Văn Quang
"Có những đêm về sáng
Đời sao buồn chi lắm cố nhân ơi!"
Đó là nhạc Đoàn Chuẩn. Nhạc của ông thường vẳng
lên trong tâm tưởng tôi suốt 12 năm giữa những núi rừng miền Bắc giá buốt và miền
Nam hiu quạnh. Không còn là nỗi nhớ, không còn là những tiếc nuối mà là nỗi u uất,
thăm thẳm mịt mờ. Còn gì bi thảm hơn những đêm về sáng, nằm một mình giữa rừng
núi hoang dại và mình cũng dại dột nhìn về dĩ vãng. Tuy thế, nhìn về dĩ vãng vẫn
hơn là nhìn về tương lai chẳng có gì, chẳng còn gì, cũng thăm thẳm mịt mờ như
núi rừng đêm nay và tất cả mọi đêm.
Nỗi ao ước âm thầm: Ước gì được nghe trọn vẹn một
bản nhạc của Đoàn Chuẩn! Đau xót mà nghe, càng nghe càng thấm, nghe bao nhiêu
đau bấy nhiêu, như người ta muốn khóc thật to để vơi được phần nào những buồn
khổ. Nhưng làm sao nghe được trong hoàn cảnh đó. Cho nên nó cứ vương vất nghẹn
nỗi đau làm sao. Chỉ trong hai câu trong bản nhạc đó thôi, hình ảnh của người
yêu, của bạn bè bật dậy, cả một quãng đời hiện lên mơ hồ, quằn quại như điệu
múa từ tiền kiếp, không bao giờ gặp lại. Hôm nay thì tôi ngồi nghe lại cả một
cuốn CD nhạc Đoàn Chuẩn khi nghe tin anh mất. Từ Hà Nội một người bạn tôi điện
thoại cho biết tin này đầu tiên, trước khi những tờ báo ở Sài Gòn loan đôi dòng
về tin buồn này. Người bạn tôi đã có từng có thời gian ở Hải Phòng vào những
năm 1952-1953 và cũng đã có một số kỷ niệm với anh Đoàn Chuẩn. Tôi cũng có một
vài kỷ niệm nhưng là rất nhỏ, trước hết là nó nhỏ với một nghệ sĩ lớn tuổi như
Đoàn Chuẩn, có lẽ đến sau này anh chẳng còn nhớ tôi là "thằng nhóc"
nào. Bởi anh hơn tôi đến gần 10 tuổi. (Anh sinh ngày 15-6-1924, tôi sinh năm
1933). Tuổi 19-20 với tuổi 30 khác nhau nhiều lắm. Còn hơn thế, hồi đó anh đã
là một nghệ sĩ có tên tuổi, còn tôi chỉ là một anh "nhí", đang là một
"mầm non văn nghệ".
Đoàn Chuẩn và nhóm văn nghệ Hoa Niên. Nhóm Văn nghệ
Hoa Niên của Hải Phòng thành hình vào khoảng năm 1952 do họa sĩ Trọng Thường
thành lập. Thời kỳ của những thành phố mới hồi sinh sau giai đọan đầu của kháng
chiến chống Pháp. Cả thành phố Cảng của miền Bắc dường như chỉ có một nhóm văn
nghệ duy nhất đó thôi. Người trưởng thành nhất là họa sĩ Trọng Thường, anh đã từng
tham gia trong một vài đoàn văn công kháng chiến rồi trở về "thành",
hồi ấy người ta gọi là "dinh tê". Nhóm văn nghệ gồm khoảng chừng trên
10 người, những ca sĩ hạng nhất như Ngọc Quang, Tường Vi và những ca nhạc sĩ mới
ra lò như Hoài An, Huyền Linh, Phó Quốc Thăng, Thu Huyền, Lương Thảo, Trần Hải...
Sở dĩ tôi được gia nhập nhóm này vào cái tuổi 19-20 vì thỉnh thoảng đi chơi với
Lương Thảo, Trần Hải và cũng đã có vài bài viết lách trên mấy tờ báo ở tận Hà Nội
như Cải Tạo, Tia Sáng. Thời đó, Hải Phòng chưa hề có một tờ báo nào. Vì thế
nhóm văn nghệ "tài tử" này được dư luận chú ý.
Khoảng giữa năm 1952, chúng tôi chuẩn bị tổ chức một
buổi trình diễn thi ca nhạc kịch tại nhà hát lớn thành phố. Một tờ chương trình
được in rất xôm, bài thơ của tôi đã "được đăng" trên nhật báo Tia
Sáng cũng xuất hiện trên trang 2 của tờ chương trình này. Trước buổi trình diễn
thi ca nhạc kịch chừng một tuần lễ, anh Đoàn Chuẩn đến thăm. Trụ sở của chúng
tôi là căn nhà ngoài của anh em ca sĩ Ngọc Quang, trên con đường nhỏ gọi là Ngõ
Nghè. Anh Đoàn Chuẩn lúc đó đã đạo mạo lắm rồi. Dáng người khỏe mạnh, bảnh bao
nhưng rất hiền lành. Anh hỏi thăm về đêm trình diễn và dĩ nhiên anh Trọng Thường
không bỏ qua dịp may mời anh Đoàn Chuẩn trình diễn một bản guitare Hawaiennne vốn
là thứ đàn mà anh Đoàn Chuẩn rất thành thạo. Anh nhã nhặn từ chối lấy cớ bận đi
Hà Nội. Anh chỉ hứa sẵn sàng cho mượn một cái magnétophone để thu lại toàn bộ
chương trình hôm đó. Vào thời này có được cái máy như thế không phải là chuyện
nhỏ. Không những phải là con nhà giàu mà còn phải là tay biết chơi mới gửi mua
thứ này tận bên Tây. Nhưng rồi đến đêm trình diễn, chuyên viên thu thanh đã làm
cháy cái máy ghi âm đó của anh. Công tử của thành phố Cảng. Cũng vì chuyện này
mà sau đó vài tuần tôi còn được gặp lại anh Đoàn Chuẩn.
Anh hỏi thăm anh Trọng Thường để lấy lại chiếc magnétophone. Anh Đoàn Chuẩn cho tôi leo lên chiếc xe hơi, đó là chiếc xe Buick kềnh càng, láng coóng. Hồi đó cả miền Bắc chỉ có hai chiếc xe Buick nên anh Đoàn Chuẩn rất tự hào về điều này. Nếu không có vụ này chắc chẳng bao giờ tôi được ngồi trên chiếc xe đó. Tôi đưa anh đến nhà anh Trọng Thường ở phố Cầu Đất lấy lại chiếc máy dù nó đã bị cháy. Anh nhận lại máy mà không hề phàn nàn một tiếng. Tôi lo ngại theo dõi từng thái độ của anh và tôi lễ phép nói: "Cả nhóm lo lắm, anh Trọng Thường rất ân hận, phải trốn anh đấy. Không biết lấy gì mà đền anh đây". Anh lắc đầu: "Anh sẽ gửi đi sửa, có ai muốn làm cháy đâu." Tôi kính phục cử chỉ đó của anh. Hồi đó anh được tiếng là công tử thành phố cảng. Một thành phố có hoa phượng đỏ trên cao, có lá me bay vàng đường và có những tàn lá bàng che rợp những mái hiên, nhưng không có những hàng sấu như Hà Nội. Gia đình anh nổi tiếng, hầu như khắp thành phố này không ai không biết tên. Hãng nước mắm Vạn Vân không chỉ nổi tiếng ở Việt Nam mà là ở cả Đông Dương. Nhà anh gồm bốn năm gian rộng trên đường vào Chợ Sắt. Thỉnh thoảng có dịp đi qua trước cửa nhà anh tôi thường lén nhìn vào, cũng chẳng biết để làm gì. Trong óc tưởng tượng của tôi, đôi khi tôi nghĩ đến một ngày nào đó sẽ được thấy chị Đoàn Chuẩn. Qua những bản nhạc của anh, qua cung cách sống của anh, tôi hình dung ra một thiếu phụ rất hiền rất đẹp, da trắng như trứng gà bóc, vận chiếc áo dài bằng nhung xanh (màu xanh vốn là màu của Đoàn Chuẩn), cổ đeo chiếc kiềng vàng, chân đi đôi hài thêu, đầu vấn tóc trần, có đôi mắt bồ câu đen lánh...
Anh hỏi thăm anh Trọng Thường để lấy lại chiếc magnétophone. Anh Đoàn Chuẩn cho tôi leo lên chiếc xe hơi, đó là chiếc xe Buick kềnh càng, láng coóng. Hồi đó cả miền Bắc chỉ có hai chiếc xe Buick nên anh Đoàn Chuẩn rất tự hào về điều này. Nếu không có vụ này chắc chẳng bao giờ tôi được ngồi trên chiếc xe đó. Tôi đưa anh đến nhà anh Trọng Thường ở phố Cầu Đất lấy lại chiếc máy dù nó đã bị cháy. Anh nhận lại máy mà không hề phàn nàn một tiếng. Tôi lo ngại theo dõi từng thái độ của anh và tôi lễ phép nói: "Cả nhóm lo lắm, anh Trọng Thường rất ân hận, phải trốn anh đấy. Không biết lấy gì mà đền anh đây". Anh lắc đầu: "Anh sẽ gửi đi sửa, có ai muốn làm cháy đâu." Tôi kính phục cử chỉ đó của anh. Hồi đó anh được tiếng là công tử thành phố cảng. Một thành phố có hoa phượng đỏ trên cao, có lá me bay vàng đường và có những tàn lá bàng che rợp những mái hiên, nhưng không có những hàng sấu như Hà Nội. Gia đình anh nổi tiếng, hầu như khắp thành phố này không ai không biết tên. Hãng nước mắm Vạn Vân không chỉ nổi tiếng ở Việt Nam mà là ở cả Đông Dương. Nhà anh gồm bốn năm gian rộng trên đường vào Chợ Sắt. Thỉnh thoảng có dịp đi qua trước cửa nhà anh tôi thường lén nhìn vào, cũng chẳng biết để làm gì. Trong óc tưởng tượng của tôi, đôi khi tôi nghĩ đến một ngày nào đó sẽ được thấy chị Đoàn Chuẩn. Qua những bản nhạc của anh, qua cung cách sống của anh, tôi hình dung ra một thiếu phụ rất hiền rất đẹp, da trắng như trứng gà bóc, vận chiếc áo dài bằng nhung xanh (màu xanh vốn là màu của Đoàn Chuẩn), cổ đeo chiếc kiềng vàng, chân đi đôi hài thêu, đầu vấn tóc trần, có đôi mắt bồ câu đen lánh...
Nhưng quả là tôi chưa thấy bao giờ, cho nên đến
nay hình ảnh ấy vẫn còn nguyên vẹn trong tôi. Sau năm 1954, anh ở lại miền Bắc,
tôi ở miền Nam. Tôi có nhiều dịp để tìm hiểu về anh và những nghệ sĩ còn ở lại
miền Bắc. Nhưng về anh thì tuyệt vô âm tín. Những nghệ sĩ như Văn Cao, Tô Vũ
còn thấy sáng tác, còn tham gia hoạt động ở một số cơ quan. Song Đoàn Chuẩn thì
vẫn yên lặng. Thỉnh thoảng nghe lại những bản nhạc của anh, tôi thực sự thấy
lòng nao nao. Gửi gió cho mây ngàn bay, Thu quyến rũ, Tà áo xanh, Tình nghệ
sĩ... đều là những tác phẩm bất hủ. Những phòng trà ca nhạc, vũ trường thời đó
hầu như đêm nào người ta cũng được nghe những bản nhạc Đoàn Chuẩn, lên ngôi nhất
là Thu quyến rũ do Ánh Tuyết hát (Ánh Tuyết xưa chứ không phải Ánh Tuyết ngày
nay tại Sài Gòn, không phải Ánh Tuyết trong CD nhạc mà tôi vừa nghe vừa viết
bài này). Tôi phát biểu ở đây một nhận định rất riêng tư, một so sánh đầy cảm
tính.
Nếu nhạc của cố nhạc sĩ Văn Cao thanh cao, lời lẽ rất văn hoa, bay như cánh chim trong khung trời hoa thơm cỏ lạ đến tận Thiên Thai thì nhạc của cố nhạc sĩ Đoàn Chuẩn lời lẽ bình dị, không bay bổng nhưng thấm sâu, rất sâu, hầu như bài nào cũng là nỗi nuối tiếc, đau đớn của con người thật đang sống. Có cảm tưởng như nỗi đau ở trước mặt, có thể sờ thấy, có thể cảm nhận rất rõ, nó quanh quẩn đâu đó như một phần cơ thể của chính mình. Có lẽ tôi không cần phải kể ra đây những lời ca ấy. Nó gần gụi với người nghe lắm, như một lời tâm tình giản dị mang xuyên suốt một tình yêu tuyệt vọng với hình bóng thân thuộc của quá khứ đã... tàn rồi nhưng không bao giờ phai. Những bản nhạc của anh thường ký tên chung với một người bạn thân là Từ Linh, có người nói Đoàn Chuẩn chỉ ký tên chứ Từ Linh không làm nhạc, nhưng có người bạn tôi là anh em kết nghĩa với Từ Linh lại cam đoan rằng đã từng thấy Từ Linh làm nhạc. Nhưng Từ Linh không xuất hiện bao giờ nên Từ Linh như một "ẩn số" với nhiều thính giả. Theo tin tức tôi có thì Từ Linh đã mất vào khoảng năm 1987. Những bí mật về bài ca được công bố cuối cùng. Ngoài những bản nhạc tôi đã nghe đi nghe lại không biết bao nhiêu lần, tôi thật sự kinh ngạc khi nghe bài Vĩnh Biệt trong CD "Gửi gió cho mây ngàn bay" do nữ ca sĩ Ánh Tuyết hát, Trung tâm băng nhạc Trẻ thực hiện, Bảo Chấn hòa âm. Thoạt tiên mở đầu bản nhạc, nghe như có tiếng trống thúc đâu đây, cứ ngỡ là bài hùng ca. Và ngay câu đầu tiên người ta đã nghe thấy lời ai oán của một "chiến tướng" đứng trước một thành quách bị tàn phá dưới tay quân địch: "Ai đoạt Cô Tô thành vì đôi mắt giai nhân hề, lửa cháy báo tin rằng thành quách ta...
Ai trót nhấp men tình để Mỵ Cơ thương nhớ, khi khóc rồi Tiễu Nhiên còn mơ..." "Em khác gì Quỳnh Giao, lúc cam lòng phung phí hết xuân xanh, lúc đêm về, thương cho đời mà cũng ghét cho đời mà cũng chán cho đời..." Tâm tình Tiễu Nhiên - Mỵ Cơ, Phạm Lãi - Tây Thi phải chăng chính là tâm trạng tác giả: Thương, ghét và chán? Nỗi niềm u ẩn cho cuộc tình và cho cuộc đời mình. Bài ca Vĩnh biệt còn được gọi là "Bài ca bị xé". (Tôi được biết ở hải ngoại bài này còn được đặt tên là Vàng phai mấy lá). Và bài ca cho đến mãi sau này mới được phổ biến. Tại sao vậy? Đây là một bí mật riêng tư của tác giả. Nhưng nay anh đã thành người quá cố, những người yêu nhạc của anh thì chắc nhiều người muốn biết. Có người cho rằng bài này được làm từ năm 1955, đó là kết quả của một mối tình tuyệt vọng giữa Đoàn Chuẩn và một danh ca thời xưa, nay còn sống ở Sài Gòn.. Có nghĩa là tác giả yêu nhưng không bao giờ được yêu lại. Bởi thế nên bài ca bị xé. Nhưng tôi đã đem ý kiến này hỏi nhạc sĩ Lê Hoàng Long, một người bạn của anh Đoàn Chuẩn và một vài người khác. Có người cho rằng đó là kết quả của một mối tình nồng nàn say đắm. Hồi đó anh Đoàn Chuẩn ở Hải Phòng yêu một nữ danh ca ở Sài Gòn. Anh đã yêu cầu một hàng bán hoa ở đường Catinat, mỗi ngày đưa đến tặng nữ ca sĩ một bó hoa tươi nhưng không ghi tên người gửi. Nữ ca sĩ này không nhận và đòi phải cho biết tên. Đoàn Chuẩn hứa là sẽ cho biết tên sau nửa tháng. Và nửa tháng sau đó Đoàn Chuẩn đã tiết lộ tên người gửi hoa. Trong hoàn cảnh như thế ai cầm lòng cho đậu. Mối tình bắt đầu. Nhưng tiếc rằng cả hai người đều đã có gia đình nên một thời gian sau mối tình tan vỡ. Bài ca cũng đã nói lên sự "đàn trùng dây, phím lỡ". Bài ca không được phổ biến và bị xé vì mang nỗi đau thương như không thể nói thành lời, như một sự dỗi hờn với định mệnh. Nhưng tất cả chỉ là dự đoán. Sự thật như thế nào chỉ có ông mới biết và những người yêu nhạc Đoàn Chuẩn bây giờ coi như một giai thoại đẹp và buồn khi vĩnh viễn chia tay với người nghệ sĩ tài hoa, người mãi mãi là một công tử, một nghệ sĩ tài tử đúng nghĩa nhất đối với tôi.
Nếu nhạc của cố nhạc sĩ Văn Cao thanh cao, lời lẽ rất văn hoa, bay như cánh chim trong khung trời hoa thơm cỏ lạ đến tận Thiên Thai thì nhạc của cố nhạc sĩ Đoàn Chuẩn lời lẽ bình dị, không bay bổng nhưng thấm sâu, rất sâu, hầu như bài nào cũng là nỗi nuối tiếc, đau đớn của con người thật đang sống. Có cảm tưởng như nỗi đau ở trước mặt, có thể sờ thấy, có thể cảm nhận rất rõ, nó quanh quẩn đâu đó như một phần cơ thể của chính mình. Có lẽ tôi không cần phải kể ra đây những lời ca ấy. Nó gần gụi với người nghe lắm, như một lời tâm tình giản dị mang xuyên suốt một tình yêu tuyệt vọng với hình bóng thân thuộc của quá khứ đã... tàn rồi nhưng không bao giờ phai. Những bản nhạc của anh thường ký tên chung với một người bạn thân là Từ Linh, có người nói Đoàn Chuẩn chỉ ký tên chứ Từ Linh không làm nhạc, nhưng có người bạn tôi là anh em kết nghĩa với Từ Linh lại cam đoan rằng đã từng thấy Từ Linh làm nhạc. Nhưng Từ Linh không xuất hiện bao giờ nên Từ Linh như một "ẩn số" với nhiều thính giả. Theo tin tức tôi có thì Từ Linh đã mất vào khoảng năm 1987. Những bí mật về bài ca được công bố cuối cùng. Ngoài những bản nhạc tôi đã nghe đi nghe lại không biết bao nhiêu lần, tôi thật sự kinh ngạc khi nghe bài Vĩnh Biệt trong CD "Gửi gió cho mây ngàn bay" do nữ ca sĩ Ánh Tuyết hát, Trung tâm băng nhạc Trẻ thực hiện, Bảo Chấn hòa âm. Thoạt tiên mở đầu bản nhạc, nghe như có tiếng trống thúc đâu đây, cứ ngỡ là bài hùng ca. Và ngay câu đầu tiên người ta đã nghe thấy lời ai oán của một "chiến tướng" đứng trước một thành quách bị tàn phá dưới tay quân địch: "Ai đoạt Cô Tô thành vì đôi mắt giai nhân hề, lửa cháy báo tin rằng thành quách ta...
Ai trót nhấp men tình để Mỵ Cơ thương nhớ, khi khóc rồi Tiễu Nhiên còn mơ..." "Em khác gì Quỳnh Giao, lúc cam lòng phung phí hết xuân xanh, lúc đêm về, thương cho đời mà cũng ghét cho đời mà cũng chán cho đời..." Tâm tình Tiễu Nhiên - Mỵ Cơ, Phạm Lãi - Tây Thi phải chăng chính là tâm trạng tác giả: Thương, ghét và chán? Nỗi niềm u ẩn cho cuộc tình và cho cuộc đời mình. Bài ca Vĩnh biệt còn được gọi là "Bài ca bị xé". (Tôi được biết ở hải ngoại bài này còn được đặt tên là Vàng phai mấy lá). Và bài ca cho đến mãi sau này mới được phổ biến. Tại sao vậy? Đây là một bí mật riêng tư của tác giả. Nhưng nay anh đã thành người quá cố, những người yêu nhạc của anh thì chắc nhiều người muốn biết. Có người cho rằng bài này được làm từ năm 1955, đó là kết quả của một mối tình tuyệt vọng giữa Đoàn Chuẩn và một danh ca thời xưa, nay còn sống ở Sài Gòn.. Có nghĩa là tác giả yêu nhưng không bao giờ được yêu lại. Bởi thế nên bài ca bị xé. Nhưng tôi đã đem ý kiến này hỏi nhạc sĩ Lê Hoàng Long, một người bạn của anh Đoàn Chuẩn và một vài người khác. Có người cho rằng đó là kết quả của một mối tình nồng nàn say đắm. Hồi đó anh Đoàn Chuẩn ở Hải Phòng yêu một nữ danh ca ở Sài Gòn. Anh đã yêu cầu một hàng bán hoa ở đường Catinat, mỗi ngày đưa đến tặng nữ ca sĩ một bó hoa tươi nhưng không ghi tên người gửi. Nữ ca sĩ này không nhận và đòi phải cho biết tên. Đoàn Chuẩn hứa là sẽ cho biết tên sau nửa tháng. Và nửa tháng sau đó Đoàn Chuẩn đã tiết lộ tên người gửi hoa. Trong hoàn cảnh như thế ai cầm lòng cho đậu. Mối tình bắt đầu. Nhưng tiếc rằng cả hai người đều đã có gia đình nên một thời gian sau mối tình tan vỡ. Bài ca cũng đã nói lên sự "đàn trùng dây, phím lỡ". Bài ca không được phổ biến và bị xé vì mang nỗi đau thương như không thể nói thành lời, như một sự dỗi hờn với định mệnh. Nhưng tất cả chỉ là dự đoán. Sự thật như thế nào chỉ có ông mới biết và những người yêu nhạc Đoàn Chuẩn bây giờ coi như một giai thoại đẹp và buồn khi vĩnh viễn chia tay với người nghệ sĩ tài hoa, người mãi mãi là một công tử, một nghệ sĩ tài tử đúng nghĩa nhất đối với tôi.
Một bài thơ của Đoàn Chuẩn: Khi tôi vừa viết xong
bài này, nhạc sĩ Lê Hoàng Long có đưa cho tôi một bức ảnh của anh Đoàn Chuẩn và
phía sau bức ảnh có hàng chữ ghi: "Long, Tao mời mày chén rượu đầu xuân
con Rắn, và ngâm:
"Em ơi!
Lá có rơi ngoài muôn ngả
Thì chung quy cũng chỉ vì đất thân yêu.
Anh phong sương, mưa nắng đã hoen nhiều
Đời nhạc sĩ có gì vui đâu em hỡi!
Anh ra đi em cũng đừng chờ đợi
Mai anh về kia nữa hoặc... chẳng bao giờ.
eva airline
mua vé máy bay đi mỹ hãng eva
phong ve korean air
đại lý vé máy bay đi mỹ
săn vé máy bay giá rẻ đi canada
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Ngau Hung Du Lich
Tri Thuc Du Lich