tranh hoành tráng. Giữa mớ hỗn độn này,
người nghệ sĩ bị tước mất các quy tắc, còn ở nhà phê bình thì thước đo duy nhất
còn lại là trực giác. Công chúng tự ngự trị. Những đám đông quần chúng chen
chúc trong các phòng trưng bày thênh thang, các rạp hát to nhỏ, trong các thư
viện đang tạo dựng và hạ bệ nhanh chóng danh tiếng của người nghệ sĩ. Một sự
hỗn mang như vậy của các thị hiếu là nhân danh thời đại, khi mà cách tiếp nhận
thực tế theo lối mới phá vỡ các hình thức và quy định hiện tồn, tạo một nền
móng cho sự xuất hiện của những hình thức nghệ thuật mới. Nhưng không thể để
cho sự hỗn độn này cắm rễ sâu; và một trong những nhiệm vụ sống còn của triết
học, lịch sử nghệ thuật và văn học là phải khôi phục mối tương quan lành mạnh
giữa tư tưởng thẩm mỹ và nghệ thuật.
Nhiệm vụ của thi
pháp học mới xuất phát từ mới quan hệ sinh động của nó với thực tiễn nghệ thuật
có thể được biểu hiện qua những câu hỏi hướng vào nó: liệu nó có thể tìm ra
những quy luật chung có ý nghĩa trở thành những quy định sáng tạo hay là các
tiêu chuẩn phê bình hay không? Thi pháp của một thời đại hay một dân tộc có
liên quan gì đến các quy định chung này? Cần phải giải quyết như thế nào vấn đề
tách biệt những giá trị chung đang đeo đuổi mọi khoa học về tinh thần khỏi kinh
nghiệm của suy tư nội tâm luôn hạn chế trong cái cá nhân, không xác định và đa
nghĩa, đồng thời cũng không biểu lộ ra được hết. Nhiệm vụ trước đây của thi
pháp học lại một lần nữa đặt ra trước chúng ta, và hiện tại còn chưa rõ là có
giải quyết được không nếu chỉ dựa vào các phương tiện phụ trợ mà chúng ta có
được nhờ việc mở rộng chân trời khoa học. Những nhận thức kinh nghiệm chủ nghĩa
và công cụ phương pháp luận của khoa học hiện đại dù sao và chắc chắn vẫn cho
phép vượt lên các nguyên tắc thẩm mỹ riêng rẽ mà vẫn thuộc khoa học thẩm mỹ
chung.
Và ở một phương
diện khác, thi pháp học đã trở thành một nhu cầu của hiện tại. Một khối lượng
khổng lồ các tác phẩm thơ ca của tất cả các dân tộc cần phải được sắp xếp, đánh
giá nhằm mục đích đem lại khoái cảm sống và phải được sử dụng để nghiên cứu con
người và lịch sử người. Nhiệm vụ này chỉ giải quyết được nếu cùng với lịch sử
văn học nghệ thuật bước lên diễn đàn một khoa học chung về các cơ sở và quy
luật cấu trúc thơ ca. Cả hai khoa học này có cùng một chất liệu và không có một
sai lệch phương pháp luận nào mang lại tác hại hơn là việc từ bỏ bao quát một
cách rộng rãi các sự thực lịch sử, trong đó có cả các yếu tố tiểu sử, khi xây
dựng một khoa học chung về bản chất người và công việc sáng tạo mà chúng ta chỉ
nghiên cứu được trên cái nền xã hội người. Ở đây vẫn là mối tương quan giữa một
khoa học tổng hợp và việc phân tích các hiện tượng lịch sử giữa tất cả những
biểu hiện quan trọng khác của đời sống xã hội. Điểm xuất phát của một lý thuyết
như vậy phải là sự phân tích khả năng sáng tạo quy định nhà thơ. Trí tưởng
tượng của nhà thơ trong mối quan hệ với thế giới kinh nghiệm là điểm xuất phát
cần thiết đối với bất kỳ một luận thuyết nào thực sự mong muốn giải thích được
thế giới thơ ca đầy màu sắc trong trình tự biểu hiện của nó. Thi pháp học hiểu
theo nghĩa này là phương pháp tiếp cận thực sự đến lịch sử văn học nghệ thuật,
như là một phương pháp luận của khoa học về tinh thần, chính là đường vào lịch
sử của các vận động tinh thần. Nghệ sĩ và công chúng đang cần có một tiêu chuẩn
chắc chắn nhất để phân định giá trị các tác phẩm thơ. Chúng ta đã bước vào thời
đại duy sử. Toàn bộ quá khứ lịch sử đang quây chúng ta lại trong lĩnh vực thơ
ca. Nhà thơ cần xác định vị trí của mình trong lịch sử và chỉ có thi pháp học
với thế giới quan lịch sử mới có thể đưa lại cứu cánh cho nhà thơ. Ngôn ngữ
học, bộ môn đầu tiên xem xét sự tương tác giữa các tác phẩm thơ ca của một dân
tộc trong mối liên hệ với đời sống tinh thần của dân tộc ấy, cũng không tách
khỏi kỹ thuật thơ ca mang tính lịch sử cụ thể, còn vấn đề quan hệ của cuộc sống
tinh thần dân tộc với các quy luật thơ ca chung chắc chắn sẽ đưa nhà ngôn ngữ
học đến với các cơ sở ban đầu của thi pháp học.
Như vậy, chúng
ta đã đi tới vấn đề căn bản nhất và chỉ trong phương diện lịch sử của nó. Liệu
chúng ta có đủ sức hiểu được bằng cách nào đó những quy luật được cắm rễ sâu
trong bản chất người, và chính vì vậy đang tác động ở khắp nơi, làm nảy sinh ra
các kiểu thơ ca khác nhau và thay đổi từ dân tộc này sang dân tộc khác, từ thời
đại này sang thời đại khác. Ở đây, chúng ta động chạm đến thực chất của một
khoa học về tinh thần: tính lịch sử của cuộc sống tinh thần được biểu hiện
trong các hệ thống cụ thể của nền văn hóa do nhân loại tạo ra. Tính đồng nhất bản
thể người của chúng ta thể hiện qua những văn hóa tương đồng gắn liền với tính
bất biến, tính lịch sử của nó như thế nào?
Có thể, trên
bình diện nghiên cứu yếu tố căn cốt này của các khoa học về tinh thần, về tính
lịch sử của bản chất tự do của con người, thi pháp học đã có trước một ưu thế
lớn so với các lý luận về tôn giáo và đạo đức. Không ở một lĩnh vực nào, phải
chăng là trừ triết học, các kết quả của quá trình sáng tạo được lưu giữ đầy đủ
như vậy. Trình tự của chúng được mở ra trước ta trong văn học, nghệ thuật.
Những động lực của nó hình như vẫn đang còn giữ được nhịp đập sống động chung.
Hơn nữa, các quá trình thơ ca vẫn còn đang khai triển ngày nay cũng giống như ở
bất kỳ một kỷ nguyên nào trước kia. Nhà thơ sống ngay trước mắt ta và chúng ta
được chứng kiến sáng tạo của anh ta. Tóm lại, sáng tạo hình tượng thơ ca, cấu
trúc tâm lý của nó có thể dễ dàng nghiên cứu được. Hy vọng rằng thi pháp học sẽ
cho phép soi sáng các quá trình tâm lý trong lịch sử với một sự chính xác đặc
biệt. Trên cơ sở lịch sử văn học, việc tìm hiểu lịch sử mang tính triết học của
chúng ta được phát triển. Có thể, thi pháp học cũng sẽ có ý nghĩa lớn như thế
đối với việc nghiên cứu các biểu hiện lịch sử của cuộc sống.
Ngày nay, thi
pháp học không đi quá sự nhận thức các mối quan hệ qua lại có tính nhân quả
kinh nghiệm chủ nghĩa, và việc đầu tiên là nó cố gắng học ở các bộ môn gần gũi
với nó những gì liên quan đến phương pháp và các phương tiện phụ trợ.
Môn gần gũi nhất
với thi pháp học là tu từ học đáng tiếc vẫn ở trong tình trạng đã đạt được từ
thời cổ đại. Tu từ học đến nay vẫn là học thuyết đơn giản về các hình thức và
các thủ pháp kỹ thuật. Thậm chí nó cũng chẳng dấn thêm một bước để tiếp cận đến
nhận thức các mối liên hệ nhân quả. Nhưng dù sao thì cách hiểu cổ lỗ, hạn hẹp của
nó cũng như trong nghĩa rộng của lý thuyết nhằm mục đích chứng minh và thuyết
phục, tu từ học vẫn có lợi cho ngữ văn học và thực tiễn cuộc sống. Thực ra,
ngoài ngữ pháp học và âm luật học thì các phương tiện mà một nhà ngữ văn học có
tư duy lô gích và cảm xúc thẩm mỹ tinh tế có thể huy động được hầu như đã được
tận dụng hết. Và cũng vậy, chỉ bằng phương pháp so sánh và giải thích tâm lý
mới có thể xác định được trong phạm vi nào và trong mối tương quan nào các yếu
tố phong cách có thể biến hóa ở một tác giả. Và như thế đã có thể xuất hiện cơ
sở hệ thống để nghiên cứu các vấn đề nhất định của nền phê bình báo chí cũng
như bác học. Gần gũi về loại hình với thi pháp học là từ chương học. Song cũng
như thi pháp học, sau khi nó được F. Schleiermacher nâng lên tầm của sự chiêm
quan hình thức thẩm mỹ cho tới lúc này nó cũng chẳng nhích lên được chút nào.
Ngữ pháp học và
âm vận học là cơ sở của thi pháp học và trở thành các hình mẫu cho thi pháp học
trong việc xác lập phương pháp so sánh mà nó có thể, trước hết vạch ra cho các
mối phụ thuộc nhân quả riêng rẽ một hình tượng, còn sau đó tiếp cận dần dần đến
sự nhận thức tổng quát các mối liên hệ.
Tuy nhiên, không
nên bỏ qua sự khác biệt không thể tránh khỏi hiện nay giữa các phương pháp ngữ
pháp học và các phương pháp thi pháp học. Nhà ngữ pháp học nghiên cứu những
thay đổi hết sức sơ đẳng trong khuôn khổ của ngữ âm học và anh ta có khả năng
đưa ra một loạt những thay đổi ở các ngôn ngữ khác nhau và so sánh hàng loạt
những thay đổi như vậy. Anh ta có thể dựa vào sự giống nhau về gia hệ giữa các
ngôn ngữ. Anh ta có thể vạch ra những tiền đề sinh lý học của sự đồng nhất của
các thay đổi âm vị học sơ đẳng này. Thi pháp học không thể sử dụng bất kỳ sự
phân chia gia hệ nào của các trường phái thơ ca. Nó cũng không thể biến một
kiểu thơ ca hay một motive thơ ca nào đó vào thành những quy tắc chặt chẽ. Sinh
lý học của quá trình sáng tạo thơ ca không đạt được việc sử dụng như vậy cho
việc giải thích sơ đẳng thi pháp, cũng như trong ngữ âm học, sinh lý học của
tiếng nói không được sử dụng.
Tất nhiên, trò
chơi ngữ âm, ngữ điệu, tiết tấu thấm nhuần toàn bộ thơ cho đến thơ văn xuôi,
nhưng phương diện này của thơ ca ít có lợi hơn cho việc giải thích các cơ sở
của thi pháp học so với việc sử dụng ngữ âm học để giải thích các cơ sở của ngữ
pháp. Những cố gắng vạch ra các dấu hiệu sinh lý học kèm theo các quá trình
sáng tạo thơ ca chẳng hạn như các học thuyết về ảo giác mà người Pháp đã sử
dụng hiện chưa cho thấy kết quả. Tóm lại, trong thi pháp học chưa chắc chúng ta
đạt được những kết quả khả quan như trong ngữ pháp học nếu trong thi pháp học
chúng ta chỉ dừng lại ở sự quan sát mang tính kinh nghiệm bề ngoài, ở sự soi
sáng có tính qua lại các bình diện song song của các mối liên hệ nhân quả, ở
việc khái quát hóa bằng phương pháp so sánh và ở lập luận sinh lý học. Đương
nhiên, chúng ta phải hướng đến sử dụng tối đa những phương tiện phụ trợ như
vậy. Nhưng, những nguyên nhân dưới đây buộc chúng ta phải vượt ra ngoài các
ranh giới của các thủ pháp của ngôn ngữ học:
Nhà ngữ pháp học
coi ngôn ngữ như một hệ thống có sẵn mà trong đó những thay đổi diễn ra chậm
chạp đến mức khó mà chỉ ra được chúng bằng phương pháp quan sát trực tiếp.
Trong quá trình sáng tạo ngôn ngữ có tác động của những động lực sáng tạo được
thấy cả trong cuộc sống tinh thần nói chung, song sự hiện hữu của chúng trong
những từ được nói ra không thể cảm nhận trực tiếp. Nó thấy được nhờ các suy lý.
Ở đây chúng ta có quyền nói về sự tương đồng giữa phương pháp ngôn ngữ học và
phương pháp khoa học tự nhiên. Mặt khác, quá trình xuất hiện sinh động của thơ
ca từ giai đoạn manh nha cho tới khi trở thành một hình tượng trọn vẹn có thể
thấy qua ví dụ về một nhà thơ đương thời nào đó. Và mỗi một người có khả năng
cảm thụ thơ ca đều có thể cảm nhận thấy điều gì đó tương tự như vậy. Thêm vào
đấy là sự thừa nhận của chính các nhà thơ về quá trình sáng tạo được hình thành
trong bản thân họ, những tượng đài văn học cho phép chúng ta dựng lại một lịch
sử sinh động mà trong tiến trình đó những tác phẩm thơ ca xuất sắc được sinh
ra. Hơn nữa, con đẻ của quá trình sáng tạo thơ ca vẫn được giữ lại trong cái
biển văn học khổng lồ và ngang hàng với các tác phẩm văn xuôi, chúng có những
nét đặc trưng khiến có thể nghiên cứu được những mối quan hệ nhân quả đa dạng
của chúng. Trong các tác phẩm thơ ca dường như thấy rõ được nhịp thở của sức
mạnh sáng tạo ra chúng. Diện mạo của chúng là cánh cửa rộng mở cho việc tìm
hiểu những quy luật sáng tạo ra chúng. Chừng nào chúng ta có thể quan sát trực
tiếp sáng tạo thơ ca cùng với việc cảm thụ thẩm mỹ cùng với nó đồng thời lại có
các bằng chứng về những quá trình này, chừng nào sự cảm thụ thẩm mỹ đạt tới
bằng cách này được ứng dụng vào lịch sử bên ngoài của việc sáng tạo các tác
phẩm thơ ca, và cuối cùng chừng nào diện mạo đã được đẽo gọt xong có thể phân
tích được và làm phong phú, củng cố thêm sự am hiểu của chúng ta về nguồn gốc
của nó, thì chừng đó một viễn cảnh khá sáng sủa trong lĩnh vực này được mở ra
trước chúng ta. Ở đây có thể đạt được sự giải thích mang tính nhân quả các hiện
tượng dựa trên các quá trình sáng tạo thơ ca. Rõ ràng ở đây thi pháp học có mọi
tiền đề cần thiết để đi đến việc giải thích một chỉnh thể tinh thần – lịch sử
nhất định.
Việc thu thập và
chỉnh lý bằng các phương pháp phân tích văn học hay phương pháp tiểu sử những
đặc điểm vốn có ở tất cả các nhà thơ là nhiệm vụ đầu tiên và đơn giản nhất.
Chúng thể hiện ra trên nền của cái vốn cố hữu cho các nhà thơ ở mức ngang bằng
với các nhà triết học, bác học hay các chính khách. Nói về điều này là thừa,
nếu như các khuynh hướng cổ điển và lãng mạn không nhắm mắt trước sự phụ thuộc
này của các nhà thơ vào thế giới thực tại và đã không đưa họ lên những đám mây
của các mẫu lý tưởng hay đến các miếng đất của các ảo tưởng về cuộc sống.
Đối tượng của
thơ theo Aristote là những công việc của con người. Dù công thức này quá hạn
hẹp, nhưng chúng ta vẫn có quyền nói rằng yếu tố cuộc sống tâm hồn hay tổ hợp
của các yếu tố như vậy có thể trở thành bộ phận cấu thành của thơ ca chỉ ở mức
độ tương quan với xúc động và việc tái tạo xúc động đó. Lớp đệm lót của bất kỳ
một thứ thơ ca chân chính nào là xúc động, các kinh nghiệm sống động, các diễn
biến của tâm hồn đều gắn liền với kinh nghiệm này. Mọi hình tượng của thế giới
bên ngoài được gắn kết bằng một mối liên hệ như vậy đều có thể trở thành chất
liệu cho sáng tạo nghệ thuật. Hoạt động bất kỳ nào của lý trí làm phong phú,
hoàn chỉnh kinh nghiệm của chúng ta và qua đó có ích hơn cho chúng ta đều phục
vụ cho sáng tạo của nhà thơ. Lĩnh vực này của kinh nghiệm – môi trường hoạt
động của nhà thơ – không khác với lĩnh vực vốn là đất sống của các nhà triết
học hay chính trị gia. Nếu từ các thực tiễn văn học chúng ta muốn rút ra câu
trả lời cho câu hỏi sáng tạo thơ ca được sinh ra từ mảnh đất mẹ này như thế
nào, thì trước hết cần phải xác định xem công việc đặc thù, hay như vẫn nói,
chức năng của nhà thơ là ở chỗ nào, sau đó chúng ta mới có thể quan sát và mô
tả những dấu hiệu riêng rẽ của một số quá trình của công việc sáng tạo thơ ca.
Thực chất và
chức năng của nghệ thuật không nên đưa ra từ cách hiểu cao hơn cách hiểu ngày nay
của chúng ta về lý tưởng như là mỹ học lý tưởng đã làm. Đa số các lý thuyết về
thế giới tinh thần được đề ra trong kỷ nguyên của triết học tư biện Đức đều có
thiết sót như nhau. Những gì được hình thành trong những điều kiện đặc biệt
thuận lợi không nên coi là nguyên nhân sinh động của toàn bộ chuỗi các hiện
tượng trong đó cuộc sống nghệ thuật được triển khai. Nghệ thuật có ở khắp mọi
nơi; dù đó là các âm thanh hay là một vật liệu mang tính vật chất hơn thì vẫn
là một cái gì đó không phục vụ trực tiếp cho nhận thức thực tại và không đòi
hỏi phải được thực hiện vào cuộc sống, nhưng tự bản thân nó đáp ứng được hứng
thú của người quan sát. Từ các tấm da hươu hay cá voi mà người Eskimô dùng làm
bao súng, từ những chiếc mặt nạ của những người châu Phi hay các sáng tạo của
Goethe, Raphael đều là cả một không gian của sự sáng tạo muôn hình muôn vẻ đang
được hoàn thiện dần. Nét chung của nó là chính bản thân quá trình tái tạo như
nó có và việc chiêm nghiệm những kết quả của nó đưa lại khoái cảm trực tiếp.
Đặc điểm này khả năng đem lại niềm vui cho các khán giả hay thính giả đều có
thể thấy ở bất kỳ tác phẩm nghệ thuật nào. Nhưng cũng nên biết kiềm chế ý muốn
cho rằng trong cái đặc điểm đơn này là tất cả thực chất của nghệ thuật. Đây là
mối nguy hiểm mà Aristote cũng không tránh khỏi. Cũng phải kiềm chế ý muốn liệt
kê ngay lập tức ở đây tất cả những gì làm cho nghệ thuật phong phú hơn.
Nhà thơ thể hiện
các hình tượng của mình trong các tập hợp từ. Có thể nghĩ rằng cùng thời gian
thực chất của phương tiện biểu đạt này là ngôn ngữ đã thúc đẩy việc chuyển các
đối tượng mô tả cho các loại hình nghệ thuật vốn dễ dàng tái tạo chúng hơn là
ngôn ngữ. Còn dành lại cho ngôn ngữ là những đối tượng phù hợp hơn với nó là
tiếng nói. Nếu thế thì có thể tuyên bố rằng việc mô tả trực tiếp thiên nhiên
hay các cơ thể lý tưởng không phải là công việc của thơ ca vì không có đủ các
phương tiện để làm việc đó, trong khi ở bức tranh hay pho tượng những hình
tượng nhìn được sờ nắm được này có khả năng làm rung động tâm hồn hay làm
“thích mắt” hơn. Đương nhiên sự cạnh tranh giữa các nghệ thuật khác nhau thúc
đẩy một sự phân chia như vậy. Nhưng cái tách biệt thơ ca khỏi các loại hình
nghệ thuật khác và xác định chức năng đặc biệt của nó trong lòng một xã hội
không phải là phương tiện ngôn từ, mà là một nội dung nào đó, tạo nên hạt nhân
của nó.
Phương pháp so
sánh, như vẫn nói, có thể đưa ra những tế bào, những hình thức sống đầu tiên và
đơn giản nhất của thơ ca. Hãy tạm để vấn đề này sang một bên. Ở đây tôi chỉ cố
gắng xác định cái nội dung căn bản, cái hạt nhân của thơ ca có ở mọi hình thức
của nó bắt đầu từ những hình thức đơn giản nhất. Sáng tạo của nhà thơ ở
mọi nơi, mọi lúc được đặt cơ sở trên năng lượng của cảm xúc. Cơ cấu tâm hồn của
nó vốn rất nhạy bén đáp lại tiếng nói của cuộc sống. Tâm hồn của chúng ta luôn
luôn khao khát một sự trọn vẹn và khoảng không thoáng đãng cho tâm hồn của mình
thông qua sự khuếch đại cái tôi thầm kín. Tình cảm sống muốn được rót thành âm
thanh, ngôn từ, hình tượng. Sự chiêm vọng chỉ thỏa mãn được chúng ta hoàn toàn
khi nó tràn đầy mọi nội dung cuộc sống như vậy. Sự đan quyện này, cuộc sống
nguyên thủy hoàn chỉnh, trọn vẹn của chúng ta, cái nhìn tràn đầy tình cảm, sự
tỏa sáng của cảm xúc trở thành những hình tượng lấp lánh – đó là đặc trưng nội dung
căn bản của bất kỳ thứ thơ ca nào. Một cảm xúc như vậy hoàn toàn trở thành sở
hữu của chúng ta chỉ khi nó có mối quan hệ nội tại với các cảm xúc khác và qua
đó mà có được ý nghĩa, không khi nào nên đơn giản hóa nó, quy về tư tưởng hay ý
tưởng. Nhưng bằng con đường suy nghiệm, khái quát hóa, xác lập các mối liên hệ
đặt nó vào cái nền tổng thể của tồn tại người và bằng cách đó hiểu được bản
chất của nó, tức là ý nghĩa của nó. Từ cảm xúc theo như cách hiểu trên xuất
hiện toàn bộ thơ ca. Cảm xúc bao gồm các yếu tố, các hình thức kết hợp của
chúng. Mọi quan sát cuộc sống của nhà thơ đều được điều khiển bởi một tâm trạng
sinh động làm phong phú và định hình sự quan sát này. Nhà thơ tồn tại và hưởng
thụ thú vui tồn tại nhờ sức mạnh tình cảm của mình, nhờ các dao động mạnh mẽ
của niềm vui cũng như nỗi khổ, sự rõ ràng và thuần khiết trong việc cảm nhận
tình huống, hình tượng của sự tồn tại. Chức năng của thơ ca là ở chỗ nó thức
tỉnh, nhân lên trong ta cái sức sống này. Thơ ca luôn luôn sưởi ấm ta bằng cái
năng lượng này của tình yêu cuộc sống trong những phút giây kỳ diệu, cho ta đến
gần với cái nhìn thấu suốt, cho phép ta hưởng niềm vui sống. Trong tồn tại đời
thường, chúng ta luôn vội vã chuyển từ ước muốn sang hưởng thụ, và hạnh phúc
trọn vẹn đến với ta cũng hiếm hoi như các ngày lễ hội. Nhưng nhà thơ xuất hiện
mang lại cho ta một sức mạnh tươi mát và thỏa mãn chúng ta bằng những hình
tượng mà không vương nét bi lụy; nó dạy chúng ta cảm nhận, tận hưởng một thế
giới toàn vẹn trong toàn bộ sự lành mạnh, đầy sinh lực của con người.
Trả lờiXóađặt vé máy bay eva air
giá vé máy bay đi mỹ hãng eva
hang khong korean air
vé máy bay đi mỹ rẻ
mua vé máy bay đi canada
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngau Hung Du Lich
Kien Thuc Du Lich