Tản mạn đôi điều về trà 1
Lời nói đầu:
Cụ Nguyễn Hiến Lê, thầy tôi, có nói: “Muốn học điều gì thì hãy
viết về điều đó”. Tôi đã áp dụng câu này khi học về Kinh Dịch, thấy
rất có hiệu quả. Nay tôi đang học về thú uống trà, tìm hiểu về
trà, tôi cũng sẽ áp dụng điều cụ Nguyễn dạy.
Như thông lệ, tôi tìm hiểu sách vở, bài viết của tiền nhân, của các
đàn anh thâm sâu về điều mình cần học, ghi lại có hệ thống cho dễ
dàng nhớ. Xin hiểu cho, đây chỉ là những ghi chép vụn vặt trong quá trình học
hỏi, nên chắc nó sẽ có rất nhiều thiếu sót, mong các bậc cao minh chỉ dẫn
thêm. Tôi mạo muội chia sẻ những điều tôi đã ghi chép, gởi đến các
bạn rồi lắng nghe những lời phản hồi, góp ý chân thành để chỉnh
sửa cho điều mình tìm học được chính xác.
Tập tiểu luận này nặng về VĂN CHƯƠNG hơn NGHIÊN CỨU, chủ ý của tác
giả là muốn cung cấp các bạn những điều “vui vẻ” trong lúc “trà dư
tửu hậu”. Nếu các bạn muốn nghiên cứu sâu, xin hãy tìm hiểu các tác
phẩm của các nhà nghiên cứu mà tôi đã sưu tầm, tham khảo. Đó là: Trà
Đạo của tác giả Kakuzo Okakura, Niệm Thư của nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh,
Trà Luận của nhà nghiên cứu Đức Chính, Trà kinh của Vũ Thế Ngọc,
các bài viết của Nguyễn Duy Chính và trên FB v.v…
Nếu độc giả tìm thấy được nhiều đều lý thú trong
tập tiểu luận này, thì đó là công của các nhà nghiên cứu mà tác
giả sưu tầm; còn nếu thấy nó dở, đầy khiếm khuyết, thì đó là lỗi
của tác giả bài viết, hiểu biết còn quá nhiều hạn hẹp, xin tha lỗi
cho. Trân trọng.
1. Giới thiệu:
Ông bà ta có câu “Khách đến nhà không trà thì rượu”. Với nhiều người, uống trà
không chỉ đơn thuần là giải khát, mà còn là thú vui tao nhã thưởng thức hương vị
thơm, ngọt, chát, nồng của ”Dịch thể ngạnh ngọc bào” - bọt của chất
lỏng màu ngọc bích (Tên người xưa gọi nước trà). Trà, rượu và
cà phê là 3 thức uống hầu như hiện nay ai cũng yêu thích. Đối với cụ
Trần Tế Xương thì: “Một trà, một rượu, một đàn bà/ Ba cái lăng nhăng nó quấy
ta”. Về “yêu trà”, tôi xin dẫn ra đây vài lời của nữ sĩ Minh Đức Hoài
Trinh, trong chương sách Nghệ Thuật Yêu Trà của bà, đại khái:
“Yêu là cả một nghệ thuật, mà đã là nghệ thuật thì cần phải
có sự nghiên cứu kỹ càng, và sự hướng dẫn chu đáo. Muốn yêu ai thì cần phải tìm
hiểu tính tình, biết cả từ tính tốt đến tính xấu, những ưu khuyết điểm, xét xem
có thích hợp với mình không. Khi đã biết rõ rồi mới yêu thì tình mới bền. Trà
cũng như người, cổ nhân gọi trà là Tình Nhân, và ngày xưa cũng như bây giờ có
những người yêu trà, chờ đợi giờ phút được ngồi cạnh ấm trà như chờ đợi giờ
phút hò hẹn với người yêu” - (Minh Đức Hoài Trinh)
Ngồi cạnh ấm trà một mình vào buổi sáng tinh sương hay với tri kỷ trong đêm
khuya, thì không cần phải dùng đến lời nói; đọc cho nhau nghe một câu thơ, hay
mỗi người nói một mẩu chuyện rồi thả tâm tư suy nghĩ; chẳng cần bàn cãi nhiều lời,
khói trà và hương trà sẽ đưa hai tâm tư đến cùng một điểm. Hai người tri âm
tri kỷ đã trở thành một.
Chúng ta hãy cùng nhau nhắp một chén trà. Ánh sáng xế trưa đương chiếu vào bụi
trúc, dòng suối đương róc rách vui tai, và tiếng ngàn thông đương rì rào trong ấm
trà của chúng ta. Hãy thả hồn mơ vào chỗ vô thường, tha thẩn trong cái vẻ cuồng
dại mỹ miều của vạn vật.
Lý Chi Lai, (Lichilai) một kẻ yêu trà, một thi sĩ đời Tống đã cho rằng, đời có
3 mối hận nhất là: “Những thanh niên ưu tú bị hư hỏng vì một chế độ giáo dục
sai lầm; những bức danh họa bị mất giá trị vì những kẻ phàm phu tục tử tán thưởng;
và những cánh trà ngon bị hao phí quá nhiều vì những bàn tay bất tài vầy vò”.
Trà không có cái tính chất tự tôn xằng như của rượu, tự ý thức như của cà phê,
hay ngây thơ khờ khạo như của ca cao (Bảo Sơn - Trà Đạo, dịch từ cuốn
The Book of Tea của Okakura Kakuzo)
2. VÀI BÀI VĂN THƠ VỀ TRÀ
Ghi theo trình tự trước sau:
1. Thi nhân đời Đường, Lô Đồng - hay Lư Đồng (778 - 835) có
bài thơ tả cảm giác khi uống trà được người đời khen xuất thần: Trà Ca:
Nhất oản hầu vẫn nhuận
Nhị oản phá cô muộn
Tam oản sưu khô trường
Duy hữu văn tự ngũ thiên quyển
Tứ oản phát khinh hãn
Bình sinh bất bình sự
Tận hướng mao khổng tán
Ngũ oản cơ cốt thanh
Lục oản thông tiên linh
Thất oản khiết bất đắc
Duy giác lưỡng dịch tập tập thanh phong sinh
Lời dịch:
Chén thứ nhất làm trơn cổ họng
Chén thứ hai làm tan nỗi buồn phiền
Chén thứ ba thấm vào ruột đang khô héo
Chỉ còn lại năm nghìn cuốn sách
Chén thứ tư làm mồ hôi rướm ra
Những chuyện bất bình trong đời
Cũng theo lỗ chân lông mà bay đi
Chén thứ năm làm cơ thể sạch sẽ
Chén thứ sáu đưa ta tới cõi tiên
Chén thứ bảy không uống được nữa
Chỉ thấy hai bên cánh tay gió phần phật thổi
2. Cụ Trần Tế Xương đã từng có bài thơ thở than:
"Một trà, một rượu, một đàn bà
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta
Chừa được cái nào hay cái nấy
Có chăng chừa rượu với chừa trà…”
3. Nhà văn Nguyễn Tuân có truyện ngắn lý thú viết về
trà “Những Chiếc Ấm Đất” - trong quyển Vang Bóng Một Thời. Xin trích
vài đoạn:
“Ngày xưa, có một người ăn mày cổ quái. Làm cái nghề khất cái
là phải cầm bằng rằng mình không dám coi ai là thường nữa; thế mà hắn còn chọn
lựa từng cửa rồi mới vào ăn xin. Hắn toàn vào xin những nhà đại gia thôi và cố
làm thế nào cho giáp được mặt chủ nhân rồi có xin gì thì hắn mới xin. Có một lần
hắn gõ gậy vào đến lớp giữa một nhà phú hộ kia, giữa lúc chủ nhà cùng một vài
quý khách đang ngồi dùng bữa trà sớm. Mọi người thấy hắn mon men lên thềm, và
ngồi thu hình ở chân cột một cách ngoan ngoãn, mọi người không nói gì cả, để
xem tên ăn mày định giở trò gì. Hắn chả làm gì cả, chỉ nhìn mọi người đang khoan
khoái uống trà. Hắn đánh hơi mũi, và cũng tỏ vẻ khoan khoái khi hít được nhiều
hương trà nóng tản bay trong phòng. Thấy mặt mũi người ăn mày đã đứng tuổi
không đến nỗi bẩn thỉu quá, chủ nhân bèn hỏi xem hắn muốn xin cơm thừa hay là
canh cặn, hay là hơn nữa, hắn lại muốn đòi xôi gấc, như kiểu người trong phương
ngôn. Hắn gãi tai, tiến gần lại, tủm tỉm và lễ phép xin chủ nhân cho hắn “uống
trà tàu với!”. Mọi người tưởng hắn dở người. Nhưng tại sao không nỡ đuổi hắn ra
và còn gọi hắn lại phía bàn cho hắn nhận lấy chén trà nóng. Hắn rụt rè xin lỗi
và ngỏ ý muốn được uống nguyên một ấm trà mới kia. Hắn nói xong, giở cái bị ăn
mày của hắn ra, cẩn thận lấy ra một cái ấm đất độc ẩm. Thấy cũng vui vui và lạ
lạ, mọi người lại đưa cho hắn mượn cả khay trà và phát than tàu cho hắn đủ quạt
một ấm nước sôi, thử xem hắn định đùa định xược với bọn họ đến lúc nào mới chịu
thôi. Hắn xin phép đâu đấy rồi là ngồi bắt chân chữ ngũ, tráng ấm chén, chuyên
trà từ chén tống sang chén quân, trông xinh đáo để. Lúc này không ai dám bảo hắn
là ăn mày, mặc dầu quần áo hắn rách như tổ đỉa. Uống một chén thứ nhất xong, uống
đến chén thứ nhì, bỗng hắn nheo nheo mắt lại, chép môi đứng dậy, chắp tay vào
nhau và thưa với chủ nhà: “Là thân phận một kẻ ăn mày như tôi được các ngài cao
quý rủ lòng thương xuống, thực kẻ ty tiện này không có điều gì dám kêu ca lên nữa.
Chỉ hiềm rằng bình trà của ngài cho nó lẫn mùi trấu ở trong. Cho nên bề dưới
chưa được lấy gì làm khoái hoạt lắm”. Hắn lạy tạ, tráng ấm chén, lau khay hoàn
lại nhà chủ. Lau xong cái ấm độc ẩm của hắn, hắn thổi cái vòi ấm kỹ lưỡng cất
vào bị, rồi xách nón, vái lạy chủ nhân và quan khách, cắp gậy tập tễnh lên đường.
Mọi người cho là một thằng điên không để ý đến. Nhưng buổi chiều hôm ấy, cả nhà
đều lấy làm kinh sợ người ăn mày vì, ở lọ trà đánh đổ vung vãi ở mặt bàn, chủ
nhân đã lượm được ra đến mươi mảnh trấu”.
Ông cụ Sáu nghe khách kể đến đấy, thích quá, vỗ đùi mình, vỗ đùi khách, kêu to
lên:
Giá cái lão ăn mày ấy sinh vào thời này, thì tôi dám mời anh
ta đến ở luôn với tôi để sớm tối có nhau mà thưởng thức trà ngon. Nhà, phần nhiều
lại toàn là ấm song ấm quý.
Cổ nhân cũng bịa ra một chuyện cổ tích thế để làm vui thêm
cái việc uống một tuần nước đấy thôi. Chứ cụ tính làm gì ra những thứ người lạ ấy.
Ta chỉ nên cho nó là một câu giai thoại.
Không, có thể như thế được lắm mà. Tôi chắc cái lão ăn mày
này đã tiêu cả một cái sản nghiệp vào rừng trà Vũ Di Sơn nên hắn mới sành thế
và mới đến nỗi cầm bị gậy. Chắc những thứ trà Bạch Mao Hầu và trà Trảm Mã hắn
cũng đã uống rồi đấy ông khách ạ. Nhưng mà, ông khách này, chúng ta phải uống một
ấm trà thứ hai nữa chứ. Chẳng nhẽ nghe một câu chuyện thú như thế mà chỉ uống với
nhau có một ấm thôi.
Thế rồi trong khi cụ Sáu tháo bã trà vào cái bát thải rộng miệng
vẽ Liễu Mã, ông khách nâng cái ấm quần ẩm lên, ngắm nghía mãi và khen:
Cái ấm của cụ quý lắm đấy. Thực là ấm Thế Đức màu gan gà. “Thứ
nhất Thế Đức gan gà; - thứ nhì Lưu Bội; - thứ ba Mạnh Thần”. Cái Thế Đức của cụ,
cao nhiều lắm rồi. Cái Mạnh Thần song ẩm của tôi ở nhà, mới dùng nên cũng chưa
có cao mấy.
Cụ Sáu vội đổ hết nước sôi vào ấm chuyên, giơ cái ấm đồng cò
bay vào sát mặt khách:
Ông khách có trông rõ mấy cái mấu sùi sùi ở trong lòng ấm đồng
không? Tàu, họ gọi là kim hỏa. Có kim hỏa thì nước mau sủi lắm. Đủ năm cái kim
hỏa đấy.
Thế cụ có phân biệt thế nào là nước sôi già và nước mới sủi
không?
Lại “ngư nhãn, giải nhãn” chứ gì. Cứ nhìn tăm nước to bằng
cái mắt cua thì là sủi vừa, và khi mà tăm nước to bằng mắt cá thì là nước sôi
già chứ gì nữa”. (Những Chiếc Ấm Đất trong Vang Bóng Một Thời - Nguyễn Tuân)
Ngày xưa người ta lắng đọng tâm hồn vào chén trà ngay trước khi nó được pha,
các cụ thưởng thức trà ngay từ tiếng reo của nước đang đun nên tinh tế phân biệt
ba loại nước sôi: độ thứ nhất là nước sôi “giải nhãn” trông như mắt loài cua (mới
chớm sôi); độ thứ nhì là “ngư nhãn” tức bọt nước lăn tăn trông giống như mắt
đàn cá đang lội gần mặt nước (sôi vừa); cuối cùng là nước sôi to. (Chú thích
của Nguyên Lạc trích từ Trà Kinh Lục Vũ)
Cái thú trong khi chờ đợi
Uống trà, cái thú không phải chỉ lúc uống mà cả khi trong lúc đợi
chờ. Mời bạn đọc những trích đoạn này:
“Rồi người khách khom người chui qua cánh cửa nhỏ cao không
quá ba bộ để vào gian phòng. Bất cứ khách nào, quyền quý hay thấp hèn, cũng đều
như vậy cả nhằm ý nói với khách về đức tính khiêm hạ. Khách theo thứ tự trước
sau chờ nơi trì hợp (machiai), từng người một khe khẽ bước vào nơi ấy, nghiêng
đầu chào bức họa hay bình hoa cắm đặt nơi sàng gian (tokonoma), rồi vào chỗ ngồi
của mình không gây một tiếng động, Khi tất cả khách mời đều an tọa và một sự
tĩnh lặng thật sư ngự trị, ngoại trừ tiếng nước reo trong ấm sắt, chủ nhân mới
bước vào phòng. Những miếng sắt xếp khéo léo dưới đáy ấm reo lên nghe rõ theo một
giai điệu lạ kỳ tuồng như tiếng vọng của thác nước bị mây che khuất, nghe như
tiếng biển nơi xa xăm dập dồn vỗ vào vách đá, tiếng phong ba quét rít qua các bụi
tre rừng, hay tiếng thông reo trên ngọn đồi xa lắc” (Trà Đạo - Bảo Sơn dịch
từ cuốn The Book of Tea của Okakura Kakuzo)
Trong truyện “Chén trà trong sương sớm”, Nguyễn Tuân còn thi
vị hóa việc đun nước pha trà, cho từng hòn than ngọn lửa một linh hồn và linh hồn
đó hòa nhập vào người thưởng trà:
“Thỉnh thoảng, từ hòn than tự tiêu diệt buột ra một tiếng khô, rất khẽ và rất gọn.
Thế rồi hòn than sống hết một đời khoảng chất. Bây giờ hòn than chỉ còn là một
điểm lửa ấm ấp trong một cái vỏ tro tàn dầy và trắng xốp. Cụ Ấm vuốt lại hai
mái tóc trắng, cầm thanh đóm dài đảo lộn tàn than trong hỏa lò, thăm hỏi cái hấp
hối của lũ vô tri vô giác. Cụ Ấm bỏ thêm một vài hòn than hoa nữa vào hỏa lò.
Than hoa không nổ lép bép như than tầu; nhưng từ ruột ấm đồng bị nung nấu đã
lâu, có tiếng thở dài của khối nước sắp biến thể. Nước đã lên tiếng để nhắc người
ta nghĩ đến nó.” (Chén trà trong sương sớm - Nguyễn Tuân)
Các bài thơ gần đây về trà
Thi sĩ Trần Phù Thế có bài thơ về trà:
Nhìn cốc trà bốc khói
Buổi sáng trời âm u
Cách ly, cách ly dịch
Một mình giỡn với thơ
Đưa cốc trà lên môi
Uống từng ngụm nho nhỏ
Nghe mùa thu than thở
Nghe mùa thu cựa mình
Hương trà như hương gái
Thơm thơm tuổi trăng rằm
Lòng ta như trẻ lại
Rộn ràng tuổi mười lăm
Nhâm nhi cốc trà sáng
Nghe lòng chút bình an…
(Buổi sáng uống trà một mình - Trần Phù Thế)
Thi sĩ Võ Thạnh Văn có bài thơ về trà:
Trà Vũ Di - Ấm Nghi Hưng
Lò đun gỗ quế. Nước chưng suối dòng
Hồn Lục Vũ - Phách Lô Đồng
Má thơm hương sớm. Môi hồng nhụy khuya
(Xuân Trà Tụng - Võ Thạnh Văn)
Thi sĩ Trần Bảo Kim Thư có bài thơ về trà:
Mỗi sáng nhấp môi mấy tách trà
Hương thơm thoang thoảng quyện bay xa
Thái Nguyên, Bảo Lộc… mùi tinh khiết
Long Tỉnh, Quan Âm… chất đậm đà
Cậu trẻ yêu đời luôn xoắn xuýt
Lão ông thích chí mãi khề khà
Sớm chiều đối ẩm cùng bè bạn
Rõ thú thanh nhàn đệ nhất đa!
(Trà - Trần Bảo Kim Thư)
Cảm xúc riêng của tác giả bài viết về trà:
a. Thức dậy pha trà sáng nguyên xuân
Mời em, hãy cạn chén thơ anh!
Vị có ngọt ngào hay cay đắng
Vẫn chúc đời nhau vạn sự lành!
(Chén Trà Nguyên Xuân - Nguyên Lạc)
b. Thiết quan âm, Trảm mã trà?
Hầu trà, Trinh nữ hay trà Kỳ Môn?
Sang hèn, danh lợi có không
Tri âm, tri kỷ chén lòng nhớ lâu
Mời người ta hãy cùng nhau
Chén trà nhân ái đẹp câu Đạo trà *
(Chén Trà Nhân Sinh - Nguyên Lạc)
Trong các bài thơ trên:
1. Lục Vũ, Lô Đồng là các Trà thánh, Trà thần của Trung
Hoa
2. Ấm Tử sa Nghi Hưng: Thế Đức, Lưu Bội, Mạnh Thần là
loại ấm trà/ trà hồ nổi tiếng của Trung Hoa
3. Trảm mã trà, Hầu trà, Trinh nữ trà, Thiết Quan Âm
trà - một loại Ô long trà (trà Oolong), Trà Vũ Di, Kỳ Môn Hồng trà…
là những loại trà tàu có tiếng. Trà Thái Nguyên , Bảo Lộc là của
Việt Nam.
4. * Trà Đạo, tác giả Kakuzo Okakura (1862-1913), một nhà
nghiên cứu về trà lừng danh của Nhật Bản. Ông đã viết: “Trà Đạo là một tôn
giáo lập ra để tôn sùng cái đẹp trong những công việc tầm thường của sinh hoạt
hàng ngày. Nó là nghi thức của đức tinh khiết và sự hòa hợp; nó làm cho người
ta cảm thấy sự huyền bí của lòng hổ tương nhân ái và ý nghĩa lãng mạn của trật
tự xã hội”. Theo ông, triết lý của Trà Đạo không phải chỉ là một chủ nghĩa thẩm
mỹ đơn giản theo ý nghĩa thông thường của nó, vì triết lý này cùng với luận lý
và tôn giáo biểu thị tất cả quan niệm của chúng ta về con người và tạo hóa”.
Chúng ta sẽ gặp các điều kể trên lần lượt trong các phần sau:
3. LỊCH SỬ, NGUỒN GỐC PHÁT TRIỂN VÀ CON ĐƯỜNG ĐI CỦA TRÀ1/ Tên khoa học
Năm 1753, Carl Von Liaeus, nhà thực vật học Thụy Điển, đặt
tên khoa học cây trà là Camellia Sinensis thuộc họ Theacae, xác định cây trà có
nguồn gốc Trung Quốc. Thế nhưng một số học giả Anh lại cho rằng nguồn gốc cây
trà là Ấn Độ. Cuộc tranh luận về quê hương cây trà đã kéo dài trên hai thế kỷ.
Năm 1976, Djemukhatze, Viện sĩ Thông tấn Viện Hàn lâm khoa học
Liên Xô (cũ), sau khi đi khảo sát vùng trà cổ thụ trong 2 năm tại miền bắc Việt
Nam, bằng phương pháp sinh hóa thực vật, lại xác định Việt Nam là quê hương cây
trà trên thế giới, theo sơ đồ tiến hóa sau đây:
Camellia - trà Việt Nam - trà Vân Nam lá to - trà Trung Quốc - trà Ấn Độ
– Ta nên nhớ rằng: Khi nhà thực vật học lấy một địa danh nào
đặt tên (như sinensis: Trung Hoa) không có nghĩa nơi đó là cái nôi của một
loài, mà thường do nơi đó là nơi lần đầu tiên phát hiện), do vậy không thể dựa
vào từ “Sinensis” để nói cây trà có nguồn gốc từ Trung Hoa.
2/ Trà - huyền thoại và lịch sử
Hình như tất cả những gì có người Trung Hoa tham gia vào đều
có bên cạnh một vài huyền thoại; trà cũng không ngoại lệ. Ít ra người Trung Hoa
có hai huyền thoại về trà: một huyền thoại mang sắc thái người Hoa Bắc và một
mang sắc thái người Hoa Nam.
Huyền thoại thứ nhất của người Hoa Bắc cho rằng cho rằng người đầu tiên phát
hiện ra trà chính là Thần Nông (2737- 2697 tr. Công Nguyên). Truyền thuyết này
lại được giới thiệu trong cuốn Trà Kinh của Lục Vũ (vào năm 780 sau Công
nguyên).
Vua Thần Nông là vị Hoàng Đế huyền thoại rất giỏi về nông nghiệp và y dược.
Ngài nếm nhiều loại cây cỏ để tìm dược tính trị bệnh cho dân; “Thần Nông một
ngày nếm thử một trăm loại thảo dược và gặp bẩy mươi loại độc và tự mình giải độc.”.
Sự tích tìm ra cây trà của Thần Nông cũng được dệt bằng một huyền thoại thần
bí. Một hôm, Vua Thần Nông cùng vợ con lên núi, giữa chừng núi vua thấy khát nước
thì ngay lúc đó một chiếc lá rơi xuống cạnh chân Ngài. Thần Nông lượm lên và vò
nát trong tay mình, chất nhựa dính vào ngón tay và Ngài đưa lên miệng nếm. Vị
đăng đắng cho Thần Nông biết nó có dược tình và cảm thấy cơn khát mất đi. Thần
Nông bèn đem chiếc lá đó sắc lên, và Ngài là người đầu tiên uống trà. Lại có
truyền thuyết nói Thần Nông đun nước dưới một gốc cây, lá cây này rụng và rơi
vào nồi. Nước trong nồi có màu vàng xanh và mùi vị thơm ngon, uống vào hết khát:
đó là trà.
Người Trung Hoa chứng minh huyền thoại này bằng cách trưng ra cuốn ‘Thần Nông Bản
Thảo” , trong đó có ghi tính dược cây trà. Nhưng thực ra tác phẩm này là một
biên khảo vào thời Tần-Hán (khoảng năm 220 sau Công Nguyên) do nhiều nhà y học
ghi chép và về sau Đào Hoằng Cảnh (457-536) chỉnh lý lại và người đời sau bổ
sung và sửa đổi khá nhiều. Có điều chúng ta cần lưu ý trong Trung Y (y học
Trung Hoa) không thấy cổ phương danh tiếng nào dùng trà làm vị thuốc và trong
các hiệu thuốc đông dược chẳng thấy ai dùng đến trà cả.
Người Trung Hoa nói thế. Các học giả phương Tây dựa vào tài liệu Trung Hoa thuật
lại thế và chúng ta nhắm mắt tin thế. Rồi người Nhật phụ họa thêm truyền thuyết
trà là một cây thuốc như sau: vào đời Chiến Quốc một danh y truyền dạy y thuật
cho con trai, nhưng chỉ mới truyền được bảy phần thì ông qua đời. Tưởng là phần
còn lại thất truyền, nào ngờ nơi mộ ông ta mọc lên một loại cây hội đủ dược
tính phần y thuật còn truyền sót; đó là cây trà. Càng về sau, các tài liệu đều
ghi: “Khởi đầu trà là một vị thuốc, sau trở thành thứ nước uống giải khát.”
Củng cố thêm cho nguồn gốc cây trà và văn hóa trà xuất phát từ Trung Hoa, người
Hoa Bắc còn đưa ra huyền thoại “Các vua nhà Chu đã dùng trà tế lễ từ năm 221
trước Công Nguyên”. Huyền thoại này thực sự có cơ sở chăng?!. Nếu từ thời kỳ
Xuân Thu Chiến Quốc người Trung Hoa đã dùng trà trong tế tự, ắt điều này phải
có ghi trong các kinh lễ của các bậc thánh nhân như Chu Công và Khổng Tử. Đáng
tiếc, Kinh Lễ hay Lễ Ký do Đức Khổng Tử san định cũng không hề thấy nói đến
trà; sách Luận Ngữ do học trò ngài ghi lại các lời Ngài dạy hàng ngày cũng chẳng
thấy nói đến trà; Kinh Thi cũng do Ngài san định là một tác phẩm ghi chép lại
các bài ca dao trong dân gian không hề có một chữ trà hay chữ đồ. Trở ngược
dòng lịch sử, sách Chu Lễ ghi rất chi li lễ tiết đời Chu cũng không thấy có chữ
trà, Hoặc quay xuống đến đời Hán chúng ta thấy có cuốn Sử Ký của Tư Mã Thiên
(khoảng những năm 90 trước Công Nguyên), có một thiên Lễ Thư, hay Hán Thư cũng
không dành cho trà một chữ. Qua đó có thể nói ít nhất đến đời Hán trà chưa hề
được biết đến ở Trung Hoa.
Trái lại chúng ta dễ dàng thấy chữ “tửu” trong các tác phẩm vừa nói, với câu
nói nổi tiếng “Vô tửu bất thành lễ”. Điều này cho thấy việc vua nhà Chu dùng
trà tế lễ là sự gán ghép đời sau. Nho gia không phải rồi, vậy trà có phải của Đạo
gia chăng?! Chắc chắn là không vì biểu tượng thường đi kèm với các vị tiên gia
là phất trần và bình rượu chứ không phải ấm trà, và giới đạo gia có thứ rượu Quỳnh
tương trên tiên giới thần diệu như nước cam lồ bên Phật giáo. Chỉ mãi sau đến đời
Chu Hy (cuối Nam Tống) mới xuất hiện một bài thơ gắn ông tiên với lò nấu trà.
Như vậy có thể nói điều Lục Vũ ghi trong Trà Kinh “Thần Nông là ông tổ cây trà”
có thể chỉ là lời lượm lặt trong dân gian thích thêu dệt huyền thoại của người
Trung Hoa mà thôi.
Huyền thoại thứ hai của người Hoa Nam. Huyền thoại này cho rằng chính Bồ Đề Đạt
Ma (Bodhidarma), Sơ tổ Thiền Trung Hoa, là người mang cây trà từ Ấn Độ vào
Trung Hoa (năm 519 sau Công Nguyên). Nhờ cây trà mà Ngài thức suốt 9 năm để ngồi
nhìn vách đá quán tưởng công án. Tin vào truyền thuyết này nên về sau Thiền Nam
Tông có nghi thức uống trà trước tượng Bồ Đề Đạt Ma. Xoay quanh Bồ Đề Đạt Ma lại
có một huyền thoại thần bí hơn, lại do người Nhật phụ họa: Sau ba năm diện
bích, tổ Đạt Ma kiệt sức và ngủ lịm đi. Khi tỉnh dậy, tổ hối hận và lo lắng, cắt
hai mi mắt mình liệng xuống đất. Ít lâu sau nơi đó mọc lên một loại cây bụi, tổ
Đạt Ma lấy lá của nó nấu lên uống thì tỉnh ngủ hẳn. Và Ngài tiếp tục diện bích cho
hết 9 năm.
Cũng lưu ý là các tác phẩm như Hán Sở Tranh Hùng, Tam quốc
Chí có nhiều lần nói đến việc uống trà, nhưng điều này không thể khẳng định trà
có từ đời Hán vì các tác phẩm này viết vào đời nhà Minh, thời trà Trung Hoa
đang ở giai đoạn hoàng kim. Việc các cây bút văn chương lồng một số chi tiết
nho nhỏ quen thuộc đương thời vào câu chuyện không phải là điều không xảy ra nếu
không muốn nói rất thường.
Còn nếu lấy huyền thoại làm chứng cứ thì e rằng người Việt biết
uống trà và có một nền văn hóa trà sâu xa từ thời Hùng Vương (ngang đời nhà
Chu). Ai trong chúng ta cũng đều biết câu chuyện cổ tích Trương Chi - Mỵ Nương, hai chữ Mỵ Nương đủ khẳng định bối cảnh câu chuyện xảy ra vào thời Hùng Vương
rồi. Chuyện kể tóm tắt rằng: Chàng lái đò Trương Chi có giọng hát thật hay làm
xiêu lòng Mỵ Nương. Nhưng khi gặp khuôn mặt xấu xí của chàng lái đò Mỵ Nương
đâm thất vọng, ngược lại trước nhan sắc của Mỵ Nương Trương Chi về ốm tương tư
rồi mất. Trương Chi chết hóa thành một hòn ngọc, người thợ đá tạc thành một cái
chén uống trà dâng cho gia đình Mỵ Nương. Cứ mỗi lần rót nước trà vào chén Mỵ
Nương thấy trong đó có hình chiếc đò bơi qua bơi lại và một tiếng hát từ cõi xa
xăm nào đó vọng lại. Thương cảm, Mỵ Nương khóc, giọt nước mắt rơi vào chén trà
và chén trà tan thành nước.
Bên cạnh, người Trung Hoa trưng ra một số tư liệu lịch sử để
chứng minh nguồn gốc cây trà của họ. Sự viện dẫn này dựa vào thương mại để chứng
minh cây trà và văn hóa trà có nguồn gốc từ Trung Hoa:
Dẫn Con Đường Trà Cổ (Trà Mã Cổ Đạo): Đây là con đường núi ngoằn ngoèo đi
xuyên qua vùng núi Vân Nam - Tứ Xuyên phía Tây Nam trung Hoa, phương tiện vận
chuyển chủ yếu là lừa và ngựa. Theo tư liệu của Trung Hoa con đường này hình
thành vào đời nhà Đường (618-907), và trà của Trung Hoa theo đường đó bán cho
các nước phía Nam.
Điều này không mấy hữu lý vì tính theo thời gian vùng này thuộc về đất nước Nam
Chiếu - Đại Lý. Thực tế cũng cho thấy đời Đường chưa cai trị được vùng đất này,
nếu không muốn nói có nhiều chiến tranh qua lại giữa Trung Hoa và các bộ tộc
(nhất là khi vùng này hình thành quốc gia) tại nơi đây. Cứ liệu đáng tin nhất;
năm 629 khi Đường Tam Tạng có ý qua Hồ Quốc (tức Ấn Độ) thỉnh kinh, ông phải
lén đi vì Đường Thái Tông cấm đi ra nước ngoài. Lý do cấm đoán đó là vì các
vùng biên giới không yên ổn và nhà Đường lúc đó không đủ sức thảo phạt. Tình
hình như thế cho thấy con đường này thực sự dưới quyền kiểm soát của Nam Chiếu
- Đại Lý, trà từ vùng này chuyển đi các vùng lân cận và Hoa Nam để bán. Luận cứ
này cho thấy con đường Trà Mã Cổ Đạo này không do nhà Đường mở ra, thực tế nó
là một con đường tự phát nhằm trao đổi hàng hóa nhỏ lẻ với Hoa Nam và các nước
lân cận Đại Lý. Trà quả là sản phẩm của con đường này nhưng chủ nhân là Đại Lý
chứ không phải Trung Hoa. Chính vì thế ta sẽ thấy tập quán uống trà những nước
quanh Đại Lý cũ không hề giống thói quen uống trà của người Trung Hoa.
(Phần huyền thoại và lịch sử này được trích từ quyển Trà Thư
trong Trà Luận của nhà biên khảo Đức Chính)
3/ Truy lại cội nguồn nền văn hóa trà
Qua những điều trên chúng ta đã biết: Trà là sản phẩm của Con Đường Trà Cổ (Trà
Mã Cổ Đạo) và chủ nhân của nó là nước Đại Lý.
Lãnh thổ nước Đại Lý bao gồm 3 tỉnh: Vân Nam, Quý Châu và tỉnh Tứ Xuyên ngày
nay. Nước này còn chiếm một phần vùng thượng du miền Bắc Việt Nam và một phần
lãnh thổ của Myanmar hiện nay. Trước khi thành lập nước Đại Lý, vùng đất này là
của người Bạch và người Di, gồm 6 bộ tộc (gọi là chiếu) Mông Huề, Việt Thác,
Lãng Khung, Đằng Đạm, Thi Lãng, Mông Xá, trong số đó Mông Xá là bộ tộc mạnh nhất
nằm ở phía nam nên thường gọi là Nam Chiếu. Năm 737, thủ lãnh của Mông Xá là Bì
La Cáp mượn thế lực của Đường Huyền Tông thống nhất các chiếu khác thành lập ra
nước Nam Chiếu. Điều này có ghi trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư: “Trong khoảng
năm Khai Nguyên (713-742) đời vua Huyền Tông nhà Đường, Nam Chiếu là Bì La Cáp
cường thịnh lên, mà 5 chiếu kia suy hèn đi. Bì La Cáp mới đút lót cho quan tiết
độ sứ đạo Kiếm Nam là Vương Dục để xin hợp cả 6 chiếu lại làm một. Triều đình
nhà Đường thuận cho, và đặt tên là Qui Nghĩa. Từ đó Nam Chiếu càng ngày càng thịnh
lên, đem quân đi đánh Thổ Phồn (Tây Tạng)… Bấy giờ Nam Chiếu đã mạnh lắm, bèn
xưng đế và đặt quốc hiệu là Đại Mông rồi lại đổi là Đại Lễ…” Triều đại này tồn
tại đến năm 902, Đoàn Tư Bình nổi lên thành lập nước Đại Lý.
Hình Bản đồ nước Đại Lý Vương Quốc Đại Lý tồn tại trên vùng đất này từ năm 937 cho đến
năm 1253; kế tiếp nhau bởi 22 đời xưng đế, trong đó có nhân vật Đoàn Chính Thuần
được Kim Dung hư cấu vào tiểu thuyết võ hiệp của mình. Sau năm 1253, Đại Lý mất
vào tay Nguyên Mông nhưng dòng họ Đoàn vẫn cai trị vùng đất này với tước danh Tổng
quản đến tận năm 1387 (vị tổng quản cuối cùng là Đoàn Thế) bị diệt dưới tay
Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương. Nước Đại Lý đổi thành phủ Đại Lý, người Bạch và
người Di nước lưu lạc xuống phương Nam. Một số thành các dân tộc người ở Việt
Nam, Lào và Myanmar (như Thái Trắng, Thái Đen, Thái Đỏ, Lô lô, Nùng); một nhóm
đông hơn di chuyển sâu về hướng Nam thành lập nước Thái Lan ngày nay.
Nếu Trung Hoa cho rằng Vân Nam - Tứ Xuyên ngày nay là của Trung Quốc nên nguồn
gốc từ Trung Quốc mà ra; chúng ta cũng có thể nói vùng Thượng Du Bắc Việt Nam
ngày nay của Việt Nam xưa thuộc Đại Lý, vậy Việt Nam cũng là cái nôi của thế giới.
Theo tôi điều này không hay ho chút nào. Hãy như người Việt, cứ để nền văn hóa
Óc Eo là tài sản của vương quốc Phù Nam, Tháp Chàm của người Chăm,… chứ không
nhận bừa của người Việt. Tương tự, cội nguồn của trà là người Đại Lý, một vương
quốc cổ nay không còn nữa. Và có thể các nhóm dân tộc dùng ngôn ngữ Tạng-Miến
như người Thái vùng Tây Bắc miền Bắc Việt Nam là một thành tố đại diện còn tồn
tại đến ngày nay.
Nghiên cứu về văn hóa nên lấy mốc từ khi một sự kiện trở nên phổ quát và đi vào
tư tưởng, chứ không nên vin vào một vài chứng cứ vật thể nhỏ để khẳng định đã
có một nền văn hóa. Cũng như khi cắm ngọn cờ trên mặt trăng không thể khẳng định
con người đã sống trên mặt trăng vào thời điểm đó. Chính trị và văn hóa khác biệt
nhau ở chỗ này.
Vậy tại sao ngày nay khi nói đến trà người ta nghĩ ngay đến Trung Hoa và Nhật Bản.
Đó là vì họ có phương thức truyền bá tư tưởng tốt: người Trung Hoa bằng các huyền
thoại và cửa miệng các Hoa Kiều (chưa kể ngụy thư đời sau viết gán cho người đời
trước để làm chứng cứ giả tạo); người Nhật có tác phẩm Book of the Tea của
Okakura Kakuzo gây tiếng vang trên thế giới và gây tò mò người Phương Tây nơi
nghi thức trà của họ vừa cầu kỳ vừa thoang thoảng kỳ bí.
(Phần truy lại cội nguồn này được trích từ quyển Trà Thư
trong Trà Luận của nhà biên khảo Đức Chính)
4/ Các giai đoạn phát triển trà
Cây trà nguyên thổ sản của miền Hoa Nam, đã dược các nhà thực
vật học và dược vật học Trung Hoa biết đến từ những thời đại rất xa xưa. Các
văn gia cổ điển gọi nó bằng những tên khác nhau: Đồ (Tou), Thiết (Tach), Thuấn
(Chung), Giả (Kha), và Minh (Ming), và trà được tán dương là có hiệu năng làm
cho người ta hết mệt nhọc, tinh thần sảng khoái, ý chí tăng cường và thị lực hồi
phục. Người ta không chỉ dùng trà làm thuốc uống bên trong, mà còn hay dùng như
một thứ cao đắp ở bên ngoài để trị phong thấp nữa. Các môn đồ Đạo gia coi trà
là một vị trọng yếu trong môn thuốc trường sinh bất lão; còn các tăng đồ Phật
giáo thì thường dùng trà để chống lại cơn buồn ngủ trong những giờ ngồi trầm tư
mặc tưởng dài đằng đẵng.
Tuy nhiên, phương pháp uống trà thời kỳ ấy hãy còn cổ lỗ hết
sức. Người ta lấy lá trà đem hấp lên, bỏ vào cối giã, làm thành bánh rồi đem nấu
với gạo, gừng, muối, vỏ cam, hương liệu, sữa, và một đôi khi cả hành nữa! Tập
quán này cũng còn thịnh hành trong dân xứ Tây Tạng và các bộ tộc Mông Cổ, họ chế
tất cả các vị kể trên thành một chất “xi rô” kỳ xảo. Lối dùng những lát chanh của
người Nga tập uống trà tại những đội thương lữ quán Trung Hoa là một lối cổ còn
sót lại.
Sau nhờ thiên tài của Đường triều, trà mới được “giải thoát”
khỏi trạng thái thô lậu này và được lý tướng hóa một cách tuyệt diệu. Lục Vũ ở
khoảng giữa thế kỷ thứ tám, là đệ nhất sứ đồ của trà. Ông sinh vào thời kỳ mà
Phật giáo, Đạo giáo và Khổng giáo đang tìm đường tổng hợp với nhau. Phiến thần
luận của tượng trưng chủ nghĩa lúc bấy giờ có ý muốn phản chiếu cái “Phổ biến”
(Universal) ra khỏi cái “Đặc thù” (the Particular). Lục Vũ là một nhà thơ, nhận
thấy trong bộ đồ trà cũng có đủ cả sự điều hòa và trật tự như trong mọi sự vật
khác. Trong tác phẩm danh tiếng của ông là cuốn Trà Kinh (Kinh thư của Trà Đạo),
ông đã định thức hóa Pháp điển về Trà. Từ đó ông được thờ như vị thần giám hộ của
các nhà buôn trà Trung Hoa.
Nhưng trà chỉ thật sự phổ cập ở khắp Trung Hoa bắt đầu từ thời
Nguyên khi Đại Lý bị diệt và dòng họ Đoàn quy thuận, trà mới có cơ sở thông
thương rộng hơn. Qua đời Minh (1368-1644), việc buôn bán trà trở nên rất thịnh
vượng nên triều đình lập ra “Bộ Trà Mã” để quản lý và thu thuế, kết quả tất yếu
của việc sáp nhập nước Đại Lý vào Đại Minh. Trong bối cảnh đó nhiều tay bút bàn
về trà sinh sôi nảy nở là điều tất yếu, và thường hay đề danh tính người đời
trước để dễ thuyết phục người đọc (đời nhà Minh nổi tiếng nhiều ngụy tác). Tuy
vậy để xuất khẩu trà quy mô phải đợi đến khi kỹ thuật canh tác phát triển và
trà được trồng nhiều ở các vùng như Hồ Nam, Hồ Bắc, Chiết Giang, Giang Tô, Lãnh
Nam, Kinh Tương, Phúc Kiến, nghĩa là khó sớm hơn thế kỷ 14.
5/ Bước đi của trà
Vào cuối thế kỷ thứ mười sáu, người Hòa Lan truyền đi cái tin
ở Đông phương có loại thức uống làm bằng một thứ lá cây rất ngon. Các nhà du lịch
Giovanni Batista Ramusio (1559), L.Almeida (1576), Maffeno (1528), Tareira
(1610), cũng nói đến trà. Trong năm cuối cùng kể trên, thương thuyền của Hòa
Lan Đông Ấn Độ Công ty đem những lá trà đầu tiên về Âu châu. Trà được nước Pháp
biết đến năm 1636, và lọt vào nước Nga năm 1638. Năm 1650, nước Anh hoan nghênh
trà và khi nói đến trà thì ca ngợi coi là “một món đồ uống ngon tuyệt, tất cả
các y sĩ đều tán thành món đồ uống Trung Hoa, mà người Trung Hoa gọi là trà,
các nước khác thì gọi là tê (thé) hay ti (tea)”. Trà đã bắt đầu được coi là thức
uống quốc tế.
Sự giao lưu thương mại giữa Trung Hoa và các nước phương Tây ngày một lớn mạnh
bắt đầu từ triều đại nhà Thanh. Khi Hoàng đế Trung Hoa “ngự hít” điếu thuốc lá
đầu tiên được mang đến từ Châu Âu, thì Nữ hoàng Anh Quốc cũng đang nhấm nháp
tách trà đầu tiên. Vào khoảng năm 1615, các thương gia Anh Quốc với công ty
Đông Ấn Độ nhận thức được sự có mặt của Trà. Trà đã nhanh chóng được truyền bá
khắp Châu Âu và gần 100 năm sau, khối lượng trà nhập khẩu vào Anh tăng từ 100
pound/ năm lên đến hơn 5 triệu pound/ năm. Điều này đòi hỏi cần phải có nhiều
phương tiện lớn mới mang được tải trọng trà như thế từ Trung Hoa.
Tại Anh: Theo sử liệu, thì chính Nữ Công Tước Bedford, tác giả
quyển “Năm giờ uống trà” rất được người Anh ưa thích. Bà cũng là người đã tạo
ra phong trào uống trà vào buổi chiều tại xứ sương mù. Ngày nay tới nhà bất cứ
một người Anh nào, đặc biệt là giới trung và thượng lưu trí thức, ai cũng phải
lóe mắt trước sự khéo tay và vô cùng thẩm mỹ của các bà nội trợ, trong việc
trang trí bàn uống trà với khăn phủ bàn có bình hoa tươi và bộ bình trà làm bằng
bạc và sứ men Trung Hoa. Người Anh từ lâu có tập quán đãi khách loại trà sữa
hay trà chanh. Cũng theo sử liệu, thì vào thế kỷ XVIII, khi Anh chiếm Hồng Kông
và nhiều thành phố lớn khác tại Trung Hoa như Thiên Tân, Thượng Hải, Quảng Châu
đã du nhập tập tính uống trà của người Tàu về bản quốc.
Tập quán uống trà ở Anh phát triển mau lẹ không thể tưởng tượng dược, trong nửa
đầu thế kỷ thứ mười tám, những quán cà phê ở London, trên thực tế, đã biến
thành những phòng trà, nơi hẹn hò của những bậc anh tài như Addison và Steele,
tiêu khiển bên những “món trà”. Chẳng bao lâu, trà trở thành một món cần thiết
cho đời sống sinh hoạt - một món có thể đánh thuế được.
Tại Hoa Kỳ: Hằng năm theo thống kê, thì dân chúng Hoa Kỳ tiêu
thụ cả chục triệu tấn trà, bằng mọi hình thức như uống nóng, lạnh, trà nguyên
chất hay ướp các loại hoa, uống không hay uống chung với đường thêm mật ong, sữa,
kem, chanh. Người Mỹ uống nhiều loại trà, từ thứ gọi là Decaffeinated Tea hoặc
các loại trà lá, kể cả dược trà bằng lá ổi, lá hồng để trị bệnh va làn tan mỡ,
gọi là Herbal Tea.
Xin được nhắc qua về vụ Trà đã dự phần hết sức quan trọng trong sự kiện lịch sử
hiện đại. Thuộc địa Mỹ cam chịu áp chế cuả Anh cho đến khi sức nhẫn nhục của
con người không thể chịu đựng được nữa, phải nổi dậy trước những khoản thuế quá
nặng đánh vào Trà. Nền độc lập của Mỹ bắt đầu từ ngày người ta quẳng những
thùng trà xuống hải cảng Boston: Người Mỹ đã vùng dậy mà ném cả 342 thùng trà
xuống biển, để rồi bắt đầu cuộc khởi nghĩa giành độc lập năm 1773. Cố nhiên là
không lỗi ở trà, và cũng không phải chỉ vì trà, mà còn nhiều lý do khác nữa;
nhưng đã nói đến trà thì cứ nên cho rằng, nhờ đó mà cái gọi là Boston Tea Party
trở thành bất hủ.
Tại Nhật: Cuối thế kỷ 11 đầu thế kỷ 12, cùng với Thiền, trà ở
Trung Hoa tràn sang Nhật. Người Nhật tiếp thu cả hai thứ văn hóa vật chất và
tôn giáo này, đem nó hòa quyện với văn hóa bản địa và nâng lên thành triết lý
riêng của dân tộc là Trà Đạo.Trà đạo bao gồm những nghi lễ thiêng liêng thấm đượm chất tâm
linh tôn giáo, khiến cuộc thưởng trà trở thành một cuộc lễ.
Ngày nay Triết Lý Trà của người Nhật đã trở thành một nghi thức chính thống của
một tôn giáo gọi là Trà Đạo, hình thành từ thời kỳ Mạc Phủ Tướng Quân ở thế kỷ
thứ XV. Những trà đồ trước khi bước vào trà thất đã tự mình rũ bỏ hết cái thế
giới ồn ào bon chen, nhập vào sự tĩnh lặng của tâm hồn, quên hết kể cả cái ta
phiền toái đáng phiền.
Cho đến thế kỷ 19 mà Trung Hoa vẫn còn là nơi độc quyền sản
xuất trà bán ra khắp toàn thế giới. Thuở ấy người ta chỉ mới biết mua trà về
pha chế thêm, mang bỏ vào hộp, đóng thùng dán lên các thứ nhãn hiệu rồi đưa đi
bán lại mà thôi. Càng ngày thấy nhu cầu càng tăng và nguồn lợi càng rõ ràng vĩ
đại, người ta nghĩ đến mang giống trà đi trồng ở các miền đất đai các xứ khác mới
đủ cung cấp cho cả thế giới.
Người Anh quốc là kẻ tiên phong đã biết dùng ngay đất thuộc địa của mình, tức
là xứ Ấn Độ thời ấy, làm nơi trồng trọt và sản xuất trà, thay vì phải mua từ
người Trung Hoa. Họ đã lấy giống trà từ Trung Hoa, đón một số chuyên viên Trung
Hoa trong ngành trồng tỉa cũng như pha chế, đưa những người này sang Ấn Độ để dạy
cách thức trồng trọt pha chế cho dân địa phương, và họ đã thành công.
Ngoài ra còn những vùng mà cây trà được trời ban cho cũng mọc lên tự nhiên và hợp
khí hậu không kém trà của Trung Hoa đó là những vùng như Việt Nam, Miến Điện,
Mã Lai, Lào, Miên.
4. SƠ LƯỢC TRÀ KINH CỦA LỤC VŨ Ở phần trên có liên hệ đến Lục Vũ và tác phẩm danh tiếng
của ông: Trà Kinh (Kinh thư của Trà), ông đã định thức hóa Pháp điển về Trà. Ta
thử xem sơ lược về Trà Kinh.Thần Trà Lục Vũ
1. Tiểu sử Lục Vũ
2. Lục Vũ (733-804), đời Đường, tác giả cuốn Trà Kinh, người đất
Cảnh Lăng, Hồ Bắc; theo bản đồ thì cặp sát Tứ Xuyên và Quý Châu (lúc đó thuộc
Nam Chiếu/ Đại Lý).
Lục Vũ, tự là Hồng Tiệm, vốn là một đứa trẻ mồ côi, được một
thiền sư tên là Thái Chúc ở Hồ Bắc nhận nuôi. Thiền sư này vốn là một người hâm
mộ và sành điệu trà đúng với truyền thống Thiền thời đó. Sáu năm trời Lục Vũ lưu
ngụ tại thiền viện Long Vân, thời gian này ông được chỉ dạy nhiều về cách pha
chế và thưởng thức trà. Tuy nhiên bẩm tính của Lục Vũ thích Nho giáo hơn là Thiền
học nên thường bị sư ông trách phạt; cuối cùng không kham nổi Lục Vũ bỏ trốn
theo một gánh hát. May sao đến năm 14 tuổi Lục Vũ gặp được một hoàng thân; ông
này nhìn ra tư chất của Lục Vũ và có nhiều giúp đỡ. Sau loạn An Lộc Sơn, Lục Vũ
lui về ẩn dật, kết bạn với nhiều văn nhân và cho ra đời cuốn Trà Kinh.
2. Trà Kinh
Trà Kinh gồm 3 quyển, chia làm 10 thiên, mỗi thiên đi vào một
nội dung: Nhất chi nguyên: nói về nguồn gốc cây chè; Nhị chi cụ: nói về 15 công
cụ trồng chè, hái chè, chế biến chè; Tam chi tạo: nói tiêu chuẩn, yêu cầu khi
chế biến trà; Tứ chi khí: giới thiệu 25 dụng cụ pha trà; Ngũ chi chủ: bàn về cách
pha trà; Lục chi ẩm: nói về thú uống trà; Thất chi sử: ghi chép các trà nhân,
trà thoại; Bát chi xuất: nói về các vùng trà; Cửu chi lược: nói về giản lược hóa một số khâu trong chế biến trà; Thập chi đồ: nói về các tranh ảnh vẽ về trà.Trà Kinh Lục Vũ
Chương tư dành riêng để liệt kê và miêu tả hai mươi bốn thứ “trà
khí”, bắt đầu từ cái lò ba chân cho đến cái tủ tre để đựng những dụng cụ ấy.
Trong chương thứ năm, Lục Vũ trình bày phương pháp nấu trà.
Trừ muối, ông bỏ hết các thứ gia vị khác. Ông cũng đề cập tới vấn đề mà người
ta đã bàn đến rất nhiều là vấn đề chọn nước và mức độ đun nước sôi. Theo ông
thì nước sơn tuyền tốt nhất, rồi đến nước sông, và sau chót nước các nguồn khác.
Có ba độ nước sôi: độ thứ nhất, khi có những bọt nho nhỏ như mắt cá bơi trên mặt
nước; độ thứ hai, khi bọt nước trông giống như những hạt châu bằng pha lê lăn đi
trong suối; độ thứ ba, khi sóng nước sủi lên sùng sục trong ấm. Người ta đem Trà
bánh hong trước bếp lửa cho đến khi mềm ra như cánh tay con nít, rồi đặt giữa
hai tờ giấy thật tốt, nghiền vụn ra. Khi nước sôi ở độ thứ nhất thì bỏ muối vào,
ở độ thứ nhì thì bỏ trà. Đến độ sôi thứ ba thì đổ một thìa nước lã vào ấm để “trấn”
trà và làm cho “nước hồi phục lại nguyên khí”. Rồi người ta rót trà ra chén dể
uống. Ôi cam lộ! Những chiếc lá nhỏ mong manh treo lên như những đám lân vân trên
nền trời thanh quang, hoặc nổi vật vờ như những đóa sen trên dòng thủy lục.
Chính về món đồ uống này mà Lỗ Đồng, một thi nhân đời Đường đã
viết: “Chén thứ nhất dấp ướt môi và cổ họng; chén thứ hai phá tan nỗi cô quạnh
của ta; chén thứ ba thấm vào lòng ruột khô khan của ta và kiếm ra được năm ngàn
cuốn biểu ý văn tự kỳ dị. Chén thứ tư làm cho ta dâm dấp mồ hôi, - bao nhiêu những
điều tà ác ở trên đời đều tiết ra khỏi lỗ chân lông ta. Uống đến chén thứ năm,
lòng thấy lâng lâng thanh tịnh; chén thứ sáu chiêu vời ta tới cõi bất tử. Chén
thứ bảy - a, nhưng ta không thể nhắp hơn được nữa! Ta chỉ thấy luồng gió lạnh
thổi phồng cánh tay áo ta lên thôi, bồng Lai Sơn ở đâu? Thôi hãy để cho ta cưỡi
ngọn gió mát này bay đi đến đó cho xong” - như đã biết ở phần trên.
Chương thứ mười trà đồ, tức đem chín mục trên chép ra lụa trắng
treo lên, để mục kích mà hiểu rành rọt được trà vậy.
Cuốn Trà Kinh là cuốn sách Bách khoa toàn thư về chè lâu đời
nhất từ đời nhà Đường và có ảnh hưởng sâu xa, rộng lớn đến các đời sau này. Người
Trung Quốc gọi Lục Vũ là Trà Thánh, và ông được thờ như vị thần giám hộ của
các nhà buôn trà. Hiện nay, tại quê hương Lục Vũ, nhân dân đã xây dựng một nhà
bảo tàng kỷ niệm Lục Vũ, để ghi nhớ đến người đã có cống hiến lớn cho văn hóa và
lịch sử chè Trung Quốc. Ngoài ra còn dựng một tượng đồng Lục Vũ đang ngồi uống
một chén chè tại quê hương Thiên Môn của ông.
5. CÁC HÌNH THỨC TRÀ
1. Đoàn Trà
Đoàn trà hay trà bánh: Là khối nguyên lá hay đã xay nhỏ nén lại.
Lá trà sau khi thu hoạch xay ra hay để nguyên rồi đem hấp chín, sau đó cho vào
khuôn ép (có lò sản xuất ép khuôn mang dấu hiệu riêng của mình). Nếu lá trà xay
thành bột, người ta hồ thêm bột gạo rồi mới ép. Cuối cùng đem sấy cho khô. Trà
bánh là nguyên liệu cho nhiều loại thức uống như trà sữa của Mông Cổ và trà bơ
của Tây tạng.
Thời Lục Vũ - thời Đường, người ta uống theo lối Đoàn Trà
thô sơ: Trà khô được vo tròn thành bánh, trước lúc uống trà phải mang bánh trà
ra hong trước bếp cho mềm trà, rồi đặt giữa hai tờ giấy sạch mà nghiền vụn ra.
Chờ nước vừa sôi thì bỏ muối vào, chờ nước sôi thêm một lúc thì mới mang trà đã
nghiền mà bỏ vào. Nước sôi sùng sục như giận dữ là lúc quan trọng nhất; cần phải
bỏ vào lúc ấy một thìa nước lạnh gọi là để trấn trà, và là phục hồi tính của nước,
tức là nguyên khí. Sau đó mới mang pha ra để uống.
2. Mạt trà
Mạt trà hay trà bột.
Đến đời Tống (962-1274) lối uống trà của Lục Vũ tức Đoàn Trà đã
được bỏ đi để uống theo lối Mạt Trà - Lối này được gọi là đệ nhị trà phái. Trà được
bỏ vào cối đá nghiền thành bột rồi mang đặt vào chén, đổ nước thật sôi, quấy đều
bằng một chiếc “trà tiển” - thanh quậy trà - là dụng cụ hình như một cái
chổi bằng tre, vót thật khéo, chọn tre tốt; một đầu chẻ tách ra thành nhiều
que như que tăm dài, một đầu không chẻ để làm cán. Tiển là để chùi nồi, chùi ấm
như ta vẫn thấy, nhưng đây cũng là một loại tiển được vót công phu hơn, thanh
tao hơn đặc biệt để quậy trà.
Người Nhật và lối Trà Đạo của họ là lối uống theo nghi thức của
đệ nhị trà phái thời Tống này. Mạt trà là loại bột trà xanh dùng trong nghi lễ
trà đạo của Nhật Bản, có màu xanh lục và mùi thơm tự nhiên của trà. Mạt trà thường
cao giá hơn các thứ trà khác và có lẽ hiện nay ngoài Nhật Bản khó tìm nơi nào có
xưởng sản xuất loại trà này. Hình thức trà này có từ đời nhà Tống, truyền
qua Nhật và có liên quan đến Thiền tông.
3. Yêm trà hay Tiễn trà
Yêm trà còn gọi là tiễn trà hay trà ngâm, là loại trà ngày
nay đang dùng. Loại trà này ra đời do Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương (trị vì
1368-1399) người sáng lập ra nhà Minh, quyết định bỏ hẳn lối sản xuất trà bánh/
trà ép khuôn và trà bột vì quy trình sản xuất các loại trà này đòi hỏi rất nhiều
thời gian và công sức, thay thế vào đó là yêm trà. Sự ra đời loại trà này
làm phát triển ngành gốm sứ phục vụ việc uống trà - trà cụ: Quyết định dùng
trà ngâm/ yêm trà là động cơ thôi thúc các nghệ nhân lò Cảnh Đức Trấn, tỉnh
Giang Tây và lò Yixing, tỉnh Giang Tô vẽ ra nhiều kiểu ấm và chén tinh xảo cho
cách thức uống trà mới. Trà bột nhường chỗ cho trà có dạng lá tự nhiên và có cách
chế biến như ngày nay. Đó là những lá trà phơi sấy khô, có thể ướp hương hay
không, hãm với nước nóng mà dùng.
Loại hình trà ngâm có rất nhiều chủng loại và mỗi chủng loại
có nhiều danh trà khác nhau. Hiện nay người ta lan truyền 10 loại đệ nhất danh
trà Trung Hoa (dĩ nhiên không chính thức) là: Tây Hồ Long Tỉnh của Hàng Châu,
Đỗng Thính Bích Loa Xuân của Giang Tây, An Khê Thiết Quan Âm của Phúc Kiến, Hoàng
Sơn Mao Phong của An Huy, Quân Sơn Ngân Châm của An Huy, Kỳ Môn Hồng Trà của An
Huy, Vũ Di Nham Trà của Phúc Kiến, Lục An Qua Phiến của An Huy, Tín Dương Mao
Tiêm của Hà Nam, và Đô Vân Mao Tiêm của Quỳ Châu. Chúng ta sẽ bàn vài danh
trà tiêu biểu ở phần dưới.
Phương pháp dùng tiễn trà, trà ngâm/ hãm trong nước sôi, của
hậu đại Trung Hoa tương đối là mới đối với Nhật Bản, vì mãi giữa thế kỷ mười bảy
người Nhật mới biết đến phương pháp này.
6. LOẠI TRÀ – DANH TRÀI. Các loại trà
Chúng ta có thể tóm lược rằng có rất nhiều loại trà, nhưng tựu chung có thể dễ
dàng phân làm ba loại: Trà xanh, trà đen và loại trung gian, cả ba loại đều chỉ
khác nhau ở chặng lên men/ cách ủ (Oxidation). Ủ sơ thì cho loại trà xanh, ủ kỹ
thì là loại trà đen, ủ vừa thì cho loại trà trung gian: như loại Ô Long, trà
vàng Thiết Quan Âm… Trà nguyên thủy vẫn là màu lá xanh chỉ trừ giống Lạp Mộc
trà mọc ở Phúc Kiến mang màu vàng.
Trà xanh gọi là Lục trà hay Thanh trà; trà đen: Hắc trà hay Hồng
trà.
– Loại Trà xanh: điển hình danh tiếng là: Trà Long Tĩnh, “Làm trai biết đánh Tổ
Tôm, uống trà Long Tĩnh ngâm nôm Thúy Kiều”. Các loại trà xanh khác như Sư
Phong, Bạch Vân, Bảo Vân, Tư Duẩn, Thọ Mi (Trung Quốc) hay Thanh Trà, Thiên Vụ,
Tùng Bách Thanh (Đài Loan) hiện đang có trên thị trường.
Trà xanh là loại trà thuần dùng lá trà không phụ gia gì khác và không cho lên
men hay hạn chế sự lên men tối đa, chỉ phơi khô rồi cất giữ. Loại trà này được
dùng rất phổ biến hiện nay vì ngoài hương vị trà mộc còn giữ nguyên, các nghiên
cứu khoa học cho thấy nó rất có lợi cho sức khỏe. Nó có mặt trong cửa hàng của
Trung Hoa, Nhật, Ấn Độ, Thái Lan, Việt Nam và nhiều nước khác. Các loại trà
xanh danh tiếng có thể kể ra: Long Tỉnh Trà ở Hàng Châu, Long Đỉnh Trà của Chiết
Giang, Bỉ Lộ Xuân Trà của Hàng Châu xưa là một loại trà tiến vua liên quan đến
Trinh Nữ Trà, Tín Dương Mao Tiêm Trà của Hà Nam, Hoàng sơn Mao Phong của tỉnh
An Huy,… Những thứ trà xanh danh tiếng của Nhật có thể kể đến là: Nihoncha (Nhật
Bản Trà), Ryokucha (Lục Trà), Gyokuro (Ngọc Sương Trà)… Trà sen, trà lài của
Việt Nam cũng là loại trà xanh.
– Loại trà đen: là loại trà được để cho oxy hóa hoàn toàn. Trà đen có vị đậm
và nhiều caféine hơn các loại trà khác, và ở Trung Hoa người ta gọi là hồng trà
vì sau khi được đem pha hãm trà thì nước và bã trà dưới đáy hiện ra màu đỏ,
chính vì thế mà đã thành tên là Hồng Trà. Kỳ Môn Hồng Trà là loại này.
Hiện nay, Âu Mỹ chỉ dùng trà đen (Anh ngữ quen gọi là Black Tea, Hán ngữ gọi là
Hồng Trà). Trái lại, Á Đông gần như chỉ dùng trà xanh (Thanh Trà) và Ô Long.
– Loại Ô Long quen thuộc nhất là Thiết Quan Âm, Thiết La Hán, Thủy Tiên, Tước
Thiệt, Long Phụng, Long Viên Chu, Chân Long (Trung Quốc) hoặc Động Đình, Minh Đức,
Thiết Quan Âm, Thủy Tiên, Ô Long, Thiên Vụ của Đài Loan đều có bán.
Ô Long Trà: là loại trà gốc Phúc Kiến có màu nằm giữa trà xanh và trà đen
(nghĩa là bị oxy hóa khoảng 10-40% tùy chất lượng) rất được người Trung Hoa ưa
chuộng và dùng đơn giản đem hãm với nước nóng rồi dùng. Lá trà này khi hái về
đem phơi cho héo, nhào trong rỗ tre để tăng bề mặt oxy hóa, phơi đảo cho thật
khô, sấy và gia hương liệu.
Do được chuộng nhiều ở Châu Á nên nhiều loại trà Ô long có mặt trên thị trường.
Người ta sơ bộ thấy có một số trà Ô long mang tên như sau: Đại Hồng Bào Trà một
loại trà xưa kia dùng tiến vua, Thủy Kim Quy Trà, Thiết La Hán Trà, Nhục Quế
Trà… Trà Thiết quan Âm nói bên dưới cũng là một loại trà Ô long.
II. Truyền thuyết về các danh trà tàu
Không chỉ có huyền thoại để thu hút người khác, người Trung Hoa có biệt tài biến
hóa sản phẩm của mình để thu hút khác hàng. Rất nhiều loại trà được ra đời với
cách chế biến cầu kỳ; trong số đó có một số danh trà cũng được huyền thoại hóa
thêm màu sắc thần bí.
1. Long Tỉnh Trà
Trà Long Tỉnh còn là Ngự trà, đứng đầu trong Thập đại danh trà tàu.
Truyền thuyết gắn liền với trà Long Tỉnh như sau:
Trà Long Tỉnh Tây Hồ gắn với một câu truyện rất thú vị. Hoàng Đế Càn Long đời
nhà Thanh (trị vì 1736-1795) tới Giang Nam, dừng chân lại Tây Hồ thưởng thức
trà Long Tỉnh ở nơi này. Vua Càn Long đã thấy được tuyệt kỹ tuyệt vời của những
cô thôn nữ hái chè nơi đây, nên đã tham gia học cách hái chè; cùng lúc đó tùy
tùng của Càn Long tới thông báo là Thái Hậu bị bệnh nặng, Càn Long vội vàng trở
về Bắc Kinh, tiện tay đút luôn những búp trà vừa hái vào trong túi áo. Bệnh
tình của Thái Hậu không có gì đáng ngại, chỉ là do ăn uống bị chướng bụng, tiêu
hóa kém, thêm phần nhớ con trai vì đó mà cơ thể cảm thấy mệt mỏi, không khỏe.
Khi Càn Long về, Thái Hậu thấy con trai nên đã bớt đi một nửa bệnh tình. Bà ngửi
thấy trên người con trai mình có mùi gì đó thơm dịu nhẹ, liền hỏi là thứ gì?
Càn Long liền lấy trà trong túi ra pha, mùi vị của trà tỏa lên rất thơm; sau
khi hoàng thái hậu uống vào bệnh tình hoàn toàn hồi phục, sức khỏe trở lại như
xưa. Điều này làm cho vua Càn Long rất vui, nên đã ban sắc lệnh, sắc phong cho
18 cây trà trước Long Tỉnh Tự ở Tây Hồ là “Ngự Trà”. Về sau được vua Khang Hy
phong là Hoàng trà, loại trà biểu trưng cho hoàng đế. Từ đó trà Long Tỉnh càng
được nổi tiếng khắp nơi, được nhiều người biết đến là loại trà thơm ngon. Cũng
vì búp trà được để trong túi nên đã ép dẹp, tạo thành mặt 2 mặt phẳng, vì thế
mà Long Tỉnh Tây Hồ cũng được người dân nơi đây chế biến, và tạo thành hình
tương tự.
2. Oolong Trà hay Ô Long Trà
Trà Oolong (còn được gọi Ô Long) là một loại trà có xuất xứ từ vùng núi tỉnh
Phúc Kiến, Trung Hoa. Nó bị oxy hóa - Oxidation- khoảng 5-70% tùy từng loại
khác nhau. Vì vậy mà màu sắc của nó nằm giữa trà xanh và trà đen và rất được
người Trung Hoa ưa chuộng. Hình dáng Trà Oolong: Búp trà thường được cuộn
thành viên tròn lớn, có loại còn để thừa ra cuống trà tựa như đuôi của “rồng”
– Truyền thuyết kể, do một người trồng trà thấy có con rồng đen từ giống cây
trà này bay lên, nên từ đó đặt thành tên.
– Một truyền thuyết khác kể rằng trà Oolong ban đầu được người Trung Quốc gọi
là “wulong” hay “rồng đen”, bởi trong quá trình chế biến, lá trà đen được xoắn
lại thành hình dạng giống như con rồng.
– Một câu chuyện khác kể về một người trồng trà tên là Wu Liang (sau này được gọi
lại Wulong) Truyền thuyết kể lại rằng vào năm 1725 có một người đàn ông trồng
trà ở huyện An Khê, tỉnh Phúc Kiến với biệt danh là Ô Long (vì anh ta đen nên
được mọi người gọi là ô long). Khi người này đang thu hái trà, thì ông nhìn thấy
một con nai và ông đã quyết định đi săn bằng được con nai này thay vì tiếp tục
thu hái và chế biến trà đã thu hoạch. Cuối cùng ông cũng bắt được con nai và
mang về làm thịt và tổ chức ăn uống. Hôm sau, ông mới nhớ ra rằng ông cần phải
chế biến trà đã được thu hoạch từ ngày hôm trước. Nhưng những lá trà đó đã bị
oxy hóa một phần, và điều đặc biệt là trà đã tỏa ra một thứ hương thơm kỳ lạ.
Vì vậy, ông ấy đã quyết định không đem đi chế biến trà như mọi khi nữa. Và mang
vào pha thử một ấm, thật ngạc nhiên khi thấy nước trà sau khi pha có mang một
hương vị ngọt ngào mạnh mẽ hoàn toàn mới lạ, mà không có bất kỳ vị đắng nào như
trà thường được sản xuất trước đây. Sau đó ông ta suy nghĩ và nghiên cứu, thử
các phương pháp chế biến khác nhau và cuối cùng cũng chọn được phương pháp chế
biến trà cho chất lượng thật tuyệt vời là làm héo, lắc tạo màu xanh lá cây, để
lên men tự nhiên từ 5-70%, sau đó cho vào sao để ngăn quá trình lên men. Như thế
là đã có được một loại trà chất lượng tuyệt vời rồi. Vì vậy loại trà mới này được
đặt tên theo biệt danh của ông, và từ đó nó được gọi là trà Ô long.
Do nó có những hương vị lạ, đặc biệt nên rất được ưa chuộng ở Châu Á. Vì vậy, dần
dần nó xuất hiện thêm nhiều loại trà Ô long có mặt trên thị trường. Hiện nay
trên thị trường có một số loại trà khác nhau cũng được liệt kê là trà Ô long
như: Trà Đại Hồng Bào một loại trà xưa kia dùng tiến vua, Trà Thủy Kim Quy, Thiết
La Hán Trà, Nhục Quế Trà… Trà Thiết quan Âm nói bên dưới cũng là một loại trà
Ô long.
Trà Ô long có màu sắc nằm giữa trà xanh và trà đen và rất được người Trung Hoa
ưa chuộng. Cách sử dụng trà Ô Long rất đơn giản, đem hãm với nước nóng rồi
dùng.
3. Thiết Quan Âm Trà
a. Đặc điểm
– Trà Thiết Quan Âm thoạt nhìn thì có vẻ khá giống với Trà Ô Long và thường bị
nhầm lẫn với Trà Ô Long. Thực chất Trà Thiết Quan Âm vẫn được xếp vào nhóm trà
xanh vì trà Thiết Quan Âm có độ oxy hóa thấp, những lá trà đã được chọn và hái,
nó sẽ được để cho tự oxy hóa từ 5% đến 25%, giúp cho hương vị của trà được thơm
ngon, hấp dẫn mùi nhẹ nhàng của hoa lan. Còn trà Ô Long thì độ oxy hóa thường nằm
trong khoảng 30 - 40%. Nên Trà Thiết Quan Âm khi pha ra còn mang dư vị của trà
xanh khá nhiều. Thiết Quan Âm là tên một danh trà trong thập đại danh trà nổi tiếng
Trung Hoa
Một điểm đơn giản để phân biệt trà Thiết Quan Âm với trà Ô Long nữa là Thiết
Quan Âm không có cọng trà mà chỉ có lá. (Trong khi Trà Ô Long sẽ gồm một búp
và 2-3 lá hé mở, cọng thấy rất rõ).
– Trà Thiết Quan Âm còn gọi là trà vàng - loại trà nằm giữa trà xanh và trà
đen, đây là một trong những loại trà rất tốt cho sức khỏe thuộc nhóm trà Ô
Long. Trà Thiết Quan Âm có hương vị đậm đà, dịu ngọt, mùi thơm tự nhiên, sắc
vàng đẹp mắt như hổ phách. Chính nhờ hương vị thơm ngon và đậm đà, nên trà Thiết
Quan Âm được mệnh danh “bảy nước còn dư hương” nghĩa là có thể pha 7 lần nước
nhưng vẫn còn mùi thơm. Trà Thiết Quan Âm còn được biết đến là một trong “thập
đại danh trà” nổi tiếng của Trung Hoa.
b. Nguồn gốc và truyền thuyết về trà Thiết Quan Âm
– Trà Thiết Quan Âm có nguồn từ trấn Tây Bình, huyện An Khê, tỉnh Phúc Kiến,
Trung Hoa với hơn 200 năm lịch sử. Tại An Khê vẫn còn lưu truyền một câu chuyện
về loại trà này. Chuyện kể rằng vào đời nhà Thanh năm vua Càn Long, ở trấn Tây
Bình, huyện An Khê có một ngôi đền bị bỏ hoang, bên trong vẫn còn bức tượng bằng
sắt của Quan Âm Bồ Tát. Lúc bấy giờ có người nông dân tên Wei hàng ngày trên đường
ra đồng ruộng làm việc ông vẫn đi ngang đây và luôn suy nghĩ muốn làm gì đó để
cải thiện ngôi đền.
Là một nông dân nghèo, Wei không có phương tiện để sửa chữa đền thờ. Một hôm,
ông ta mang một cây chổi cùng một số hương nhang ở nhà đến để quét dọn sạch sẽ
và thắp hương để tỏ lòng thành kính với Quan Âm Bồ Tát, và ông đã làm điều này
hai lần một tháng trong nhiều năm liền.
Vào một đêm nọ, trong lúc đang ngủ Wei mơ màng nằm mộng thấy Quan Âm Bồ Tát,
người nói với ông về một hang động phía sau đền thờ, nơi có kho báu đang chờ đợi.
Sáng hôm sau, ông đến phía sau đền thờ và tìm thấy hang động, Wei lấy kho báu
và chia sẻ chúng với người khác. Trong hang, ông còn tìm thấy tìm thấy cây trà,
Wei nhanh tay hái một ít lá trà về chế biến.
Sau khi thưởng thức hương vị đậm đà, dịu ngọt của loại trà lạ đã thu hút ông,
Wei liền quay lại hang bứng cả cây trà mang về để trồng. Thời gian sau, trà mọc
nhiều, cành lá xum xuê, tươi tốt. Ông cho hàng xóm xung quanh giống trà để trồng
và sản xuất. Vì thấy lá trà này khi lên men có màu đen như sắt thép, nặng hơn
những lá trà thường, và được Phật Bà Quan Âm gia hộ báo mộng nên ông đặt tên
cho trà là Thiết Quan Âm. Từ đó trà Thiết Quan Âm trở nên nổi tiếng khắp thiên
hạ và là loại đồ uống được các hoàng đế ưa dùng. Theo thời gian, Wei và hàng
xóm nhờ sản xuất và buôn bán trà Thiết Quan Âm mà trở nên khá giả thịnh vượng.
Ngôi đền bỏ hoang ngày nào đã được sửa chữa và trở thành một ngôi chùa xinh đẹp.
– Truyền thuyết thứ 2: Tương truyền vào đời vua Càn Long nhà Thanh, vùng đất
này có một người chuyên trồng và chế biến trà tên là Ngụy Âm. Ngụy Âm là người
rất sùng kính Quán Thế Âm Bồ Tát, sáng nào ông cũng dâng lên Phật bà ba chén
trà liên tục suốt 10 năm trời. Một đêm ông nằm mơ thấy Quán thế Âm dẫn lên một
khe núi chỉ cho một cây trà. Sáng hôm sau, thức dậy ông theo sự ứng mộng lên
núi tìm được cây trà giống hệt trong mộng. Ngụy Âm bứng cả cây về trồng trong
vườn nhà. Vài năm sau cây tươi tốt, ông thu hái chế ra một thứ loại trà ngon
tuyệt vời, khi đóng bánh cứng nặng và có màu đen như sắt, sợi trà cong xoắn,
cho nước hãm màu xanh lục, hương vị thơm ngon hơn hẳn các thứ trà khác ở địa
phương. Ông đặt tên là trà Thiết Quan Âm và từ đó trở thành một danh trà khét
tiếng trên thế giới.
Trà Thiết Quan Âm được chia ra làm 3 loại là Thanh Hương, Nùng Hương và Trần
Hương. Trà Thiết Quan Âm Thanh Hương được lên men rất ít và chú trọng vào mùi
thơm hơn là vị của trà. Còn Nùng Hương thì chú trọng vào cả vị lẫn mùi thơm của
trà. Trần Hương thì được lên men nhiều nhất nên vị của nó không còn vị trà xanh
nữa.
4. Thiết La Hán Trà
Thiết La Hán Trà là dòng trà cao cấp được các nghệ nhân chế biến và lưu trữ qua
nhiều năm theo cách riêng biệt từ những lá trà Thiết Quan Âm. Ra đời từ thời
Càn Long khoảng năm 1782 cho đến nay, trà Thiết La Hán đã có lịch sử hơn 200
năm tuổi.
Truyền thuyết về tên gọi trà Thiết La Hán có 3 tích:
– Tích thứ nhất: Thời đấy, có vị thương nhân họ Thi Thái Thành có mở lập một
trà điếm tại huyện Huệ An, tỉnh An Huy, nổi tiếng nhất với dòng trà Thiết La
Hán. Mặc dù đã có hai cuộc dịch bệnh rất lớn ở huyện Huệ An từ năm 1890-1931,
những bệnh nhân đã được cứu chữa khi dùng trà Thiết La Hán của vị thương nhân họ
Thi này, nên trà được đặt tên như là một vị La Hán sống cứu nhân độ thế.
– Tích thứ hai: Ở Vũ Di Sơn, chùa Huệ Uyển, có vị tăng nhân tự là Tích Huệ, người
thập phương tới thăm rất thích uống trà đàm đạo với vị tăng. Vị tăng cơ thể vạm
vỡ rám nắng, tướng mạo đẹp đẽ như vị La Hán, cho nên những người này gọi ông là
Thiết La Hán. Một ngày nọ, vị tăng phát hiện một số cây trà ở gần chùa, cây thẳng
và vươn cao, các nhánh cây dày và xám vàng, lá cây tỏa ra mùi hương thơm đặc biệt.
Ông hái các lá non và đem về nấu trà mời khách, mọi người thấy ngon hỏi nguồn gốc,
và bởi trà được phát hiện bởi vị tăng nên đặt theo tên ông là Thiết La Hán.
– Tích thứ ba: Tây Vương mẫu mở tiệc, mời 500 vị La Hán đến dự. Hôm đấy, vị La
Hán chưởng quản về cây trà đi tiệc về quá say, khi đi qua Huệ Uyển Khanh thuộc
khu Vũ Di Sơn, giống trà quý vốn để trong mình bị đánh rơi. Một người nông dân
già vô tình nhặt được. Sau được vị La Hán này báo mộng và dặn đem đi trồng
thành cây trà, hương vị tuyệt vời, có thể chữa được bách bệnh, nên trà được đặt
tên là Thiết La Hán Trà.
5. Thanh Nữ Trà hay Trinh Nữ Trà
Truyền thuyết gắn liền với Trinh Nữ Trà:
– Thanh Nữ Trà hay Trinh Nữ Trà: là loại trà rất nổi tiếng với hương vị thơm
ngon và cách chế biến rất cầu kì và độc đáo. Quá trình thu hái trà là phải sử dụng
các cô gái đồng trinh: Người ta chọn ra những trinh nữ tuyệt đẹp, từ 15-18 tuổi,
cho tắm gội bằng nước thơm, rồi mặc quần áo rộng và buộc túm ống tay, ống chân
leo lên đồi cao hái trà. Lá trà hái được dồn cất vào trong lớp áo rộng
thùng thình đã được buộc kín ống chân, ống tay nói trên. Khi mặt trời lên, mồ
hôi những cô gái này thấm vào trà nên gọi là Trinh nữ trà.
Loại trà này luôn được liệt vào trong top đệ nhất danh trà, cạnh những cái tên
đình đám khác ở Trung Hoa như Long Tỉnh, Thiết Quan Âm, Trùng Điệp… Có tên gọi
khác là Bỉ Lộ Xuân, loại trà này không chỉ nổi tiếng bởi vị thơm ngon, thuần
khiết mà còn do phương thức chế biến cầu kỳ và độc đáo.
– Lại có truyền thuyết xuất xứ gắn với Trinh Nữ Trà như sau: Huyền thoại kể rằng
một vị vua đời Đường rất ham mê uống trà và rất sành điệu mùi vị trà. Một buổi
sáng, nhà vua ra lệnh cho người tỳ nữ, lấy trà vừa đưa vào nhà kho đêm qua, và
pha cho nhà vua, sau khi thưởng thức vị trà này xong, nhà vua vô cùng hài lòng
vì trong đó một hương vị mới, thơm ngon lạ, hóa ra, số trà này đã được mang
“mùi vị” của chính người tỳ nữ pha trà, mà đêm hôm trước, vì trời đột nhiên trở
lạnh, nàng đã vào ngay đống trà để ngủ cho ấm. Vì nàng đích thực là còn “con
gái” nên trà này đã được đặt tên là “Trinh Nữ Trà”. Trà đã được ướp với hương vị
thơm tho của da thịt và mồ hôi người con gái đồng trinh. Từ đó vua cho tuyển
thêm trinh nữ lo việc hái trà và ủ trà như đã nói, dĩ nhiên việc tuyển chọn mùi
hương tự nhiên rất khe khắc.
– Một truyền thuyết nữa: Trinh Nữ Trà, theo Hoàng Duy Anh đăng trong tạp
chí Chọn Lọc, là loại trà đặc biệt của Nhật. Theo các nhà viết sử thì trà này
xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ 16, tại đảo Oki Shima.
Thuở đó có một Sứ quân cai quản đảo này, ông là người sành uống trà. Một hôm
đi ngang qua trái đồi, ông thấy có cây trà hoang mọc, liền cho gia nhân hái
búp lá về đầy một sọt. Về nhà ông cho đem vào bếp, pha uống thử thấy khá
ngon, ông bèn cho để vào một góc bếp để pha uống dần. Một hôm cũng trà ấy, ông
uống sao cảm thấy mùi vị rất lạ và rất ngon, khác hẳn mọi ngày. Ông thân hành
xuống bếp tìm hiểu, mới biết đêm vừa qua, con a hoàn làm việc mệt nhọc ngủ luôn
trong bếp, gần sọt trà; không biết vì sao sọt trà lại đổ ra và nó đã nằm ngủ
trên đống lá trà. Ông khám phá ra, chính thân con a hoàn là hương vị đã ướp trà
thêm thơm ngon. Sau đó ông sai gia nhân hái thêm trà và cho con a hoàn ngủ trên
đống trà, tạo nên hương vị đặc biệt. Từ đó có Trà Trinh Nữ.
5. Trảm Mã Trà
– Trảm Mã Trà là loại trà mọc hoang lưu niên trên núi cao Vu Sơn tỉnh Tứ Xuyên,
có tên cỏ trà Phương chi. Loại trà này có hương vị tuyệt vời, nhưng nó lại mọc
nơi rất hiểm trở của núi Vu Sơn, mỗi năm nảy lộc một lần kéo dài một tháng có
tiết trung thu rồi chết. Người sơn cước bản địa cũng gian nan mới hái được loại
trà này.
Để dễ dàng việc thu hái trà thì người ta đã bỏ đói những con ngựa 2 ngày liền,
sau đó chúng được thả rong, chạy vào trong rừng trà, đầy những búp non buổi đầu
xuân. Chúng sẽ ăn những búp trà ngon lành cho tới lúc bụng no căng. Khi ngựa đã
ăn no, tốp mã phu tập trung chúng lại dẫn xuống khe suối quanh núi. Nước suối ở
đây do xác trà rụng xuống nát mủn, nước đặc sánh, màu đen nên được gọi là suối
Ô Long. Ngựa vục đầu uống nước suối Ô Long thỏa thích.
Sau đó, các mã phu cưỡi ngựa trở về điểm xuất phát. Họ cho ngựa đi nước kiệu đều
đều, chậm rãi. Thời gian đi đường khoảng một ngày, đủ để búp trà trong bụng ngựa
thấm với nước suối Ô Long lên men. Về đến nơi đã định, mã phu lập tức giết bầy
ngựa, mổ bụng moi trà từ bao tử của ngựa ra, đem đến lò sao tẩm chế biến. Trà đã
được ngựa nhai kỹ khỏi phải vò nát, nước suối thấm từ trong bao tử giúp trà giảm
độ chát. Trảm mã trà vì vậy có hương vị độc đáo, độ chát vừa phải, thơm ngon.
– Truyền thuyết thứ hai cho rằng: Trong một buổi yến tiệc của cung đình dưới
triều đại Từ Hy Thái Hậu, khi người đầu bếp sắp sửa pha trà, mới phát hiện ra một
con ngựa sút chuồng đã ăn sạch tất cả Trà; không còn cách nào hơn là họ giết
ngay con ngựa, mổ bụng lấy trà ra pha cho Thái Hậu và các quan dùng; không ngờ
hương vị trà thơm ngon đặc biệt, được Thái Hậu khen thưởng. Thế là từ đó có Trảm
Mã Trà. Dựa vào điều phát hiện lý thú trên, ở các vườn trà, nhất
là vùng Vũ Di sáng sớm người ta thả ngựa ra cho ăn lá trà; khi nó ăn no rồi
chặt đầu, mổ bụng lấy trà ra sao chế.
Trảm Mã Trà là món thức uống Từ Hi Thái Hậu thiết đãi các sứ thần Phương Tây
trong yến tiệc mừng Tết Nguyên Đán 1874, nó còn có tên là Phương Chi thảo.
(Ngoài món trà trảm mã mà Từ Hi Thái Hậu thết đại các sứ thần, còn có sáu món
vừa công phu vừa kỳ quái là: Sâm Thử, Sơn Dương Trùng, Tượng Tinh, Khổng Noãn,
Não Hầu, Trư Vương).
6. Bạch Mao Hầu Trà
– Bạch Mao Hầu Trà: Bạch Mao Hầu là tên dùng chỉ một loài vượn lông trắng sống ở
vùng núi Vũ Di, Phúc Kiến. Loài vượn này chuyên hái lá trà non trên núi để ăn
nên tuổi thọ của chúng rất cao. Biết được điều này, dân trong vùng nuôi loài khỉ
này để sai khiến chúng lên núi ăn trà. Vượn ăn trà không nuốt vào bụng ngay, mà
dồn vào hai túi bên má. Khi về đến nhà chủ mới moi hai túi ấy ra lấy trà. Trà
thấm chất dịch tiết trong túi đó nên rất thơm ngon và bổ dưỡng; trà này lại quý
vì không thể sản xuất được nhiều. Người ta tin là uống loại trà này giúp tăng
tuổi thọ vì nhiều con Bạch Mao Hầu phục vụ hai ba đời chủ mà vẫn còn khỏe mạnh
nhờ ăn lá trà này.
Tên ngọn núi Vũ Di liên quan đến truyền thuyết trà Đại Hồng Bào.
– Trà Đại Hồng Bào danh tiếng của tỉnh Phúc Kiến cũng có một giai thoại. Thời
vua Khang Hy nhà Thanh có một học trò nghèo lên kinh ứng thí; sau khi vượt ngọn
núi Vũ Di sơn thì đói và mệt ngất xỉu. May nhờ có một vị sư đi ngang cho uống một
thứ nước nên chàng sĩ tử này khỏe lại. Kỳ thi đó chàng thi đậu và được bổ làm
quan. Nhớ nghĩa cũ chàng về nơi thọ nạn tìm kiếm nhà sư đó. Trong câu chuyện tạ
ơn, chàng được biết đã được cứu mạng nhờ một loại trà. Xin được một ít, chàng hồi
kinh nhậm chức và tiến vua lá trà đó. Đúng dịp đó hoàng thái hậu lâm bệnh nặng,
các ngự y đều bó tay. Vua cho dùng thử lá trà đó thì thấy hiệu nghiệm và bệnh
tình dần dần bình phục. Vua cảm kích ban thưởng cho một chiếc áo bào đỏ và từ
đó trà này mang tên Đại Hồng Bào (Chiếc Áo Đỏ).
Trong câu chuyện này có nhắc đến núi Vũ Di Sơn, tên núi này cũng là một giai
thoại. Vũ và Di là tên hai anh em bán hết tài sản, dọn nhà vào trong núi để đi
tìm và thưởng thức trà quý. Hai anh em vào vùng núi này tìm ra loại trà độc
đáo, sau này được vua Minh tặng cho áo bào đỏ -Hồng Bào như đã kể ở trên.
Sau để nhớ công người Trung Hoa lấy tên hai ông đặt tên cho núi là Vũ Di, và
loại trà này đặt tên là Trà Vũ Di Sơn.
7. Kỳ Môn Hồng Trà
Kỳ Môn Hồng Trà là loại trà đen nổi tiếng của địa danh Kỳ Môn thuộc tỉnh
An Huy, xuất hiện đầu tiên vào năm 1875. Hiện nay người ta phân biệt có mấy loại
Kỳ Môn Hồng Trà là: Kỳ Môn Mao Phương, Kỳ Môn Tân Nha, Kỳ Môn Công Phu và Kỳ
Môn Hào Nha. Loại trà cũng mang tên Kỳ Môn nhưng không xuất xứ từ vùng Kỳ môn
là Hồ Bắc Kỳ Môn. Hồng trà sủi bọt là một sản phẩm trà đen của Đài Loan xuất hiện
hồi thập niên 80 thế kỷ 20. Loại trà này có cho thêm sữa hay một chất phụ gia
mang tính nhũ tương, khi lắc lên bọt lâu tan nên thành tên.
8. Trà Phổ Nhĩ
Trà Phổ Nhĩ là loại trà đen danh tiếng có lịch sử rất xa xưa cũng được gọi
chính danh trà đen tại Trung Hoa, xuất xứ từ vùng Phổ Nhĩ, Vân Nam, nên đặt
thành tên. Nhưng loại trà này cũng được sản xuất ở những nước sát Vân Nam như
Lào, Việt Nam, Myanma. Nó ra đời cùng với con đường buôn trà “Trà Mã Cổ Đạo”.
Trà Phổ Nhĩ là loại trà sản xuất bằng cách lên men trà xanh đã khô, vị giống
như đất, có thời gian bảo quản rất dài (trung bình 1-5 năm, có khi đến 50 năm)
và thường được coi là thuốc hơn là thức uống, vì được cho là làm giảm
cholesteron, acid béo no và giúp giảm cân.
Trà phổ nhĩ được chia làm hai loại: loại tươi gọi là mao trà (hay còn gọi là
sinh trà hay thanh trà); loại chín gọi là thục trà là mao trà qua chế biến lần
nữa bằng cách cho lên men. Theo hình dáng Trà phổ nhĩ được chia làm các loại
sau: bính trà, đà trà, thuẫn trà, phương trà, khẩn trà, kim qua trà…
9. Trùng Diệp Trà
Ngày xưa, vào đầu Xuân lá trà non mọc, các Thiền sư, đạo sĩ sành uống trà đến
núi Ly Sơn, thuộc huyện Trường An, tỉnh Thiểm Tây, Trung Hoa tìm các lá trà non
bị sâu làm tổ, mang về chế biến, đặt tên là Trà Trùng Diệp. Còn nếu gặp phân của
sâu ăn lá trà quí đem chế biến, được đặt tên là Trà Trùng Xí. Trà này rất
ngon...
Nhận xét:
Ta thấy truyền thuyết của 3 loại trà Bạch Mao Hầu Trà, Trảm Mã Trà và
Trùng Diệp Trà cũng tương tự như bên Cà phê có Cà phê cứt chồn, một
loại cà phê hảo hạng, rất đắt tiền: Con chồn hương lựa ăn những trái
cà phê chín ăn; khi trái vào bụng, nó chỉ tiêu hóa lớp vỏ ngọt bì ngoài, hột
bên trong vẫn còn nguyên. Hột cà phê, trộn với dịch chất trong bao tử
chồn rồi theo phân ra ngoài. Mỗi sáng, người ta vào vườn cà phê góp
nhặt các phân chồn này, rửa sạch lấy hột, rồi sao ướp rang thành loại
cà phê thượng hảo hạng: Cà phê cứt chồn. Các loại trà kể trên cũng
giống vậy, lá cũng được trộn với dịch chất trong bụng ngựa, hoặc
sâu hay trong túi má của khỉ bạch mao.
III. Các loại trà khác
1. Việt Nam
Trước khi nói đến trà Việt, tôi xin nhắc lại sơ lược quan niệm về
nguồn gốc trà.
Theo Đỗ Ngọc Quỹ: “Từ tài liệu khảo cứu của Ủy ban Khoa học Xã hội thì người
ta đã tìm thấy dấu tích của lá và cây chè hóa thạch ở đất tổ Hùng Vương (Phú Thọ).
Xa hơn nữa, họ còn nghi ngờ cây chè có từ thời kỳ đồ đá Sơn Vi (văn hóa Hòa
Bình). Cho đến nay, ở vùng Suối Giàng (Văn Chấn Nghĩa Lộ Yên Bái), trên độ cao
1.000 mét so với mặt biển, có một vùng chè hoang khoảng 40.000 cây chè dại,
trong đó có một cây chè cổ thụ lớn nhất, ba người ôm không xuể.” (Webside Đặc
Trưng).
Một chứng cứ tư liệu khác: Thiền Uyển Tập Anh, mục Tăng thống Huệ Sinh (?-1064)
có nói đến một địa danh gọi là Núi Trà ở Bắc Ninh, như sau: “Năm 19 tuổi, Sư bỏ
đời, cùng Pháp Thông chùa Hạc Lâm thờ Định Huệ chùa Quang Hưng làm thầy. Học
thiền mỗi ngày một tiến. Định Huệ vỗ về mến chuộng. Từ đó, Sư dạo khắp tòng
lâm, hỏi hết thiền chỉ rồi đến đỉnh Bồ Đề núi Trà trác tích. Mỗi lần vào định,
trải qua năm ngày mới dậy. Người bấy giờ gọi Sư là Đại sĩ nhục thân”. Tiến sĩ
Lê Mạnh Thát chú thêm: Núi Trà, tức núi Nguyệt Thường hay núi Bạch Sắc ở huyện
Tiên Du tỉnh Bắc Ninh. Đại Nam Nhất Thống Chí, tỉnh Bắc Ninh, mục Sơn xuyên
nói: “Núi Nguyệt Thường, tại phía tây nam huyện Tiên Du ba dặm, một tên là núi
Bạch Sắc, cũng gọi là núi Trà. Tương truyền Lý Thánh Tôn đến chơi núi đó và cho
tên Nguyệt Thường. Núi hơi cao, đá đất lẫn lộn. Trên núi có liu, dưới núi có đền
Cao Sơn. Năm Tự Đức thứ 3 (1850) triều ta liệt vào hạng danh sơn, chép vào sách
cúng. Núi này hiện có đỉnh Bồ Đề không, chưa thể biết được.” Khả năng núi này
là núi có cây trà hoang mọc nhiều là điều không phải không thể tin. Lê Quý Đôn
dẫn Trà Kinh của Trung Hoa viết: “Trà là một loại cây quý ở phương Nam, cây như
cây qua lô, lá như lá chi tử, hoa như hoa tường vi trắng, quả như quả tinh biền
lư, nhị như nhị đinh hương, vị rất hàn” (Vân Đài Loại Ngữ - Phẩm Vật). Vậy cây
trà lúc đó người Việt gọi là qua lô, giống như cư dân vùng Vân Nam gọi là đồ
(sau người Trung Hoa thêm một vạch ngang và đọc là trà).
Sách Trung Hoa cũng thừa nhận cây trà vốn có trong tự nhiên tại Việt Nam, cuốn
Nghiêm Bác Tạp Chí, Đào Hoằng Cảnh, người san định lại Thần Nông Bản Thảo, mượn
lời Lý Trọng Tân viết: “Trà ở Giao Chỉ như rêu xanh, vị cay gắt gọi là trà đắng”.
Như vậy trà là cây bản địa Việt Nam được người Trung Hoa đánh giá cao, nên việc
tiến cống trà thời Đinh là điều không phải là khó hiểu”
– Ở Việt Nam, trà xanh hay chè xanh còn dùng chỉ nước vối. Trà xanh thôn dã này
chọn lá trà bánh tẻ (không quá non hay quá già) cho vào nồi đồng đun đến khi có
sắc màu vàng xanh đem ra dùng. Cũng có khi người ta chế thành cao: Nước trà
xanh đun đến khi cạn vơi một nửa, tiếp thêm nước, thêm ít đường tán, gừng giã
nhỏ và đun tiếp khoảng một ngày đêm cho đến khi dặc sệt lại. Dùng mo chuối hay
mo cao làm chổi quét lên giấy bản phơi nắng cho thật khô, rồi phơi sương lại
cho dịu. Khi dùng cắt một miếng thả vào nước nóng là có bát chè xanh.
– Người Việt nói đến trà Tàu có nghĩa nói trà ướp hương, vì thời trước loại trà
nhập từ Trung Hoa thường là loại trà này. Sau này tuy gọi là trà Tàu nhưng đa
phần là trà sản xuất tại Việt Nam, nhưng theo phương cách ướp hương riêng của
VN. Trà Tàu hay trà ướp hương có thể ướp bằng hương liệu hay bằng hoa tươi.
(Các bạn nên nhớ ướp hương liệu - tự nhiên hay nhân tạo sẽ làm mất
vị chát, tanin, tuyệt vời của trà, nhất là trà quý; cũng như uống
trà với sữa, đường, chanh -…́)
Hai loại trà sen và trà lài nổi tiếng của Việt Nam là hai loại trà ướp hương,
dân dã còn có trà ngâu, trà sói hay quý phái hơn là trà ướp thủy tiên, trà ướp
hoa quỳnh.
– Trà sen
Người Việt có loại trà độc đáo là trà sen. Trà sen là một loại trà xanh ướp với
hoa sen để lấy hương thơm tự nhiên của loài hoa này. Phương pháp chế biến đa dạng
và rất độc đáo. Sau đây là một vài cách chế biến trà sen:
Dùng tay tách nhẹ nhàng những cánh hoa sen ra cho đến khi nhìn thấy đài hoa
và nhị hoa màu vàng, chỉ tách hoa đủ lớn để có chỗ đổ trà vào. Rồi lấy trà đã
chuẩn bị trước, đổ vào trong bông sen khoảng 15-20g trà để cho hương sen thấm
vào trà vừa đủ. Dùng tiếp lá sen tươi cắt thành miếng lớn vừa đủ bọc bông hoa lại
rồi dùng lạt buộc túm lại ở cuống hoa. Rồi để qua đêm tới sáng hôm sau lấy ra
dùng hay sấy nhẹ để dành;
Bứt lấy nhị sen rồi ướp với trà một đêm hay cho nhị sen và trà vào bếp hong
cho hương sen quyện vào trà.
Xin dẫn ra đây trích đoạn lý thú về trà sen trong bài viết Trà Đạo Việt Nam của
Phan Lan Hoa:
[Trà ướp hương sen ngày càng được nâng tầm nghệ thuật, đóng vai trò thể diện
trong văn hóa trà Việt Nam. Cũng dễ hiểu thôi, khi hoa sen được tôn vinh là Quốc
hoa Việt Nam, thì loại trà được hấp thu hương thơm tinh túy từ loài Quốc hoa
cũng xứng đáng được tôn vinh lắm chứ. Đó là chưa nói đến kỹ thuật ướp hương trà
sen của Việt Nam là có một không hai trên thế giới. Có hai phương pháp ướp
hương sen cho trà khác biệt nhau, nhưng phải nói rằng phương pháp nào cũng đầy
nghệ thuật lãng mạn, kể tới đâu người nghe mê tới đó.
– Sen Hồ Tây có hai loại, sen hương và sen quỳ. Sen quỳ cho hạt, còn sen hương
hạt lép, không cho hạt sau khi sen tàn. Đổi lại sen hương còn được gọi là sen
trăm cánh, sắc sen màu hồng tươi, hạt gạo trên nhụy sen căng mẩy, hương thơm
tinh khiết, nghệ nhân trà ở đất Thăng Long dùng loại sen này để ướp trà. Tháng
5, tháng 6 là mùa sen, khi ấy cứ 1000 bông sen thì thu hoạch được khoảng 1200gr
gạo sen. Người ta hái sen vào sáng sớm trước lúc bình minh. Đem sen về nhà là
phải tách gạo sen ngay không được để lâu quá một canh giờ. Để có thể ướp được một
ki lô gam trà, người nghệ nhân cần đến từ một ký hai đến một ký tư gạo sen, tức
phải tiêu tốn khoảng một ngàn đến một ngàn tư bông hoa sen. Khi xưa người Thăng
Long chỉ dùng trà Mạn Hảo để làm trà sen, nên trà này còn được gọi là “trà Mạn
sen”. Trà Mạn Hảo là thứ chè rừng mọc hoang ở vùng Hà Giang - Lai Châu - Yên
Bái, người dân tộc miền núi hái về đồ chín, đóng bánh, sấy khô, ủ chừng đến bốn
năm mới đem dùng. Chè Mạn đem về phải gỡ cho tơi, nhặt sạch, tỷ lệ cứ bốn trà một
gạo sen mà ướp. Sau mỗi hai mươi bốn giờ đồng hồ thì sàng bỏ lớp gạo sen cũ và
ướp lại bằng một lượng gạo sen mới tương đương. Bảy lần thay gạo sen như vậy mới
hoàn thành công đoạn ướp hương cho một mẻ trà. Do tính chất trà Mạn Hảo, nên
chè sen cũng có màu nước nâu đỏ chứ không xanh như trà Tân Cương. Ngày nay trà
Mạn Hảo bị thất truyền, nên người Hà Nội phải dùng các loại trà khác để ướp
sen.
– Cũng là cách ủ hương sen vào trà. Nhưng phương pháp ủ hương sen cho trà của
kinh thành Huế có từ thời vua Tự Đức xem ra không đến nỗi quá cầu kỳ tốn kém,
nhưng lại thu liễm được tối đa tinh túy hương sen tự nhiên. Các ghi chép về triều
Nguyễn có sự mô tả rằng: Cứ mỗi 8 giờ tối, cung nữ chèo thuyền ra giữa hồ, chọn
những bông sen vừa hé nụ, để vào mỗi bông một túi trà nhỏ, buộc nhẹ bông sen lại
bằng dải lụa mỏng và để cho sen ngậm trà qua đêm. Đến sáng ra lại chèo thuyền
ra hồ mở dây buộc, lấy lại túi trà. Tiện công gom những giọt sương trên lá về để
đun nước pha trà cho vua ngự.
Lạm bàn, sen hay bất kỳ loại hoa nào cũng thường tỏa hương về đêm. Với khí hậu
nước ta thời điểm hoa nở là vào quãng từ tám đến chín giờ đêm, lúc ấy là lúc
hoa tỏa ra hương thơm tinh túy nhất. Ủ trà khi hoa chớm nở, còn ở trên cây chưa
bị hái xuống, tức còn do cây nuôi dưỡng, trà đâu chỉ hấp thu mỗi hương thơm, mà
trải qua đêm trường, trà còn hấp thu được cả giá trị đông y của sen, bởi cây
sen vốn là một loại dược liệu quý có giá trị chữa bệnh suốt từ thân đến lá,
hoa, nhị, đài, hạt, mầm. Các nghệ nhân trà cung đình Huế đã nắm bắt đúng thời
điểm để trà có thể hấp thu được tốt nhất tinh túy của sen. Thứ trà này thật tuyệt
và trà nhân ứng xử với hoa sen thật tự nhiên, hợp với lẽ đạo, không có bông sen
nào bị hủy hoại cả. Trà sau khi thu về thật đẫm hương, mà sen thì vẫn còn lại
trong hồ lung linh, để có thể vừa thưởng trà vừa xem hoa nở, cách thưởng trà
này thật là nhân văn lắm thay]. (Trà Đạo Việt Nam - Phan Lan Hoa)
- Trà Lài
Trà Lài cũng là một loại trà ướp hương nổi tiếng ở Việt Nam, Chúng được ướp
hương hoa lài hoàn toàn tự nhiên. Sau này người Trung Hoa cũng có làm ra một số
sản phẩm trà mang hương vị loài hoa này gọi là Hương Phiến Trà. Trà xanh trải một
lớp rồi hoa lài trải một lớp, cứ như thế mà làm cho đầy. Bên trên phủ một lớp
giấy bản trong vài ngày, rồi lấy ra đem sao nhẹ.
– Trà Tước Thiệt
Theo An Nam Chí Lược của sử gia Lê Tắc có ghi “Vào tháng 5 năm thứ 8 niên hiệu
Khai Bảo, Đinh Liễn có tiến cống nhà Tống sừng tê giác, ngà voi và trà “lưỡi
chim”. Sách Địa Dư Chí Lược của cụ Nguyễn Trãi, ghi ấy là trà Tước Thiệt, còn gọi
là trà móc câu hay trà mi - thuộc Châu Ô, Châu Lý.
Đồ vật tiến cống phải là đồ quí hiếm, nước nhận không có, vậy mà
Trung Hoa cho trà Tước Thiệt này là của họ.
– Trà Mạn
Trà Mạn Hảo: là một loại trà xanh ướp nổi tiếng Bắc Bộ thời thuộc Pháp và hay
được Nguyễn Tuân nhắc đến trong tác phẩm của mình. Trà mạn hảo nổi tiếng đến mức
hóa thân vào câu ca dao sau:
Làm trai biết đánh tổ tôm,
Uống trà Mạn Hảo, xem nôm Thúy Kiều.
Trà mạn là tiếng gọi chung các loại trà xanh (lục trà) ở miền ngược (nên còn gọi
là trà mạn ngược; đặc biệt vùng Hà Giang). Ngày xưa người ta lên miền ngược Hà
Giang hay lên tận Mạn Hảo mua trà về đều gọi chung là trà Mạn hay trà Mạn Hảo.
Vì thế việc buôn trà thời xưa rất vất vả, phải lên miền ngược mua mang về, ca
dao có câu:
Chồng tôi thường ngược sông Ngâu,
Mua chè Mạn Hảo tháng sau thì về
Nhà buôn đi ngược lên miền núi mua trà hoang hái từ vùng này về ướp các loài
hoa như nhài, sói, sen, thủy tiên,… Loại trà Mạn Hảo ông Nguyễn Tuân nói là loại
trà ướp hoa sói, và chỉ miền Bắc mới có thói quen ướp trà bằng hoa sói, trong
Nam chuộng hoa lài hơn. Chứng tỏ cây trà có gốc bản địa miền thượng du Bắc Bộ
Việt Nam.
Trà ngon có tiếng hiện nay gồm có trà Bắc Thái, trà Lâm Đồng, trà Bảo
Lộc của Việt Nam.
– Trà Quế
Ở miền nam Việt Nam có một loại trà dân dã, gọi là trà Quế, thường trồng ở hàng
rào, có thể uống tươi hoặc cho vào cối giã giập, phơi khô để uống dần.
2. Đài Loan
Trà trân châu: là thức uống được chế biến từ trà xanh hoặc trà đen được các cửa
hàng đồ uống tại Đài Trung, Đài Loan phát triển từ những năm 1980. Đặc điểm của
trà trân châu là khi bị lắc, một lớp bọt nước mỏng được tạo thành trên bề mặt
và dưới đáy còn các hạt bột sắn trắng.
Nó được chế biến từ lá chè trộn với các hạt trân châu làm từ bột sắn. Trà trân
châu có hương vị từ hoa quả hay trà. Người Anh gọi trà này là “bubble tea” còn
người Pháp dịch sát là “thé aux perles” hay dịch theo người Anh “thé aux
bulles”. Mỗi ly trà có một cái ống hút, khi hút phải những hạt “trân châu” bột
sắn người uống trà vừa thưởng thức hương vị trà vừa nhai nhai hạt trân châu dẻo
dẻo.
3. Mỹ
– Trà túi lọc:
Trà túi lọc (tea bag): được Thomas Sullivan một tay buôn trà của New York phát
hiện ra năm 1904. Thật tình cờ khi ông gửi tặng các mẫu thử trà trong các túi vải
cotton muslin cho khách hàng của mình. Một vài khách hàng lại nghĩ rằng ông
dùng túi vải này để thay cho cái lọc bằng kim loại, họ bỏ nguyên túi trà vào ấm
rồi chế nước nóng dùng. Các khách hàng của Sullivan đã phản hồi lại việc sử dụng
trà trong các túi bằng vải cotton muslin là rất thuận tiện và nhanh chóng thay
vì các dụng cụ lọc trà bằng kim loại. Và họ cũng góp ý thêm cho Thomas Sullivan
về những chiếc túi vải này quá dày, trà khó ngấm.
Năm 1920 các loại trà túi lọc đã phổ biến trên khắp nước Mỹ và để biến nó trở
thành ngành công nghiệp trà túi lọc kiếm bộn tiền cho các nhà kinh doanh trong
ngành trà như Thomas Lipton cha đẻ của thương hiệu trà Lipton là một trong những
người đầu tiên chiếm lĩnh thị trường trà túi lọc. Họ đã nghiên cứu và thay đổi
từ việc sử dụng loại vải lụa cotton muslin sang sử dụng một loại giấy lọc như
ngày hôm nay chúng ta vẫn đang sử dụng.
Và đến ngày hôm nay trà túi lọc đã có lịch sử hơn 100 năm.
Trà túi lọc thường được khử tanin bớt nên uống sẽ ít chát. Hiện ở Việt Nam có
nhiều loại trà túi lọc nhưng nhiều người biết đến là trà Lipton nhãn vàng, trà
Dimah, …
– Trà hòa tan:
Trà hòa tan (instant tea): Năm 1946, công ty Nestle, Mỹ, lần đầu tiên tung ra
thị trường loại trà hòa tan (gọi là trà dùng liền). Trà này sản xuất từ trà đen
bằng chiết xuất từ trà vụn hay lá trà lên men chưa sấy khô. Dịch chiết đó đem
cô đặc thành bột bằng nhiều phương pháp như đông khô, sấy chân không… Sấy nhiệt
độ thấp như vậy giúp giữ lại hương vị của trà.
Xin nên nhớ rằng, các danh trà, các trà hảo hạng
không bao giờ ướp hương, vì hương liệu sẽ làm mất tính chát tuyệt vời
của những trà này. Cũng như người sành điệu không bao giờ ăn ngọt
trong lúc uống trà.
7. CÁCH TRỒNG VÀ CHẾ BIẾN TRÀ
1. Cách trồng:
Cây Trà có tên khoa học là Camellia Sinensis, là một
trong những thực vật thuộc Họ Theacae, lá xanh tốt quanh năm và hoa thì
màu trắng. Sau năm năm, cây Trà được coi là trưởng thành và cho hoa lợi liên tiếp
trong hai mươi lăm năm hay lâu hơn nữa tùy theo sự chăm sóc và tưới bón của nhà
nông. Thông thường cây trà có độ cao tới hàng chục thước nhưng để tiện dụng cho
phu hái trà, người ta hãm chỉ để cho cây đạt độ cao tối đa chừng 1-1,50m. Riêng
những cây già thì cắt ngang thân để mầm non nẩy chồi mới và theo phương pháp
này, trà đạt tuổi thọ hơn một thế kỷ là sự thường.Hoa tràỞ Trung Quốc cũng như Việt Nam, vườn trà thường được lập trên các
vùng đồi thấp, làm thành các bậc thang. Những vùng cao nguyên ở trên 1000 thước,
là một yếu tố cần thiết làm cho hương vị thêm đậm đà. Theo sự suy nghiệm của
các chuyên gia thì chính ánh quang tuyến ở những vùng cao nguyên ấy đã chiếu xuống
nụ trà làm tăng hương vị.
Trà thường được trồng trên đất pha cát, cày sâu để rễ trà dễ
bám luồn và bón phân chuồng phơi hoai. Vào tháng 9 khi trà đã kết quả hái hạt
trà, sang xuân gieo vào luống cày vừa nói cứ 8 tấc một vài hạt. Xong phủ cành
lá lên và tưới nước ngày 2 lần sáng chiều cho đến khi cây trà nhô lên. Khi trà
đã lớn trộng, vào mùa khô nên xới váng quanh gốc để rễ trà hút ẩm và không khí.
Đây là trích đoạn cách trồng trà trong nghề nông cổ
truyền qua thư tịch:
“Chọn địa điểm dốc thoai thoải để thoát nước, đất tổ sâu hoặc
đất cát pha càng tốt; thiết kế vườn chè thẳng hàng ngang dọc như hàng rào, mỗi
hàng đào thành một cái rãnh; cày xáo lòng rãnh sâu đến 5 - 6 tấc, rộng ra 6 - 7
tấc để rễ chè ăn sâu; hái hạt giống chè vào tháng 9, chăng dây thẳng hàng, cách
2 thước là 1 hàng, cách 8 tấc đào một lỗ, nông chừng 5 phân, bỏ xuống 2 hạt;
bón phân khi gieo hạt, đất 1 phần, phân 2 phần (phân người, phân tầm, phân lợn,
phân trâu bò lẫn với tro hoặc lá mục), đảo đều bón xuống rãnh, rồi lấp bằng lại;
chống hạn bằng tro trộn với đất bột bỏ nhẹ lên trên hạt chè, để che ánh nắng mặt
trời, không được nén mạnh, lại lấy đất vụn cành phủ lên trên; chăm sóc vườn chè
non: dùng nước tưới, sớm tối mỗi buổi chiều một lần, hễ thấy sống là được; mùa
hạ trời khô hạn, cứ theo giữa hai hàng mà bừa để khơi mạch ẩm, làm mát rễ cây,
thì cây chè không đến nỗi chết khô, 4 phía dưới gốc cây chè, nên thường xuyên
làm sạch cỏ, dùng lá cây hoặc cỏ tranh, hay rạ phủ lên, thì tự nó sẽ tốt xum
xuê; cắt (đốn) chè chỗ nhánh hai nhánh ba, thân trừ lại 6 - 7 tấc, cành 1,5 tấc,
cả năm cắt 2 lần”
Trà ngon, muốn cho thật đúng, còn phải biết săn sóc, làm cỏ,
bón phân; không dùng phân hóa học, chỉ được dùng phân hữu cơ, phân thiên nhiên;
tốt nhất bánh dầu đậu nành, còn thì cần nhất là hái lá trà già, ủ làm phân, lá
trà tự nuôi lấy cây thì trà mới ngon. Bón phân cho trà cũng phải tính ngày, bón
phân sớm hoặc muộn sẽ có ảnh hưởng cho cả hương lẫn vị.
Trà có nhiều giống, nhiều loại, có thứ chuộng khí ấm nhưng
cũng có thứ chuộng khí lạnh. Muốn trồng trà trước hết phải lấy hạt trà ương vào
chậu con trong vòng 6 tháng, sau đó mới cho ra đất, hai năm sau, khi cây trà
cao lên hơn một thước, người ta cắt sát gốc chờ đến năm thứ 3 mới bắt đầu hái
lá, mỗi cây trà sống được từ 25 đến 50 tuổi, nếu không gặp tai nạn. Phải cắt ngọn
thế nào cho cây trà ra thật nhiều nhánh, để có nhiều nụ, nhiều lá. Để bảo quản
tốt vườn trà, thường các cây bị sâu thì phải nhổ bỏ vì trà kỵ thuốc trừ sâu rầy.
Hương vị và độc đáo của mỗi thứ trà là do khí hậu đất đai,
ánh sáng, tuổi lá, cách thức vun xới, phân bón, tuổi lá và thời gian người ta
trẩy lá, thay đổi từng mùa.Vườn trà2. Thu hái trà
Thu hái là khâu đầu tiên và cũng là khâu quyết định cho chén
trà ngon sau này. Nơi trồng trà, người hái trà, thời điểm hái trà và kỹ thuật
hái trà là những bí quyết đầu tiên cho ra loại lá trà tuyệt hảo, sau đó mới đến
các công phu chế biến.
– Mùa hái trà thường vào tiết thanh minh vì thời gian này,
mùa đông đã đi vắng, khắp nơi nàng xuân trở về với vạn vật trong lành, khí trời
ấm áp, nắng hanh nhè nhẹ đủ cho muôn hoa ngàn lá trong đó có cây trà xanh tốt,
ươm hoa nẩy lộc đầy cành.
Thời vụ thu hái trà nên trước tháng ba và không nên kéo dài
quá 2 tháng; trà thu hoạch trước tiết Thanh Minh gọi là trà Tiền Minh (thuộc loại
thượng hảo hạng). Khi hái trà nên đi sớm lúc mặt trời chưa ló dạng hẳn và kết
thúc khi mặt trời gác sào (thời điểm này trà ít chát nhất), nên một người hái
trà để tuyển thường chỉ hái được khoảng 600 g búp trà mỗi ngày. Ở Chiết Giang
và Phúc Kiến sản xuất hai loại danh trà Long Tỉnh và Thiết Quan Âm còn phân
chia ra: trà hái vào lúc 2-3 giờ sáng đến khi mặt trời mọc gọi là “quý nương
trà” giá đắt gấp nhiều lần loại trà hái sau lúc mặt trời mọc (gọi là “lão bà
trà”)
– Cùng một đồi trà, một cách hái, một cách thức sấy nhưng trà
hái mỗi mùa lại mang một hương vị khác. Các vị tình nhân của trà, hay các chuyên
gia, nhận rằng mùa xuân trà đượm, mùa hạ trà nồng, mùa thu trà ngát, còn mùa
đông thì chỉ được nước, vị trà chát và hương kém hẳn, so với những mùa kia. Phần
đông trà của hai mùa Xuân và Thu là loại trà ngon, những mùa kia hái trà chỉ để
phục vụ thương mãi.
– Ngày xưa trước khi có máy, người ta thường sung đàn bà con
gái làm công việc hái trà, vì công việc không có gì quá vất vả, ngày nay tuy có
đủ các thứ máy hái nhưng nhiều nơi vẫn tiếp tục dùng các cô các bà, bàn tay người
có thể lựa chọn, cố nhiên là đây chỉ dành cho những đồi trà quý, không được xuất
cảng ra ngoài, dành cho những nhân vật biết thưởng thức. Trà hái thủ công luôn
cho chất lượng tốt hơn hái cơ giới hóa vì hái cơ giới một phần búp trà có thể bị
giập. Búp trà hái nên mới lú hai lá, người hái kéo búp ra rồi ngắt, tránh vặn đứt
vì như thế làm giập trà khiến sau này mất chất lượng.
– Theo truyền thống trà thường được hái vào buổi sáng sớm mới
ngon và dừng lại khi mặt trời hơi chếch lên cao. Lại nữa, trà ở sườn hướng đông
được cho là ngon hơn trà sườn hướng tây, và trà nên để phụ nữ hái mới đạt. Người
hái trà làm việc ngay từ sáng sớm. Theo quy định rất nghiêm ngặt, số lượng lá
trà được hái tùy theo loại, chẳng hạn như trà xanh thì ngắt hai lá, còn trà Ô
Long tới ba lá to và một búp. Trà đem về hong ngoài trời cho héo sau đó đem ủ,
sấy và biến chế làm trà sống.
– Trà ngon khi thu hoạch mỗi búp chỉ 2-3 lá non, gọi là ”một
tôm hai lá - ba lá”. Chúng ta vẫn nghe nói đến mấy chữ: Nhất thương nhất kỳ, tức
là một cái que một lá, rồi đến nhất thương nhị kỳ, là một que hai lá… Thương tức
là cái cán cờ, cái que cắm cờ, và nhất kỳ là chỉ có một nụ một lá, thứ trà quý
nhất, sau đó là một nụ hai lá, dưới một tí nhưng cũng đã phải trả giá đắt, sau
đó là một nụ ba, bốn, năm lá để chế các thứ chè mạn, chè buồm, cuối cùng, xứ ta
còn gọi là chè Huế, là thứ lá già bên dưới, hái về phơi nắng mỗi lần nấu nước
lên một lần với lá chè, rẻ tiền.
3. Chế biến trà
Tùy theo loại trà cách chế biến có thể bỏ qua một hay vài
công đoạn, nhưng nhìn chung cách chế biến trà có các công đoạn sau:
1- Làm héo: Trà hái xong nên làm héo ngay để tránh bị
các enzym thúc đẩy quá trình oxy hóa. Khi làm héo xong, một lượng lớn nước đã
thoát ra khỏi lá trà nên khả năng oxy hóa còn rất ít. Có thể làm héo bằng cách
phơi nắng hay cho vào phòng thổi gió mát để đẩy hơi ẩm ra khỏi lá. Qua quá
trình làm héo lượng nước trong lá trà thoát ra đôi khi tương đương ¼ trọng lượng
lá tươi.
2- Làm giập: Là quá trình thúc đẩy oxy hóa áp dụng cho
một số loại trà đen. Lá trà có thể làm giập bằng cách vò trong rỗ hay dùng vật
nặng chà lăn. Quá trình này làm một lượng dịch trong lá trà chảy ra, và chính
lượng dịch đó sẽ hỗ trợ quá trình oxy hóa sau này và làm thay đổi vị trà. Loại
trà trắng tuyệt đối không qua công đoạn này.
3- Oxy hóa/ Oxidation: Đối với loại trà đòi hỏi chế biến có
công đoạn oxy hóa này, lá trà cho ủ trong phòng kín để chuyển dần qua màu sậm.
Trong quá trình này, chất diệp lục tố trong lá bị enzym là vở ra, và chất
tanin trong lá tiết ra rồi biến chất. Công đoạn này gọi là cho lên men, dù rằng
sự oxy hóa không thật sự xảy ra cho đến khi phát sinh nhiệt (công đoạn này
không có sự tham gia của vi sinh vật mà oxy hóa bằng enzym; ở một số công đoạn
khác, như công đoạn làm già trà, vi sinh vật mới tham gia quá trình lên men).
Người sản xuất trà chủ động được khi nào dừng quá trình oxy hóa (tức chủ động
được mức độ oxy hóa). Đối với trà Ô long loại nhạt màu, lá trà bị oxy hóa
5-40%; loại sậm màu lên đến 60-70%; còn trà đen oxy hóa 100%.
4- Sấy tươi hay Sái thanh: Là thuật ngữ chuyên môn chỉ
việc dừng quá trình oxy hóa lá trà ở mức độ mong muốn. Công đoạn này nói vậy chứ
đơn giản: xử lý nhiệt để các enzym oxy hóa trong trà mất tác dụng mà hương vị
trà vẫn giữ nguyên. Cách truyền thống trà được sao trên chảo lớn hay đem hấp,
nhưng cũng có thể áp dụng công nghệ trong công đoạn này như sấy trong trống
quay.
5- Nhuộm vàng: chỉ áp dụng cho hoàng trà (trà vàng). Sau
khi sái thanh trà được làm ẩm bằng nước ấm trong một buồng kín, nó làm trà xanh
chuyển màu vàng.
6- Tạo dáng hay định hình: lá trà được làm ẩm rồi được
tạo thành dãi có nếp nhăn. Công đoạn này như sau: lá trà ẩm cho vào một cái bao
vải rồi dùng tay hay máy nhào trộn cho đến khi có dáng mong muốn. Sự nhào trộn
làm nhựa trong lá tươm ra càng làm tăng hương vị trà. Dãi trà có thể mang nhiều
dạng, chẳng hạn như hình cuộn xoắn, viên tròn…
7- Sấy: Là công đoạn “hoàn tất” của trà thương phẩm.
Thực ra còn một số công đoạn nữa như: sàng sẩy, phơi nắng lại, phơi gió.
8- Xử lý để bảo quản: Tùy theo yêu cầu trà có thể được
yêu cầu làm già thêm, lên men phụ, hay phun thêm hương liệu.
Người sành điệu vốc một nhúm trà lên tay, chẳng cần đưa lên mủi
ngửi cũng biết trà ngon hay trà dở. Trà mà sờ vào thấy mát tay mềm mại là trà
búp và chế biến đúng cách, sạm tay không là trà lá già thì cũng chế biến quá
già lửa; trà có điểm vài lấm tấm vàng hẳn là trà thu hái trái mùa hay hái lẫn
nhiều lá già.
Giống như rượu, trà ngon hay dở đều tùy vào cách ủ
(Oxidation) và thời gian lâu hay mau, để có hương vị và màu sắc mong muốn. Các
loại trà Nhật, Long Tỉnh, Bích Loa Xuân là loại trà xanh ủ ngắn hạn. Loại trà ủ
trung bình có Bạch Hào Ngân Châm, Bao Chủng, Động Đình, Thiết Quan Âm, Thủy
Tiên, Vũ Di, Ô Long của Trung Hoa, Ô Long Đài Loan. Trà đen là loại trà hiện
nay được các nước Âu Mỹ ưa thích, được ủ trong thời gian rất lâu.
Thú uống trà hiện nay được phổ quát khắp thế giới và trong mọi
tầng lớp, nên trồng và chế biến trà đã trở nên một kỹ nghệ quan trọng, nhất là
tại các nước Á Châu như Trung Hoa, Đài Loan, Nhật Bản, Việt Nam, Cao Ly. Trà
ngon nổi tiếng hiện nay gồm có trà Bắc Thái của Việt Nam, trà Sâm Cao Ly, Thiết
Quan Âm (Ly Sơn, Đài Trung, Đài Loan), Ô Long (Núi Phổ Đà, Trung Hoa, trên một
rặng núi có cao độ hơn 2100m) nhưng đặc biệt nhất là trà Vũ Di, mọc trên một rặng
núi rất cao lại vô cùng hiểm trở, người thường không thể leo tới để hái nên phải
cho khỉ hút thuốc phiện rồi luyện tập chúng thành những chuyên viên hái trà như
người.
22/12/2020Nguyên Lạc
Hình Bản đồ nước Đại Lý
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét