Xung quanh câu thành ngữ “Mười hai bến nước”
Đỗ Tiến Bảng
Vào
năm 2007, trên báo Văn nghệ có một số bài viết trao đổi về câu
thành ngữ “Mười hai bến nước” (Thế Anh với bài “Về câu thành ngữ mười
hai bến nước” – VN số 21, ngày 26.5.2007; nhiều ý kiến trong “Phận gái
mười hai bến nước” là gì? - VN số 26 ngày 30.6.2007) Những ý kiến còn đó,
chưa có lời kết. Xin được trở lại vấn đề này.
Để
hiểu một câu thành ngữ không phải là chuyện khó, vướng mắc và trở ngại là khi
đi tìm nguồn gốc và ý nghĩa của nó. Cắt nghĩa cho rõ, lý giải cho “thông”, để người
nghe thấy có lý là việc không dễ dàng. Câu thành ngữ “Phận gái mười hai bến
nước” là nằm trong trường hợp như thế. Lại nữa, khi giải thích, phạm vi
luận giải mở rộng sang các khái niệm khác thì ý kiến khác nhau càng tăng lên.
Chúng tôi xin nêu một vài khía cạnh góp bàn.
Trước
hết cần tra xét trong các Từ điển thành ngữ (TĐTN). Tác giả
Thế Anh cho rằng: “Trong nhiều cuốn thành ngữ không thấy các tác giả đưa vào.”
Thực tế không phải như vậy, có đến 3 cuốn TĐTN đã đưa câu thành ngữ này! Các
biến thể và ý nghĩa của “Phận gái mười hai bến nước” của tác giả Quán Vi
Miên (số báo VN 26) nêu khá rõ. Ở Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của
Nguyễn Lân cũng nêu nghĩa tương tự. Các tác giả TĐTN đều thống nhất ý nghĩa
thành ngữ này chỉ thân phận người phụ nữ dưới chế độ cũ không chủ động
được thân phận, bị trôi nổi phụ thuộc vào hoàn cảnh. Điều đáng chú ý là các
biến thể và văn cảnh xuất hiện câu thành ngữ. Đó là câu Phận gái bến
nước mười hai/ Gặp nơi trong đục may ai nấy nhờ (Từ điển thành ngữ
và tục ngữ Việt Nam, Nxb Văn hóa, 1997, tr 624 của Vũ Dung – Vũ Thúy
Anh – Vũ Quang Hào). Sự đảo ngược trật tự “mười hai bến nước” thành “bến nước
mười hai” do áp lực vần trong câu ca dao, nhưng nó lại chỉ ra cấu trúc của cụm
từ này trong câu thành ngữ. “Bến nước” và “Mười hai” có nguồn gốc
và ý nghĩa gì? Bến nước: nghĩa đen là chỉ “ bến sông để thuyền bè đậu…( Từ
điển tiếng Việt), nghĩa bóng là nói nơi neo đậu, bến đỗ trong dòng đời mỗi
con người. Nhưng nghĩa này không phải bàn cãi. Mắc mớ là ở con số “mười hai”.
Tác
giả Quán Vi Miên nêu ý kiến: “ Nghĩa đen (cũng hiểu là nguồn gốc) của câu thành
ngữ : Mười hai bến nước là 12 con giáp hoặc 12 nghề trong xã
hội xưa (ý của Trịnh Quang hoặc của ai đó). Tiếng nói 12 bến nước là nói cho có
vần (Đại Nam quốc âm tự vị Paulus – dẫn theo Thế Anh). Câu thành ngữ này có nội
dung như trong Thập nhị nhân duyên của sách Phật (dẫn theo Thế Anh). Có thể xem
đây là các giả thiết. Chúng tôi nghiêng về giả thiết của Thế Anh, chỉ tiếc là
tác giả không nói gì thêm về Thập nhị nhân duyên. Trường hợp khó chấp nhận khi
nói “12 bến nước là nói về 12 con giáp và 12 nghề” (báo VN số 26, b.đ.d). Các
cách hiểu và giải thích trên ít nhiều còn suy diễn, gán ghép hoặc phiến diện,
chưa nói rõ cơ sở con số 12. Theo chúng tôi, muốn làm rõ một khái niệm cần phải
dựa vào các loại sách công cụ, mà loại sách có độ tin cậy cao; sau đó khảo sát
từ ngữ ấy trong các văn cảnh cụ thể hoặc trong những sinh hoạt xã hội. Cụm từ
“mười hai bến nước” không thấy xuất hiện trong các Từ điển thành ngữ, từ “mười
hai” là số từ không được mô tả trong Từ điển tiếng Việt. Trong Từ điển
biểu tượng văn hóa thế giới (tác giả Jean Chevalier và Alain
Gherbrant, Nxb Đà Nẵng, 1997) nêu: “Mười hai là số để chia thời gian và không
gian. Đây là tích của số bốn phương nhân với ba bình diện của thế giới”, “số 12
tượng trưng cho hoàn vũ trong chu trình vận hành trong không gian và
thời gian”, “người Trung Hoa và các dân tộc ở Trung Á chia thời gian thành
những nhóm chính, mỗi nhóm có 12 năm”, “Tóm lại, số 12 từ xưa tới nay, vẫn là
con số của sự hoàn thành, của một chu kỳ đã hoàn tất” (tr 612- 613 s.đ.d);
“Vòng Hoàng đạo được phân chia theo con số hoàn hảo là số mười hai, ứng với
mười hai chòm sao” (tr 435, s.đ.d).
Những
quan niệm trên có thể gợi ý, chỉ dẫn tìm hiểu về số 12: đây là số chỉ sự hoàn
tất một chu trình vận động trong thời gian – không gian, một con số biểu thị sự
hoàn hảo. Theo cách chia thời gian ở hệ thống “Can”, “Chi” (Kinh dịch) có
10 Thiên can, 12 Địa chi kết hợp; mỗi Địa chi đặt tên theo biểu tượng một loài
vật, dân gian gọi là “12 con Giáp”. Như vậy “12 con Giáp” là một chu kỳ vận
động của thời gian.
Mở
rộng ra, khi nói đến hỗ trợ, nâng đỡ con người có các “vị thần” bản mệnh đó là
“12 Bà Mụ”. “Mười hai bà mụ ghét chi nhau/ Đem cái xuân tình vứt bỏ đâu”
(Quan thị, thơ Hồ Xuân Hương); “Dân gian xưa quan niệm rằng, con
người ta do 12 bà mụ nặn thành khi còn đang hoài thai trong bụng mẹ” (Nguyễn
Đăng Na, “Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam, Nxb GD, 2006, tr
324). Nói cho rõ hơn: muốn tạo ra một con người phải có 12 bà mụ, mỗi bà tạo
một bộ phận cơ thể. Để ghi nhớ công ơn bà mụ người ta cúng “đầy cữ”. Đầy “cữ”
không phải đầy tháng, “cữ” được tính theo ngày tuổi của con trai con gái. Con
trai có 7 vía, con gái 9 vía; nên 7 ngày cúng mụ cho con trai, 9 ngày cúng mụ
cho con gái. Tác giả Lê Tuấn (VN số 26 bài đ.d) cho rằng: “12 bến nước chỉ là
câu nói văn vẻ chỉ về 12 bà mụ”, tác giả còn gắn 12 bà mụ với 12 loại hình của
con người (theo triết học Bát Nhã của nhà Phật). Điều này chưa có cơ sở nên
chưa bàn ở đây. Chỉ có điều khi kể trong các bộ phận của con người, thường nói
“lục phủ, ngũ tạng” (lục phủ: bàng quang, tam tiêu, vị, đảm, đại trường,
tiểu trường; ngũ tạng: thận, phế, tâm, tỳ, can) nhưng theo Hải
Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác phải tính là “lục tạng”: “ riêng thận có hai tạng
thủy và hỏa, cho nên nói là có sáu tạng phối hợp với sáu phủ” (Hải Thượng y
tông tâm lĩnh, tập I, Nxb Y học, 1991, tr 28). Nghĩa là con người đủ 12 tạng,
phủ.
Trong
truyện thơ Vượt biển (Khảm hải) của dân tộc Tày, Nùng kể lại
cuộc đời khổ ải của một Sa dạ sa đồng (người sống cùng khổ
trong kiếp người, sang kiếp ma lại làm thân nô dịch, bơ vơ không nơi nương
tựa). Ở kiếp ma nơi âm phủ phải chèo thuyền qua 12 rán nước (rán: đơn vị
đo chiều dài mặt nước ở một số vùng miền núi, mỗi rán nước có những gềnh thác,
vực sâu nguy hiểm, đe dọa tính mạng người chèo thuyền). Như vậy ở các dân tộc
ít người cũng có chung quan niệm về số 12: một chu trình khổ ải cả kiếp nạn sau
khi chết.
Trong
một số lễ hội cũng có qui định về số 12. Nghi thức lễ hội ở làng Yên Lộ (Yên
Nghĩa, Hoài Đức, Hà Tây cũ) quy định mua sắm đồ mã, chuẩn bị lễ vật có 12 chiếc
lồng sông, 12 đồng bánh thủy, 12 tấm mía ba chỉ. Lễ hội làng Cầu Đơ (Thị xã Hà
Đông, Hà Tây cũ) trong Đại tế yến phải tế “Thập nhị bái”, có 12 cô gái dâng lễ
ngũ quả, 12 cô gái cầm cờ ngũ hành trong đoàn rước. Múa rối nước làng Gia
(Thạch Thất, Hà Tây cũ), tiết mục đua ngựa có 12 con (xem Tục tắt đèn
đêm hội giã La, Yên Giang; Nxb Thế giới, 2007)
Liệu
“Câu thành ngữ có nội dung như trong Thập nhị nhân duyên của sách Phật” không?
Tác giả Thế Anh không nói gì về nội dung này. Theo trình bày của “Nhà đạo học”
GS Cao Xuân Huy, Thập nhị nhân duyên là phương pháp tu tiểu thừa” “Duyên là
nguyên nhân, là duyên do. Có 12 nhân duyên gắn bó mắt xích với nhau sinh ra cái
khổ của con người, đó là chuỗi dây chuyền nhân quả”; tên gọi 12 nhân duyên bao
gồm: Vô minh, Hành, Thành, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thụ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh,
Lão, Tử (Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu, Nxb Văn
học, 1995, tr 578-579). Về tên gọi và nội dung nhân duyên thứ ba “Thành”, trong Từ
điển Phật học không phải là “Thành” mà là “Tâm thức”( hoặc “kết sinh
thức”) (Nxb KHXH, 1991, tr 426-427). Đây là nội dung không cần đi sâu, cái
chính mười hai nhân duyên là một quá trình diễn tiến nhân quả, sinh ra cái khổ.
Không thể nói “câu này (thành ngữ “Phận gái…”) có nội dung như câu Thập nhị
nhân duyên trong sách Phật” như tác giả bài báo (VN 21)
Ý
nghĩa Mười hai bến nước
Mười
hai bến nước không phải là số đếm đơn thuần về một địa điểm, đó là một quá
trình đi qua không gian và thời gian của một cuộc đời với nhiều gian nan vất
vả. Có điều, người phụ nữ trong xã hội cũ, nhất là phụ nữ thường dân dễ phải
chịu thân phận trôi nổi lênh đênh trong hôn nhân gia đình. Nhà thơ Nguyễn Bính
có tập thơ Mười hai bến nước, mang tên bài thơ trong tập, bài thơ
là tâm trạng chia xa của một người đang tưởng nhớ người yêu nơi chân trời góc
bể. Bài thơ dài có cái tên 14 chữ “Bao nhiêu đau khổ của trần gian trời
đã dành riêng để tặng nàng” bộc bạch nhớ thương, hồi tưởng: “Năm ấy
sang sông lỡ chuyến đò/ Đò đầy gió lớn sóng sông to/ Mười hai bến nước xa lăng
lắc/ …”, “Tôi tiễn mình trên bến nước này/…”( Thơ mới 1932-1945,
Nxb Hội Nhà văn, 1999, tr 391)
Vậy
có thể hiểu: Mười hai bến nước chỉ tất cả những nguy
nan trắc trở trong cuộc phiêu lưu vô định mà con người không làm chủ được số
phận, phải chịu đựng, trải qua.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét