Thứ Bảy, 21 tháng 11, 2020

Thưởng thức ca trù nhớ hồn dân tộc

Thưởng thức ca trù nhớ hồn dân tộc

Ca trù, một loại hình âm nhạc sáng tạo đặc sắc, vốn có từ lâu đời ở Việt Nam và được định hình với đặc trưng, phong cách riêng vào thế kỷ XV. Hát Ca trù là một loại sinh hoạt văn hóa dân gian vừa mang tính trình diễn, vừa mang tính thực hành xã hội. Đỉnh cao của loại hình này là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa thơ và nhạc. Nghệ thuật Ca trù hiện nay đã được ghi nhận, trở thành một di sản văn hóa phi vật thể đại diện cho nhân loại. Thưởng Ca trù và các hoạt động gìn giữ, bảo tồn Ca trù chính là khắc sâu “hồn” của dân tộc.

Ca trù được UNESCO công nhận là di sản văn hóa 
phi vật thể của nhân loại năm 2009 (Ảnh: ST)

Ca trù - Một bộ môn nghệ thuật tổng hợp độc đáo
Tên gọi Ca trù đã được nhiều tài liệu cổ ghi nhận. Trong các tài liệu Hán Nôm, chữ “trù” trong “Ca trù” nghĩa là thẻ làm bằng tre và ý nghĩa của the tre này dùng để ghi số tiền (hoặc quy ước số ứng với một khoản tiền) thưởng cho các đào và kép trong khi biểu diễn thay cho việc thưởng bằng tiền mặt; cuối chầu hát sẽ căn cứ vào số thẻ mà tính tiền trả cho các đào và kép hoặc giáo phường. Người quyết định thẻ này là các khách nghe hát và sử dụng trống chầu. Cách hiểu này đã giới hạn “Ca trù” trong đình đền (tức là hát thờ), còn hát tại các quán ca hay các tư gia về sau không sử dụng thẻ.
Ca Trù là dạng nghệ thuật biểu diễn dùng nhiều thể văn chương như thể phú, thể truyện, thể ngâm, nhưng thể văn chương phổ biến nhất là hát nói. Đây là một sự phàm tục hóa những thể thánh ca. Bởi lẽ lúc bấy giờ sau những rối ren của xã hội, những gò bó trong khuôn phép của quy luật, của lối diễn tả nhất định trong tư tưởng Khổng Mạnh, con người cần một khoảng không tự do bộc bạch, phóng khoáng gửi gắm cảm xúc. Các nhà viết sách xưa cho rằng hát nói là một hình thức biến đổi của thể ngâm song thất lục bát nhưng khi phát triển theo xã hội, hát nói trở thành một thể tài hỗn hợp gồm: thơ, phú, lục bát, song thất, tứ tự, nói lối...
Ca trù sử dụng ba loại nhạc khí đặc biệt (không chỉ về cấu tạo mà cả về cách thức diễn tấu) đó là đàn Đáy, Phách và Trống chầu. Tùy theo từng không gian diễn xướng mà Ca trù còn có những cái tên khác như: hát cửa đình, hát nhà trò (khi hát ở đình, đền, miếu), hát cửa quyền (hát trong cung phủ), hát nhà tơ (hát ở dinh quan, tư gia các gia đình quyền quý), hát ả đào, hát cô đầu (hát ở các ca quán)...
Một chầu hát Ca trù cần có ba thành phần chính gồm một nữ ca (gọi là "đào" hay "ca nương") sử dụng bộ phách gõ lấy nhịp; một nhạc công nam giới (gọi là "kép") chơi đàn đáy phụ họa theo tiếng hát; Người thưởng ngoạn Ca Trù (gọi là "quan viên") đánh trống chầu chấm câu và biểu lộ chỗ đắc ý, hài lòng bằng tiếng trống. Vì là nghệ thuật âm nhạc thính phòng, không gian trình diễn Ca trù có phạm vi tương đối nhỏ. Đào hát ngồi trên chiếu ở giữa. Kép và quan viên ngồi chếch sang hai bên. Khi bài hát Ca trù được sáng tác và trình diễn ngay tại chỗ thì gọi là "tức tịch", nghĩa là "ngay ở chiếu".
Tìm hiểu và thưởng Ca trù là tìm hiểu và nhớ “hồn” dân tộc
Ca trù gắn liền với lễ hội, phong tục, tín ngưỡng, văn chương, âm nhạc, tư tưởng và triết lý sống của người Việt. Do vậy nghiên cứu Ca Trù cũng là góp phần vào việc nghiên cứu các giá trị truyền thống trong văn hóa Việt Nam. Ca trù chứa đựng sự phong phú từ làn điệu, thể cách tới cả không gian, thời gian biểu diễn, phương thức thưởng thức. Ca trù gắn liền với nghi thức tế thần ở các đình làng, ngoài những điệu hát còn có các nghi lễ với vũ điệu và cả cách thi tuyển tại đình làng trong dân gian nên lề lối biểu diễn ca trù được gọi là thể cách. Không gian kiến trúc cây đa, mái ngói, sân đình dưới ánh trăng sáng rọi soi rõ nét. Những ca nương ắt hẳn cũng phải thật xinh đẹp, duyên dáng trong tà áo dài dân tộc. Ca trù khiến người ta nhớ tới những tao nhân mặc khách với lối chơi sang, tinh tế và giàu cá tính sáng tạo như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Tản Đà...
Có một khoảng thời gian rất dài từ sau Cách mạng Tháng Tám, loại hình nghệ thuật này bị đánh đồng với sinh hoạt văn hóa không lành mạnh, bị loại bỏ ở nhiều nơi, nhất là chốn thành thị. Những năm cuối thế kỷ XX, Ca trù dần nhận được sự lên tiếng của dư luận, các cơ quan báo chí và những nỗ lực tìm kiếm, nghiên cứu, khôi phục được thực hiện. Ca trù được thế giới lần đầu tiên qua nghệ nhân Quách Thị Hồ (1909-2001). Nhiều nhạc sĩ, nhạc họa đã tìm đến thưởng thức, theo học. Ca nương Phạm Thị Huệ - Một trong những người có nhiều đóng góp cho nghệ thuật Ca trù của Việt Nam cũng từng chia sẻ sau 15 năm bén duyên: “Tôi đã hoàn toàn gục ngã trước loại hình nghệ thuật này. Với tôi, Ca trù không chỉ là cái nghiệp, nó còn là nghệ thuật âm nhạc dân tộc đỉnh cao. Đây là môn nghệ thuật mà tôi quyết tâm gìn giữ và phát triển”.

Ca nương Phạm Thị Huệ (giữa): "Ca trù không chỉ 
là cái nghiệp, nó còn là nghệ thuật âm nhạc 
dân tộc đỉnh cao" (Ảnh: ST)

Ca trù được giới thiệu tại nhiều trường đại học trên thế giới. Ca trù đạt tới trình độ thẩm mỹ cao, dần dần thở từng nhịp đập dân tộc, không chỉ gợi lại một trang nhạc đời ca của cả dân tộc mà còn khẳng định vị trí quan trọng đối với cả nhân loại. Đến tháng 10 năm 2009, Ca trù được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại nhưng đồng thời cần phải bảo vệ khẩn cấp. Cho dù Việt Nam đã cố gắng khôi phục, bảo tồn thứ nhạc ca đặc sắc này nhưng Ca trù vẫn chưa thực sự ở tuyệt đỉnh của nó.
Đỉnh cao của Ca trù cần sự hòa quyện của nhiều yếu tố, trong đó không thể thiếu những chất liệu của cuộc sống và những con người thực sự cảm thụ Ca trù. Cũng cần khuyến khích, hỗ trợ những nghệ nhân có kinh nghiệm truyền dạy cho thế hệ trẻ đề tiếp tục gìn giữ, cần duy trì những quán ca, giáo phường để ca trù có đất diễn. Do đó, tìm hiểu và thưởng Ca trù chính là tìm hiểu truyền thống  văn hóa dân tộc và nhớ “hồn” dân tộc Việt Nam.
16/3/2017
Mai Phương
Theo http://tapchithongtindoingoai.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cái còn lại hóa cái không

Cái còn lại hóa cái không Nhà thơ Tạ Bá Hương vừa được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Anh tốt nghiệp Khóa 7 Trường Viết v...