Về văn học dân gian
Văn học dân gian là những tác phẩm
nghệ thuật ngôn từ truyền miệng được tập thể sáng tạo, nhằm mục đích phục vụ trực
tiếp cho những sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng. Với người Việt
Nam, văn học dân gian là nguồn sữa trong lành nuôi dưỡng bao thế hệ trẻ lớn lên
trong chiếc nôi tre Việt Nam, trong tiếng ru ầu ơ dân tộc. Văn học dân gian
không chỉ góp phần thể hiện đời sống lao động và tâm hồn người bình dân mà còn
là mảnh đất màu mỡ chắp cánh cho vườn hoa tình yêu tỏa hương khoe sắc. Qua văn học
dân gian, ta cảm nhận rõ hơn sự kỳ diệu của ngôn ngữ tình yêu, thấy thương hơn
gốc lúa, vườn rau, thương hơn cuộc sống quanh ta.
Về chức năng nhận thức: Văn
học dân gian được xem như "bộ bách khoa toàn thư về kiến thức, tôn giáo,
triết học" của nhân dân. Văn học dân gian gìn giữ và lưu truyền hệ thống
tri thức về tự nhiên, xã hội, tâm linh, kinh nghiệm sống, ứng xử… Văn học dân
gian là người thầy lớn đem lại cho nhân loại những bài học sinh động, gần gũi
và sâu sắc về mọi phương diện của đời sống.
Về chức năng giáo dục: Văn
học dân gian có khả năng định hướng đạo đức, luân lý cho con người trong đời sống
xã hội. Chức năng này gần gũi và có sự giao thoa với phương diện xã hội của chức
năng nhận thức. Tuy nhiên, nếu chức năng nhận thức là sự phản ánh các hiện tượng
xã hội một cách khách quan thì chức năng giáo dục lại là sự tác động, ảnh hưởng,
chi phối cả trực tiếp lẫn gián tiếp đến cộng đồng. Có những tác phẩm, nhiều nhất
thuộc thể loại hát nói, mang ý nghĩa giáo dục trực tiếp, tức ý nghĩa giáo dục
được thể hiện một cách tường minh. Song, phần lớn các sáng tác dân gian chứa đựng
ý nghĩa giáo dục hàm ẩn, tức ý nghĩa giáo dục gián tiếp.
Về chức năng thẩm mỹ: Văn
học dân gian là nghệ thuật, là quan niệm thẩm mỹ của cộng đồng, nó mang vẻ đẹp
hồn hậu, giản mộc của nhân dân. Mang bản chất nguyên hợp, văn học dân gian chỉ
thực sự phô diễn vẻ đẹp của mình khi sống trong môi trường nảy sinh và tồn tại,
tức thành phần nghệ thuật ngôn từ phải được kết nối với thành phần nghệ thuật
âm nhạc, vũ đạo trong môi trường diễn xướng.
Về chức năng sinh hoạt: Khác
với văn học viết, văn học dân gian ra đời và trở thành một bộ phận hữu cơ trong
môi trường sinh hoạt và lao động của nhân dân. Văn học dân gian gắn bó mật thiết
với cuộc đời mỗi người xuyên suốt "từ chiếc nôi ra tới nấm mồ".
Môi trường và thói quen sinh hoạt của nhân dân là điều kiện quan trọng cho văn
học dân gian hình thành và phát triển.Ra đời từ buổi sớm của xã hội loài
người, lúc con người chưa phát minh ra chữ viết. Vì vậy, truyền miệng là phương
thức duy nhất và tất yếu văn học dân gian. Khi nhân loại có chữ viết, đặc biệt
là khi chữ viết trở nên phổ biến, một bộ phận văn học dân gian được văn bản
hóa, tức phương thức truyền miệng không còn là duy nhất. Tuy vậy, đời sống thực
sự của nó vẫn được duy trì bằng con đường mà nó đã nảy sinh. Đặc trưng truyền
miệng phản ánh phương thức sinh thành, tồn tại và phát triển của văn học dân
gian. Được sáng tác và lưu truyền thông qua con đường truyền miệng, văn học dân
gian đòi hỏi ở người nghệ nhân không chỉ tài năng mà đặc biệt hơn là trí nhớ.
Bên cạnh tính truyền miệng, tính tập
thể của văn học dân gian “biểu hiện mối quan hệ phụ thuộc của văn học dân
gian vào môi trường sinh hoạt". Tính tập thể biểu hiện ở quan niệm thẩm
mĩ, ở quá trình sáng tác và lưu truyền văn học dân gian. Về phương diện sáng
tác, mỗi tác phẩm văn học dân gian là sự gia công của nhiều người, qua nhiều thế
hệ khác nhau. Tuy nhiên, sáng tác tập thể ở đây không đối lập với vai trò cá
nhân. Những bộ sử thi lớn của thế giới như: Iliát và Ôđixê, Ramayana,
Mahabharata... thường là kết quả của nhiều người sáng tác, nhiều thế hệ,
nhiều vùng miền khác nhau.
Văn học dân gian có tính địa phương,
tồn tại như là một chân lý, mà trước hết thể hiện ở những sản vật đặc biệt được
sáng tác dân gian nhắc đến. Cũng từ đó, một số địa phương trở nên nổi tiếng nhờ
ca dao, tục ngữ qua đặc sản quê mình. Chẳng hạn:
Dưa La, cà Láng, nem Báng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô
Đầm Sét.
Chàng đi nhớ cháo làng Ghề
Nhớ cơm phố Mía, nhớ chè Đồng Viên.
Người Nam bộ cũng bộc lộ niềm tự hào về đặc sản xứ sở:
Cần chi cá lóc cá trê
Thịt chuột, thịt rắn nhậu mê hơn nhiều.
Tính cách con người cũng chi phối
vào văn học dân gian rất rõ. Người miền Bắc ưa thanh lịch. Người miền Trung thẳng
thắn, bộc trực. Người miền Nam phóng khoáng. Sự tương phản được thể hiện khá rõ
qua ca dao mỗi vùng miền như:
Giữa đường gặp cánh hoa rơi
Hai tay nâng lấy cũ người mới ta.
Và:
Ra đường gặp cánh hoa rơi
Lấy chân mà đạp đừng chơi hoa tàn.
Ảnh hưởng to lớn của văn học dân
gian đối với đời sống của con người chính là: “Văn học dân gian là cội
nguồn, là bầu sữa mẹ nuôi dưỡng tâm hồn dân tộc Việt Nam". Không ít
nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn
Du, Hồ Xuân Hương, Hồ Chí Minh,.... đã tiếp thu văn học dân gian để sáng tạo
nên những tác phẩm văn chương lớn. Chúng ta nhận ra mối liên hệ chặt chẽ giữa
văn học dân gian với văn nghệ, văn hóa dân gian và đời sống thực tiễn. Chính
văn học dân gian đã giúp đưa các yếu tố văn hóa khác như: âm nhạc, nhảy
múa, diễn xướng, tâm linh... đến gần hơn với đời sống con người, góp phần
làm phong phú và đậm đà bản sắc dân tộc. Khả năng dễ nói, dễ hiểu, dễ nhớ đã
giúp văn học dân gian đi vào đời sống của nhân dân một cách tự nhiên trong mọi
hoàn cảnh. Qua văn học dân gian, những bài học về cuộc sống trở nên gần gũi
hơn, lung linh hơn. Văn học dân gian phản ánh chân thực cuộc sống lao động;
công cuộc dựng nước và giữ nước của người xưa; thể hiện truyền thống dân chủ và
tinh thần nhân văn của dân tộc; bộc lộ đời sống tâm hồn phong phú, tinh tế và
sâu sắc của nhân dân; tổng kết những tri thức, kinh nghiệm về mọi lĩnh vực
trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình.
Văn học dân gian là nơi hình thành
nên những thể loại văn học cơ bản và tiêu biểu của dân tộc, là kho lưu giữ những
thành tựu ngôn từ nghệ thuật. Văn học dân gian nêu cao những bài học về phẩm chất
đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh thần nhân đạo, lòng lạc quan,…
góp phần quan trọng bồi dưỡng cho con người những tình cảm tốt đẹp, cách nghĩ,
lối sống tích cực và lành mạnh. Nhiều tác phẩm văn học dân gian đã trở thành những
mẫu mực về nghệ thuật của mọi thời đại mà các nhà văn cần học tập để sáng tạo
nên những tác phẩm có giá trị.Mang trong mình lý tưởng thẩm mỹ,
triết lý sống cao đẹp mà tác giả gửi gắm một cách kín đáo, đến với văn học dân
gian, ta không chỉ cảm thấy hồn mình thư thái, quên đi bao muộn phiền, mà còn học
được nhiều điều tưởng như đơn giản nhưng hết sức cần thiết trong cuộc sống. Qua văn học dân gian, vốn tiếng Việt của ta phong phú hơn. Ta biết sống
nhân ái, biết cư xử đúng mực hơn. Đặc biệt, bài học nhân sinh, bài học về lòng
cao thượng mà văn học dân gian mang lại càng phát huy hiệu quả đối với thanh
thiếu niên và học sinh ngày nay. Học và tiếp cận với văn học dân gian, các em
biết trân trọng hơn những gì mình đang có, biết hành xử đúng mực trong mọi tình
huống để người gần người hơn. Sao cho truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam được lưu giữ và phát triển đến muôn đời sau.
Hoạt động ngoại khóa văn học dân
gian góp phần làm rõ những đặc trưng cơ bản như: Tính tập thể, tính truyền
miệng, tính dị bản, gắn với sinh hoạt xã hội..., điều mà giáo viên và học
sinh khó thực hiện trong giờ chính khóa do hạn chế về điều kiện và thời gian giảng
dạy. Chương trình ngoại khóa giúp thỏa mãn nhu cầu làm sống lại tác phẩm văn học
dân gian trong môi trường diễn xướng. Thông qua các hình thức trình diễn bằng lời
làm sáng lên vẻ đẹp độc đáo của văn học dân gian. Hoạt động ngoại khóa văn học
dân gian còn giúp cho học sinh hiểu sâu hơn về những giá trị văn hóa của quê
hương, đất nước.
27/10/2017Lê Thị Ánh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét