Khơi trong dăm ngọn nguồn
văn học quá khứ
(Đọc luận văn [*] của tiến sĩ tân khoa Trần Hoài
Anh)
Trong một lần gặp nhau cách đây mấy năm, khi Trần Hoài Anh
còn lặn lội vào thành phố Sài Gòn - Gia Định cũ này để tìm kiếm tài liệu, một
nơi vốn là đất khởi xuất hàng vạn cuốn sách, hàng trăm tờ báo, tạp chí (1) của
21 năm chia cắt đất nước (1954-1975), bấy giờ đang rất cần thiết cho luận văn
tiến sĩ của anh, tôi đã cảm thấy anh đang làm một công việc khá dũng cảm với đề
tài hơi quá to tát.
Một lần nữa, cách đây chỉ hơn một tuần, tôi lại được anh tìm
đến nhà tặng sách. Trân trọng và cảm động cầm cuốn sách vừa mới xuất xưởng, in
nguyên vẹn luận văn tiến sĩ, Trần Hoài Anh đã bảo vệ thành công trong cách đây
mấy tháng tại Hà Nội, tôi chúc mừng anh nhưng cũng không giấu được một thoáng
âu lo cho anh, khi anh vẫn còn phải đặt mình trước những thách đố. Mừng Trần Hoài
Anh đã làm được đề tài thuộc loại dài rộng ấy, và đã trích đăng trên báo chí, lại
xuất bản thành sách hẳn hoi. Lo Trần Hoài Anh sau khi vượt qua những thách đố
trong quá trình bảo vệ luận văn, lại phải đối đầu với các tiếng nói đương
sự ở trong nước cũng như ở hải ngoại.
Dẫu sao, tiến sĩ tân khoa Trần Hoài Anh cũng đã đồng cảm với
Nguyễn Du (cũng là Thúy Kiều) thuở nào. Anh đã ít nhiều "gạn đục",
nhưng trọng tâm vẫn là "khơi trong". Trần Hoài Anh hẳn đã rất thấm
thía lời Kiều, một cô Kiều sau khi đất nước thống nhất Đàng Trong, Đàng Ngoài
sau hai trăm năm phân tranh, máu lửa: ..."là nhờ quân tử khác lòng
người ta" (Truyện Kiều, 3181-3182).
Lúc này, trên bàn viết của tôi là cuốn sách kết tinh biết bao
nhiêu công sức, trí tuệ và tâm lực của Trần Hoài Anh. Tôi chợt liên tưởng đến tấm
ảnh về một quang cảnh núi đồi, phố thị nào đó thường thấy trên màn hình máy vi
tính. Tấm ảnh ấy, nếu cắt ra một phiến nhỏ, phóng lớn lên, ta sẽ khó thấy được
rõ nét. Cũng như vậy, với đề tài bao quát cả một giai đoạn văn học suốt 21 năm
(1954-19975), cuốn sách của Trần Hoài Anh có thể giúp người đọc chuyên sâu có dịp
hình dung lại một cách tổng thể và giúp người đọc không chuyên sâu có cái nhìn
khái niệm về toàn cảnh. Cả hai đối tượng đều đọc thấy cái nhìn cởi mở, mới mẻ
hơn về giai đoạn văn học ấy ở phương diện lý luận - phê bình. Với mục đích đặt
ra mà anh đã nhiều lần xác định, ở phần dẫn nhập cũng như ở những trang kết luận,
rõ ràng Trần Hoài Anh đã thành công. Có đến 24 nhà nghiên cứu với học hàm, học
vị thuộc bậc cao nhất nhì trong ngành đã thẩm định bằng văn bản nghiêm chỉnh với
lời lẽ biểu dương. Như đã ví von với tấm ảnh quét chụp (scan), công trình của
Trần Hoài Anh vì khảo sát lĩnh vực của đề tài ở diện rộng, bao quát, nên không
thể đòi hỏi anh sao không đi sâu vào một chủ điểm nào đó, chẳng hạn như một
khuynh hướng lý luận - phê bình mà thôi, hiện sinh chủ nghĩa chẳng hạn. Đành rằng
một chủ điểm trong cuốn sách của Trần Hoài Anh cũng có thể là một đề tài cho một
công trình nghiên cứu, từ cấp độ luận văn tiến sĩ cho đến những cấp độ cao hơn,
như công trình chủ lực, để đời của một giáo sư khoa học (học sư, bậc thầy về một
ngành khoa học), nhưng đặt ra vấn đề như vậy là xét đến vấn đề bình diện. Rộng
thì khái lược. Hẹp thì chuyên sâu. Cả hai đều cần thiết.
Ngay trong giới hạn đề tài, Trần Hoài Anh xác định phạm vi
nghiên cứu là chỉ trên lĩnh vực lý luận - phê bình văn học đô thị Miền Nam
1954-1975, chứ không phải bao gồm cả sáng tác phẩm (thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết,
kịch bản văn học) trong không gian, thời gian ấy, chúng ta cũng có thể thấy đối
tượng khảo sát của anh: Một là, các tác phẩm lý luận văn học; hai là, các tác
phẩm phê bình văn học.
Trong loại thứ nhất, Trần Hoài Anh buộc phải tiếp cận các tác
phẩm triết học như chủ nghĩa hiện sinh (Karl Jaspers, Kierkegaard,
Heidegger, G. Marcel, J. Sartre, A. Camus, có thể kể cả Nietzsche - siêu nhân,... và các tác phẩm nghiên cứu, giới thiệu, dịch thuật của Tam Ích, Lê Tôn
Nghiêm, Nguyễn Quang Lục, Phạm Công Thiện, Trần Xuân Kiêm, Đặng Phùng
Quân...), phân tâm học (Freud, Adler, Jung, Erich Fromm và các công
trình nghiên cứu, giới thiệu, bản dịch của Vũ Đình Lưu, Lê Thanh Hoàng Dân, Thụ
Nhân, Trần Thiện Đạo, Như Hạnh...), Phật giáo (kinh sách, Suzuki và
các công trình của Tuệ Sĩ, Nhất Hạnh, Thạch Trung Giả...), Thiên Chúa giáo (Kinh
Thánh, Mounier... và Bùi Tuân, Phạm Thiếu Sơn...) và cả nhưng tác phẩm thuộc tam
giáo cổ truyền (kinh điển Nho, Phật, Lão và các tác phẩm, bản dịch về đề
tài này của Trần Trọng Kim, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Đăng Thục, Kim Định, Trúc
Thiên, Trần Ngọc Ninh...), triết học Ấn Độ hiện đại (Krishnamurti và
Trúc Thiên...), triết học marxiste (Trần Văn Toàn, Vũ Hạnh, Lữ
Phương...). Đó là chưa đề cập đến chủ nghĩa cấu trúc, hiện tượng luận cũng như
các trào lưu thuộc chủ nghĩa hiện đại như tiểu thuyết mới, kịch phi lý,
thơ siêu thực (các tác phẩm của Nguyễn Văn Trung, và Bửu Ý với "Văn
học thế giới hiện đại", Phạm Công Thiện với "Ý thức mới trong
văn nghệ và triết học"...) (2)...
Trong loại thứ hai, phê bình văn học, phần lớn là của các tác
giả Miền Nam, như Thanh Lãng, Lê Tuyên, Tam Ích, Võ Long Tê, Huy Trâm, Cao Thế
Dung, Huỳnh Phan Anh, Cao Huy Khanh, Võ Phiến, Vũ Hạnh (Cô Phương Thảo), Lữ
Phương, Thế Phong, Nguyên Sa, Nguyễn Trọng Văn, Nguyễn Văn Xung, Nguyễn Văn
Trung, Đặng Tiến, Tạ Tỵ... (3).
Điều cần nói là Trần Hoài Anh khi chỉ đi vào mảng lý luận văn
học (bao gồm các tác phẩm triết học của nhiều trường phái), anh sẽ gói gọn đề
tài hơn, tài liệu cần đọc cũng bớt bề bộn hơn. Nhưng lý luận văn học nếu thiếu
mảng phê bình văn học, sẽ thiếu sức sống và tính sinh động của nó. Mặt khác, do
anh muốn khai thác cả mảng phê bình vì theo anh, do đặc điểm chế độ chính trị -
xã hội tại Miền Nam, những người làm lý luận văn học không được tập hợp thành đội
ngũ, lý luận văn học chưa có những công trình tập thể có tính hàn lâm, chuyên
nhất như ở Miền Bắc cùng thời, mà chủ yếu chỉ là những công trình cá nhân, còn
giản lược, nhìn chung là thể hiện tính đa phức, phân tán. Chính ý muốn khai
thác cả mảng phê bình văn học Miền Nam 1954-1975, Trần Hoài Anh lại gặp phải một
khó khăn khác: Để tránh nhược điểm đọc "chay" mảng phê bình, anh phải
đọc cả những sáng tác phẩm (thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản văn học) mà
bài hoặc sách phê bình đề cập đến.
Nói gọn hơn, tuy đề tài chỉ giới hạn trong "lý luận
- phê bình văn học đô thị Miền Nam 1954-1975", nhưng mặc nhiên đã bao hàm
cả sáng tác phẩm mà phê bình văn học Miền Nam nhắm đến. Một đề tài thật hơi quá
to tát!
Mặt khác, Trần Hoài Anh cũng phải đọc những bài báo, tiểu luận,
phê bình, những cuốn sách cùng đề tài do giới lý luận - phê bình Miền Bắc cùng
thời (1954-1975) viết. Hơn thế nữa, anh còn khảo sát cả những bài viết, cuốn
sách thực hiện nhiệm vụ truy quét trong nước, truy kích ra hải ngoại sau 1975,
trước 1986 và ít năm kế tiếp (sđd., tr. 14-18). Không thể nói đề tài này không
phải là hơi quá to tát!
Đó là tài liệu cần thiết. Làm chủ, nắm vững, đi sâu vào số
tài liệu này cũng đã không dễ dàng và tiêu tốn không ít thời gian. Tối thiểu
cũng phải nghiền ngẫm những tài liệu tiêu biểu, căn bản nhất.
Trên cơ sở số tài liệu đồ sộ đó, Trần Hoài Anh đã triển khai
đề tài với 3 chương chính, sau phần dẫn nhập và trước phần kết luận: I. Diện
mạo lý luận - phê bình văn học ở đô thị Miền Nam (bối cảnh; đặc điểm; quan
hệ giữa sáng tác với lý luận - phê bình); II. Các vấn đề chủ yếu của lý luận
văn học đô thị Miền Nam (văn học và hiện thực; nhà văn - tác phẩm - người
đọc; vấn đề thể loại); III. Những khuynh hướng phê bình văn học Miền Nam (ảnh
hưởng Phương Tây, mác-xít, tôn giáo).
Tuy khó khăn là thế, Trần Hoài Anh vẫn vượt qua được, và
thành công anh gặt hái đã được cả một hội đồng khoa học thẩm định, ghi nhận. Hồ
sơ bảo vệ luận án tiến sĩ của Trần Hoài Anh được trích in ở cuối cuốn sách,
trong đó, có đến 24 nhà nghiên cứu lý luận - phê bình tên tuổi thẩm định bằng
văn bản: các GS.TSKH. Phương Lựu, Lê Ngọc Trà, các PGS.TS. Phan Trọng Thưởng,
Trần Hữu Tá, Phạm Mạnh Hùng, Nguyễn Đăng Điệp, Vũ Tuấn Anh, Trịnh Bá Đỉnh, Nguyễn
Hữu Sơn, Nguyễn Ngọc Thiện, La Khắc Hòa, Huỳnh Như Phương, Nguyễn Công Lý, Hồ
Thế Hà, Ngô Văn Giá, Lưu Khánh Thơ, Lê Huy Bắc, Nguyễn Bích Thu, Tôn Phương
Lan, Bửu Nam, các TS. Phan Quốc Lữ, Lê Thị Hường, Nguyễn Văn Kha, Nguyễn Thị
Sâm... (sđd., tr. 299-313).
Thành công của Trần Hoài Anh không có gì để bàn cãi.
Với góc độ riêng, có thể thấy Trần Hoài Anh có lẽ rất tâm đắc
với ý nghĩ anh là người đầu tiên đã khai phá ở diện tổng thể giai đoạn văn học
1954-1975 tại Miền Nam. PGS.TS. Trần Hữu Tá cũng nhận thấy như thế. Trước anh,
cũng đã có nhiều người nghiên cứu đề tài này, nhưng chủ yếu là ở mảng sáng tác,
như Phạm Văn Sĩ và nhiều nhà nghiên cứu khác (sđd., tr. 11-19). Đặc biệt hơn nữa,
như đã nói, Trần Hoài Anh khai phá với nhãn quan đổi mới, cởi mở hơn với tinh
thần "khơi trong" là chính và với ý thức hội nhập. Tuy có chỉ ra ít
nhiều hạn chế như những người đi trước anh, về sáng tác và lý luận - phê bình,
nhưng Trần Hoài Anh viết:
"Việc xác định giá trị của lý luận - phê bình văn học ở
đô thị Miền Nam trong hệ thống giá trị của lý luận - phê bình văn học dân tộc
là điều có ý nghĩa, không chỉ về mặt học thuật mà còn về mặt tư tưởng xã hội của
một đất nước thống nhất, một dân tộc thống nhất.
Mặt khác, sự hiện hữu của lý luận - phê bình văn học ở đô thị
Miền Nam là một thực thể, một thực tế lịch sử, không thể phủ nhận. Sự hiện hữu
đó làm cho di sản lý luận - phê bình văn học dân tộc phong phú hơn, giàu có
hơn, tiệm cận hơn với nền lý luận - phê bình hiện đại của thế giới mà chúng ta
đang hướng tới trong xu thế mở cửa, hội nhập với quốc tế hôm nay" (sđd.,
tr. 260).
Tuy nhiên, Trần Hoài Anh cũng thể hiện một nhược điểm là đã
chiết trung, khi liệt kê và nhận định các quan điểm khác nhau về một chủ điểm,
như ở tiểu mục "sứ mệnh nhà văn" (tr. 86-90) - ý kiến của
các nhà lý luận - phê bình và các tác giả nhà thơ, nhà văn tại Miền Nam bấy giờ.
Nhược điểm chiết trung này cũng dễ hiểu căn nguyên của nó, ấy là bởi tính chất
đa phức, chứa đựng nhiều hệ mỹ học trên cơ sở nhiều hệ triết học khác nhau, nhiều
lập trường yêu nước đối kháng nhau (đâu là yêu nước chân chính, quyết tâm bảo vệ
văn hóa dân tộc đích thực?). Nếu đi đến tận cùng với các minh chứng lịch sử, hẳn
hố sâu chia rẽ vẫn ngày càng rộng hơn.
Một điểm khác, phải nói là táo bạo và trung thực, khi Trần
Hoài Anh so sánh hai nền lý luận - phê bình Miền Nam và Miền Bắc thuở đó:
"... Đây là điểm dị biệt khá cơ bản giữa lý luận - phê
bình văn học ở đô thị Miền nam với lý luận - phê bình văn học ở Miền Bắc trong
cùng thời kỳ. Bởi lẽ, nếu lý luận - phê bình văn học ở đô thị Miền Nam là một nền
lý luận - phê bình với nhiều khuynh hướng đa phức, vận dụng nhiều quan điểm triết
học và mỹ học khác nhau làm hệ qui chiếu để đánh giá các hiện tượng văn học thì
lý luận - phê bình ở Miền Bắc là một nền lý luận - phê bình đơn thanh, thống nhất
được xây dựng trên cơ sở triết học và mỹ học Mác - Lê-nin" (sđd., tr.
72-73).
Điều Trần Hoài Anh không chỉ ra, ấy là cơ sở căn bản của hai
miền: một đằng là chủ nghĩa tự do, cá nhân, dân chủ đa nguyên thời bị tạm chiếm
và một đằng là chủ nghĩa chuyên chính, tập thể, dân chủ tập trung, ít nhiều bị
lệ thuộc. Chính trong thời kỳ chiến tranh, một mất một còn, Miền Nam không thể
tập hợp được mọi cây bút theo một khuynh hướng, trên một lập trường, và do đó bị
đánh tan (chưa kể đến nguyên nhân lịch sử về Thiên Chúa giáo từ nửa sau thế kỷ XIX đến nửa sau thế kỷ XX). Đoàn kết trong chiến tranh là nền tảng để chiến thắng.
Đó là chân lý và sự thật lịch sử. Tuy vậy, đến thời hòa bình, hậu chiến, khát vọng
tự do, dân chủ cụ thể của mỗi một công dân lại trỗi dậy ở Miền Bắc và trên phạm
vi cả nước - nguyên nhân nội tại của xã hội, đặc biệt là của giới cầm
bút nước ta (phê phán tính chất ấu trĩ "tả" khuynh, quá "tả",
minh họa, công thức, bóp chết sáng tạo, phát kiến cá nhân), dẫn đến công cuộc Đổi
mới, Cởi trói, dưới tác động của xu thế toàn cầu, một khi khối Liên Xô - Đông
Âu đã tan rã, Trung Quốc cũng đã chuyển hướng...
Một điểm khác, cho đến nay, thú thật, tôi không hiểu những
trào lưu hiện sinh chủ nghĩa, phân tâm học cùng các khuynh hướng khác thuộc chủ
nghĩa hiện đại Âu Mỹ khi tràn vào Việt Nam, có thuộc sự chỉ đạo của người Mỹ và
tầng lớp chóp bu của chế độ Miền Nam cũ hay không, mặc dù rất nhiều sách báo của
chúng ta đã viết: Đúng là như vậy! Khi đọc những trang sách báo khẳng định như
vậy, tôi cũng chưa thấy một văn bản chính thức, cụ thể nào do chính quyền chóp
bu Miền Nam ban hành công khai hay bí mật. Phải chăng đó là sự suy diễn, nói
theo thành ngữ dân gian là "suy bụng ta ra bụng người"? Nếu người
Mỹ và chính quyền chóp bu Miền Nam đã chỉ đạo cụ thể là cần du nhập vào Miền
Nam chủ nghĩa hiện sinh, phân tâm học và cả những khuynh hướng, trào lưu hiện đại
chủ nghĩa khác của Âu Mỹ về triết học, mỹ học và văn học - nghệ thuật nói
chung, thì thật khó hiểu. Bởi lẽ, chủ nghĩa hiện sinh, và những biến thể về văn
nghệ khác của phân tâm học, vân vân, như đã kể trên, không phải là các học thuyết
chiến đấu, mà phần lớn chỉ là sản phẩm của một Châu Âu tan nát, bi quan sau hai
lần Thế Chiến... Những học thuyết ấy phần nào có giá trị chăng là ở khía cạnh
nhận thức luận về con người và hiện thực tự nhiên - xã hội, nhưng với một nhãn
quan bi đát. Chủ nghĩa hiện sinh có yếu tố tích cực là dấn thân, phản kháng
chăng nữa thì cũng dấn thân, phản kháng với ý thức bi đát ấy. Nếu đó là con đường
thứ ba, thì cũng không phải là "cẩm nang", "bửu bối" cần
thiết cho chiến tranh. Thực chất, đó là học thuyết của chiến bại hay chỉ dẫn đến
chiến bại. Vì thế, thật khó hiểu, nếu không nói, việc du nhập các học thuyết ấy
chỉ là biểu hiện của sự khủng hoảng ý thức hệ của chính quyền Miền Nam và người
Mỹ, nhất là sau khi chế độ gia đình trị họ Ngô sụp đổ với chủ nghĩa cần lao -
nhân vị - Thiên Chúa giáo với chiều hướng áp đặt như một quốc giáo; là biểu hiện
của não trạng vũ khí luận (xem súng ống đạn dược là yếu tố duy nhất quyết định
thắng bại trong chiến tranh). Tôi nghĩ, có lẽ căn nguyên của việc du nhập các học
thuyết chiến bại kể trên là nhằm thay thế chủ nghĩa hữu thần đã đổ bể, và chủ yếu
là do khát vọng tự do, cá nhân chủ nghĩa, vô chính phủ của giới cầm bút. Mặt
khác, về phía người đọc, những thứ du nhập ấy có phần nào gần gũi với tâm trạng
chung của lớp thanh niên chán chường, vô vọng; và một khi đã du nhập, văn chương
hóa, nghệ thuật hóa những thứ đó theo quy luật thương mại (có cầu, có cung),
chúng càng tăng cao và sâu hiệu ứng đến mức khủng khiếp.
Thực sự chủ nghĩa hiện sinh, phân tâm học, vân vân, chỉ có
tác dụng tốt phần nào về nhận thức luận hay về kiến thức, kỹ thuật văn chương,
trong bối cảnh đất nước hòa bình, ổn định, sau khi chúng đã được khúc xạ qua bản
lĩnh vững chắc, lành mạnh, dưới ánh sáng khoa học, thấm nhuần văn hóa dân tộc.
Cả thế giới đều biết về chúng, lẽ nào ta không biết! Nhưng vấn đề là phải chọn
lọc và tiếp biến, phải thường xuyên phê phán những tác hại của chúng. Có đa
nguyên văn hóa cũng phải đa nguyên trên nền tảng dân tộc và khoa học.
Trên cơ sở nhận thức đó, ý tưởng đã dẫn nguyên văn bên trên của
Trần Hoài Anh trong công trình ít nhiều "gạn đục", chủ yếu
là "khơi trong" của anh, thật đáng trân trọng. Hàng vạn cuốn
sách, hàng trăm tờ báo, tạp chí Miền Nam trong giai đoạn 1954-1975, loại trừ đi
những gì vốn là viết thuê cho ngoại bang và những thế lực được ngoại bang hà
hơi tiếp sức, vẫn là di sản văn học dân tộc, cho dù di sản ấy có ngọc trong đá,
có đá trong ngọc hay rác rưỡi (nói theo ngôn ngữ mạng vi tính bầy giờ là
"spam").
Ánh sáng dân tộc và khoa học vẫn cần và mãi cần được soi
sáng, trước bất kỳ học thuyết ngoại lai du nhập nào, di sản văn hóa nào.
Cuốn sách của Trần Hoài Anh, luận văn tiến sĩ của anh, còn nhắc
nhở chúng ta trước những vấn đề trước mắt mà chúng ta đang phải đối mặt: chủ
nghĩa hậu hiện đại (và cả hip - hop trong âm nhạc, vũ đạo, đang rộ
lên trong vài tuần vừa qua, tuy đả phá được sự ủ rũ, rên rỉ nhưng vẫn thật quái
dị vì thiếu chọn lọc!). Và chúng ta tự hỏi, nên chăng, trọng tâm của vấn đề
là bản lĩnh dân tộc - khoa học của chúng ta, là lương tâm của
người Việt chúng ta, trong nước cũng như ở hải ngoại, kể cả những nhà văn, nhà
thơ, nhà lý luận - phê bình là đương sự, trong công trình nghiên cứu của
Trần Hoài Anh mà anh có liệt kê danh tính ở thư mục tham khảo, và có đề cập,
trích dẫn trong các trang sách của anh.
Kinh nghiệm đó (kinh nghiệm tiếp nhận các nguồn triết học, mỹ học và lý luận - phê bình cũng như sáng tác phẩm nước ngoài), dân tộc chúng ta
đã trả bằng máu, bằng nhân phẩm.
Tôi biết trong chuyến vào TP.HCM. cách đây một tuần, Trần
Hoài Anh vẫn còn đi tìm tài liệu về đề tài mà anh đã bảo vệ thành công. Trần
Hoài Anh vẫn còn đang tiếp tục công trình của mình với tất cả đam mê và ý thức
trách nhiệm. Anh sẽ đi sâu, chứ không thỏa mãn với bề rộng. Tôi tin sẽ được đọc
những bài luận, những cuốn sách khác về đề tài này, mà cuốn đầu tay (luận án tiến
sĩ) của anh chỉ là mở đầu, khái lược cần thiết.
Tấm ảnh quang cảnh núi đồi, phố thị thường thấy trên màn hình
vi tính (desktop) cho ta tầm rộng. Trần Hoài Anh đang nâng cao năng lực của đôi
mắt trí tuệ, tâm hồn để có thể ghi nhận được chiều sâu, tạo ra những tấm ảnh được
chụp bởi ống kính vi điện tử, hiển vi, x-quang, tia hồng ngoại...
Chú thích:
[*] Trần Hoài Anh, "Lý luận - phê bình văn học
đô thị Miền Nam 1954-1975", Nxb. Hội Nhà văn, 2009, 316 trang (14,5 x 20,5
cm).
(1) Báo chí ở Miền Nam ít có trường hợp ấn hành liên tục,
phần lớn là những tờ báo (gồm tuần báo), tạp chí xuất hiện một thời gian, từ một
vài năm đến mươi năm. Những tờ báo, tạp chí có chuyên trang văn nghệ hay hoàn
toàn chuyên ngành: Mai, Giữ Thơm Quê Mẹ, Tin Văn, Sáng Tạo, Văn Nghệ, Khởi
Hành, Bách Khoa, Tư Tưởng, Trình Bày, Đối Diện, Văn, Văn Học, Thời Tập...
(2) Các tác giả nước ngoài có đề cập đến trong đoạn này:
Karl Jaspers (Đức, 1883-1969), Kierkegaard (Đan Mạch, 1813-1855), Heidegger (Đức,
1889-1976), G. Marcel (Pháp, 1889-1973), J. Sartre (Pháp, 1905-1980), A. Camus
(Pháp, 1913-1960), Nietzsche (Đức, 1844-1900), Freud (Áo, 1856-1939), Adler
(Áo, 1870-1937), Jung (Thuỵ Điển, 1875-1961), Erich Fromm (Đức, 1900-1980),
Suzuki (Nhật, 1870-1966), Mounier (Pháp, 1905-1950), Krishnamurti (Ấn Độ,
1895-1886)...
(3) Xem danh mục sách báo tham khảo, một số tấm ảnh chân
dung trong giới cầm bút, thư mục thuộc đề tài, sđd., tr. 262-298.
26-9-2009
Trần Xuân An
Theo https://www.lienphathoi.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét