Mộng Liên đường chủ nhân,
trong bài tựa Truyện Kiều đã viết "Tài mà không được gặp gỡ, tình mà không
được hả hê, đó là căn nguyên của hai chữ đoạn trường vậy" (Trần Trọng Kim
dịch). Có tài mà không được gặp gỡ, đành phải đem chôn cuộc đời vào những chốn
tầm thường dung tục, chịu cảnh vùi lấp của bao sự đời nhố nhế, từ ngàn xưa vẫn
là bi kịch của kẻ tài hoa. Người xưa gọi đó là "Không cốc u lan"
(Cánh hoa lan u buồn nơi cốc vắng), tức là cảnh ngộ "Biết bao hoa đẹp
trong rừng thắm/ Đem gửi hương cho gió phụ phàng/ Mất một đời thơm trong kẽ
núi/ Không người du tử đến nhằm hang" (Xuân Diệu). Những tài năng bị vùi lấp
đó thường phát tiết anh hoa ra ngọn bút, để tạo nên những vẻ đẹp hoặc bi tráng
hoặc thiết tha cho cuộc sống, khiến ý nghĩa cuộc đời càng trở nên thăm thẳm,
mênh mông.
Song cũng có những trang tài
tử đem hết tài hoa để gửi lại cho đời những trang diệu bút, mà lại bị người đời
quên lãng một cách quá đỗi bất công. Bên cạnh nhà thơ Lý Hạ của Trung Quốc, tôi
muốn nói đến nhà thơ Đỗ Hữu của Việt Nam.
Tôi đã tìm tòi bao năm, kể cả
trên mạng Internet, mà chỉ được một ít thông tin quá mơ hồ về Đỗ Hữu. Nhà thơ
tiền chiến này chỉ được nhắc đến một cách tình cờ và được nhận xét chung chung
"hay hơn Quang Dũng", thậm chí những câu thơ tuyệt diễm của ông còn bị
đem gán cho người khác! Không biết thuở sinh tiền ông có thấy cay đắng hay
không, nhưng mấy mươi năm sau, kẻ hậu học là tôi vẫn không cảm thấy ngậm ngùi
cho một nha thơ tài hoa tột bậc bị lãng quên.
Thế hệ chúng tôi, do những
biến động của lịch sử, đã không có điều kiện tìm tòi và viết về Đỗ Hữu đã đành,
nhưng không hiểu sao thế hệ đàn anh sao lại quá thờ ơ với ông. Tôi đã cất công
sưu tầm bao nhiêu năm, nhưng cũng không tìm được thêm gì ngoài hai bài Chiều
Việt Bắc và Sầu Ai Lao, được in trong phần phụ lục cuốn một vài nhận
xét về Bà Huyện Thanh Quan của Bùi Giáng (Nxb Tân Việt, 1957). Hai
bài đó, tôi chỉ được đọc sau khi sách ra đời hơn mười lăm năm, và chúng đã để lại
trong tôi dấu ấn không thể phai mờ. Điều làm tôi ngạc nhiên, thậm chí giận dỗi
là sau này, trong hai cuốn ghi chép tản mạn thượng thừ về thi ca Đi vào
cõi thơ và Thi ca Tư tưởng, lại không thấy nhà thơ Bùi Giáng nhắc đến
Đỗ Hữu, dù trong đó, có lúc ông đã bốc đồng ca ngợi không tiếc lời những nhà
thơ rất đỗi xoàng xĩnh hoặc vô danh. Nhà thơ họ Bùi đã quên mất người bạn cố
tri mà ông từng trân trọng và gắn bó bằng những tình cảm đằm thắm từ thời bắt đầu
cầm bút!
Bởi vậy, tôi cảm động xiết
bao khi một lần về chơi ở đất Bình Dương, một người bạn già vong niên chuyên
nghiên cứu văn học khoe với tôi bài Chiều Việt Bắc được chép trong cuốn
sổ tay, gồm những bài thơ hay và lạ do anh sưu tập. Nhìn nét chữ nắn nót, bay
bướm trên trang giấy của một người yêu thơ đã bước vào tuổi "cổ lai
hy", ta mới thấy được tấm lòng trân trọng của anh dành cho bài thơ và cho
tác giả. Có lẽ lúc đó anh cũng không nghĩ rằng tôi đã biết và đã yêu bài thơ
này cách đó hơn ba thập kỷ, bởi cái tên Đỗi Hữu vẫn còn quá lạ lẫm đối với
không ít những người làm thơ và yêu t hơ của nhiều thế hệ.
Thi ca- tôi chỉ muốn nói đến
thi ca đúng nghĩa- quả là vưu vật đáng trân trọng của trần gian. Một dân tộc
không còn biết yêu thi ca, hoặc lạm dụng thi ca quá mức, là nền văn hóa đã đến
lúc suy đồi. Đoàn Phú Tứ được nhắc đến như một tài năng thi ca lớn chỉ với một
bài Màu thời gian. Thế thì vì đâu mà bao nhiêu năm qua, chúng ta lại lãng
quên Đỗ Hữu với hai tuyệt tácSầu Ai Lao và Chiều Việt Bắc mà nhiều
người cho rằng còn hay hơn cả thơ Quang Dũng?
Tôi xin phép được ghi toàn
văn hai bài thơ đó ra đây, như một lời cảm tạ Đỗ Hữu về những cảm xúc diệu kỳ,
mà thơ ông đã đem lại cho tôi, giữa một buổi chiều xa xưa ở vùng trung du xứ Quảng.
Sầu Ai Lao
Đã lâu trăng cứ vàng hiu hắt,
Mây cứ sầu tuôn núi võ vàng.
Lá vẫn pha chàm trên sắc áo,
Mưa nguồn thác đổ đá mù
sương.
Giữa ngày lạc lõng trên rừng
rậm
Với nắng bâng khuâng mấy thuở
nào
Với núi xanh lơ, chòi tím nhạt
Mây trời bàng bạc sầu Ai
Lao
Lưng đèo quán gió mờ hun hút
Thôn bản nằm trơ dưới nắng
chiều
Tai vẫn nghe đều dòng thác đổ
Người ơi, thương nhớ biết
bao nhiêu!
Ở đây hơi đá chiều vây khắp,
Khép chặt mình tôi giữa núi
rừng.
Buồn quá ngày đi, đêm trở lại,
Hoàng hôn hoa bản phấn rưng
rưng.
Người có theo tôi lên dốc nắng,
Nhìn xem hoa rải sắc trên đường.
Chiều nay gió thổi buồn ghê
lắm,
Lá đổ sau chân một lối vàng.
Chiều Việt Bắc
Nắng xuống phương nào người
thấy không?
Mà đây chiều tím rụng song
song
Vàng tuôn mấy lối ngày thu
muộn,
Ai liệm hoàng hôn kín mắt
trong?
Khói thuốc lên mờ xanh bóng
ai
Phương xa chiều xuống ngút
sông dài
Đường kia có phải sầu xưa đọng?
Trở bước, hoa lau trắng ngập
đồi.
Con đường đất đỏ mờ sau bản
Thung lũng vàng lơ, nắng trở
chiều.
Núi biếc chập chùng vây ải lạnh
Dặm về lá đổ phấn tàn xiêu.
Rừng núi âm u chiều Việt Bắc
Chầy ngày lạc bước, ai ngồi
than.
Buồn xưa chiều đọng sầu lau
lách.
Đã mấy mươi năm qua, nhạc điệu
của hai bài thơ vẫn mãi ám ảnh tôi, nghe như nhạc điệu trong bài Đôi bờ của
Quang Dũng. "Thương nhớ ơ hờ, thương nhớ ai? Sông xa từng lớp lớp mưa dài…
Khói thuốc xanh đong khơi lối xưa/ Đêm đêm sông Đáy lạnh đôi bờ/ Thoáng hiện em
về trong đáy cốc/ Nói cười như chuyện một đêm mơ". Song trong hai bài thơ
của Đỗ Hữu dường như trĩu nặng nỗi sầu cô lữ hơn cả Đôi bờ, và bàng bạc
nỗi "mang mang thiên cổ sầu" trong hồn thơ Huy Cận.
Giai đoạn xa nhà để nổi trôi
theo nợ áo cơm, một chiều đứng giữa rừng núi điệp trùng của một miền cao xứ Quảng,
giữa "núi biếc chập chùng", giữa "Buồn xưa chiều đọng sầu lau
lách", khi một mình lầm lũi trên "Dặm về lá đổ phấn tàn xiêu",
khác lữ thứ chợt cảm nhận ra nỗi buồn diệu vợi mênh mông. Không phải là nỗi
"Tư cố hương" nhớ quê nhà hay là "sầu tương tư" một bóng
hình nào chia xa biền biệt. Không! Nó mênh mông man mác, nó tràn ngập cả hồn
khách bằng nỗi sầu hoài cổ, bằng niềm dự cảm xót xa về cảnh đời hư ảo, về sự
mong manh của tình yêu, về sự phù du của một kiếp người. Một nỗi buồn mênh mông
như nỗi buồn trong Chiều xưa của Huy Cận: Buồn gieo theo gió ven
hồ/ Đèo cao quán chật, bến đò lau thưa/Đồn xa quằn quại bóng cờ/ Phất
phơ buồn tự thời xưa thổi về… Sống trong đời, tôi cho đó chính là những
phút giây hạnh ngộ, vì có khi chỉ trong những lúc ấy, chúng ta mới có cơ duyên
cảm nhận hết được ý nghĩa kỳ diệu của thi ca. Cảnh vật tác động vào tâm hồn khiến
những câu thơ như ngân lên những âm thanh huyền hoặc, và để lại những hình ảnh
lắng đọng mà suốt đời ta không sao quên được. Và nó hé mở cho ta thấy ý nghĩa của
cõi đời nhiều hơn là những trang luận thuyết dài dòng rối rắm về triết học, hay
những trang kinh nặng nề màu sắc diệu huyền.
Một buổi chiều đi lao động lấy
củi, đứng giữa cảnh núi rừng, đột nhiên những câu thơ của Đỗ Hữu tràn ngập
trong hồn tôi, giữa ánh hoàng hôn đang dần tắt lịm, giữa núi đồi chập chùng. Khắp
cả núi đồi, khắp cả đất trời như đắm chìm theo nỗi sầu bàng bạc. "Với núi
xanh lơ, chòi tím nhạt/ Mây trời bàng bạc sầu Ai Lao". Không phải là nỗi sầu
Ai Lao mà là nỗi sầu cô lữ. Tự nhiên tôi thấy mình sao mà cô độc, sao mà lẻ loi
giữa đất trời, và chợt cảm thấy mình sao như tên Do Thái đang lang thang phiêu
bạt qua cõi đời để tìm về một vùng Đất Hứa mơ hồ, giữa những "Lá đổ sau
chân một lối vàng" và "Hoàng hôn hoa bản phấn rưng rưng".
Giai điệu câu thơ "Mây
trời bàng bạc sầu Ai Lao" nghe sao mà buồn đến mênh mông diệu vợi. Câu thơ
có một âm trắc duy nhất, nhưng đọc lên lại nghe êm dịu như những câu thơ toàn vần
bằng trong bài Tỳ bà của Bích Khê: "Ô hay buồn vương cây ngô đồng/
Vàng rơi, vàng rơi, thu mênh mông!". Câu thơ tuyệt diễm của Đỗ Hữu khiến cả
thân xác ta như tan đi trong nỗi sầu bàng bạc giữa cảnh "Chiều nay gió thổi
buồn ghê lắm".
"Nắng xuống phương nào
người thấy không?/ Mà đây chiều tím rụng song song", ta nghe như cả không
gian với bầu trời hoàng hôn tím ngát như cùng rụng xuống với câu thơ. Không phải
thương nhớ một người, mà thương nhớ cả không gian. Hình ảnh người yêu đã hóa
thân vào nắng chiều, vào khói thuốc để cùng tình yêu bay lên những vùng trời
chiêm bao sương khói. "Khói thuốc lên mờ xanh bóng ai/ Phương xa chiều xuống
ngút sông dài". Nơi phương tôi chiều tím đang rụng xuống, nơi phương người
cũng đang bảng lảng bóng hoàng hôn.
"Mây phương tôi mộng xuống phương người" (H.N.C). Hãy ngồi tĩnh lặng giữa bóng chiều hôm để cùng tìm gặp nhau trong cõi nhớ. Hồn thơ đã khiến cho không gian trở nên bao la hơn, nỗi sầu man mác hơn và khiến cho con người càng cảm thấy nhỏ bé hơn trong nỗi sầu cô lữ. Và chính trong sự nhỏ bé ấy, trong niềm khắc khoải ấy, ta càng nhận ra ý nghĩa mênh mang của cõi đời, vốn đã bị cuộc sống xô bồ vùi lấp trong tiếng huyên náo của ngựa xe. Không biết rồi mai đây, những nỗi sầu của thế hệ "hiện đại" có tìm thấy được mình trong những vần thơ ngậm ngùi sâu lắng kia không, để cùng sẻ chia một chút ý nghĩa đời?
"Mây phương tôi mộng xuống phương người" (H.N.C). Hãy ngồi tĩnh lặng giữa bóng chiều hôm để cùng tìm gặp nhau trong cõi nhớ. Hồn thơ đã khiến cho không gian trở nên bao la hơn, nỗi sầu man mác hơn và khiến cho con người càng cảm thấy nhỏ bé hơn trong nỗi sầu cô lữ. Và chính trong sự nhỏ bé ấy, trong niềm khắc khoải ấy, ta càng nhận ra ý nghĩa mênh mang của cõi đời, vốn đã bị cuộc sống xô bồ vùi lấp trong tiếng huyên náo của ngựa xe. Không biết rồi mai đây, những nỗi sầu của thế hệ "hiện đại" có tìm thấy được mình trong những vần thơ ngậm ngùi sâu lắng kia không, để cùng sẻ chia một chút ý nghĩa đời?
Tối về, nằm trong lán trại,
trong ánh đèn dầu leo lắt, suốt đêm nghe tiếng côn trùng rả rích, tôi mới cảm
nhận được sự mênh mang của nỗi sầu cô lữ. "Tai vẫn nghe đều dòng thác
đổ/ Người ơi, thương nhớ biết bao nhiêu?". Không có tiếng thác đổ, chỉ có
tiếng gió lạnh xào xạc từng cơn trong kẽ lá, giữa vầng trăng sơ huyền ảm đạm
"Đã lâu trăng cứ vàng hiu hắt/ Mây cứ sầu tuôn núi võ vàng/ Lá vẫn pha
chàm trên sắc áo/ Mưa nguồn thác đổ đá mù sương", khiến tôi cảm thấy thêm
lạc loài cô độc, và thêm thương nhớ bâng khuâng. "Người ơi, thương nhớ biết
bao nhiêu" không phải thương nhớ một bóng hình, mà là bâng khuâng thương
nhớ về một cõi nào đó rất đỗi mơ hồ và xa muôn trùng trong tâm tưởng. Cõi nào?
Tôi không rõ. Người ơi! "Đêm nay gió thổi buồn ghê lắm". Tôi trằn trọc
suốt đêm, ghi lại cảm xúc của mình bằng hai câu thơ: "Chung dạ trùng thanh
thiết/ Mang mang cô lữ sầu", rồi tự dịch: "Suốt đêm rả rích tiếng
trùng/ Kiếp cô lữ nặng nỗi buồn mênh mang". Và chợt thấy thêm thấm thía những
câu thơ nói về cảnh đời lữ thứ trong cõi Đường thi.
Thơ Đỗ Hữu khiến ta tưởng chừng
như đang nghe lại những câu thơ tha thiết trong Đôi bờ của Quang
Dũng. Không biết ai đã chịu ảnh hưởng của ai, vì chúng ta hoàn toàn không biết
được hai bài thơ của Đỗ Hữu ra đời từ năm nào. Có người cho rằng Đỗ Hữu làm thơ
trước cả Quang Dũng. Song điều đó không quan trọng, vì chỉ có những kẻ tài hoa
mới có thể chịu ảnh hưởng của nhau theo lẽ "thanh khí ứng cầu" trong
sáng tạo. Chỉ có những tâm hồn tài hoa như Quang Dũng và Đỗ Hữu mới có thể sáng
tạo nên những vần thơ mênh mông đến thế. Còn kẻ bất tài khi bắt chước vẫn luôn
cho ta thấy hẳn đang khoác cái áo khổng lồ trên thân thể tí hon.
Không biết trong thi ca Việt
Nam có còn những câu thơ nào đẹp hơn, đằm thắm hơn, mênh mông hơn thế nữa mà bị
lãng quên hay không? Nhưng chỉ cần những câu thơ của Đỗ Hữu hay Quang Dũng còn
sống thì ta vẫn còn giữ trọn vẹn niềm tin tuyệt đối vào hồn thơ Việt!
Đỗ Phủ từng nói: Văn
chương thiên cổ sự/ Đắc thất thốn tâm tri (Văn chương là chuyện ngàn năm/
Được hay mất chỉ tấc lòng biết thôi). Tôi tin rằng hai bài thơ của Đỗ Hữu không
chỉ có "Thốn tâm tri", mà nó sẽ được nhiều người biết đến, và trân trọng
như là những tặng vật quý báu của một tâm hồn tài hoa trong cõi thơ tiền chiến.
Nhưng liệu nhà thơ có bị lãng quên?.
Huỳnh Ngọc Chiến
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét