Mặt trời đêm của Trịnh Công Lộc
(Đọc
"Mặt trời đêm" của Trịnh Công Lộc)
Đặng Huy
Giang
Về
mặt tự nhiên, cơ bản biển ở đâu cũng giống nhau. Nhưng khi trở thành đối tượng
của nhận thức, của phản ánh trong văn chương, đặc biệt là thơ, biển của mỗi
người lại không giống nhau.
Biển
của Xuân Diệu khác. Biển của Chế Lan Viên khác. Biển của Tế Hanh khác. Biển của
Xuân Quỳnh khác. Biển của Hữu Thỉnh khác.
Trong
khi nhiều người thấy biển là hào hiệp thì có người lại thấy biển không phải như
vậy. Biển ích kỷ vì chỉ biết nhận hết về mình muôn dòng chảy. Trong khi nhiều
người thấy biển thật hạnh phúc thì có người lại thấy biển thật bất hạnh. Biển
là nơi chứa đựng, chịu đựng cả điều hay lẫn điều dở. Cái lý để biện hộ là biển
là nơi thấp nhất, là vùng trũng trong thế giới này.
Cái
sự khác nhau ấy, xem ra lại nằm ở nơi hướng nội, không phải nơi hướng ngoại.
Chính quá trình hướng nội của mỗi cá thể thơ đã giúp ta tìm ra cái khác giữa
tác giả này với tác giả khác.
Và cũng chẳng phải mất công tìm kiếm dẫn chứng đâu xa.
Trong Mặt trời đêm (Nhà
xuất bản Hội Nhà văn quý 3 năm 2014), nhà thơ Trịnh Công Lộc đã nói như thế qua Hai bên: Biên giới là hai bên/ Bên ta và
bên họ/ Mọi thứ khác nhau là mấy/ Chỉ lòng người khác biệt nhiều thôi.
Rồi nhà thơ Trịnh Công Lộc cũng đã nói như thế qua Nhịp đập Truông Bồn:Sẽ
không có sách nào ghi hết/ Chỉ có trái tim mới biết/ Mọi tận cùng lịch sử đi
qua.
Nói
như thế là bởi cảm như thế, nghĩ như thế. Cho nên trong thơ, biển của Trịnh
Công Lộc, cũng khác.
Trước hết là sự hệ lụy giữa biển – trời – nước – đảo – bến - thuyền
– tàu – hải âu – con người: Giữa
biển/ Trời đến đâu/ Nước đến đâu/ Thuyền lấy tàu làm bến/ Hải âu với tàu là
đảo/ Còn mình tựa bến tình yêu (Giữa
biển); là không có gì dễ bỏ qua dù là nhỏ bé nhất, mong manh
nhất, tức thời nhất: Làn
mây nhỏ cũng thành nuối tiếc/ Thành nhớ thương từng bọt sóng trôi (Khát
với Hoàng Sa); là những phát hiện: Khi bão tố, đảo thành mắt biển (Mở cõi biển Đông), Hoàng Sa cột mốc giữa muôn
trùng (Còn
đấy Hoàng Sa), Thêm
những con tàu/ Rộng mãi đường khơi/ Giữa biển lớn nghĩ suy thêm lớn/ Những đại
dương xích lại gần nhau (Bắt
đầu từ than)
Sau biển – Tổ quốc là núi – Tổ quốc của Trịnh Công Lộc, cũng
khác: Mỗi tấc đất đã bao nhiêu máu/
Thắm lên từng vách núi, ngọn cây/ Mỗi đỉnh núi một bàn thờ Tổ quốc/ Ngát linh
hương nghi ngút trời mây (Đỉnh
núi). Có lúc, ông gắn bó máu thịt với địa danh Cao Xiêm đến
mức: Soóng Cọ thành dây/ Buộc sông
buộc núi/ Buộc đất buộc rừng (Cao
Xiêm) và nhìn ra cái bản chất của mọi cuộc chiến từ một từ
“nhàu” thật chuẩn: Cuộc
chiến đã nổ ra/ Đất nhàu mặt đất/ Sông nhàu mặt sông/ Biển nhàu mặt biển (Hai bên)…
Lâu
nay, đề tài than (công nghiệp than) đã trở đi trở lại trong thơ của nhiều thế
hệ người làm thơ. Nhưng đến Trịnh Công Lộc, cũng vẫn khác.
Lòng đất là bóng đêm,
thì nhiều người thấy, nhưng khi cho rằng Bàn
tay là mặt trời/ Ngày đã vào đêm/ Bóc than như bóc thịt…/ Từng ka, từng ka lớp
lớp/ Đánh cược cuộc đời/ Kín trời kín đất trong Ngày vào đêm,
thì không phải ai cũng thấy. Nhìn việc khai thác than như Cầu bập bênh bật lên bật xuống trong trò chơi không thăng bằng để rồi Cứ bập bênh sinh lực ngày ngày trong Bập
bênh, nhìn than như Đứa
con một/ Triệu triệu năm đất nặng đẻ đau trong Than
– đứa con một, thì không phải ai cũng viết được.
Nhưng nói gì thì nói, viết gì thì viết, Trịnh Công Lộc vẫn
không tách biển, tách than và tách nhiều thứ nữa ra khỏi thân phận con
người. Hay nói một cách khác: Dù là biển hay là than, hay là gì gì nữa, thì
thân phận con người trong đó, mới là quan trọng. Và rồi như không hoàn toàn lệ
thuộc vào đề tài, vào chủ đề nữa, Trịnh Công Lộc lại trở về với nhân tình thế
thái. Ông cảm thấy may khi Biết
sợ, rồi đây còn mất những gì/ Sợ những người biết mặt quay đi (May).
Nhìn thấy những người Dọn
đêm, ông đặt ra một câu hỏi khác người: Bao giờ dọn hết đời mình? Gặp Người
quanh tôi, ông băn khoăn, nghĩ ngợi đến xa xót: Vẫn biết con người sinh ra để
sống/ Mà không sống được cho nhau. Trong 24 chữ cái, ông
nhận ra bản chất của nghệ thuật, bản chất của chữ, biến hóa của chữ, chất đời
của chữ: Chúng ta/ Xếp lại tên người/ Đủ
24 chữ cái/ 24 chữ cái viết hoa/ Chữ hát/ Trái tim mình/ Hát xa thẳm gập ghềnh
số phận/ Nếu có một ngày/ Xung trận/ Sẽ 24 mũi giáp công/ 24 mũi đụng đầu/
Những con chữ lệ rơi, máu rỏ…Đọc tác phẩm Tôi nghe tôi hát của “người từ băng ca” Trần Như Phương
(Trần Thị Mai), ông viết Nếu… để rút
ra từ sự trải nghiệm của mình: Trái
đất nhỏ đi trước vận mệnh con người. Đến Trái đất – quả cầu vàng,
ông lại viết những câu thơ thật sâu xa: Trái
đất như quả cầu vàng/ Như trái ngọt/ Khi lòng tham chưa nguôi cơn khát/ Bàn tay
còn khát máu chiến tranh.
Cuối
cùng, xin được giới thiệu một bài thơ ấn tượng có tên gọi “Đỉnh núi” được viết
theo kiểu Trịnh Công Lộc:
Núi
tiếp núi chập chùng vi vút
Vời
vợi xa, sương gió về đâu
Dốc
thẳng đứng, yên cương lưng ngựa
Gió
cuộn bay vun vút ngàn sâu…
Đất
là núi
là sông
là biển
Núi
ngất cao, sông biển rộng dài
Sông
với biển giăng thành như núi
Giữ
bình yên bờ cõi đất đai.
Mỗi
tấc đất đã bao nhiêu máu
Thắm
lên từng vách núi, ngọn cây
Mỗi
đỉnh núi
một bàn thờ Tổ quốc
Những
linh hương nghi nguít trời mây.
Đọc Đỉnh
núi, ngưởi đọc không thể không liên hệ đến Mộ gió – một bài thơ
nổi tiếng của Trịnh Công Lộc.
đại lý vé máy bay eva tại tphcm
mua vé máy bay đi mỹ hãng eva
korean air việt nam
vé máy bay đi mỹ
mua vé máy bay đi canada
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngau Hung Du Lich
Kien Thuc Du Lich