Cảm nghĩ về ca khúc Trịnh Công Sơn
Từ lâu lắm Trịnh Công Sơn được giới ái mộ trao tặng danh hiệu là kẻ du ca về tình yêu, quê hương và thân phận.
Anh lớn lên bằng tuổi chiến tranh đứt rồi lại nối, chiến tranh dai
dẳng và cùng khắp đến nỗi đứng ở tọa độ nào trên đất nước cũng thấy và sống
chiến tranh, từ đó người chiến sĩ dấn thân tự đề ra cách thế sống và hành động
phù hợp với sở nguyện mà vẫn đạt hiệu quả mong muốn. Thế đứng trước nay ở miền
Nam của anh, tối thiểu, không hại cho uy tín và sự nghiệp của anh. Lịch sử đất
nước lật hẳn sang một chương khác, trước sau anh vẫn an nhiên ("Ðôi khi
một người dường như chờ đợi thật ra đang ngồi thảnh thơi.", Tự tình khúc
hay ít nhất anh giữ an nhiên cho nghệ thuật của mình. Anh đi vào nhạc, anh bước
xuống đường, y như người ta hít thở. Và nói như thế, không có nghĩa anh phó mặc
đời, mà có nghĩa là anh gieo trồng vào những luống đã tự đào sẵn, không phải
ngoái lui, không cần xóa đi làm lại. Nay nhạc và lời của anh, nếu có chuyển đổi
chẳng qua vì tâm hồn đến tuổi đổi mùa. Cần nói thêm rằng cái an nhiên là món
quà lưu chủ của đời, sau khi khổ chủ đã hoàn trả cho người - người tình, người
bạn, người đời - những hơn thua, ngộ nhận, thị phi.
Nhạc của Trịnh Công Sơn không tuyền là nhạc, bài hát không chỉ là
bài hát. Mỗi bài là một truyện ngắn, mỗi ca khúc là một chương khúc của truyện
dài không có kết thúc, vẫn mở ra như một vết thương, một vết thương người, một
vết thương thời đại, vết thương thiết thân, phải cưu mang và lưu truyền.
Nhưng không có đoạn truyện nào kết thúc có hậu như trong truyện cổ
tích, mà ngược lại đó là những loại Tình Sầu, Tình Xa, Tình Vơi. Không còn là
cái đẹp của đối xứng, vuông tròn, thủy chung. Bởi cùng nhau tắm gội trong biển
bấp bênh của thời đại, con người xót xa khám phá ra cái đẹp chông chênh, cái ma
lực của chén đắng. Ðời dành riêng cho kẻ nào đã lên tới đỉnh buồn và xuống tới
vực thẳm, một đôi mắt bên trong để nhìn ra những vẻ đẹp của mặt đất, của nghịch
lý khiến cho y nhận chân cái tất yếu của cô đơn, cái hào quang của thất bại,
cái quyến rũ của triền dốc. Con người sinh ra là đã thua cuộc, vấn đề còn lại
của con người, vấn đề hoàn toàn nguyên vẹn, là khoác lên sự thua cuộc ấy một
gương mặt người do từng cá nhân đắp dập lấy. Theo chiều hướng này, ta sẽ mục
kích hàng hiên phô bày toàn chân dung lập thể: hoặc thiếu mắt thừa môi, hoặc mặt
lật vào trong mà dạ để ra ngoài.
Nguồn cảm hứng khơi mạch từ đó, rất dễ rơi vào chỗ sướt mướt, ê
chề, rất dễ đưa tới trạng thái buông thả, quy hàng... là những gì nhiều người
từng quy nạp cho ca khúc Trịnh Công Sơn. Ðành rằng vài tình cảm ấy không hoàn toàn
vắng bóng, và đậm nhạt khác nhau từng nơi, từng lúc, nhưng nghiễm nhiên được
biến chế, vượt qua, đủ để ta nhận ra đó không còn là những tình cảm hoàn cảnh
mà là những tình cảm bản chất cần được khẳng định và hóa kiếp thành đức tin,
động lực phản kháng những giới hạn của con người. Không những thế mà thôi, ta
phải nhặt nhạnh những tàn phai, tóc trắng, tan tành theo giọt mưa, hạt bụi, lăn
lóc như hòn cuội, không ngạc nhiên trước những tráo trở, lật lọng, chấp nhận
gươm giáo, nọc độc, gọt tỉa màu mun của đêm, vốc bùn sóng sánh, phải nâng niu
những vết thương cùng nét xanh xao, hao gầy, cám ơn những mối tình tơi tả, phải
thương yêu nỗi chết... dung nạp tất cả vào lòng và bện thành tấm áo giáp, thứ
áo giáp mặc trong.
Trịnh Công Sơn là người khát sống. Anh muốn sống nhiều nơi cùng
một lúc, ngồi nơi này, nhớ nơi kia, muốn sống gấp đôi sợ không đủ thì giờ, lắm
lúc không phân biệt ngày với đêm. Anh thích những chuyến tàu xuyên suốt, những
chuyến xe đỗ rồi lại đi, anh thích rút ngắn không gian giữa rừng với biển, giữa
đó anh tha hồ sống với ghềnh, bãi, lũng sâu và núi, tháp, cánh đồng, anh muốn
rút ngắn thời gian giữa lạ với quen và xua tan những cánh dơi thù nghịch.
Hình ảnh phố phô mình phân rãi trong ca khúc anh: phố xưa (Khói
trời mênh mông),phố hẹn (Khói trời mênh mông), phố xôn xao (Yêu dấu tan theo),
phố rộng (Tưởng rằng đã quên), phố thênh thang (Quỳnh hương), phố cao nguyên
(Lời thiên thu gọi), phố nọ (Ðêm thấy ta là thác đổ), phố xa lạ (Bên đời hiu
quạnh)... Phố như là nơi triển lãm của sự sống, một đại hội đời, một nơi tập cư
đủ mẫu người, một bãi thí nghiệm bao thế thái nhân tình làm thỏa lòng con người
nào muốn sưu tập con người. Do những hình ảnh phố xá như thế này, có người bảo:
Trịnh Công Sơn thích lui tới những nơi đô hội. Ðiều này đúng một phần, bởi lẽ:
anh thích những nơi có bóng dáng con người, anh thèm tiếng người hơn là cõi
vắng lặng, nhưng điều cần nói thêm, là: anh ước mơ hình ảnh xã hội được đô hội
hóa chứ không phải là sa mạc hóa, và được đô hội hóa thường trực, sao cho ngày
ngày hàng cây thắplễ lạc trên tầng lá xanh, lễ lạc trên từng nẻo đường, khắp
mọi nhà và trong mỗi con tim.
Trí óc và cảm xúc của Trịnh Công Sơn phù hợp với tổng hợp hơn là
phân tích, nghiêng về kết hợp hơn là phân chia. Hình ảnh chiếc cầu đối với anh
là một lời mời gọi cất bước sang bên kia, đồng thời chuyển biến bên kia thành
bên này và ngược lại. Băng qua cầu là để sống với bên kia và nhớ bên này. Trong
nỗi sống đã tượng hình nỗi nhớ. Người đi trên cầu không những nhìn ôm cả hai
phía mà có thể nhìn cút bắt với những khuỷu sông thấp thoáng ẩn hiện, cấu tạo
dần dần trong tâm khảm cái dự cảm lìa xa, mất mát.
Tình yêu. Quê hương. Thân phận. Làm sao nói về những vấn đề này
bằng lời hát và chuyên chở bằng nhạc, những ưu tư thường trực của mọi người và
được mọi người ít nhiều nói đến ? Trịnh Công Sơn có cách nói riêng, bằng lời và
bằng nhạc. Lời tách riêng, đó là những đoạn thơ hoặc là truyện thơ tâm sự về
giọt mưa, giọt nắng, về một vùng biển đầy ắp sự vắng mặt... Nhạc tách riêng có
khi nhún nhảy như loại đồng dao hay thanh bình ca, có khi lại rất thích hợp với
ánh đèn màu và khói thuốc của vũ trường, cũng có khi dòng nhạc Trịnh Công Sơn
gần gũi với thánh ca thanh thoát...
Nhiều nhạc sĩ viết về tình yêu và quê hương.
Tình yêu, với Trịnh Công Sơn, là diễm tình. Trước hết là phải đẹp,
đẹp trong từng lời bội bạc, bước chân quay gót, trong dang dở và tan vỡ. Sẽ
không có mối tình rách rưới hay nhầy nhụa, sẽ không có mối tình than khóc lâm
ly, sẽ không có luôn cả đau khổ, hoặc nếu có chăng nữa thì đó là một nỗi đau
khổ đã đành, dành sẵn, và cần được siêu sắc nuôi dưỡng cái giống nòi tình. Cái
đẹp ở đây là cái đẹp siêu thực, tức là ít nhiều nhuốm màu sắc ý chí của kẻ chủ
trương và đồng thời nhạt bớt hương vị của thường tình. Tình yêu lên ngôi. Một
đỉnh chiêm ngưỡng đúng hơn là một điểm hẹn. Ðối tượng tình yêu trở thành ý
niệm. Trịnh Công Sơn nguyện làm kẻ hái lộc chứ không phải hái trái. Lộc nõn và
luôn cả lộc xoang ngọn tố trở trời. Tình yêu được thăng hoa để trở thành điểm
ngắm. Nó vượt qua cái riêng tư, vị kỷ. Như Ðức Giáo hoàng của "ái tình
giáo", người nghệ sĩ lớn tiếng hô hào mọi người "Hãy yêu nhau
đi". Ðây là lời thần chú mở cửa địa đàng. Ðây mới thật là tình yêu cứu
rỗi. Yêu trong một tình yêu rộng lớn, chung cùng. Như mỗi giai điệu trong đại
hợp tấu. Yêu nghĩa là tỏa sáng. Phần nào giống như thủ pháp nhuộm mây nẩy trăng
theo cách gọi của Thánh Thán (Vẽ mây đẹp để làm nổi trăng), Trịnh Công Sơn ca
ngợi tình yêu bằng cách vẽ ra vùng ảnh hưởng của tình yêu qua giọt nắng thủy
tinh, cây cầu, hạt mưa, hàng cây chụm đầu vào nhau... Khi vẽ ra áo xưa lồng
lộng chẳng hạn, tác giả không vẽ vạt áo, mà vẽ kỷ niệm, vẽ không khí và hơi hám
của áo.
Ðó là những khối tình nở ra trong khói lửa, như những cánh hoa
xương rồng giữa khô cằn gai góc. Bóng đen chiến tranh càng làm cho tình yêu
thêm phần gấp gãy.
Quê hương nổi bật ở hai nét lớn: nghèo và chiến tranh. Cái nghèo
của quê hương thì có lắm truyện để nói, để tả, để mủi lòng. Cái nghèo còn là
hậu quả của chiến tranh. Dứt chiến tranh là cứu giải cái nghèo. Và chiến tranh
diễn ra không phải ở chiến trường, không phải do những người cầm súng, nó diễn
ra ở bàn tròn, ở trong đầu óc những con người mua bán chiến tranh. Những bài
hát trong hai tập Ca khúc da vàng và Kinh Việt Nam, cũng theo phép nhuộm mây
nẩy trăng như có nói ở trên, nhưng ở đây được trưng dụng những màu sắc hoàn
toàn điên đảo, không nhằm miêu tả hay tường thuật chiến tranh, mà vẽ ra những
phóng xạ của chiến tranh. Do đó, đến khi chiến tranh kết liễu, nhạc anh vẫn tồn
tại, vì nó vẫn còn công lực cảnh giác. Hình ảnh người nô lệ da vàng, vốn làm
phật ý những người quốc gia chủ nghĩa, là một lối cưỡng từ đoạt ý rất kiến hiệu
trong việc thiết lập đối thoại ban đầu. Ðây là một bước lùi giữa hai bước tiến,
gần như phương sách tự chuốt nhục của con người muốn đối phó với tình hình đất
nước nguy kịch đến độ chiến tranh không đủ để tiêu diệt chiến tranh, vũ lực
không đủ để tiêu diệt vũ lực, mà trớ trêu thay phải có nghệ thuật hỗ trợ và
nhất thiết là nghệ thuật trong nghệ thuật. Lập trường như thế này dễ hứng lấy
búa rìu dư luận. Ngay giữa chiến tranh, anh đã vẽ ra thời buổi sau chiến tranh
mà con người có quyền hưởng thụ và có nghĩa vụ tô bồi. Những dự phóng này nảy
nở trên nền tảng làm bằng những ám ảnh mất mát, cái bấp bênh của những gì hiện
có, nỗi bất lực không yêu được bội phần.
Giữa một nền trời như vậy, thân phận của con người là một vấn nạn.
Ta nên nói ngay: đây là một chủ đề tư tưởng, nếu không muốn nói là triết lý.
Chủ đề được đề cập, phân tích, lý giải từ Ðông sang Tây, nhưng là do những nhà
tư tưởng, triết gia và những nhà viết văn xuôi đề xướng.
Giữa cõi vô thường, bị thường trực kềm kẹp bằng một nỗi khó sống,
người nghệ sĩ trong những phút xuất thần tự đồng hóa với các vật thể vạn thù
trong đời sống: có khi ta là mục đồng, là lá cỏ, cơn gió, có khi là giọt mưa
tan giữa trời, là hòn cuội, con sâu. Nhưng trong khi cỏ suốt đời là cỏ, cuội
trọn kiếp là cuội, thì con người mỗi phút mỗi chực vong thân.
Trịnh Công Sơn chắp cánh cho tưởng tượng, và tưởng tượng len lỏi
vào các hốc hẻm của đời sống, khiến cho anh sờ mó đến sự vật nào là sự vật ấy
dường như bớt thật và trở nên lung linh bằng một quầng mộng ảo. Cho nên anh đi
trước người khác một bước: ngạc nhiên trước người khác, mừng reo hay tư lự cũng
trước người khác. Cái "có" đang nằm trong tay, anh đã sống với cái
"mất" nó rồi. Ðóa hoa nào đi qua lòng anh cũng trở thành đẹp hơn vẻ
đẹp thật và đóa hoa đương dộ lại nhuốm vẻ não lòng của héo úa.
Sự sống bước giật lùi mỗi phút giây như hình ảnh cuốn chiếu. Trịnh
Công Sơn quả quyết Chỉ có ta trong một đời và dứt khoát chọn lựa: Sống. Sống
hết mình. Không khất hẹn, không chờ đợi, không ủy quyền. Anh vâng theo cái mệnh
lệnh "Hãy tận hưởng ngày hôm nay" của thi sĩ Horace mà cố cách vặn
lùi thời gian, sống chong chóng, thu rút giấc ngủ, thót người trước cảnh Thành
phố ngủ trưa (Ðêm thấy ta là thác đổ), xem giấc ngủ như là một cái dợm chết:
Hôm nay thức dậy, ôi ngẩn ngơ tôi (Xa dấu mặt trời), tự ru mình bằng cách Mỗi
ngày tôi chọn một niềm vui và rêu rao cuộc đời đáng sống.
Phải ôm cho hết cuộc đời nhị nguyên cồm cộm này, bao gồm những cặp
phạm trù khó dung nạp nhau nhưng khó thể phân ly: sống chết (chết từng ngày
sống từng ngày, Buồn vui phút giây), buồn vui (Buồn vui kia là một, Nguyệt ca),
hạnh phúc khổ đau (Hãy trao cho nhau hạnh phúc lẫn thương đau, Hãy yêu nhau
đi), tình yêu mật ngọt mật đắng (Lặng lẽ nơi này)... cái mặt phải trái của sự
vật sao mà cận kề nhau đến thế, như đêm ngày, nhật nguyệt, như sum họp với chia
phôi. Khổ cho kẻ nào chủ phân biệt !
Phải quên đi những ám ảnh của tuổi tác (Chập chờn lau trắng trong
tay, Chiếc lá thu phai) và chuẩn bị tinh thần cho cái phút sau rốt của đời
người:
... một trăm năm sau mãi ngủ yên (Sẽ còn ai)
... mai kia chào cuộc đời (Những con mắt trần gian)
... một hôm buồn lên núi nằm xuống (Tự tình khúc)
... một lần nằm mơ thấy tôi qua đời (Bên đời hiu quạnh).
... mai kia chào cuộc đời (Những con mắt trần gian)
... một hôm buồn lên núi nằm xuống (Tự tình khúc)
... một lần nằm mơ thấy tôi qua đời (Bên đời hiu quạnh).
Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ đầu tiên viết về thân phận con người. Ðể
phục vụ mục tiêu ấy anh đã sai sử lời, nhạc và tư tưởng kết hợp thành một thể
thống nhất và đã thành đạt trong công cuộc thể nghiệm một dòng nhạc vốn không
dễ nhập cảnh vào lòng quần chúng trong buổi đầu. Có thể nói anh đã khẳng định
thân phận bằng thơ và bằng nhạc: đây là sự đóng đinh màu hồng cho con người
thời đại.
Cùng một trật, ta còn chứng kiến một công cuộc thể nghiệm của
tiếng Việt trên những chặng đường mới của ngôn ngữ với những kết hợp từ ngữ tài
hoa, những góc độ thu hình lạ lẫm, những tri giác dày dặn nhiều tầng, đồng thời
làm sáng giá những sự vật thông thường và tầm thường, khả năng tưởng tượng bay
bổng.
Cuối những năm 50 và đầu những năm 60, xuất hiện một số ca khúc
với nhan đề lạ tai, như Lời buồn thánh, Diễm xưa, Tuổi đá buồn, Vết lăn trầm,
Biển nhớ, Dấu chân địa đàng... Ðó là những cửa ngõ vào khu vườn siêu thực đang
rộ lên những sắc hoa tươi mới trong thời kỳ ấy: loài sâu ngủ quên trong tóc
chiều... thương cho người rồi lạnh lùng riêng... tiếng hát ru mình trong giấc
ngủ vừa... hôm nay thức dậy không còn thấy loài người... hãy nghe đời
nghiêng... chiều đã đi vào vườn mắt em... ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau...
Người nhạc sĩ này đặc biệt sâu nặng với những tính từ: đời
bồng bềnh, môi rồ dại, bóng lung linh, tiếng hát lênh đênh, một vòng tiều tụy,
bờ cỏ non mộng mị, phố xá thênh thang, mắt xanh xao, hồn xanh buốt, đêm thần
thoại, cành bão bùng... Những hình dung từ này cùng chung một thể thái, hay
còn gọi là đồng vị (isotopie) và trở đi trở lại hơn một lần qua bài hát. Trong
số này, có tần số xuất hiện cao nhất là: "mong manh" (tình mong
manh, gió mong manh, cỏ lá mong manh, sống chết mong manh, tay gối mong manh,
nụ cười mong manh...) như thể là một ám ảnh lớn trong vũ trụ quan và nhân
sinh quan của nhạc sĩ.
Lời trong ca khúc Trịnh Công Sơn đã tạo ra tên tuổi Trịnh Công
Sơn. Lời ở đây, như đã nói, là truyện thơ, là hình ảnh siêu thực, nét chấm phá,
những hoa gấm cho sóng nhạc và có những giây lát cao độ, lời được đặc cách hóa
kiếp thành kinh. Kinh là những lời ước nguyện nhằm chuyển hóa thực tại. Kinh là
tinh túy của lời được kinh qua sản xuất, lặp đi lặp lại để cuối cùng kết tinh dưới
hình thức đơn khiết, cô đọng. Trong ca khúc Trịnh Công Sơn, ta nhận ra người mẹ
cầu kinh gởi gắm cho một Ðấng Vô Hình, Siêu Nhiên nào chăng ? Không, đây là một
loại kinh do chính mình phát nguyện, dóng tiếng và gởi gắm lại cầu nguyện cho
con ở chiến trường có nghĩa là cầu nguyện cho mình có đủ sức mạnh đối phó với
tình huống bất trắc, và sức mạnh ấy phát sinh từ ngọn đèn thắp thì mờ giữa đêm
khuya, chẳng hạn; thiếu nữ cầu nguyện cho mối tình của mình ở bờ sông và lời
kinh này sẽ làm bằng im lặng, gió trời và kỷ niệm.
Trên đây là một số cảm nghĩ về ca khúc Trịnh Công Sơn, những cảm
nghĩ vụn rời, thiếu thừa không rõ, vừa chắp nối vào những bài viết khác, vừa
gợi mở những bài viết về sau chung quanh đề tài này. Một đề tài tát không cạn.
Bửu Ý
hãng bay eva
vé máy bay từ mỹ đi việt nam
korean air vn
đại lý vé máy bay đi mỹ
mua vé máy bay đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Du Lich Tu Tuc
Kien Thuc Du Lich