Khái niệm “đẹp” của Platon
Phó Đức Tùng
Vũ trụ quan Platon có 3 bậc:
- Thế giới vĩnh hằng với các ideas chân thiện mỹ, vĩnh cửu, là mẫu mực của mọi sự vật trong tự nhiên (ngoài hang)
- Thế giới tự nhiên, vật chất với những con rối, objects được các thần copy từ các idea (trong hang)
- Thế giới vĩnh hằng với các ideas chân thiện mỹ, vĩnh cửu, là mẫu mực của mọi sự vật trong tự nhiên (ngoài hang)
- Thế giới tự nhiên, vật chất với những con rối, objects được các thần copy từ các idea (trong hang)
- Thế giới của các cái bóng của những con rối, là hình ảnh về những sự
vật khách quan theo cảm nhận chủ quan của con người (trong hang)
Sơ đồ trong và ngoài cái hang của Platon (các bạn nhớ bấm vào
hình để xem bản to hơn nhé)
Theo Platon, chỉ có thế giới lý tưởng, vĩnh hằng với các
ideas của nó mới là chân, thiện và mỹ. Và cái đẹp của các idea mới là cái
đẹp tuyệt đối. Muốn biết thế nào là thực sự đẹp thì chỉ có cách tháo xiềng
xích, tự ra đó mà nhìn. Cái đẹp này tựa như cái đẹp mà Phật nói có thể chứng được
trong trạng thái ngộ.
Tiếp theo là đến cái đẹp trong các bản copy, tức là đời
F1. Các bản copy khác nhau có hàm chứa tỷ lệ giống idea mẫu khác
nhau, vì thế cũng có độ đẹp xấu khác nhau. Bản nào càng giống idea vĩnh hằng
thì càng đẹp. Cái đẹp này là đẹp tương đối theo nghĩa vô thường và không hoàn hảo,
nhưng cũng có thể coi là một phần của cái đẹp thật, chứ không phải hoàn toàn
tương đối kiểu chủ quan.
Cuối cùng là cái đẹp trong những cái bóng. Những cái
bóng này là thế hệ F2 kể từ các idea. Sau hai lần biến dạng, về nguyên tắc
chúng sẽ ngày một xa rời hình mẫu lý tưởng. Tuy nhiên, chúng vẫn giữ phần trăm
nào đó nét của hình mẫu lý tưởng. Càng giống hình mẫu bao nhiêu, chúng sẽ càng
đẹp bấy nhiêu.
Tóm lại, vẻ đẹp của thế giới vật chất và kể cả các ảo ảnh là
vẻ đẹp có thật, khách quan, dophần trăm của idea nằm trong đó, chứ không
phải cảm nhận chủ quan, tương đối của mỗi người. Tuy mỗi người sẽ cảm nhận về vẻ
đẹp đó một cách khác nhau, dưới mức độ khác nhau, nhưng một vật hay hình ảnh đẹp
sẽ tạo cảm giác ham thích cho mọi người. Mỗi người có thể nhìn con ngựa dưới
góc độ khác nhưng đều nhận ra là ngựa, và khi công nhận là ngựa tức là thừa nhận
nó có một số quy luật hình thức nhất định chứ không phải lung tung, có nghĩa là
thừa nhận ở nó một vẻ đẹp phổ quát, cho dù ta có gọi đó là đẹp hay không.
Khái niệm và vai trò của nghệ thuật theo Platon
Nghệ thuật theo Platon là một trong những hoạt động có chủ
đích của con người, có mục đích là thể hiện cái đẹp. Một sản phẩm nghệ thuật
càng gần với idea lý tưởng thì càng đẹp.
Có hai dạng chính để làm ra một tác phẩm nghệ thuật như vậy. Platon gọi là Poiesis (nghệ thuật sáng tạo) và mimesis (nghệ thuật sao chép tự nhiên). Hai loại nghệ thuật này là hai cách tiếp cận khác nhau tới cái đẹp trong vũ trụ quan Platon.
Có hai dạng chính để làm ra một tác phẩm nghệ thuật như vậy. Platon gọi là Poiesis (nghệ thuật sáng tạo) và mimesis (nghệ thuật sao chép tự nhiên). Hai loại nghệ thuật này là hai cách tiếp cận khác nhau tới cái đẹp trong vũ trụ quan Platon.
• Poiesis – Nghệ thuật dưới dạng mô hình thần
khải, mô hình trực tiếp từ idea lý tưởng
Ẩn dụ Cái Hang của Plato – Jan Saenredam, 1604> (Các bạn
nhớ bấm vào hình để xem chi tiết nhé): Những người tù chen chúc ngồi, dựa cả
vào bức tường ngăn. Các bậc trí giả là những người tuy sống trong hang nhưng
không bị xiềng, thấy được những gì đi qua cửa hang. Họ làm hình rối, đốt lửa
cho bóng in trên vách để kể lại, minh họa cấu trúc sự thật cho những người bị
xiềng xem.
Nghệ sỹ sáng tạo thực sự là những bậc trí giả. Họ cũng là người
sống trong hang như những người khác nhưng không bị xiềng. Họ đi ra cửa động,
quan sát được thế giới bên ngoài. Khi quay về, họ rất muốn tả lại cho những người
bị xiềng xích kia thấy được là thế giới đó đẹp đẽ ra sao. Họ bèn bắt chước các
vị thần, làm ra các con rối để truyền đạt.
Những tác phẩm của họ là mô hình về cái thực, được mô tả
lại bởi những người được giác ngộ, đã nhìn thấy chân lý, nhằm giúp người ta
hình dung ra thế giới lý tưởng đó. Lý luận của Phật Giáo, hay Kito, học thuyết
của Socrates và Platon vẫn được coi là loại mô hình này. Bản thân chúng không
phải sự thật, mà là lời kể về sự thật của người đã nhìn thấy nó.
Những con rối do các nghệ sỹ sáng tạo này làm ra có thể dưới
dạng thi ca, dạng tranh, tượng, nhạc, kiến trúc hay một thứ gì đó. Đôi khi nhiều
loại vật liệu khác nhau có thể được dùng để diễn đạt cùng một loại ý tưởng. (Một
khi đã nhìn thấy idea mẫu, trí giả đó có thể làm hàng ngàn copy dưới nhiều hình
thức khác nhau, tùy theo vật liệu mà anh ta có và năng lực của anh ta để mô phỏng
lại idea gốc.) Đặc biệt thi ca được coi là gần với sáng tạo thần khải nhất, vì
thế cũng có cùng gốc từ với poiesis.
Bởi chúng là những copy trực tiếp từ thế giới lý tưởng nên về
nguyên tắc có thể sánh ngang với những thực tại trong tự nhiên, và khi đó, bậc
trí giả hay nghệ sỹ đó sánh ngang với các thần thánh.
Có thể gọi các tiếp cận nghệ thuật này là “cụ thể hóa một ý
tưởng (idea) thành tác phẩm nghệ thuật”.
• Mimesis – Nghệ thuật dưới dạng mô hình tinh chế, đúc rút từ
những cái bóng
Nghệ sỹ mimesis cũng là người sống trong hang và cũng bị
xiềng như những người khác. Tuy không ra được cửa hang, anh ta nhận ra là
trong các hình bóng cùng tên từng trôi qua trên vách hang thì có những cái đẹp
hơn. Và anh ta nghiên cứu trong các hình bóng đó để đúc rút ra một cái gần với
chuẩn mực nhất, đẹp nhất. Sản phẩm của anh ta không giống hoàn toàn bất kỳ một
cái bóng nào từng có trên vách, mà hoàn hảo hơn tất cả bọn chúng, nó chứa những
đặc điểm chung của cả họ bóng đổ đó.
Nếu anh ta vẽ hay tạc tượng một con ngựa, thì ai cũng biết đó
là con ngựa, nhưng con ngựa này hoàn hảo hơn mọi con ngựa mắt thấy. Nó là mô
hình gần với thực tế lý tưởng nhất, tỷ lệ đẹp do đó cao nhất. Nếu anh ta
làm tượng vệ nữ, thì tượng này sẽ hội tụ đầy đủ những nét đẹp lý tưởng về phụ nữ
mà không một người phụ nữ thật nào hội tụ nổi. Đó chính là lý do tại sao những
tác phẩm nghệ thuật Hy Lạp có độ phổ quát và độ đẹp lý tưởng cao như chúng ta
biết.
Như vậy, nghệ sỹ được gọi là mimesis cũng không sao chép tự
nhiên một cách đơn thuần, mà anh ta khái quát hóa nó để thành một sản
phẩm đậm đặc hơn, gần với chân, thiện, mỹ hơn. Kỹ thuật hay quy trình tạo tác của
anh ta là quan sát một loạt hình ảnh cùng tên rồi bỏ đi những đặc điểm riêng, cụ
thể của từng cái, tinh lọc ra cái chung, bản chất của cả họ. Chẳng hạn lấy ra
cái “tính trắng” từ nhiều vật màu trắng, cái “tính ngựa” từ nhiều con ngựa.
Cách tiếp cận này được coi là quá trình “trừu tượng hóa hay là khái quát
hóa cái cụ thể để tạo thành cái chung mẫu mực”.
Cũng có thể nói sản phẩm của anh ta cũng là những con rối như
của các bậc trí giả giác ngộ, nhưng là những con rối do đúc kết bóng đổ mà
thành chứ không phải do nhìn thấy hình mẫu idea mà sao chép ra. Do xuất phát từ
thế hệ bóng, tức là F2, ta có thể coi sản phẩm nhân tạo này là F3. Nhưng F3 này
tinh chứa nhiều đặc điểm giống cụ tổ idea hơn cả đời F2. Nếu so với F1, thông
thường F3 sẽ không được bằng, vì F1 là con đẻ, copy trực tiếp từ idea. Tuy
nhiên, không loại trừ trường hợp ngẫu nhiên mà F3 có thể giống idea hơn cả một
số cá thể đời F1, giống như chắt có thể giống cụ hơn là con giống bố.
Theo Platon, nghệ thuật sẽ diễn ra theo 1 trong 2 cách trên.
Tuy nhiên cũng phải nói thêm là Platon khinh thường nghệ thuật theo cả
hai nghĩa nói trên. Thứ nhất là bởi vì mọi sản phẩm nghệ thuật, cho dù nó được
mô phỏng trực tiếp từ idea lý tưởng, hay được đúc rút từ những hình bóng vô thường
trên vách đá, thì nó vẫn chỉ như những con rối có thể rất giống thật nhưng
không phải là thật. Có nghĩa là nghệ thuật chuyển tải được phần nào cái đẹp,
nhưng không chuyển tải được tính chân và thiện của lý tưởng.
Ngoài ra, thế giới vĩnh hằng còn biết bao điều khác, vô vàn
ideas khác không thể được mô phỏng hết. Vì thế, cách duy nhất cũng là mục đích
duy nhất của mọi nỗ lực là phải ra được khỏi hang, chứ không phải là làm
các mô hình đẹp hơn.
Điều nguy hiểm nhất của nghệ thuật chính lại vì những sản phẩm
của nó là những mô hình quá nét, quá đẹp, khiến người ta mê say và an tâm với
chúng, và từ đó mất đi cái mong muốn được giải thoát, được ra ngoài hang động,
để nhìn thấy cái thực vô biên và vĩnh hằng ngoài cửa hang. Tương tự như nếu ta
xem bộ phim thám hiểm thật hay về một vùng đất lạ thì rất có thể ta cho rằng hiểu
biết như thế là đủ, khỏi cần trực tiếp đến vùng đất đó nữa. Những kẻ say mê sản
phẩm nghệ thuật là những kẻ mông muội khó thuyết phục nhất về tình trạng ếch ngồi
đáy giếng của họ và ít nhu cầu nhất về việc tìm tới cái chân thiện mỹ, vì sản
phẩm nghệ thuật họ chiêm ngưỡng có những vẻ đẹp đã đủ thỏa mãn họ.
Từ nhận thức về mối nguy hại đó, Platon rất coi thường nghệ
thuật. Quan điểm này của ông giống với quan điểm nhà Phật, cho rằng muốn đạt tới
Niết bàn hay thiền thực thụ phải giải thoát khỏi “mọi” trụ chấp. Còn dính vào
hình, vào lời, dù tinh tế đến đâu, đúng đắn đến đâu, vẫn là đang ở trên thuyền
chứ chưa lên bờ. Và theo cách hiểu đó, những giải thích, minh họa gần đúng
không những không có tác dụng, thậm chí còn có tác hại như thuốc phiện làm mê
tâm.
Vì vậy, theo Platon, một nghệ thuật chân chính không phải là
nỗ lực thể hiện gần đúng vẻ đẹp của một idea, mà là làm cách nào để thức tỉnh
nhân loại là thế giới chân thiện mỹ còn ở ngoài cửa hang, và tất cả mọi thứ
họ làm, họ thấy đều chỉ là những cái bóng của các con rối thôi. Cách hiểu nghệ
thuật này tương tự như khái niệm về các công án trong thiền môn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét