Ivo Pogorelich (người Nam Tư) là một trong 3 thí
sinh (cùng với Đặng Thái Sơn và Tatyana Shebanova (người Nga) từ
Nhạc viện Tchaikovsky Moskva tới dự cuộc thi piano quốc tế Frédéric Chopin
lần thứ X (1980). Tại đậy Đặng Thái Sơn đoạt giải nhất, Tatyana
Shebanova đoạt giải nhì, còn Yvo Pogorelich đã bị loại khỏi
vòng chung kết vì lối chơi khác thường. - (LTH)
Trời đổ mưa sau recital của Ivo Pogorelich đêm 9/5
vừa qua tại Suntory Hall ở Tokyo. Trên đường từ phòng hòa nhạc ra ga tầu điện
ngầm, tôi vô tình đi sau hai nữ khán giả đứng tuổi. Người phụ nữ châu Âu cất giọng
nói to với bà bạn Nhật của mình như để người đi quanh cũng nghe thấy:
- Bùm, bùm..! Không, đó không phải “gu” piano của tôi!
Trong tour diễn tại Nhật lần này, Ivo Pogorelich trình
tấu ở 3 thành phố: Kanazawa, Nagoya, và Tokyo. Hai buổi diễn ở Tokyo đều tại Đại
khán phòng Suntory Hall. Phòng hòa nhạc này (khai trương năm 1986) là một
trong 7 phòng hòa nhạc hạng nhất thế giới được thiết kế theo kiểu vườn nho, với
2006 chỗ ngồi vây quanh sân khấu, sau Berliner Philharmonie (2440 chỗ), Walt
Disney Concert Hall tại Los Angeles (2265 chỗ), và Sapporo Concert Hall (2008 chỗ).
Nhạc trưởng huyền thoại người Đức Herbert Von Karajan từng gọi Suntory
Hall là “hộp trang sức của âm thanh”. Người sáng lập và bỏ tiền ra xây dựngSuntory
Hall là nhà tư bản đồng thời là người mê nhạc cổ điển, ông Keizo Saji
(1919-1999) – chủ hãng rượu whiskey Suntory.
Khán giả Tokyo trước Suntory Hall chờ vào nghe Ivo Pogorelich.
Trong đêm diễn đầu (7/5), Pogorelich chơi 2 concertos cho
piano của Chopin cùng dàn nhạc giao hưởng (DNGH) Sinfonia Varsovia dưới sự chỉ
huy của nhạc trưởng Nhật Kazufumi Yamashita. Đêm thứ hai (9/5) là recital.
Pogorelich độc tấu sonata “Hành khúc tang lễ” (Op. 35 No. 2 cung Si giáng thứ),
nocturne Op. 48 No. 1 (cung Đô thứ) của Chopin, Mephisto Waltz No. 1 S. 514 và
piano sonata cung Si thứ S. 178 của Liszt. Tôi đã đặt vé nghe cả hai buổi diễn
từ cuối tháng 3. Té ra tôi đã quá lo xa: Tới trước giờ diễn phòng bán vé vẫn mở.
Đại khán phòng Suntory Hall vẫn còn khoảng nửa số ghế bỏ trống trong cả hai buổi
diễn.
Dù sao đặt chỗ trước vẫn có cái lợi là được vé rẻ mà chỗ lại
tốt. Tôi ngồi hàng thứ tư sau dàn nhạc, phía pianist nên nhìn rõ hai bàn tay của
Pogorelich. Một số bài báo từng mô tả rằng các buổi hòa nhạc của Pogorelich thường
diễn ra khá kỳ quái ngay từ hình thức. Nào là ông yêu cầu tắt hết đèn, chỉ có
hai bàn tay ông là được chiếu sáng, nào là ông từng mắng khán giả khi họ làm ồn,
v.v. Giờ đây tôi được thực sự mục sở thị. Vừa bước vào phòng hòa nhạc nửa giờ
trước khi buổi biểu diễn bắt đầu, tôi thấy chính maestro Ivo Pogorelich, đầu đội
mũ len, mình vận bộ đồ thể thao, chân xỏ dép lê, ngồi trước cây grand piano
Steinway đặt chính giữa sân khấu, đang tập rất chậm những đoạn nhạc từ các tác
phẩm ông sẽ trình diễn. Ông chơi rất khẽ, như tìm kiếm âm thanh. Có lúc ông
chơi một nốt, rồi nghiêng đầu lắng nghe âm cộng hưởng trong khán phòng. Thỉnh
thoảng ông đưa cặp mắt đờ đẫn liếc nhìn khán giả đang lục tục đi vào chỗ ngồi.
Chốc chốc ông lại thò tay xuống sàn lấy bình nước khoáng, mở nút, rồi một tay vẫn
tiếp tục chơi đàn, tay kia đưa bình lên miệng uống. 10 phút trước lúc buổi diễn
bắt đầu, và chỉ sau khi một nữ nhân viên Kajimoto Music – hãng tổ chức biểu diễn
nhạc cổ điển – ra nhắc tới lần thứ hai, ông mời chịu đứng lên, uể oải đi vào
trong cánh gà.
Ivo Pogorelich xuất hiện như một ngôi sao chổi sáng chói trên
bầu trời âm nhạc cổ điển cách đây hơn 3 thập kỷ tại cuộc thi piano quốc tế mang
tên Chopin lần thứ X ở Warsaw năm 1980. Lối trình diễn Chopin của chàng
trai 22 tuổi người Nam Tư này đã khiến tranh cãi nổ ra trong hội đồng giám khảo. Sau
khi Pogorelich bị loại khỏi vòng chung kết, nghệ sĩ piano Martha Argerich đã giận
dữ bỏ hội đồng giám khảo ra về. Bà nói, cảm thấy xấu hổ vì ngồi trong một
hội đồng đã loại một thiên tài. Tiếp theo bà, một số giám khảo khác cũng tuyên
bố rút khỏi hội đồng. Cuộc thi đã bị ngừng lại 48 tiếng đồng hồ, có nguy cơ phá
sản, khiến chủ tịch hội đồng nhà nước Ba Lan phải trực tiếp can thiệp để thuyết
phục các giám khảo kia ở lại. Có nguồn tin chưa được kiểm chứng cũng như một số
biểu hiện cho thấy việc loại Pogorelich năm đó đã được đạo diễn bởi bàn tay của
Moscow[1].
Tuy nhiên, cũng chính vì bị loại mà Pogorelich vụt trở thành nổi tiếng toàn thế
giới. Hãng Deutsche Grammaphon uy tín đã ký hợp đồng thu âm với ông. Một năm
sau, ông đã được mời biểu diễn ra mắt tại Carnegie Hall ở New York, rồi tại
London. Từ đó ông đã lưu diễn độc tấu cũng như cùng các dàn nhạc hàng đầu thế
giới, như DNGH Boston, DNGH London, DNGH Chicago, Vienna Philharmonic và Berlin
Philharmonic.
Dù sao, việc bị loại khỏi cuộc thi Chopin cách đây 32 năm có lẽ cũng là một trong hai nỗi đau lớn nhất đời ông. Tại cuộc họp báo ngay sau khi bị loại, ông nói: “Tôi đã tới đây là để khởi đầu một phương hướng mới trong trình diễn âm nhạc của Chopin.” Song, như ông đã thổ lộ sau này, việc bị loại đã gây cho ông một nỗi thất vọng lớn. Nỗi đau thứ hai, xảy ra khi vợ ông, Aliza Kezeradze, đồng thời từng là người thầy piano của ông, qua đời vào năm 1996, đã khiến ông rơi vào trạng thái trầm cảm, phải ngừng biểu diễn một số năm. Mặc dù vậy, Ivo Pogorelich vẫn nằm trong số những nghệ sĩ piano lừng danh nhất thế giới trong suốt 3 thập kỷ qua. Có người còn quả quyết rằng, sau khi nghe Pogorelich chơi,nghệ sĩ piano huyền thoại Vladimir Horowitz đã nói: “Bây giờ thì tôi có thể nhắm mắt được rồi.”
Dù sao, việc bị loại khỏi cuộc thi Chopin cách đây 32 năm có lẽ cũng là một trong hai nỗi đau lớn nhất đời ông. Tại cuộc họp báo ngay sau khi bị loại, ông nói: “Tôi đã tới đây là để khởi đầu một phương hướng mới trong trình diễn âm nhạc của Chopin.” Song, như ông đã thổ lộ sau này, việc bị loại đã gây cho ông một nỗi thất vọng lớn. Nỗi đau thứ hai, xảy ra khi vợ ông, Aliza Kezeradze, đồng thời từng là người thầy piano của ông, qua đời vào năm 1996, đã khiến ông rơi vào trạng thái trầm cảm, phải ngừng biểu diễn một số năm. Mặc dù vậy, Ivo Pogorelich vẫn nằm trong số những nghệ sĩ piano lừng danh nhất thế giới trong suốt 3 thập kỷ qua. Có người còn quả quyết rằng, sau khi nghe Pogorelich chơi,nghệ sĩ piano huyền thoại Vladimir Horowitz đã nói: “Bây giờ thì tôi có thể nhắm mắt được rồi.”
Tiếng vỗ tay nổi lên khi Pogorelich và nhạc trưởng Yamashita
bước ra sân khấu. Sau 15 phút, Pogorelich đã kịp thay đồ để biến hóa từ bộ dạng
của một ông Tây ba-lô, thành một người đàn ông cao to lịch lãm, nét mặt đượm buồn,
tóc điểm bạc húi cua, vận bộ cánh biểu diễn đuôi én màu đen quý phái. Ông chậm
rãi cúi chào rồi đặt bản nhạc lên giá. Hầu hết các nghệ sĩ độc tấu đều biểu diễn
theo trí nhớ. Chỉ có vài người nhìn bản nhạc khi chơi, cho dù đó là những tác
phẩm họ đã diễn đi diễn lại hàng trăm lần. Ngoài Pogorelich, tôi biết ít nhất một
người nữa như vậy: danh cầm Sviatoslav Richter [2]. Dàn nhạc cỡ thính phòng, chỉ
gồm 15 nhạc công từ DNGH Sinfonia Varsovia, ngồi phía trước đàn piano. Sinfonia
Varsovia vốn xuất thân từ Dàn nhạc thính phòng Ba Lan (Polish Chamber
Orchestra). Dàn nhạc này sau đó được mở rộng và đổi tên thành DNGH Sinfonia
Varsovia để đệm cho danh cầm violin Yehudi Menuhin khi ông này sang Ba Lan biểu
diễn vào năm 1984. Menuhin cho rằng không một dàn nhạc nào ông từng chỉ huy hoặc
diễn cùng lại làm ông thỏa mãn như Sinfonia Varsovia.
Chương 1, Allegro maestoso, của concerto số 1 có phần mở đầu
bằng dàn nhạc khá dài, 138 nhịp, khiến người nghe chờ đợi những hợp âm đầu tiên
của piano. Và đây rồi, “mi, ré-mi-sol, si, si, si”. Hai hợp âm cuối cùng được
ghi trong tổng phổ như các hợp âm rải, nhưng hai bàn tay rộng trời sinh của
Pogorelich đã chơi tất cả các notes cùng một lúc. Những đoạn chạy nhanh vụt lên
chao xuống, những đoạn chậm dài lê thê. Những hợp âm mạnh vang rền như tiếng sấm,
khiến có lúc tôi tưởng toàn bộ vòm trần Suntory Hall sắp sụp xuống, trong khi
những notes cao và nhẹ nghe như gió thoảng lướt trên đầu các khóm trúc. Tôi
chưa từng thấy một pianist thứ hai nào, kể cả Vladimir Horowitz, có được mộtfortissimo
mạnh và một pianissimo nhẹ như của Pogorelich. Nhưng các hợp âm forte của
Pogorelich không đanh, mà sâu và đen tối như vực thẳm, còn những đoạn crescendo
(to dần) như sóng biển dâng trào với một sức mạnh khủng khiếp không gì ngăn cản
nổi. Lên tới đỉnh điểm, âm thanh như tsunami vượt qua kè chắn, nhấn chìm mọi vật.
Các đoạn chạy, dù là rất nhẹ, cũng rõ từng note, long lanh như giọt sương, giọt
ngọc, phản quang muôn sắc cầu vồng, tựa hồ ánh sáng chen với bóng tối ngay
trong một câu nhạc. Âm nhạc Chopin trong cách trình bày của Pogorelich hiện lên
như những kiệt tác chiaroscuro[3] đầy tương phản, giàu độ chuyển sắc, và huyền
bí của Rembrandt. Lối nhấn, và chơi mạnh bè trầm ở tay trái khiến tiếng đàn của
Pogorelich thậm chí còn mang cả hơi thở của nhạc rock!
Nếu những cách trình bày truyền thống vẽ nên những bức tranh
đẹp khi được ngắm nhìn từ xa, mà để săm soi các chi tiết, người xem phải tiến lại
gần, có khi phải dùng kính lúp quan sát, thì lối chơi của Pogorelich cho khán
giả nhìn thấy cả toàn cục lẫn chi tiết cùng một lúc, các mảng sáng tối lớn đồng
hiện cùng các nếp vải, các loé sáng từ những viên đá quý nạm trên hoa tai, vòng
cổ, và giọt lệ ngập ngừng trong khoé mắt.
Đó có còn là Chopin nữa không? Dĩ nhiên đó vẫn là bản nhạc của
Chopin. Trong toàn bộ 2 concerti, tai tôi nghe thấy Pogorelich chỉ chơi sai một
note. Nhưng ông đã thay đổi hầu như toàn bộ cách thể hiện, tempo, cường độ, trường
độ, thậm chí đôi khi cả nhịp điệu. Ví dụ, trong chương 3 (Rondo - Vivace) của
concerto số 1, các appoggiatura kép [4] cùng với note chính ở nhịp 173, 181,
189, 203, và trong phần lặp lại ở nhịp 417, 425, 433, 447, đã được ông chơi
thành móc tam, nhấn vào note đầu tiên. Như một hoạ sĩ vẽ chân dung, coi khinh
việc khôi phục sự “giống” bề ngoài, để vẽ nên dung nhan tinh thần được nhìn từ
nhiều phía cùng một lúc, Pogorelich đã khai triển các ý tưởng âm nhạc thành chuỗi,
thành dãy, lôi từ các đoạn chạy ra những giai điệu bất ngờ trong một không gian
âm nhạc đa chiều đa diện.
Đối với một số người, ví dụ như cô giáo dạy piano của tôi, những
thay đổi như vậy tương đương với một tác phẩm khác. Đúng, nếu quý vị chờ đợi một
Chopin “truyền thống”, một Chopin ve vuốt lỗ tai, thì quý vị chắc sẽ thất vọng
khi nghe Pogorelich. Ít nhất, quý vị hãy tìm nghe những người từng đoạt giải tại
các cuộc thi piano quốc tế, đặc biệt là cuộc thi Chopin, nơi người ta đã đặt ra
một tiêu chuẩn, một cái khuôn sẵn cho thẩm mỹ âm nhạc. Có cả một danh sách dài
dặc những pianists như vậy. Riêng cuộc thi Chopin từ năm 1927 tới nay đã có 15
người đoạt giải nhất, 17 người giải nhì, 17 người giải ba, chưa kể giải 4 – 6.
Nhưng xét cho cùng, chúng ta là ai để có thể phán xét và ép buộc Chopin phải là
thế nào trong cảm nhận của người khác?
Khi Pogorelich kết thúc concerto số 2, tiếng vỗ tay nổi lên ầm
ầm xen với tiếng kêu “Bravo” tứ phía, trong đó có cả giọng phụ nữ. Pogorelich
phải ra chào tới 7 lần, nhưng ông không chơi encore.
Xuất hiện trong đêm recital, với tập nhạc trong tay, ông xếp
bản nhạc đầu tiên, sonata số 2 của Chopin, lên giá nhạc, rồi vứt toẹt các bản
còn lại xuống sàn, cạnh chân đàn piano.
Sviatoslav Richter, sau khi ngồi xuống, thường đếm nhẩm tới
30 trước khi chơi note đầu tiên.
Vladimir Horowitz thường quay xuống ngó khán giả một lượt, nháy mắt với vài người quen, rồi mới bắt đầu. Arturo Michelangeli thì ngồi yên lặng, xoa tay như bắt quyết. Còn Pogorelich vừa ngồi xuống, đã vung tay trái chơi ngay “Ré – mi mi…”, không để khán giả kịp chờ đợi. Grave - Doppio movimento (uy nghi – nhanh gấp đôi) của ông dồn dập như bão tố. Tuy nhiên đây là cơn bão trong tâm hồn của một Pogorelich ngoại ngũ tuần, đã từng trải và đầy đau khổ. Nó sôi sục trong sâu thẳm và âm u, chứ không tuôn trào, uất ức như khi ông chơi chính bản nhạc này cách đây 32 năm tại cuộc thi Chopin ở Warsaw. Trong “Hành khúc tang lễ”, những hợp âm trầm hùng cung Si giáng thứ nối tiếp nhau to dần rồi lại khẽ đi như những bước chân đoàn người đưa tang khi gần khi xa. Vượt lên trên nền hành khúc u tối nặng nề đó là tiếng than khóc cung Ré giáng trưởng, mà Pogorelich chơi thật trong sáng, ngân nga, và day dứt. Đoạn kết sonata sầm sập gió cuốn, đá lăn, và kết thúc cũng bất ngờ như khi bắt đầu.
Vladimir Horowitz thường quay xuống ngó khán giả một lượt, nháy mắt với vài người quen, rồi mới bắt đầu. Arturo Michelangeli thì ngồi yên lặng, xoa tay như bắt quyết. Còn Pogorelich vừa ngồi xuống, đã vung tay trái chơi ngay “Ré – mi mi…”, không để khán giả kịp chờ đợi. Grave - Doppio movimento (uy nghi – nhanh gấp đôi) của ông dồn dập như bão tố. Tuy nhiên đây là cơn bão trong tâm hồn của một Pogorelich ngoại ngũ tuần, đã từng trải và đầy đau khổ. Nó sôi sục trong sâu thẳm và âm u, chứ không tuôn trào, uất ức như khi ông chơi chính bản nhạc này cách đây 32 năm tại cuộc thi Chopin ở Warsaw. Trong “Hành khúc tang lễ”, những hợp âm trầm hùng cung Si giáng thứ nối tiếp nhau to dần rồi lại khẽ đi như những bước chân đoàn người đưa tang khi gần khi xa. Vượt lên trên nền hành khúc u tối nặng nề đó là tiếng than khóc cung Ré giáng trưởng, mà Pogorelich chơi thật trong sáng, ngân nga, và day dứt. Đoạn kết sonata sầm sập gió cuốn, đá lăn, và kết thúc cũng bất ngờ như khi bắt đầu.
Nocturne op. 48 No. 1 thường được coi là thành tựu vĩ đại nhất
về cảm xúc của Chopin. Nhà phê bình Kleczytheński cho rằng đoạn giữa của
nocturne này là “câu chuyện về một nỗi đau còn lớn hơn, được kể lại bồn chồn khắc
khoải; những tiếng thụ cầm vẳng xuống từ thiên đàng mang đến một tia hy vọng,
nhưng rồi cũng trở nên bất lực khi cố xoa dịu tâm hồn đã bị tổn thương.” Nhưng,
kể cả với nocturne này, Pogorelich cũng chơi hoàn toàn khác phong cách truyền
thống. Phần Lento (chậm) được ông chơi rất chậm. Những hợp âm mạnh ở bè trầm và
những note nhấn soprano (giọng nữ cao) đã làm biến mất mezza voce (giọng vừa và
dịu) theo cách hiểu thông thường. Bất chợt, người ta không thể nhắm mắt lim dim
nghe tiếng nhạc du dương quen thuộc, mà phải tự hỏi vì sao ông lại chơi khác lạ
như thế. Ông chơi cả 3 phần lento, pìu lento (chậm hơn), và doppio movimento
(nhanh gấp đôi) với một tốc độ gần như bằng nhau. Đoạn kết của phần đầu thường
được chơi căng thẳng và mạnh. Nhưng Pogorelich lại làm ngược lại: Ông chơi rất
khẽ. Đoạn các nhóm 3 notes móc kép được ông chơi thật tuyệt, với lối crescendo
vô song của ông: chuyển từ thì thầm, u tối, một cách từ từ, liên tục, âm ỉ, tới
bừng sáng, bùng lên như muốn vỡ tung lồng ngực.
Mephisto Waltz của Liszt mô tả một đoạn trong Faust. Faust là
một tiến sĩ thần học, bác sĩ, đồng thời là một nhà toán học lừng danh, đã ký
giao kèo bán linh hồn cho quỷ Satan để đổi lấy kiến thức vô biên và khoái lạc.
Sau 24 năm, khi hợp đồng hết hạn, Faust đã bị quỷ Satan tới xé xác, máu me bắn
toé khắp nhà. Mephisto Waltz số 1 mô tả đoạn Faust và quỷ Mephistopheles - sứ
giả của Satan - ghé vào dự một đám cưới tại một ngôi làng.
Mephistopheles vớ một cây vĩ cầm từ một nhạc công bị hắn bỏ bùa, chơi một điệu nhạc đầy men say cực kỳ quyến rũ, khiến Faust trở nên si mê quay cuồng với một gái làng trong một điệu vũ man dại, từ trong phòng ra ngoài sân, rồi vào rừng. Đến đây tiếng vĩ cầm trở nên dịu dàng, tới khi chim hoạ mi cất tiếng hót tràn ngập tình yêu. Mephisto Waltz trong tiếng đàn của Pogorelich nghe như âm thanh của một dàn nhạc. Các ngón tay dài và khoẻ của ông cắm ngập xuống phím đàn như móng vuốt của con mãnh thú cắm vào da thịt con mồi, cầy lên những vắt cung bậc ma quái, nhễ nhại âm sắc của dàn dây, của bộ gõ, bộ hơi với một công lực mà tôi chỉ từng cảm thấy, nếu như có một chút tương đồng, từ Vladimir Horowitz.
Mephistopheles vớ một cây vĩ cầm từ một nhạc công bị hắn bỏ bùa, chơi một điệu nhạc đầy men say cực kỳ quyến rũ, khiến Faust trở nên si mê quay cuồng với một gái làng trong một điệu vũ man dại, từ trong phòng ra ngoài sân, rồi vào rừng. Đến đây tiếng vĩ cầm trở nên dịu dàng, tới khi chim hoạ mi cất tiếng hót tràn ngập tình yêu. Mephisto Waltz trong tiếng đàn của Pogorelich nghe như âm thanh của một dàn nhạc. Các ngón tay dài và khoẻ của ông cắm ngập xuống phím đàn như móng vuốt của con mãnh thú cắm vào da thịt con mồi, cầy lên những vắt cung bậc ma quái, nhễ nhại âm sắc của dàn dây, của bộ gõ, bộ hơi với một công lực mà tôi chỉ từng cảm thấy, nếu như có một chút tương đồng, từ Vladimir Horowitz.
Trong hai đêm hoà nhạc, Pogorelich dường như đã đưa tôi ngao
du từ các bức tranh Baroque trong hai concerti, vượt qua Cổ Điển, Lãng mạn
trong sonata và nocturne của Chopin, tới Siêu thực trong Mephisto Waltz và Lập
Thể giải tích trong sonata của Liszt.
Những note cuối cùng của bản sonata 35 trang này được ông
chơi cách quãng tới xa xăm. Kết thúc bản sonata, ông giữ ngón tay rất lâu trên
note si thấp nhất, cho tới sau khi toàn bộ âm thanh đã tắt hẳn.
Cả khán phòng mênh mông chìm vào im lặng, không tiếng ho, tiếng
sột soạt, thậm chí cả tiếng thở. Hình như tất cả khán giả cùng nín thở lúc đó.
Im lặng tưởng như tuyệt đối.
Im lặng tới mức cả 4’33’’ của John Cage cũng phải chào thua.
Im lặng của Cái Chết.
Ivo Pogorelich từ giã các fans, lên xe ra về sau đêm diễn.
Đối với một người đã thành thục các kỹ thuật phức tạp nhất của
nghệ thuật chơi piano từ năm 16 tuổi, và vào học tại nhạc viện Moscow 5 năm trời
“chỉ để hiểu mình không nên chơi piano như thế nào”, thì chơi piano theo phong
cách truyền thống của số đông là một việc dễ như chạy gamme. Nhưng Pogorelich
đã sớm từ bỏ con đường làm một nghệ sĩ piano “giỏi nhưng tầm thường” để trở
thành một pianist ngoại hạng. Ivo Pogorelich trong trình diễn piano hiện đại
cũng tựa như Pablo Picasso trong hội hoạ, dù năm 12 tuổi đã vẽ như Raphael,
song đã từ chối đi theo lối cũ, để sáng tạo nên “Các cô gái Avignon” và ”La
Guernica”, mà cho đến tận giờ, nhiều người vẫn không “tiêu hoá” nổi.
Nếu thiên nhiên chỉ là cái cớ để Rembrandt, Picasso sáng tạo
nên các kiệt tác hội họa của mình, thì Mozart, Beethoven, Chopin, Liszt, Ravel,
Rachmaninov, Balakirev, v.v có lẽ chỉ là nguồn mạch để từ đó Pogorelich rút ra
tiếng đàn và cách biểu hiện của riêng ông. Đó là tác phẩm nghệ thuật, nhân cách
nghệ sĩ của ông, vô tiền khoáng hậu.
Vì thế, việc Đại khán phòng Suntory Hall còn nhiều chỗ trống
trong hai đêm diễn của Ivo Pogorelich không phải là điều ngạc nhiên. Một người
bình thường thích âm nhạc và nghệ thuật qua con đường học vấn dễ bị điều kiện
hoá bởi những gì chính thống cho là hay là đẹp. Tiềm thức con người luôn so
sánh những gì mình đang nhìn thấy hoặc đang nghe thấy với những gì đã từng nhìn
và nghe thấy, nay còn đọng lại trong trí nhớ. Kho dữ liệu ấy luôn đi kèm với những
tiêu chuẩn về cái hay cái đẹp mà con người được dạy và được học. Chính cái nền
học vấn và văn hoá này đã khiến người ta không còn vô tư khi thưởng thức nghệ
thuật. Người ta không thích Chopin trong cách trình bày của Pogorelich không phải
vì tiếng đàn (rất đẹp) hay kỹ thuật (siêu việt) của ông, mà bởi ông chơi Chopin
hoàn toàn khác thường.
Không ít người coi lối chơi của Pogorelich là quá táo bạo, quá mạnh, như một cuộc cách mạng, trong khi người ta chỉ muốn “cải lương”, cải tiến chút xíu trong cách trình diễn, chủ yếu nặng về kỹ thuật, không đi chệch ra khỏi dòng chính của “phong cách Chopin”, đã được thiết lập vững chắc bởi những nhạc viện, viện nghiên cứu, hội đoàn “chính thống” đầy “thẩm quyền” trên toàn thế giới. Ngày nay, để có một “sự nghiệp quốc tế”, một nghệ sĩ piano thường phải đi theo con đường đã vạch sẵn (học nhiều năm tại nhạc viện, chơi theo yêu cầu để thắng tại các cuộc thi, giành các hợp đồng biểu diễn, v.v.). Đối với những người như vậy, lối chơi của Pogorelich cũng gần như một sự phủ nhận, một sự xúc phạm. Thực ra, những gì Pogorelich đang làm trong nghệ thuật trình tấu piano cũng tương tự như những xì-căng-đan mà Edouard Manet hay Claude Monet đã gây ra trong hội họa cuối thế kỷ 19 khi các hoạ sĩ này tuyên chiến với “trường phái hàn lâm”.
Không ít người coi lối chơi của Pogorelich là quá táo bạo, quá mạnh, như một cuộc cách mạng, trong khi người ta chỉ muốn “cải lương”, cải tiến chút xíu trong cách trình diễn, chủ yếu nặng về kỹ thuật, không đi chệch ra khỏi dòng chính của “phong cách Chopin”, đã được thiết lập vững chắc bởi những nhạc viện, viện nghiên cứu, hội đoàn “chính thống” đầy “thẩm quyền” trên toàn thế giới. Ngày nay, để có một “sự nghiệp quốc tế”, một nghệ sĩ piano thường phải đi theo con đường đã vạch sẵn (học nhiều năm tại nhạc viện, chơi theo yêu cầu để thắng tại các cuộc thi, giành các hợp đồng biểu diễn, v.v.). Đối với những người như vậy, lối chơi của Pogorelich cũng gần như một sự phủ nhận, một sự xúc phạm. Thực ra, những gì Pogorelich đang làm trong nghệ thuật trình tấu piano cũng tương tự như những xì-căng-đan mà Edouard Manet hay Claude Monet đã gây ra trong hội họa cuối thế kỷ 19 khi các hoạ sĩ này tuyên chiến với “trường phái hàn lâm”.
Dù sao, những người trung thành với phong cách piano truyền
thống vẫn có thể yên tâm: Ivo Pogorelich chỉ có một, độc nhất vô nhị. Với những
thính giả như bà người Âu ở đầu bài viết này, Tokyo có đủ lựa chọn dành cho họ.
Từ nay tới cuối năm, theo trình tự thời gian, họ có thể đi nghe Akira Eguchi
(Hamarikyu Asahi Hall), Đặng Thái Sơn (Kioi Hall), Yu Kosuge (Izumi Hall),
Maurizio Pollini (Suntory Hall), Radu Lupu (Tokyo Opera City Hall), và Lang
Lang (Suntory Hall). Những thính giả thích cả phong cách truyền thống lẫn những
lối chơi “phá cách” có nhiều lựa chọn hơn, bởi họ không câu nệ, mà chỉ đơn giản
là họ thích những gì họ thấy thích. Ít lựa chọn nhất thuộc về những ai đã chán
những sáo mòn, cho dù có êm ái, tinh xảo. Đối với những người này, lối diễn
tấu và tiếng đàn của Ivo Pogorelich có tác dụng như một thứ rượu mạnh, một khi
đã “phê” rồi thì mọi đồ uống khác đều trở nên nhạt nhẽo.
Chú Thích:
[1] Xem Barry Davis, “Có
thể nào chơi như thế” và các bài liên quan ở cuối bài đó.
[2] Trí nhớ giảm sút về cuối đời đã khiến Richter phải biểu
diễn với bản nhạc mở trước mặt.
[3] Chiaroscuro - thuật ngữ tiếng Ý có nghĩa là “sáng-tối”,
chỉ tương sự phản rõ ràng về sắc độ, được dùng trong hội họa nhằm tạo khối và
nêu bật chủ đề. Trong số các danh hoạ chiaroscuro phải kể đến Caravaggio,
Rembrandt, Velasquez, Rubens.
[4] Appoggiatura (note dựa hay note hoa mỹ) - thuật ngữ âm nhạc
tiếng Ý chỉ note thêm vào trước note chính, có trường độ ngắn hơn và cường độ yếu
hơn nốt chính..
Ivo Pogorelich (55 tuổi) chơi concerto
No 2 cùa Chopin
(chương 3)
Ivo Pogorelich (23 tuổi - 1981)
chơi concerto No 2 cùa
Chopin.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét