Chủ Nhật, 22 tháng 6, 2014

Trăng trong thơ của Lý Bạch

 TRĂNG TRONG THƠ LÝ BẠCH


Bài viết của Nguyễn Hồng Duyên
             
     Văn thơ từ cổ chí kim, ánh trăng luôn là nguồn cảm hứng vô tận. Tuy nhiên trong số những nhà thơ viết về trăng hay nhất phải kể đến Lý Bạch, một thi sĩ lãng mạn đời Đường. Nhắc về ông, viết về ông, các nhà phê bình văn học không thể quên được hình ảnh vầng trăng, bởi lẽ nó đã trở thành một biểu tượng, một mảnh sáng nhất trong tâm hồn nhà thơ.                                                       
      Với Lý Bạch, trăng luôn xuất hiện ở mọi chỗ, trong mọi hoàn cảnh, khi mờ, khi tỏ, khi khuyết, khi tròn, có khi hùng tráng, hiện ngang trên bầu trời nơi quan ải, như người chiến sĩ canh gác quê hương:
    “Vầng trăng ra núi thiên san                                                
     Mênh mông nước bề mây ngàn sáng soi
     Gió đâu muôn dặm chạy dài
     Ruỗi đưa trăng sáng ra ngoài Ngọc Môn.”
                                                                           (Quan Sơn Nguyệt)
Cũng có lúc nó lại đa cảm như một thi sĩ cô đơn:
 “Trăng sáng như lụa buồn rầu không ngủ”
                                      ( Trường tương tư)
Đối với Lý Bạch trong mọi trường hợp hình ảnh ánh trăng luôn mang vẻ đẹp bình dị như người bạn thân thiết, kẻ đồng hành trên từng bước đường phiêu bạt nay đây mai đó của ông. Vầng trăng hiểu mọi tâm tình nhà thơ, gần gũi cảm thông và chia sẻ cùng ông những nỗi u uất những tâm sự thầm kín. Nó phản ánh tâm hồn phong phú, lãng mạn, sâu đậm tình người của ông. Đó là sự thanh cao, lối sống trong sạch, tấm lòng yêu quý thiên nhiên. Đó là nỗi nhớ quê hương da diết khi nhà thơ phải xa cách bởi chiến tranh loạn lạc. Đó là sự chán ghét cuộc sống hiện tại đây rẫy bất công thôi thúc ông tìm về dĩ vãng, hoài cổ… Có đêm ông đi trên con thuyền rời xa Thanh Khê để tới Nam Giáp, ánh trăng bùi ngùi đưa tiễn trong dòng nước Bình Khương:
                 “Nga mi trăng núi nửa vành thâu
         Ánh rọi Bình Khương nước cuốn lâu”
                          ( Nga Mi Sơn Nguyệt ca)
Lần khác trăng lại rủ Lý Bạch đi du ngoạn núi Thiên Mụ, một trong những thắng cảnh đẹp của Trung Quốc:“Một đêm bay qua ánh trăng trên Hồ Gương
                       Trăng soi bóng ta
                       Đưa ta đến tận Diễm Khê”
                      (Mộng du Thiên Mụ ngâm lưu biệt)
Nỗi tri kỉ của Lý Bạch với vầng trăng ngày càng được gắn bó trong những đêm ông làm thơ và uống rượu. Men rượu, nỗi cô đơn và ánh trăng huyền ảo, tất cả quyện vào nhau thành những nhớ, những quên, những thực, những hư, những say, những tỉnh, lắng đọng mãi vào sâu thẳm của tâm hồn. Và chính ông cũng vượt cao lên trên mọi thói thường, trên mọi ràng buộc, trên mọi định kiến, vượt cao lên khỏi chính mình:
                               “ Có rượu không có bạn
                                   Một mình chuốc dưới hoa
                                   Cất chén lời trăng sáng
                                   Mình với bóng là ba
                                   ... Ta hát trăng bồi hồi
                                   Ta múa bóng rối loạn”
                                                              ( Nguyệt hạ độc chước)
Những khi ánh mặt trời đi khuất sau rặng núi cũng là lúc Lý Bạch đã ngóng đợi người bạn mình, ngóng đợi vầng trăng như một đứa trẻ hồn nhiên, kiên nhẫn và có chút ngây thơ:
                                   “Cất tiếng ca vang chờ trăng sáng
                                     Ca hết khúc quên cả nỗi lòng mình”
                (Xuân nhật túy khởi ngôn chí)
Đôi lúc nhà thơ còn tỏ ra cao hứng hơn nữa:
                                     “Muốn lên trời xanh nằm cùng trăng sáng.”
   (Tuyên châu tạ diễu lâu tiễn biệt hiệu thư thúc vân)   
Vầng trăng thực sự đã trở thành nguồn cảm tác, trở thành linh hồn thơ của Lý Bạch. Ánh trăng luôn đứng ở phía trên nhà thơ, nó tượng trưng cho tất cả những gì tốt đẹp nhất ở con người, những gì con người cần phải vươn tới. Nó còn là khát vọng và mơ ước cao đẹp của nhà thơ. Điều đó đã trả lời cho câu hỏi tại sao trong thơ Lý Bạch dù bất cứ hoàn cảnh nào vầng trăng vẫn luôn sáng ngời rực rỡ chứ không tàn lụi trên mặt sóng, sau rặng đồi hay giữa rừng sâu thẳm:
                                “Nay chỉ Tây Giang vùng nguyệt tỏ”
                              (Tô dài lảm cổ)
Hay:
                               “Muốn mảnh trăng chiếu sáng Trường an”
                              (Tử dạ ngô ca)
Nó giải thích vì sao vầng trăng trong thơ Lý Bạch không buồn thảm tê tái tuyệt vọng như những nhà thơ lãng mạn khác .
    Giữa bối cảnh lịch sử hết sức phức tạp xã hội phong kiến suy tàn và thối nát vua thì ăn chơi xa xỉ, quan thì tham nhũng tàn bạo, ánh trăng rọi đường đưa Lý Bạch trở về với cuộc đời thanh đạm, với tình yêu thiên nhiên và lẽ sống cao thượng. Có người cho rằng đó là sự trốn tránh trách nhiệm của nhà thơ, trốn tránh bụi trần, nhưng cũng có người lại khẳng định rằng ông là người dũng cảm đã vượt qua mọi xấu xa ti tiện để đến với cái đẹp hoàn mĩ nhất, cái đẹp của muôn đời.
Dù cuộc đời có đen bạc xấu xa, dù vạn vật rồi sẽ đổi thay nhưng bản chất của cuộc đời ấy vẫn còn lại như một vầng trăng đáng yêu và đáng sống. Vầng trăng lãng mạn ấy sẽ giúp cho con người vượt qua tất cả để có một ngày mai tốt đẹp hơn, hoàn thiện hơn.Vì lẽ đó, với vầng trăng của mình, Lý Bạch đã không lẩn tránh và mãi mãi gắn bó với cuộc đời bằng nhịp xúc động kỳ diệu và nhân ái:
                                   “Trăng vẫn đi theo người
                                      Sáng như mảng gương bay rọi cửa son''
                                                                       (Bả Tửu vãn nguyệt)
Những đêm mây mù u ám phủ kín bầu trời, nhớ về trăng như một người thân yêu nhất, Lý Bạch khẳng định:
                                    “Tình chơi vu vơ, thắt chặt mãi mãi
                                      Hẹn hò nhau trên cao vút sông Ngân”
                                 (Nguyệt hạ độc chước)
Cái đỉnh cao vút của sông Ngân mà ông hò hẹn lại chính là cuộc đời, cuộc đời đích thực mà con người cần phải có, sẽ có và đấu tranh để có được.                                                                        
 Tâm tình của Lý Bạch với ánh trăng vẫn được ngàn đời truyền tụng, ca ngợi những sự gặp gỡ của một tâm hồn lãng mạn, nghệ sĩ và cũng con người nhất với một sản phẩm kì diệu, hoàn mĩ nhất của tạo hóa. Qua vầng trăng mà Lý Bạch đã trở thành nhà thơ Lý Bạch bất hủ. Qua thơ của Lý Bạch mà vầng trăng vô tri vô giác bỗng rung lên bao nhiêu cảm xúc, bỗng trở nên sinh động và chất chứa bao nhiêu nguồn cảm hứng sâu xa nhất về con người và cuộc đời, vầng trăng lãnh đạm trở thành vầng trăng con người, vầng trăng nhân văn.
     Vì lẽ đó khi đọc bài thơ Lý Bạch Trịnh Cốc, một thi sĩ thời Vãn Đường đã phải thốt lên:
                “Ba nghìn say đọc nên bài
                 Nghìn thu bạn với trăng trời sáng soi”
Lý Bạch chính là một vầng trăng – Vầng trăng rực rỡ và trong sáng nghìn thu trên bầu trời thi ca Trung Quốc và thế giới.
                                                                                                                                                  NGUYỄN HỒNG DUYẾN




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Một buổi tối ám ảnh ở Boston

Một buổi tối ám ảnh ở Boston Một trong những bài thơ nổi tiếng của ông là bài Chơi bóng rổ với Việt cộng. Bài thơ này viết tặng nhà văn Ng...