Boston: Trong lâu đài và giữa đồng hoa, nghĩ về tự do
Phó Đức Tùng
về Philadelphia, về trục đại lộ Parkways. về ấn tượng khi vào Bảo tàng Nghệ thuật Philadelphia, và
về tranh tường ở
Philadelphia
Tại khu downtown của Boston. Ảnh từ Internet
Boston – logic của giới tinh hoa
Boston là một trong những đô thị cổ nhất nước Mỹ, từng thịnh
vượng trước Philadelphia, rồi phải nhường bước cho Philadelphia, nhưng nay thì
có vẻ ổn hơn.
Nếu Philadelphia là một đô thị của sự bình đẳng, của dân lao
động, thì Boston lại đặc trưng của một đô thị được dẫn dắt bởi tầng lớp tinh
hoa, với những danh gia vọng tộc lâu đời, nổi tiếng. Chỉ nhìn vào bản đồ khu
trung tâm Boston, ta có thể nhận ra ngay sự khác biệt. Nếu như Philadelphia có
dạng bàn cờ trải khắp, thì trung tâm Boston có hình như một trái tim, rất hữu
cơ, với các ngăn, các mạch chủ, mạch nhánh rõ ràng. Hiện nay, Boston là một
trong những thành phố có mật độ cao nhất, đắt đỏ nhất, nhưng cũng được coi là
thuộc loại tiềm lực nhất và đáng sống nhất, hấp dẫn nhất ở nước Mỹ.
Ngày đầu tiên tới Boston, tôi tham quan nhạc viện, vì có cậu
em họ học sáng tác ở đây sẽ trình bày các tác phẩm giao hưởng tốt nghiệp của cậu.
Khu vực nhạc viện nằm ở phía Tây của trung tâm. Vừa lên khỏi
bến tầu điện ngầm, trước mắt đã mở ra một cảnh quan đô thị khác hẳn Philadelphia.
Những dãy phố sang trọng kiểu như Paris của Haussmann, với nhà cửa đồng đều ở mức
4-5 tầng. Kiến trúc tân cổ điển, không quá rườm rà, nhưng mạch lạc, chắc chắn,
và vẫn còn một số chi tiết trang trí riềm mái, cửa sổ, ban công, cửa chính nổi
bật sự xa hoa. Tầng trệt có nhiều cửa hàng cửa hiệu, không liên tục như một cái
chợ mà xen lẫn nhà ở, nhưng đủ mật độ, độ đa dạng để hấp dẫn. Ngân Hàng Mỹ
(Bank of America) cũng nằm trong một tòa nhà cổ kính, xây gạch đỏ để trần. Một
góc phố thấy đề biển siêu thị, nằm ở tầng trệt một tòa nhà cổ, trông không khác
gì một tiệm tạp hóa nhỏ trong phố, nhưng bước qua cửa thì mở rộng ra thành một
siêu thị rộng mênh mông. Tòa nhà Apple cũng bốn tầng, tối giản, mặt kính trong
suốt, như một cái cầu nhiều tầng nối giữa hai ngôi nhà cổ hai bên; không gian
bên trong hòa lẫn với bên ngoài, tấp nập người như là một mảng vỉa hè mở rộng.
Tòa nhà Apple Store ở Boston với bãi cỏ trồng trên nóc
Đi mấy bước thấy mở ra một quảng trường rộng, với tòa nhà thờ
mái tròn romanic bề thế ngự ở chính giữa. Phố xá có đường thẳng đường chéo, đi
vài bước lại nhìn xuyên được qua những ngõ hẻm vào những sân rộng, yên tĩnh, ngập
tràn ánh nắng. Dạo một đoạn nữa là ra tới mặt nước, để tự nhiên, lau sậy mùa
đông vàng rực, còn chưa ra lại màu xanh. Dõi mắt ra xa hơn, là một vòm cầu thấp,
xây đá tảng chắc nịch mà thơ mộng như La Mã cổ. Một góc phố khác, quán nhậu bày
bày ghế kín vỉa hè, khách đông nghịt, cười nói rộn ràng…
Nhìn chung, có cảm nhận ta rơi vào một đô thị rất chau chuốt,
giàu có, ổn định, như là ở Zuerich, Bern hay Muenchen. Cấu trúc đô thị chặt chẽ,
hữu cơ như một bức tranh Cezanne, như bàn tay nắm chặt, không có những lỗ trống
phải vá víu, cũng không có chỗ cho nhưng công trình đương đại quá khổ, nhảy bật
ra khỏi bối cảnh như ở nhiều đô thị xộc xệch khác. Người đi lại trên phố không
quá đông, nhưng đủ độ sầm uất, và dáng đi sinh động, nhanh nhẹn chứ không phờ
phạc, dặt dẹo như ở những khu ngoại vi Philadelphia. Và đặc biệt rất ít người
béo phì.
Nói chung, từ nhà cửa, hàng hiệu, cho tới xe cộ, con người, đều
cho ta cảm giác như rơi vào giới thượng lưu, toàn người giàu có, thanh lịch. Đến
đây, ta có cảm giác đầy đủ, và chỉ muốn ngồi xuống một chỗ, nghỉ ngơi sưởi nắng,
ngắm cảnh phố phường, bởi vì không gian xung quanh, nhịp điệu xung quanh cung cấp
đủ độ đa dạng, độ trù phú cho một nhu cầu tinh thần đói khát. Trong khi đó, ở
Philadelphia, chân ta không muốn dừng, mắt ta không muốn dừng, vì những thứ ta
thấy ở xung quanh một chỗ vẫn chưa đủ đô, cần phải đi rạc cẳng để có thể lượm lặt
đủ những ấn tượng, những trải nghiệm cho ta đỡ cơn khát. Còn nếu chân ta lười,
ta sẽ ngồi một chỗ, buồn chán và trở nên béo phì.
Một con phố ở Boston. Ảnh từ Internet
Nhà hát Shubert ở Boston. Ảnh: Tim Pierce
Tương tự, nhạc viện Boston và đại học nhạc Berklee – những
cái tên danh giá hàng đầu thế giới về âm nhạc – cũng nằm trong những tòa nhà
khiêm nhường như tất cả các nhà khác trong dãy phố, chỉ khác mỗi một cái băng
rôn hẹp chạy dọc ghi tên phía trước. Ngay cạnh tòa nhà chính nhạc viện là những
tòa nhà dân cư khác, sang trọng và cổ kính tương đương. Trước cửa một số nhà có
treo một lá cờ xanh của nhạc viện, thì đó là ký túc xác sinh viên của nhạc viện,
để phân biệt với những nhà dân bình thường.
Trường nhạc Berklee. Ảnh từ Wikipedia
Thế mới biết, nếu ở Philadelphia, âm nhạc, nghệ thuật được
tôn sùng tuyệt đối, đặt vào thánh đường Acropolis, trong những lâu đài hoành
tráng, khiến dân thường phải khiếp hãi tôn thờ thì ở Boston, âm nhạc, nghệ thuật
đỉnh cao lại ăn vào từng tế bào, từng thớ thịt đô thị, trở thành sinh hoạt câu
lạc bộ hàng ngày, bình dị như những sự hiển nhiên.
Thế người nghèo, người thường thì ở đâu? Tất nhiên cũng trong
những tòa nhà sang trọng, lộng lẫy đó, như những sinh viện nhạc viện Boston. Nếu
như Philadelphia ép danh nhân cũng phải ở bàn cờ, ăn cheesesteak thì Boston giấu
những người nghèo, người thường trong những lâu đài. Ở đâu ta cũng ít thấy sự
chênh lệch, phân biệt một cách thô thiển đẳng cấp. Ở đâu, sự bình đẳng cũng
tương đối, đủ giữ thể diện, nhân phẩm cho tất cả mọi người cũng được đảm bảo.
Nhưng ở Philadelphia, thước đo là của bình dân, còn ở Boston, thước đo là của
quý tộc.
Câu hỏi đặt ra: Boston sang trọng như thế, đắt đỏ như thế, liệu
người nghèo có sống được không? Hãy xem cậu em họ tôi, một sinh viên Việt Nam,
đến từ gia đình bình thường của một nước nghèo loại nhất thế giới, phải đóng một
phần tiền học, tự túc tiền sống, tiền nhà, mà vẫn sống được, và chẳng muốn về,
thì hiểu rằng người nghèo cũng có thể sống. Nhưng họ sống thế nào?
Bước qua cửa căn nhà 75 Westlane, một ngôi nhà phố bề thế, hoành tráng và cổ kính như tất cả những ngôi nhà quý phái khái trong dãy phố, tôi leo lên thang tới tầng 3, nơi cậu em thuê phòng trọ. Bước qua cửa vào tầng 3, quang cảnh thay đổi hẳn. Từ không gian cầu thang cổ điển, cao vút, tương đối rộng rãi, ta vào một hành lang nhỏ xíu, ngoắt ngoéo. Cậu em ở trong một căn phòng, bé hơn tất cả những căn phòng cho công nhân và sinh viên thuê ở Việt Nam mà tôi từng thấy, chắc chỉ khoảng 5-6m2. Cậu thanh niên to lớn, ngồi thu lu giữa đống vali, chăn chiếu, quần áo, sách vở ngổn ngang, hôi hám, nhưng cũng ấm cúng, như một cái ổ chuột của người vô gia cư góc phố, chỉ thiếu con chó và cái bát xin tiền. Tầng này có 5-6 căn phòng, cho sinh viên các nước thuê, chủ yếu sinh viên âm nhạc. Toilet nhà tắm chung cả tầng, cũng nhỏ hẹp như hành lang. Bếp ăn chung ở cuối hành lang, xộc xệch lộn xộn như một góc kho, có vẻ chẳng mấy ai dùng. Cậu em mượn cho tôi phòng bên cạnh của một cậu sinh viên Hong Kong đang về nghỉ phép, phòng vẫn mở cửa, vào ở được. Phòng này to gấp đôi phòng cậu em, có cử sổ lớn hơn, thoáng hơn hẳn. Tôi hỏi giá thuê phòng, nó bảo phòng nó 820 USD một tháng, còn phòng này hơn 900. Tôi bảo chênh nhau có một ít, sao không thuê phòng to mà ở. Nó tròn mắt ngạc nhiên: ở thế đủ rồi mà, sao phải rộng hơn?
Bước qua cửa căn nhà 75 Westlane, một ngôi nhà phố bề thế, hoành tráng và cổ kính như tất cả những ngôi nhà quý phái khái trong dãy phố, tôi leo lên thang tới tầng 3, nơi cậu em thuê phòng trọ. Bước qua cửa vào tầng 3, quang cảnh thay đổi hẳn. Từ không gian cầu thang cổ điển, cao vút, tương đối rộng rãi, ta vào một hành lang nhỏ xíu, ngoắt ngoéo. Cậu em ở trong một căn phòng, bé hơn tất cả những căn phòng cho công nhân và sinh viên thuê ở Việt Nam mà tôi từng thấy, chắc chỉ khoảng 5-6m2. Cậu thanh niên to lớn, ngồi thu lu giữa đống vali, chăn chiếu, quần áo, sách vở ngổn ngang, hôi hám, nhưng cũng ấm cúng, như một cái ổ chuột của người vô gia cư góc phố, chỉ thiếu con chó và cái bát xin tiền. Tầng này có 5-6 căn phòng, cho sinh viên các nước thuê, chủ yếu sinh viên âm nhạc. Toilet nhà tắm chung cả tầng, cũng nhỏ hẹp như hành lang. Bếp ăn chung ở cuối hành lang, xộc xệch lộn xộn như một góc kho, có vẻ chẳng mấy ai dùng. Cậu em mượn cho tôi phòng bên cạnh của một cậu sinh viên Hong Kong đang về nghỉ phép, phòng vẫn mở cửa, vào ở được. Phòng này to gấp đôi phòng cậu em, có cử sổ lớn hơn, thoáng hơn hẳn. Tôi hỏi giá thuê phòng, nó bảo phòng nó 820 USD một tháng, còn phòng này hơn 900. Tôi bảo chênh nhau có một ít, sao không thuê phòng to mà ở. Nó tròn mắt ngạc nhiên: ở thế đủ rồi mà, sao phải rộng hơn?
Sáng hôm sau, bà mẹ ở Việt Nam sang hì hục nấu cho cậu con
trai đủ thứ món, từ cơm, gà rán, trứng rán, rau xào, thịt bò bít tết v.v. để cậu
lấy sức cho buổi biểu diễn quyết định của cả 4 năm học. Cu cậu ngồi vào bàn, chỉ
nhúng đũa mỗi thứ một miếng, rồi ngồi thừ ra, vì bao nhiêu năm chỉ ăn sáng ngũ
cốc đạm bạc, không thể nuốt được từng ấy thứ vào buổi sáng.
Một lát, cậu vào thay đồ để đến trường, sơ mi đen, complet đen, giày da bóng lộn, dáng cao ráo thẳng thớm, tay cầm đũa chỉ huy, nom bảnh bao lộng lẫy như một quý tộc thực thụ.
Một lát, cậu vào thay đồ để đến trường, sơ mi đen, complet đen, giày da bóng lộn, dáng cao ráo thẳng thớm, tay cầm đũa chỉ huy, nom bảnh bao lộng lẫy như một quý tộc thực thụ.
Khu Back Bay ở Boston. Ảnh: Rick Berk
Freedom và Nostalgia
Buổi biểu diễn của cậu em có 5 tác phẩm. Bắt đầu bằng một độc
tấu piano, với nhan đề “Minimalist freedom”. Trong lời giới thiệu cậu tự viết,
có nói đại khái: “Tự do đâu cần rườm rà. Muốn có tự do thật, cần bỏ hết mọi rác
rưởi.” Ô, ở đâu ra mà một thằng cu rất thật thà, tồ tệch lại có được cái triết
lý cao siêu kiểu Diogenes đến vậy. Nhưng rõ ràng xem cách nó sống, nghe bản nhạc
nó biểu diễn, thì thấy đó là cảm xúc thực chứ không phải làm hàng. Ngẫm lại mới
thấy lẽ này: nếu ta sống trong một kho vàng bạc châu báu, chắc hẳn chẳng ai có
nhu cầu đắp một ít trang sức đó lên người cho nặng, hay đang đi giữa một đồng
hoa, ai lại nghĩ ngắt một ôm cắm đầy người để làm đẹp? Nếu một không gian đô thị
từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài đầy ắp sự sang trọng, tiện nghi, văn hóa,
thì ta cần đắp làm gì các loại của nả quanh người, cứ chắp tay sau đít mà đi
trong lâu đài thênh thang đó chẳng là tự do hơn là gì? Chỉ cần một cái kén, và
khi chui ra, ta khoác tấm cánh bướm lộng lẫy, là có thể góp vui với đời, nhơ nhởn
trên cánh đồng hoa.
Đã hiểu cái cách người nghèo cũng sống trong lâu đài, và cũng
lập tức hiểu rằng thằng em thế là tuyệt đường về nước rồi. Bởi lẽ khi không còn
cánh đồng hoa rực rỡ, mà là bãi rác lầm than, chen cướp, thì con nhộng trần trụi,
con bướm mỏng manh kia làm gì có chỗ sống. Cần phải có áo giáp nhiều tầng cơ,
mà áo này phải đúc dần dần mới được.
Bài biểu diễn cuối cùng mang tên Nostalgia, khiến tôi hơi lo
cho cậu bé. Có thật cậu đã thành người Mỹ, đã thành người Boston và sẽ hoàn
toàn hòa nhập với không gian nơi đây không? Tại sao còn vương vấn, tại sao lại
chốt bằng nostalgia? Phải chăng trong lòng cậu vẫn nhớ nhung về miền quê
hương nghèo khổ, nhọc nhằn, nếu vậy thì tương lai cậu sẽ đầy mâu thuẫn, như số
phận biết bao người Việt tha hương.
Nhưng khi nghe bản nhạc, một bản giao hưởng rực rỡ, huy hoàng
mà đầy tình cảm dịu êm, tôi hiểu rằng đó không phải là nỗi đau nhớ nhà, nhớ xứ
Việt Nam, mà là hồi ức về một thế giới tươi sáng, lý tưởng ở đâu đó ngoài thế
giới này. Có lẽ Platon đã có lý. Lại nhớ tới câu hát: “Những đứa trẻ được sinh
ra qua ta, chứ không phải từ chúng ta.” Đúng là so với cái kết thúc này, thì Minimalist
Freedom mới chỉ là bước khởi đầu. Một chương trình biểu diễn trọn vẹn và
chặt chẽ!
Chúng ta đến từ đâu, đâu mới thực là quê hương, hãy nghe giao
hưởng của Phó Đức Hoàng, đủ độ thuyết phục cho một hoài nghi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét