Tản mạn đôi điều về trà 2
8. DỤNG CỤ UỐNG TRÀ
Như đã biết ở phần trên: Đoàn trà là bánh trà được bỏ thẳng vào bình nước nóng đang
sôi, rồi rót nước trà ra chén uống. Mạt trà là bột trà để trong chén rồi rót nước
được đun sôi vào. Đoàn trà tức là lối của Lục Vũ đời nhà Đường, chúng ta không
theo. Chúng ta hiện nay không uống theo lối Mạt trà từ đời nhà Tống như người
Nhật Bản - đây là cách uống trà trong Trà Đạo của Nhật. Cả hai cách uống trà này
không cần ấm trà hay trà hồ. Ngày nay chúng ta uống trà là theo lối uống trà của
đời nhà Minh, khoảng thế kỷ thứ 16: Đó là uống theo lối trà ngâm, Tiễn trà hay
Yêm trà - tức là bỏ trà khô vào ấm trà, rồi chế nước sôi lên, sau đó rót ra chén
mà uống. Chính cách uống trà ngâm này như trên đã nói, làm phát triển ngành gốm
sứ phục vụ việc uống trà - trà cụ. Quyết định dùng tiễn trà là động cơ thôi thúc
các nghệ nhân lò Cảnh Đức Trấn, tỉnh Giang Tây và lò Yixing, tỉnh Giang Tô vẽ
ra nhiều kiểu ấm và chén tinh xảo cho cách thức uống trà mới.
Dụng cụ uống trà hay là Trà cụ gồm những vật gì? Ta lần lượt thử xét xem. Nên
biết, ngoài trà cụ, có 2 vật ta phải cần có: Bếp lò hay trà táo và ấm đun nước.
TRÀ TÁO
Món đầu tiên cần nói là bếp lò đun nước pha trà (trà táo).Làm
hỏa lò cũng là một nghệ thuật, sao cho lửa vừa đủ để nước sôi và ít cần thêm
than mới vào. Hỏa lò phải được tính toán cẩn thận: ít lỗ thì lửa không bốc đủ,
nhiều lỗ thì than mau tàn.
ẤM ĐUN NƯỚC
Thứ đến là ấm đun nước: ấm của người Trung Hoa thường làm bằng
đồng, của Nhật làm bằng gang. Người Trung Hoa thích dùng ấm đồng vì đó là yếu tố
‘kim’ trong Ngũ Hành của thú uống trà. Ấm đun phải có kim hỏa dưới đáy mới mau
sôi. Nhà văn Nguyễn Tuân đã có nói phần trên.Hình bếp lò và ấm đun nước TRÀ CỤ - BỘ ĐỒ TRÀ
Một bộ trà thường gồm có:
- Một cái dầm, đĩa dầm để ngâm ấm trà cho nóng, gọi là trà tẩm hay trà
thuyền: Bộ trà nào cũng có một cái đĩa dầm vừa tầm với cái ấm, để ngâm ấm mà không
ngập đến miệng vòi, vì trà cần được nóng từ bên trong đến bên ngoài, và dùng nước
trong dầm đê ̉rửa chén trà cho ấm.
- Một cái ấm trà gọi là trà hồ (Sẽ bàn kỹ ở phần dưới)
- Một cái khay hay là trà bàn
- Một chén tống và vài chén quân (Sẽ bàn kỹ ở phần dưới)
Về cái khay: Tùy từng hoàn cảnh, có những cái khay mà người ta có thể súc
chén đổ ngay xuống, nhưng có loại khay phải cần thêm một cái lon hoặc bình để đổ
các thứ nước thừa thãi, bã trà… Tuy không đụng chạm trực tiếp gì đến trà nhưng
khay trà góp một phần trong thú chơi trà. Có khay làm bằng gỗ, cũng có khay làm
bằng sành sứ, chạm khắc hoa văn tùy theo sở thích người dùng. Một số loại khay
trà nổi danh cũng có tên riêng như: Chân quỳ xoi chỉ, Bàn toán, Chân quỳ dạ cá,
Thành lựu…
Về chén trà: Chén trà Phương Tây có đĩa riêng cho từng chén, chén trà Á Đông đúng
nghĩa thì không có; thay vào đó là khay trà để đựng chén tống, chén quân và còn
có tách dụng tránh nước trà rây ra chỗ ngồi.
Đĩa dầm cũng có nhiều loại như đĩa vị thủy, đĩa siêu tương, đĩa tùng lộc, đĩa
thạch lan, đĩa thạch trúc, đĩa con voi.
Ngoài ra còn có một số món linh tinh khác như: Cóng xúc trà hay trà tắc - là
thanh nhỏ cuốn cong để xúc trà trong hộp cho vào ấm pha, tăm thông vòi, cái kẹp
chén (để kẹp chén tráng nước sôi), trà kỷ (bàn nhỏ để uống trà)… và đúng cách hơn
còn phải có lư hương đốt trầm khi thưởng trà.
Ấm trà hay trà hồ và chén trà được chú ý đến nhiều nhất, nhắc đến nhiều nhất nên
sẽ bàn kỹ hơn phần tiếp theo.Hình bộ đồ trà
Hình bếp lò và ấm đun nước
9. CÁC LOẠI ẤM TRÀ DANH TIẾNG
1. TRUYỀN THUYẾT VÀ LỊCH SỬ
- Chúng ta thường nghe nói đến cái tên Nghi Hưng, ấm trà Tử
sa Nghi Hưng mà các cụ mua ấm ngày xưa cũng đòi cho được loại ấm này. Vậy Tử sa
là gì, Nghi Hưng ở đâu, tại sao lại đòi phải cho được ấm từ Nghi Hưng? Xin được
nói sơ qua chút về truyền thuyết và lịch sử liên quan đến chúng.
Đọc sử thời Xuân Thu Chiến Quốc Trung Hoa, ai cũng biết câu chuyện Phạm Lãi với
nàng Tây Thi. Ông là người đã giúp Việt Vương Câu Tiễn trong việc trả được mối
hận đối với Ngô Vương Hạp Lư. Khuyên Việt Vương dùng Mỹ nhân kế - là nàng Tây
Thi, làm cho Ngô Vương mải vui với người đẹp mà quên mất chính sự mà bị diệt.
Sau khi chiến thắng, ông thực hành đúng câu nói của cổ nhân là “công thành, thân
thoái” (thành công rồi thì rút lui). Sự thực thì tại ông biết xem tướng người:
Thấy Việt Vương Câu Tiễn là người có cái cổ dài và cái miệng giống mỏ chim - người
như thế với tướng đàn ông thì là thứ người chỉ có thể ở với nhau lúc hoạn nạn,
nhưng không thể cùng chung sống khi giàu sang, vinh hiển; nên ông đã xin từ chức,
mặc dầu Câu Tiễn dọa dẫm đòi bắt vợ con ông, nhưng vẫn nhất quyết ra đi. Sử ghi
ông đã bơi thuyền nhỏ đến Ngũ Hồ, sau khi đã vượt khỏi Tam Giang. Có sách ghi ông
sang Tề làm đến Thượng Khanh đổi tên là Lục Di Từ Bi, sau đó mới bỏ Tề sang Thái
Hồ ở tại Nghi Hưng, đổi tên họ thành Đào Chu Công và làm nghề đào khí, tức là đồ
gốm. Ban đầu người trong làng bắt chước ông làm đồ gốm chỉ để dùng trong vùng,
sau đó tiếng tăm càng ngày càng nổi, cả nước biết tiếng...
Nhận xét của tác giả bài viết:
Theo Sử ký của Tư Mã Thiên: Phạm Lãi (525 TCN-455 TCN) là người đã giúp Việt
Vương Câu Tiễn đánh phục hận với Ngô vương Phù Sai. Khi diệt được Ngô, đại sự
thành công, Phạm Lãi cho rằng vua Việt có tướng cổ cao, môi dài mỏ quạ, là người
nhẫn tâm mà ghét kẻ có công, cùng ở lúc hoạn nạn thì được chứ lúc an lạc thì không;
nên ông không ở lại làm quan, mà bí mật trốn đi ở ẩn.
Phạm Lãi trốn đến đến nước Tề, cha con cùng tự cày cấy làm ăn. Nước Tề sai sứ
mang ấn tướng quốc đến mời ông vào triều, nhưng ông từ chối. Ông cùng gia quyến
lại trốn đến đất Đào (nay là tây bắc Định Đào, Sơn Đông), đổi tên thành Đào Chu
công rồi khởi nghiệp kinh doanh và trở thành một thương gia giàu có lúc bấy giờ.
Trong suốt quãng đời ẩn danh, mưu sinh bằng nghề buôn, ông đã đúc kết cho mình
và cho thiên hạ được 18 nguyên tắc kinh doanh hết sức quý giá truyền lại cho đến
nay. Sách cổ Trung Hoa sau này ghi lại với tựa là “Đào Chu Công kinh thương thập
bát tắc”, còn được gọi “Đào Chu công thương huấn” hay “Đào Chu công thương kinh”.
Người Trung Hoa gọi ông là “Thương thánh”.
Cuốn Sử ký, mục Việt vương Câu Tiễn thế gia, phần cuối được Tư Mã Thiên nhận định:
“Phạm Lãi ba lần đổi chỗ ở mà thành danh trong thiên hạ. Không phải ông ta chỉ
bỏ đi một cách dễ dàng và thế là hết. Ông ta ở đâu, là nổi danh ở đấy”.
Sử đâu có ghi ông làm nghề đồ gốm ở Nghi Hưng đâu? Và thời ông, Xuân Thu Chiến
Quốc chưa làm ấm trà, mãi đến đời nhà Minh, gần 2000 năm sau, với sự phổ biến cách
dùng trà ngâm- Tiễn trà, ấm trà mới được làm ra.
- Nghi Hưng - Yixing, trước tên là Dương Tiện, nằm trên đất
tỉnh Giang Tô, Vô Tích, phía tây Thái Hồ, Trung Quốc. Nó là một huyện kế cận thành
phố Thượng Hải, cách khoảng 120 cây số về hướng Tây Bắc; bên cạnh dòng Trường
Giang. Tại Nghi Hưng có một loại đất sét đặc biệt, chứa nhiều thạch anh, mica,
sắt, dùng để nung tạo các ấm trà không tráng men (Unglazed), gọi chung là ấm tử
sa (Purple sand). Ấm Nghi Hưng là nói chung về ấm đất không tráng men
(unglazed).Bản đồ Giang Tô, Trung Quốc - Màu đỏĐất ở Nghi Hưng thường có ba màu: tía đỏ, vàng sậm và nâu đen.
Tử sa có nghĩa là cát tím.
Như đã nói ở trên, hình như tất cả những gì có người Trung Hoa tham gia vào đều
có bên cạnh một vài huyền thoại; đất Nghi Hưng cũng không ngoại lệ. Đất này đã được
người Trung Hoa thêu dệt nên huyền thoại như sau:
“Xưa thôn Nghi Hưng nghèo khó có một ông sư hình dung cổ quái
đi rao: “Mại phú quý thổ, mại phú quý thổ!” (Bán đất giàu sang đây). Ai dửng dưng. Ông sư thấy mọi người dửng dưng, không ai phản ứng gì, càng ra sức rao “Quý bất
dục mãi, mãi phú như hà?” (Không muốn mua quý, thì làm sao giàu được). Mọi người
cho ông là điên khùng, trừ một ông lão nhà nghèo. Nhà sư dẫn ông lão đến nơi mà
ông gọi là “Phú quý thổ”, nằm trong hai ngọn núi Thanh Long và Hoàng Long (trấn
Đinh Thục), dậm chân xuống đất rồi biến mất. Ông lão bèn đào sâu xuống tìm “phú
quý” thấy lớp đất sét có 5 màu: đỏ, vàng, xanh lục, xanh lam và tím. Đó chính là
tử sa”, dùng chế tạo gốm rất tốt”
Đất sét làm gốm sứ đây có đặc biệt gồm ba loại: đất sét tử sa có màu nâu sậm;
chu nê có màu nâu đỏ, và đoàn nê có nhiều màu khác nhau từ màu lam, lục đến màu
đen.
Đất tử sa không nhất thiết phải là màu tím đỏ mà có ba màu chính là màu vàng sậm
(ta gọi là màu gan gà), màu đỏ sậm (ta gọi là màu da chu) và màu nâu thẫm ngả màu
đen (tử sa). Tuy nhiên, trong ba loại màu đó đều có nhiều sắc độ (tùy theo lượng
sắt trong đất sét nhiều hay ít), lại còn tùy theo thợ trộn các loại đất và pha
chế thêm khoáng chất (nhưng tuyệt đối không dùng màu nhân tạo để nhuộm) nên các
loại ấm tử sa có thể có từ màu ngà đến màu đen.
2. Ấm trà Nghi Hưng hay Tử sa Nghi Hưng (Nghi Hưng Tử Sa Hồ)
Ấm trà nặn từ đất sét tử sa Nghi Hưng được gọi là Ấm Nghi Hưng.
Ấm Nghi Hưng ra đời theo loại trà ngâm từ đời nhà Minh, theo truyền thuyết
Trung Hoa kể lại do Vũ Kỳ Sinh sáng tạo ra. Nhưng ấm Nghi Hưng thực sự lên đến đỉnh
cao là đời nhà Thanh với những nghệ nhân làm ấm trà lừng danh như Huỳnh Mẫn Chương,
Trần Minh Quang,… Sự nổi tiếng của ấm Nghi Hưng ngoài việc nó được làm bằng
tay nên mỗi chiếc như một tác phẩm nghệ thuật (như ấm có tên Bách nhi đồ chạm nổi
hình 100 đứa trẻ), mà còn vì loại đất sét ở đây rất đặc biệt, hiếm thấy nơi khác.
Một số tác phẩm còn để lại tuyệt bút của một số nhà thư pháp nổi tiếng đương thời
(có ấm viết trọn bài kinh Bát Nhã Tâm Kinh trên thành ấm).
Ấm trà Nghi Hưng hay Tử sa Nghi Hưng (Nghi Hưng Tử Sa Hồ) đã nổi danh trên thế
giới: Chúng là những tuyệt tác phẩm nghệ thuật của Trung Hoa với đủ loại kiểu cách,
dung lượng dùng để độc ẩm, song ẩm hay quần ẩm, chứng tỏ sự khéo tay và óc sáng
tạo độc đáo của các nghệ nhân nghệ sĩ.
Giá trị của ấm Nghi Hưng ở chỗ không có tráng men, nên hấp thụ
nước trà khiến càng lâu ngày trà càng có hương vị thơm hơn (cũng chính vì vậy ấm
đất Nghi Hưng không được dùng chất tẩy rửa để làm vệ sinh, thường ấm dùng xong
người ta chỉ tráng nước nóng rồi úp cho ráo).
Hình thức bên ngoài ấm Nghi Hưng cũng rất đa dạng, có thể vuông, lục giác, tròn,
thậm chí hình trái phật thủ, sừng tê giác,… Hiện Trung Quốc xem nghệ thuật làm
ấm đất tử sa một trong bốn quốc bảo cần bảo tồn, ba thứ còn là kinh kịch, tranh
thủy mạc, và lụa Tô Châu. Do vậy, trên trường quốc tế khi nói đến ấm pha trà
thiên hạ nghĩ ngay đến ấm Nghi Hưng.
Ấm tử sa không phải chỉ là một trà cụ mà còn là một tác phẩm
nghệ thuật. Ấm nặn to nhỏ tùy theo dùng cho một (độc ẩm), hai (song ẩm) hay nhiều
người (quần ẩm). Ấm quần ẩm có thể dùng cho ba, bốn hay nhiều người nên có cái
chỉ bằng nắm tay nhưng cũng có cái to bằng cái ấm trà thường.
Người xưa đã tổng kết 5 ưu điểm của ấm Tử sa:
1. Dùng để pha trà không mất đi nguyên vị của trà, ”Sắc, hương, vị giai uẩn”
(giai uẩn có nghĩa là tiềm tàng). Văn Chấn Hanh đời Minh bình luận trong tập Trường
vật chí: “Ấm Tử sa dùng pha trà tốt nhất, đậy nắp vẫn ngửi thấy mùi thơm, giữ
nóng lâu”.
2. Thành ấm có nhiều lỗ thông khí kép nhỏ li ti (còn gọi là khí khổng), dùng
lâu ngày có thể hấp thu mùi vị trà, chỉ cần chế nước sôi vào là có hương vị trà.
3. Nước trà pha trong ấm để quên mấy ngày không bị thiu, mốc hay biến chất.
4. Ấm sử dụng càng lâu càng phát màu, Ngô Kiến đời Thanh nói: “Ấm Tử sa dùng hàng
ngày, năng lau chùi sẽ sáng bóng như gương”.
5. Ấm Tử sa có đặc điểm chịu được sự biến động nhiệt độ nóng lạnh tức thời mà
không bị rạn nứt, lại truyền nhiệt chậm, lỡ tay cầm vào ấm không bị phỏng.Hình các loại ấm trà Tử sa
– Về hình dáng, ấm tử sa chia làm ba loại:
Ấm theo hình kỷ hà cân đối, nghĩa là tròn trĩnh, vuông vức, lục giác, bát giác
hay nhiều múi. Đó là những ấm có thể dùng khuôn làm chuẩn, chỉ điểm xuyết bằng
tay. Ấm có thể hình trái đào, trái thị, trái hồng hay hoa sen, hoa thủy tiên nhưng
chủ yếu là cân đối. Người thợ có thể thêm thắt nặn vung ấm, vòi ấm hay quai ấm
khác đi và có thể trang trí trên thân ấm những hoa quả, con thằn lằn, con chuột… hoặc đề chữ, đề thơ để tăng giá trị.
Ấm theo hình tự nhiên, nghĩa là do sáng kiến của người nặn
mô phỏng một vật thường thấy. Hình dáng có thể là cái thùng gạo, cái bị, cây thông,
quả vải, búp hoa hồng, bó trúc... Đây là những nghệ phẩm cao chứng tỏ óc thẩm mỹ
và tài khéo léo của người nghệ sĩ. Thường là hình ảnh có mang một ý nghĩa tốt đẹp
nào đó. Con chuột tượng trưng cho sự trù phú, lấy ý là con chuột kêu chít chít đồng
âm với chữ túc là đầy đủ, bông sen tượng trưng cho sự thanh cao, gần bùn mà chẳng
hôi tanh mùi bùn. Một cái ấm cổ có hình một con ngựa, một bên có con khỉ đứng
nhìn một tổ ong. Người Tàu gọi là mã thượng phong hầu (con ngựa ở trên con ong
và con khỉ) nhưng đọc lên hai chữ phong hầu đồng âm với được phong tước hầu. Thành
thử cái ấm mang một lời chúc thăng quan tiến chức. Lối biểu tượng đó rất thịnh
hành ở Trung Quốc.
Ấm tổng hợp cả hai đặc tính trên, vừa cân đối, vừa nghệ thuật chẳng hạn như một
quả bí ngô (pumpkin), có những dây cuốn thành vòi, thành quai hay một cái ấm nặn
hình một bầy cá, có cái nắp là một lá sen trên là một con nhái nhỏ.
Cở ấm thường có 3 cỡ: Lớn, trung và nhỏ. Tùy từng lúc, với một
người nghiện nặng, trong nhà bao giờ cũng có mấy cỡ ấm: lúc một mình độc ẩm, cần
ấm riêng cho một người; song ẩm, để uống với tri kỷ; và quần ẩm, lúc có trên ba
người.
– Đặc điểm ấm Nghi Hưng:
Đất sét Nghi Hưng nung lên rất rắn chắc bền bỉ, không bị nứt
dù thay đổi nhiệt độ bất thường khi đổ nước sôi vào. Đất còn có những khí khổng
rất nhỏ (pores) phải soi kính hiển vi điện tử mới thấy được. Những khí khổng vi
ti đó có tác dụng cách nhiệt, vừa bảo tồn hương vị, vừa không làm cho bên ngoài
quá nóng. Một đặc tính khác là khi được nung, ấm không bị co lại hay biến dạng
nên nghệ nhân dễ dàng làm nắp ấm được vừa vặn, khít khao.
Khi trong dạng thiên nhiên, đất sét Nghi Hưng mềm, có màu vàng, nâu đen hay
xanh nhạt. Sau khi nung, đất màu vàng đổi sang màu da chu, màu đen thành màu tử
sa, còn màu xanh lại biến thành màu gan gà. Màu sắc khác nhau tùy theo lượng hóa chất trong đất, nhất là chất sắt.
Đất sét được đào lên từ lòng đất sâu, phơi khô thành từng tảng. Những tảng đất đó
được tán thành bột rồi được rây bằng những rây tre để lọc đi tất cả sỏi đá và các
chất khác lẫn trong đất sét. Bột đất sét sau đó được đổ vào những bể nước hình
chữ nhật cao khoảng thước rưỡi rồi tháo nước trong vào. Ba ngày sau, dung dịch đất
và nước đó lại được gạn qua một bể khác và để nước bốc hơi đi cho keo lại. Đất
sét được cắt ra thành từng bánh bán cho thợ làm đồ gốm.
Người thợ khéo thường hay viết tên hiệu, có khi ngày tháng
chế tạo, niên đại hoặc đóng dấu vào đáy ấm khi tác phẩm hoàn tất. Triện thường
hình vuông, hình tròn hay bầu dục khắc nổi. Những chiếc ấm đắt tiền có khi có
thêm một cái triện nhỏ bên trong nắp ấm, hoặc một con dấu khác dưới tay cầm.
Ngoài con dấu có khi còn có vài chữ Hán. Chữ đề thường là chữ thảo do một người
giỏi thư pháp (phép viết chữ) đề bằng bút tre nhọn, khắc hẳn vào thân ấm. Có thể
chỉ là vài chữ chúc tụng nhưng có khi là hẳn một bài thơ, một đôi câu đối.
Có một câu “Hồi Văn Thi” rất được nổi tiếng đọc ngược xuôi gì cũng được, đó là
câu “Khả dĩ thanh tâm dã” có thể đọc thành “dã khả dĩ thanh tâm”, ”thanh tâm dã
khả dĩ”, hoặc “Tâm dã khả dĩ thanh”… Ý nghĩa thì mọi người đã hiểu: “Uống trà
trong cái ấm này thì có thể làm cho cái tâm người được trong sáng”.
Trước đời nhà Minh người ta uống trà trong những cái ấm lớn mà
nổi tiếng nhất là ấm của Chu Cao Khởi. Sang đến niên hiệu Chính Đức, Thái Hồ có
một ngôi chùa nhỏ mang tên là Kim Sa tự; trong chùa này có vị sư hiệu là Vô
Danh, một nhà sư cũng rất thiện trà. Một hôm ông suy nghĩ: Uống trà trong cái ấm
lớn không gọn gàng, vừa tốn trà vừa tốn nước, lại không đủ hương vị. Nhân quen
với những đệ tử làm nghề đào khí, ông bèn chọn thứ đất tốt rồi tự tay nắn lấy
cho mình một cái ấm nhỏ, hình như quả trứng có nắp đậy, trên nắp có lỗ để cho
thông khí. Mang vào lò nung xong, về chùa tự pha trà uống thì đúng như ý muốn.
Chỉ cần một nắm trà, không phải đun nhiều nước, uống chén nào ra chén nấy, hội đủ
hương vị sắc, lại không phải uống nhiều đến nổi mất ngủ. Vô Danh Hồ xuất hiện từ
đó.
Vô Danh Hồ, nắn bằng tay chứ không nắn bằng bàn đạp. Màu đất của ấm là màu đỏ đồng,
hình quả trứng, đáy ấm có ấn dấu tay; khi đổ nước sôi vào thì ấm tự sủi lên, từ
ở ấm phát ra một âm hưởng nhè nhẹ, không ngừng cho đến khi nước nguội dần.
3. TÌM HIỂU BA HIỆU ẤM TRÀ: THẾ ĐỨC, LƯU BỘI VÀ MẠNH THẦN
Không biết có phải vì cái bóng của nhà văn Nguyễn Tuân quá lớn
không, khi nói đến ấm pha trà người Việt hiện thời nhớ ngay câu: “Thứ nhất Thế Đức
gan gà, thứ nhì Lưu Bội, thứ ba Mạnh Thần”. Nhưng hỏi ngược lại, ấm Thế Đức gan
gà, ấm Lưu Bội, ấm Mạnh Thần như thế nào? nhiều người ấp úng. Ngay cả Nguyễn Tuân
cũng chẳng giải thích gì thêm. Chẳng biết có phải ông chỉ nghe nói thế và kể lại
hay không?
Ta thử tìm hiểu 3 loại ấm này.
Đầu tiên cần xác định, đây không phải là thành ngữ điển tích của người Trung
Hoa, mà là câu thiệu bằng thơ lục bát cho dễ nhớ của các cụ ta (Việt Nam) ngày xưa, vì
vậy “vai vế” thứ nhất, thứ nhì, thứ ba trong câu chỉ là tượng trưng, xếp theo vần
điệu cho dễ nhớ, chứ không phải thứ hạng.
Thật ra ba loại này là ba chủng loại của ấm Tử sa Nghi Hưng, thích hợp dùng cho
những loại trà đã oxy hóa nhiều như trà Ô long, hồng trà; không nên dùng cho trà
xanh hay trà trắng. Khi các cụ thời xưa ca tụng ba loại ấm này hẳn là giới
trung lưu quen dùng trà tàu. Trong Vũ Trung Tùy Bút của Phạm Đình Hổ cũng lưu ý
“trà Ô long thường được pha trong bình chu sa gan gà”.
Nói chung, ba tên này là ba hiệu ấm thông dụng nhất nhập cảng vào nước ta hồi
thế kỷ XVIII, XIX.Hình ấm trà Tử sa Mạnh Thần- Ấm Mạnh Thần
Trong 3 hiệu Thế Đức, Lưu Bội và Mạnh Thần, ấm Mạnh Thần có niên đại lâu đời nhất,
tác giả là Huệ Mạnh Thần ở Kinh Khê, Nghi Hưng, Giang Tô không rõ năm sinh năm
mất. Đại khái thời của ông là vào buổi cuối Minh đầu Thanh... Những chiếc ấm do
chính tay Huệ Mạnh Thần làm ra thường đề: “Kinh Khê Huệ Mạnh Thần chế”, “Văn Hạnh
quán Mạnh Thần chế”, “Huệ Mạnh Thần chế” hoặc “Mạnh Thần chế”Hình ấm trà Tử sa Lưu Bội - Zhuni - Ấm Lưu Bội
Thiệu Cảnh Nam (1796-1874) hiệu Lưu Bội chủ nhân - là một danh gia chế tác ấm Tử
Sa dưới triều Đạo Quang, ông nổi tiếng làm ra chiếc ấm nhỏ gọi là Zhuni (Chu nê
- bùn đỏ).
Trên thân ấm Zhuni, tác giả dùng dao tre khắc hai câu thơ “Hồ trung nhật nguyệt
trường/ Sơn dung vô y dạng”, ý nói “Việc thưởng trà có thể quên cả thời gian”,
bên cạnh ký Lưu Bội, dưới đáy ấm có khắc dấu “Thiệu Cảnh Nam ấn” bằng thể chữ Lệ
thư.Hình ấm trà Tử sa Thế Đức - Tích Bao - Ấm Thế Đức
Ấm Thế Đức còn gọi là ấm Tích Bao, là loại ấm trà xuất hiện vào những năm Gia
Khánh và Đạo Quang đời Thanh (1796-1850), do những danh gia chế tạo ấm, sau đó được
các văn nhân vẽ tranh, viết thư pháp, đề thơ. Ấm làm bằng đất Tử sa, thân bọc
thiếc. Núm nắp, quai, vòi được tô điểm bằng cách khảm ngọc, chạm trỗ tinh vi, rất
được giới văn nhân tao nhã yêu thích.
Ấm Tích Bao (chữ “tích” nghĩa tiếng Việt là “thiếc”)
Ấm Tích Bao do Chu Kiên (1772-1830) - tự Thạch Mai, hiệu Thạch My, quê ở Thiệu
Hưng, Chiết Giang - làm cho “Thế Đức Đường” vào những năm Đạo Quang nhà Thanh.
Ấm Thế Đức màu gan gà (là màu gan gà luộc chín, tức nâu pha vàng) dưới đáy có
ghi hai chữ Thế Đức. Màu gan gà là màu nâu sậm, ẩn màu tím của lá gan con gà còn
tươi khi mới mổ. Màu này cũng chính là màu tía theo nguyên thủy chữ Hán trong “tử
sa”. Nếu như thế, ấm gan gà là ấm tử sa màu nâu sậm là màu khá thông dụng cho các
loại ấm đất, chỉ sau loại màu đỏ gạch.
Ấm “Thế Ðức gan gà” mà các cụ ta nhắc đến không phải là ấm số
một trong các loại ấm Nghi Hưng. Dưới thời Minh Thanh (và cả sau này thời Dân
Quốc), người Trung Hoa có một mạng lưới thương mại rất rộng, hầu như khắp nơi
trên thế giới. Ðồ sứ, đồ đất nung là những món hàng được ưa chuộng. Riêng các
quốc gia Ðông Nam Á, ấm đất được chở sang gồm nhiều hiệu khác nhau nhưng Thế Ðức
Ðường là loại nổi tiếng nhất, kế đó là ấm nhỏ hình quả lê theo hai kiểu Lưu Bội,
Mạnh Thần. Khi chọn ấm, phân biệt Thế Ðức, Lưu Bội, Mạnh Thần là nhãn hiệu ở đáy
ấm, thường là chữ viết hay con dấu. Thế Ðức Ðường là tên một hãng sản xuất, Lưu
Bội và Mạnh Thần trái lại là tên của hai danh sư chuyên nặn ấm đời Minh. Về
sau, một số kiểu ấm của hai vị này được hình danh, gắn liền với tên trở thành
hai cái tên ấm - ấm Lưu Bội, ấm Mạnh Thần.
ẤM NGHI HƯNG THEO THỜI GIAN
Theo sách Dương Tiện Minh Hồ Lục (Sách về các ấm trà
vùng Dương Tiện) của Chu Cao Khởi thì đời Chính Đức, Gia Tĩnh nhà Minh có Cung
Xuân tài nghệ tuyệt vời, là người nổi danh đầu tiên về làm ấm tử sa. Cung Xuân
vốn là gia đồng của Ngô Sĩ đất Nghi Hưng thường theo hầu Ngô Sĩ đến học tại chùa
Kim Sa. Trong chùa có một vị hòa thượng có tài làm đồ sứ nên Cung Xuân theo nhà
sư học nghề nặn ra những tác phẩm trông chẳng khác gì đồ kim loại xưa. Khi Cung
Xuân nổi danh, ông thường cùng Bộc Trọng Khiêm (đất Gia Định) khắc trúc, Lục Tử
Đồng (đất Tô Châu) chạm ngọc, và Khương Thiên Lý khảm xà cừ. Tất cả đều là những
người nổi tiếng đời Minh. Cung Xuân nặn ấm không lâu - truyện kể rằng ông bị
quan sở tại vì yêu chuộng tài nghệ ông nên bức bách khiến ông phải bỏ xứ mà đi -
nên tác phẩm của ông hiện nay lưu truyền rất ít. Sách vở chỉ còn ghi một chiếc ấm
của ông hình 6 múi hiện tàng trữ tại Viện Trà Cụ Hongkong nặn năm Chính Đức thứ
8 (1513). Thế nhưng còn một cái ấm khác cũng của Cung Xuân để tại Singapore thì
ít thấy sách vở nào đề cập. Theo bài “Nghi Hưng và Nghiên Mực” (Yi Hsing and
Inkstones) trong tạp chí Arts of Asia, số July/ August 1971 thì ông C.M. Wong, Bí
Thư của Phòng Thương Mại Singapore và là Chủ Tịch Hiệp Hội Hoa Nhân tại đây có
trong bộ sưu tập của ông một ấm Cung Xuân hình vỏ cây. Ấm này đề năm 1506, có
triện của người nghệ sư. Phần dưới quai cầm lại còn một vết dấu tay điểm vào mà
người ta bảo rằng đó là vết ngón tay thứ sáu của Cung Xuân (Bàn tay phải của ông
có sáu ngón).
Sau thời Cung Xuân, nghệ thuật làm ấm đất nung vùng Nghi Hưng
thịnh đạt, đến đời Vạn Lịch càng có nhiều danh thủ. Lý Ngư viết là: “Trà không
gì bằng dùng ấm bằng tử sa, mà vùng Dương Tiện là hạng nhất”. Từ đời Minh trở đi,
việc dùng ấm tử sa để uống trà trở nên thông dụng. Người ta để ý đến phẩm chất
trà đã đành mà còn kén chọn cả cách pha trà, nước nào pha trà ngon, uống lúc nào
mới hợp.
Trước kia, ấm trà bằng sứ là quí nhất nhưng khi ấm tử sa ra đời
thì không mấy ai còn chuộng ấm sứ nữa. Cổ nhân tổng kết ấm tử sa có bảy ưu điểm:
1. Chế nước sôi vào không làm trà mất hương vị, sắc hương còn
nguyên
2. Bình trà dùng lâu, chế nước không cũng ra mùi trà
3. Trà vị không bị biến chất
4. Chịu nóng cao, mùa đông tháng giá đổ nước sôi vào không bị
nứt
5. Ít truyền nhiệt, cầm vào không phỏng tay
6. Dùng càng lâu càng lên nước, bóng lộn
7. Có nhiều màu khác nhau, dễ lựa chọn
Vì ấm tử sa là một tác phẩm nghệ thuật nên trông ấm người ta
có thể đánh giá được người nặn vào bậc nào. Thành ra, trong những nghệ nhân nghề
sành sứ, thì ngành làm ấm để tên lại nhiều nhất.
Sau đời Cung Xuân người ta thấy có Thời Bằng, Đổng Hàn, Triệu
Lương, Nguyên Sướng và Lý Mậu Lâm là những thợ nổi danh.
Đời Vạn Lịch, Thời Đại Bân, con của Thời Bằng là người nổi tiếng
hơn cả. Văn Chấn Hanh viết trong “Trường Vật Chí” là “ấm trà tử sa là loại tốt
nhất, nắp vừa vặn không làm mất hương, lại không bốc hơi. Ấm do Cung Xuân chế tạo
quí nhất, đều nhỏ nhắn, hình dáng lạ lùng. Thời Đại Bân chế thì có cái to, cái
nhỏ…”. Cùng nổi danh với Đại Bân có Lý (Đại) Trọng Phương, Từ (Đại) Hữu Tuyền,
người ta gọi là Tam Đại.
Từ Hữu Tuyền tự Sĩ Hoành, là học trò của Thời Đại Bân, có tài
bắt chước các loại đồng khí xưa làm ấm hình tàu lá chuối, đài sen, củ ấu, quả
trứng…
Nổi tiếng thời Vạn Lịch còn có Âu Chính Xuân, Thiệu Văn Kim,
Thiệu Văn Ngân, Tưởng Bá Cung, Trần Dụng Khanh, Trần Tín Khanh, Mân Lỗ Sinh, Trần
Quang Phủ, Thiệu Cái, Thiệu Nhị Tôn, Chu Hậu Khê…
Thời Vạn Lịch, ngoài việc nặn ấm, các nghệ nhân còn dùng đất
tử sa điêu khắc và các chế tạo vật phẩm khác, rất thịnh hành. Người nổi tiếng
nhất là Trần Trọng Mỹ ở Vụ Nguyên, An Huy. Họ Trần trước vốn ở Cảnh Đức Trần làm
đồ sứ. Sau đến Nghi Hưng kết hợp nghệ thuật đồ gốm với nặn ấm, tạo ra các loại đỉnh
hương, bình hoa, cục chặn giấy... rất xinh xắn. Người nổi danh đồng với Trần Trọng
Mỹ thì có Trẩm Quân Dụng, tự Sĩ Lương.
Sau đời Vạn Lịch có Trần Tuấn Khanh, Chu Quý Sơn, Trần Hòa
Chi, Trần Đình Sinh, Thừa Vân Tòng, Trẩm Quân Thịnh, Trần Chấn, Từ Lệnh Âm, Hạng
Bất Tổn, Trẩm Tử Triệt, Trần Tử Huề, Từ Thứ Kinh, Huệ Mạnh Thần, Tiết Hiên, Trịnh
Tử Hầu…
Trên đây là những nghệ nhân nổi tiếng khéo đời Minh. Về sau,
người ta mô phỏng rất nhiều những kiểu họ đã chế tạo nên những ấm nào thực sự đời
Minh, cái nào đời sau khó ai biết được. Đồ tử sa lại không đề niên đại như đồ gốm
nên càng khó phân biệt chân giả.
Sang đến đời Thanh, nghệ thuật làm ấm còn thịnh đạt hơn nữa.
Triều đình nhà Thanh chuộng đồ tử sa nên càng coi trọng. Văn khố nhà Thanh còn
ghi lượng hàng mỗi năm tiến cống vào cung. Phẩm chất cũng thêm tinh vi, xảo diệu.
Ngoài ấm đất, người ta còn nặn bồn trồng cây cảnh, bình hoa, và dụng cụ dùng
trong nhà. Màu sắc pha chế cũng phong phú hơn.
Nghệ nhân nổi tiếng đời Thanh rất nhiều. Người xuất sắc nhất
là Trần Minh Viễn, hiệu Hạc Phong, lại có tên là Hồ Ân, chế ra hàng chục thứ ấm
trà, đồ dùng khác nhau, không cái nào giống cái nào, quả là bậc thầy trong nghề.
Những tác phẩm mà Trần Minh Viễn còn để lại hết sức tinh xảo, lại đầy sáng tạo.
Cái thì hình một gốc mai già, cái thì hình bó củi, trông như một nghệ phẩm điêu
khắc tả chân hơn là một trà cụ. Ông còn nặn những trái cây tầm thường như hạt dẻ,
củ đậu phộng… trông hết sức tinh xảo, thoạt trông không ai bảo là một vật bằng
sành.
Sách Trùng San Kinh Khê Huyện Chí, viết năm thứ hai
đời Gia Khánh, (Thanh) dùng bốn chữ “vạn gia yên hỏa” (nhà nhà đều khói lửa) để
chỉ khung cảnh sinh hoạt bấy giờ. Đời Ung Chính, Càn Long thì có Trần Hán Văn,
Dương Quý Sơ, Trương Hoài Nhân. Chế tạo đồ dùng trong cung vua thì có Vương Nam
Lâm, Dương Kế Nguyên, Dương Hữu Lan, Thiệu Cơ Tổ, Thiệu Đức Hinh, Thiệu Ngọc Đình
nhưng thiên về ấm có trang trí, màu sắc. Những chuyên gia cho rằng kết hợp hai
kỹ thuật của Cảnh Đức Trấn (nơi chế tạo đồ sứ tráng men) với Nghi Hưng đã làm
giảm đi phong vị của ấm tử sa, bản chất vốn giản phác, gần thiên nhiên. Cầu kỳ
hóa một nghệ thuật vốn dĩ đạm bạc đã khiến cho nghệ thuật nặn ấm đổi hẳn sắc thái,
mất đi tính nguyên ủy của nó.
Sang đời Gia Khánh, những người tên tuổi có Huệ Dật Công, Phạm
Chương Ân, Phan Đại Hòa, Cát Tử Hậu, Ngô Nguyệt Đình, Hoa Phượng Tường, Trinh Tường,
Quân Đức, Ngô A Côn, Hứa Long Văn…
Thời Đạo Quang có Dương Bành Niên và em gái là Dương Phượng
Niên cùng với Trần Hồng Thọ, Thiệu Đại Hanh là những danh gia. Trần Hồng Thọ hiệu
là Mạn Sinh, đời Gia Khánh làm huyện tể đất Lật Dương. Ông là người giỏi viết
chữ, vẽ tranh, khắc triện lại thích sưu tầm ấm tử sa. Nhiều ấm do Dương Bành Niên
và nhà họ Dương chế tạo ra, đợi cho hơi khô, Trần Hồng Thọ dùng dao tre khắc, vẽ,
viết chữ, đề thơ lên rồi mới đem nung. Việc kết hợp hai tài danh, một nặn ấm, một
thư họa là sáng tác mới của thời đó. Ấm thường có đề “A Mạn Đà Thất” (là tên thư
trai của họ Trần) hay dưới đáy có khắc “Bành Niên”. Đời sau gọi là ấm Mạn Sinh
(Mạn Sinh hồ).
Theo chân Trần Hồng Thọ, nhiều danh sĩ khác như Kiều Trọng Hỉ,
Ngô Đại Trừng cũng đứng ra chỉ đạo việc nặn ấm. Từ đó, một kỹ xảo vốn chỉ được
coi như nghề mọn nay đã lan sang cả giới nho gia. Tuy không được phổ biến như
thư họa nhưng cũng không còn là một tiện nghệ như trước nữa.
Một danh sĩ vốn giỏi về vẽ trúc là Cù Tử Trị lại đem việc khắc
trúc, họa trúc vào trang trí trên ấm. Họ Cù không những mang thư pháp mà còn khắc
hẳn những cành trúc, cành mai nghĩa là coi chiếc ấm như một tờ giấy hay vuông vải
để thi thố tài hàn mặc.
Còn Thiệu Đại Hanh thì là một nghệ nhân nổi tiếng không kém gì
Dương Bành Niên. Trong khi Dương nổi danh về tinh xảo thì Thiệu có tiếng về giản
phác. Ông không cầu kỳ nhưng cũng có nhiều sáng kiến độc đáo. Chính kiểu nắp ấm
đầu rồng, khi rót thì lè lưỡi ra là do ông khởi thủy, tới nay vẫn còn nhiều người
bắt chước và khá phổ biến trên thị trường.
Cuối đời Thanh, Chu Kiên lại có sáng kiến dùng thiếc và ngọc để
bịt hay khảm vào ấm tử sa. Nhiều thân ấm được bịt thiếc và viết chữ rồi dùng ngọc
trạm thành quai, thành vòi ráp vào. Thế kỷ thứ 19 nhiều người còn bịt đồng hay
thau nhưng nói chung những kiểu này không được chuộng lắm.
Vào thời điểm này, việc thương mại giữa Trung Hoa và nước ngoài
đã phát triển. Nhiều cường quốc đã chiếm những lãnh địa ở duyên hải hay cưỡng ép
nhà Thanh nhường làm tô giới và Thanh đình đã phải mở cửa cho họ vào buôn bán.
Trà Tàu trở thành một nông phẩm xuất cảng quan trọng và ấm Tàu cũng được sản xuất
qui mô để bán ra ngoài. Nhiều công ty thành lập tại Thượng Hải, Nghi Hưng, Thiên
Tân, Hàng Châu đại lý bán ấm Nghi Hưng. Những kiểu ấm thời đó cũng vẫn theo mô
dạng cũ. Một công ty ở Thượng Hải là Thiết Họa Hiên đến nay vẫn còn. Thiết Họa
Hiên nổi tiếng vì chữ viết trên ấm rất đẹp. Những nghệ nhân nổi tiếng của họ gồm
có Tưởng Yến Hanh, Trần Quang Minh, Phạm Đại Sinh, Vương Diễn Xuân, Trình Thọ
Trân. Những ấm xuất cảng thường có cả con dấu của nghệ nhân lẫn con dấu của hãng.
Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 có hai hãng khác là Chân Ký và Ngô Đức Thịnh cũng
phát đạt.
Thời Dân Quốc ấm Nghi Hưng được xuất cảng rất nhiều sang Nhật
Bản, Đông Nam Á, Âu Châu và Mỹ Châu. Thời đó cũng có nhiều thợ khéo nhưng kiểu
thường giản dị, cân đối chứ không cầu kỳ như thời trước. Có lẽ vì nhu cầu thương
mại và thị hiếu đã thay đổi. Đến thời loạn lạc thập niên 1930, 1940 việc sản xuất
ấm phải đình trệ.
Sau khi Trung Cộng nắm quyền, việc sản xuất được qui tụ thành
công xã nhưng không phát triển được. Thời Cách Mạng Văn Hóa lại một lần nữa kỹ
nghệ này bị vùi dập. Trong chế độ Cộng Sản, uống trà bị coi là một tàn tích tư
sản, bóc lột, phi sản xuất nên bị bài xích. Việc làm ấm vì thế cũng bị triệt hạ.
Sau khi Đặng Tiểu Bình thi hành chính sách cải tổ, Trung Cộng phục hồi ngành nặn
ấm tử sa. Năm 1979, xí nghiệp Nghi Hưng Tử Sa đã sử dụng đến 600 nhân công. Hiện
nay, một số thợ chuyên môn trẻ và tương đối có trình độ đã khôi phục lại được công
nghiệp này, nhất là càng ngày càng có nhiều người ưa chuộng và sưu tập.
(Mục Ấm Nghi Hưng Theo Thời Gian tác giả trích đoạn từ bài
viết: Trà Tàu Và Ấm Nghi Hưng - của Nguyễn Duy Chính)
CÁCH CHỌN, SỬ DỤNG VÀ BẢO DƯỠNG ẤM TỬ SA
CÁCH CHỌN ẤM TỬ SA
Một cái ấm quý phải hội đủ mấy điều kiện:
– Miệng, vòi và quai ấm phải ngang nhau, lúc đặt sấp xuống bàn
không chênh vênh; đổ nước sôi vào phải nóng ngay mà quai ấm cầm vẫn không bỏng;
nắp ấm phải khít khao với miệng ấm, nắp ấm có một lỗ nhỏ mà nước không được trào
ra ở lỗ ấy.Hình Ấm trà: Miệng, vòi và quai ấm phải ngang nhau– Lúc cầm lên pha vào chén, nước từ ấm ra phải chảy thành một
đường như đường chỉ, không được vung vãi. Lúc ngừng tay, nước không trào ra ngoài
giọt nào.
– Đặt ấm vào tai, nghe vi vu như tiếng sóng.
– Đất phải thật nhẹ và mịn nhuyễn. Đất màu tím là hạng nhất gọi
là Tử Sa, Thiết Sa, Chu Sa hạng nhì, sau đó còn hoàng sa, bạch sa, lam sa, đều
có thể dùng làm ấm trà nhưng ở các hạng sau.
– Da ấm cần phải mỏng, láng, gõ vào kêu tiếng thanh, ấm dùng
lâu, bao giờ cũng có cốt trà đóng bên trong, để cho giữ hương vị trà. Không ai
mang ấm trà ra mà kỳ cọ bao giờ, đó là điểm tối kỵ trong nghệ thuật uống trà.
TIÊU CHUẨN KINH ĐIỂN CHỌN MUA ẤM TỬ SA
Thả ấm vào chậu nước nổi bồng bềnh, không nghiêng lệch; nhận
chìm xuống rồi buông tay, ấm sẽ nổi trồi lên mặt nước mà không bung nắp hay bị
lật chìm; hoặc bịt ngón tay vào lỗ thông hơi trên núm nắp ấm thì rót nước không
chảy; dùng nắp ấm gõ nhẹ vào quai phát ra âm thanh như tiếng sắt, tiếng đồng…
1. Nhìn bằng mắt: Hình dáng thanh thoát, ưa nhìn. Các bộ phận
như: thân ấm, nắp, miệng, vòi, quai, đáy phải cân đối, liền lạc. Màu sắc đồng đều
trong ngoài. Dấu triện của nghệ nhân hay nhà sản xuất nét chữ sắc sảo, đặt cân đối
ở trung tâm đáy ấm, theo trục thẳng từ quai sang vòi ấm. Những chiếc ấm đắt tiền
thường có thêm dấu triện phụ dưới nắp và quai cầm thật rõ nét. Vòi ấm có thể dài
ngắn khác nhau, nhưng quan trọng là khi rót, nước chảy thông, đều và thẳng dòng,
không rơi vãi hay đọng giọt nhểu ra ngoài.
2. Nghe bằng tai: Đặt ấm lên lòng bàn tay, tay kia cầm nắp ấm
khẽ gõ vào quai, tiếng kêu đanh; chắc như kim loại chạm vào nhau.
3. Cảm nhận bằng tay: Trơn láng, mịn màng, không tì vết. Nắp
và miệng ấm khít khao, vì ấm Tử sa được nung trong lò liên tục 23 tiếng đồng hồ
ở nhiệt độ từ 1.190-1.270 độ C (trung bình 1.200 độ C), đòi hỏi tay nghề nghệ
nhân phải cao, chất đất phải thật tốt và mịn mới không bị co giãn khi nung. Do
tính bào mòn trong quá trình sử dụng, một chiếc ấm dùng càng lâu càng lên nước,
không đổi màu, đó mới chính là đặc trưng ưu việt của ấm Tử sa, chứ màu sắc đất
không liên quan gì đến chất lượng và công dụng.
4. Nắp ấm phải kín, thử bằng cách đổ ¾ nước vào ấm rồi đậy nắp
lại (tay ghì giữ nắp ấm cho chặt) và nghiêng vòi nếu nước không chảy ra thì nắp
ấm kín.
Vỏ ấm phải cứng, cầm ấm lên dùng ngón tay gõ nhẹ vào thành ấm
nghe boong boong càng trong càng quý. Vỏ càng cứng càng ít thẩm thấu và nắp càng
kín càng ít thoát hơi nước, có như vậy trà mới ấm lâu và ít bay thoát hương vị.
Trong truyện “Những cái ấm đất” Nguyễn Tuân có đề ra tiêu chuẩn
lựa ấm:
“Nếu không tin ông cứ úp ấm xuống mặt miếng gỗ kia. Cho ấm ngửa
trôn lên. Cứ xem miệng vòi với quai và gờ miệng ấm đều cắn sát mặt bằng miếng gỗ
thì biết. Nếu muốn thử kỹ nữa, quý khách thả nó vào chậu nước, thấy nó nổi đều,
cân nhau không triềng, thế là đích ấm tàu.” (Những chiếc ấm đất - Nguyễn Tuân).
SỬ DỤNG VÀ BẢO DƯỠNG ẤM TỬ SA
Những chiếc ấm trải qua thời gian dài sử dụng và bảo dưỡng sẽ
trở nên sáng ngời, tròn trịa, dày nặng, rắn chắc và tinh khiết. Nói chung, giá
trị của nó chỉ có tăng chứ không giảm.
Có người mua ấm mới về không đem ra dùng ngay, họ dùng giấy
nhám loại nhuyễn thấm nước chà trong ngoài cho hết bụi đất lò nung gốm bám dính
vào, rồi rửa sạch. Sau đó cho ấm vào một nồi nước đun sôi suốt mấy tiếng đồng hồ.
Có người đun sôi ấm như thế trong một nồi bã trà lớn nhiều giờ hay nhiều ngày đêm,
để ấm có thể hấp thu chất trà vào các lỗ thông khí (khí khổng), loại bỏ mùi của
đất, hương vị trà không bị át mất. Ngày nay, trên thị trường đã có bán loại máy
chuyên dùng bảo dưỡng ấm, bằng cách phun nước trà liên tục suốt một ngày đêm để
tôi những chiếc ấm mới.
Những tay cự phách trong làng trà thường không thích ấm mới,
vì còn hôi mùi đất; ấm càng cũ càng tốt vì trong lòng ấm có gợn lớp bợn trà, mới
cho ra nước trà ngon. Vì điều này, các người sành trà ít dùng chất tẩy rửa bên
trong ấm trà, chỉ tráng qua nước nóng sau khi dùng, rồi úp để ráo.
ẤM TRÀ THỜI TRỊNH NGUYỄN
Sẵn bàn về các ấm trà, tôi xin ghi ra đây trích đoạn bài viết
“Bộ ấm cũ” của Phí Ngọc Hùng để các bạn hiểu thêm sự trân trọng ấm trà của người
xưa:
“Theo điển tích thì tất cả những bộ ấm trà của các cụ từ thời
Trịnh Nguyễn được gọi chung là đồ “ký kiểu”, hiểu theo nghĩa là vẽ kiểu trước và
ký là dấu ấn hay một bài thơ ngắn. Khởi đầu từ chúa Trịnh Sâm, người được coi là
trà sư của nghệ thuật uống trà, tự nhận mình là “trà nô”, với chén bạch định
hay bạch trản ký hiệu “Nội Phủ”. Sau đó, cụ Nguyễn Du mang về cho vua Gia Long
bộ ấm “Giáp Tý 1804”, riêng cụ có bộ Mai Hạc với hai câu thơ “Nghêu ngao vui thú
yên hà, mai là bạn cũ hạc là người quen”. Tiếp đến vua Minh Mạng có bộ “Chữ Nhất”,
vua Thiệu Trị với bộ “Mãn Hoa Tùng Đình” và vua Tự Đức cùng bộ “Ngoạn Hảo”. Các
bộ ấm đặt làm cho các quan, với “chữ đề” gọi là “chấm”. Quan võ thích chấm “Tam
Cố thảo lư”, hoặc “Tây Sương ký”. Quan văn ưa “Trúc lâm thất hiền” hay “Đạp tuyết
tầm mai” này nọ…
Từ các bộ ấm của các quan, sau rơi rớt lại trong dân gian qua
cụ Tú, cụ Cử, cụ Nghè…Các cụ xem bộ ấm trà như vật gia bảo để đi vào giai thoại:
Như cụ cử Lưu làng Nguyệt Ánh, tỉnh Hà Đông, cụ có bộ ấm trà “Bạch định” để không
thì trắng cả trong lẫn ngoài, nhưng nếu rót trà vào ấm thì hiện lên một bức họa
“Thanh sơn bạch vân” thêm bốn câu thơ nhỏ li ty, mỗi câu ở mỗi chén. Năm 1922,
cụ cử Nguyễn Kỳ tri huyện Thanh Trì, muốn xem bộ ấm chén đó phải nhờ cụ đồ Thục
tiến dẫn và được hương hào, lý trưởng làng Nguyệt Ánh xuất tuần phu, trống rong
cờ mở, hương án bái vọng như thiên tử tuần du. Tháng sau, cụ cử Lưu lại khăn gói
quả mướp như trẩy hội qua làng Hoàng Mai để đáp lễ và cũng để thưởng ngoạn bộ
chén trà văn kỳ thanh, bất tướng kỳ hình có cái tên “Kim tiên kỳ ngoạn” còn được
gọi là bộ “Long linh” từ đời Minh Vĩnh Lạc, khi soi dưới ánh sáng mặt trời thấy
“lưỡng long tranh châu”, nét như sợi chỉ và phủ ngoài một lớp men nên nhìn sơ
qua chỉ thấy mầu trắng không. Khi nào rót trà, nhìn vào lòng chén, sẽ thấy hai
con rồng cử động và ngo ngoe như thật” - (Bộ ấm cũ - Phí Ngọc Hùng)
10. CÁC LOẠI CHÉN UỐNG TRÀ
1. Chén tống
Chén tống xưa gọi là tướng, sau đổi gọi là tống. Chén tống rất
quan trọng, như một vị tướng chỉ huy ba đội quân, nó vừa để tống, vừa để nghênh
đón những giọt trà mà người xưa gọi là “Dịch thể ngạnh ngọc bào”.
Chén tống có hai loại: Hoặc là trên dưới bằng nhau, hoặc là
miệng hơi loe ra cho khỏi vung vãi đổ ra ngoài phí trà. Chén tống dùng làm giảm
bớt độ nóng của nước trà, kẻo uống phỏng môi, bỏng họng. Nó là loại chén chuyên,
dùng để chuyển trà từ ấm trà qua những chén quân, rồi uống; vì nước từ ấm trà
ra bao giờ cũng phải dùng thứ nước thật sôi, rắt nóng. Nước chưa đủ độ sôi thì
trà sẽ không chìm và không toát ra hết tất cả hương vị của từng lá trà, trong ấm
trà.
2. Chén quân
Tại sao phải là ba chén quân? Vì người xưa, người Trung Hoa
hay có câu “Tam quân đương nhất chiến”, phải ba đạo quân mới giữ vững được một
trận tuyến, và người xưa lại còn nói thêm một câu khác nữa là: “Quân chi tam đội,
thành nhất chiến chi công”.
Ngay những lúc độc ẩm cũng phải cần tam quân để cho trà vừa
nguội, uống hết chén này lại uống chén nữa, sau đó mới pha lần khác. Có người để
sẵn trong chén tống, pha riêng khi độc ẩm, nhưng nghi thức vẫn đòi hỏi tam quân.
Con số ba là số dương - “dương số”, con số vừa vặn, vì nếu 5 thì lại quá nhiều -
Theo Dịch học, số lẻ là số dương, số chẳn là số âm; người xưa ít thích số âm,
chỉ thích số dương.
Theo ông Vương Hồng Sển thì miền Bắc dùng một chén tống và bốn
chén quân; miền Trung trở vào Nam dùng một chén tống với ba chén quân nên mới có
thành ngữ “nhất tống tam quân”.
Bộ chén trà lại chia làm bốn loại để dành dùng cho từng mùa:
Xuân ẩm, hạ ẩm, thu ẩm và đông ẩm. Hình dạng bốn bộ chén này cỡ vừa (không lớn
không nhỏ, không dày không mỏng) vào xuân thu gọi là kiểu xuân ẩm và thu ẩm; nhưng
kiểu Hạ ẩm dùng cho mùa Hạ chén nhỏ thành mỏng giúp nước nhanh nguội, kiểu Đông
ẩm thì chén trà dày và lòng chén sâu giữ cho trà lâu nguội.
Chén uống trà mà chúng ta gọi là tam quân ở đoạn trên, cũng rất
quan trọng, người ta phải chọn chén, men chén phải mầu gì để hợp với sắc trà,
hoặc làm tăng thêm sắc lóng lánh của trà, trái lại có những màu men làm giảm sắc
trà, tức là giảm hứng thú.
Dưới đời nhà Đường, ở phương nam người ta chế được nước men
xanh (thanh từ) và ở phương bắc, nước men trắng (bạch từ). Lục Vũ cho màu xanh
là màu lý tưởng của chén đựng trà, vì nó tăng thêm màu lục cho nước trà, còn màu
trắng thì làm cho nước trà có vẻ hồng hồng kém ngon. Đó là vì ông dùng trà bánh,
về sau, khi các tay Trà sư đời Tống dùng trà bột, họ ưa những chiếc bát nặng màu
thanh mặc tức xanh đen và màu âm hạt tức nâu sẫm. Người đời Minh uống trà ngâm
lại thích dùng những chiếc chén nhẹ men trắng.
Việt Nam ta có loại chén gọi là chén hạt mít, vì có những màu
men tựa màu vỏ hạt mít và chén cũng khá nhỏ.
3. Các loại chén trà quý
– Người xưa có câu “ấm đất Nghi Hưng, chén sứ Cảnh Đức”; nói
chén uống trà phải nói đến Cảnh Đức Trấn. Trấn này nguyên trước chỉ là một vùng
đất thôn dã mang tên Xương Nam, đến niên Cảnh Đức (1004-1007) thời vua Tống
Thần Tông (960-1279), chọn nơi này làm xưởng sản xuất đồ gốm dành cho vua và
triều đình dùng (gọi là Ngự Diêu) nên đổi tên thành Cảnh Đức Trấn. Nếu Nghi Hưng
có loại đất sét đỏ gọi là tử sa làm ra loại ấm đất lừng danh, thì Cảnh Đức có
loại đất sét trắng gọi là cao lanh làm ra loại chén sứ có tên tuổi không kém phần
lừng lẫy. Sứ Cảnh Đức đặc sắc ở điểm có lớp men ngọc nhiều màu và men ngọc bích
(celadon), men chén mỏng và nhẹ, tiếng gõ vang trong và ngân rất dài. Với đặc điểm
này làm chén dùng trà khiến trà trở nên tươi ngon hơn.
– Việt Nam từ đời Lý Trần đã làm ra những sản phẩm sứ dùng trà
rồi. Dĩ nhiên vào thời nhà Lý chén trà vẫn còn hơi nặng, dù đã tạo ra men ngọc
nhưng men chưa được mỏng, tiếng gõ chưa trong và ngân như chén của người Trung
Hoa.
Thư tịch Nhật có ghi thiền sư Raku Zengoro, người phò lãnh chúa
Ashikara mang về cho thiền viện Kasuga trà cụ - chén trà có dáng bát trà đời Lý,
Trần được gọi là An Nam Yaki của làng Chu Đậu, vì rằng người Việt uống chè
xanh, chè vối bằng bát nên ảnh hưởng đến chén tống temmonlu của họ sau này.
Bộ trà Hoa Sen Xanh - Gốm Chu Đậu
Qua đời Trần thì có những sản phẩm không thua kém nhiều, gốm
Chu Đậu về kỹ thuật đã đạt, nhưng vấn đề nguyên liệu sản xuất rõ ràng còn thua
kém đất của Cảnh Đức Trấn, vốn lừng danh. Đến đời Lê Mạc, gốm Chu Đậu được giới
chuyên môn hiện nay đánh giá “mỏng như giấy, trong như ngọc, trắng như ngà, kêu
như chuông” nên có thể nói không còn thua kém nữa. Gốm Chu Đậu hiện đã được thế
giới biết đến, dù số lượng trưng bày trong các viện bảo tàng khá hiếm hoi.
Nhật Bản và Trung Quốc sinh thù nghịch từ thế kỷ 14, hồi quân
Nguyên sang đánh Nhật bị ngọn Thần Phong diệt. Khi nhà Minh lên ngôi, từ năm
1371 ra lệnh cấm dân duyên hải xuất ngoại. Đến năm 1567, mới bỏ luật này, nhưng
vẫn cấm vượt biển sang Nhật Bản vì nạn “Nụy khấu” (cướp lùn) quấy nhiễu bờ biển
Trung Quốc. Suốt mấy thế kỷ đó, Nhật không quan hệ tốt với Trung Hoa, họ quay
xuống Nam và đã tìm thấy nơi Đại Việt, thời nhà Lê nguồn cung cấp tơ sống và gốm
sứ.
Lúc này Đại Việt đã làm sứ vẽ lam. Gốm sứ trà Việt nhập vào
Nhật Bản nhiều hơn trước, đóng vai trò quan trọng trong nghệ thuật Trà Đạo của
Nhật Bản đang hồi cực thịnh. Không gò gẫm tỉ mĩ như bàn tay nghệ nhân đời Minh,
với mấy nét đơn sơ trên gốm Việt phóng bút cảnh chim trời, cá nước, sơn thủy, tùng
thạch v.v… xuất cái thần vị Thiền, Lão chẳng khác nào tranh tốc họa Sumie; và
thuật thư pháp rất hợp với tâm hồn trà nhân Nhật, làm họ say mê. Vẽ gốm như vẽ tranh
Thiền. Di sản tranh cổ họa Việt Nam ngày nay chừng như có thể thấy trên gốm cổ.
Bộ trà Tử Sa - Gốm Bát Tràng
– Việt Nam ngoài gốm Chu Đậu, ta cũng thường nghe nhắc đến gốm
Bát Tràng.
Hình bộ đồ trà Bát Tràng
Hình ấm trà Tử sa Lưu Bội - Zhuni
Hình ấm trà Tử sa Thế Đức - Tích Bao
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét