Tiếng hú trên đỉnh cô
phong
ký xuất vô thủ chi!
Không Lộ là một vị
thiền sư thời Lý, ông họ Dương, quê ở Hải Thanh, chùa Nghiêm Quang - nay là
chùa Keo, thuộc xã Vũ Nghĩa, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình; dòng dõi nhiều đời
làm nghề chài lưới, sau bỏ nghiệp sông nước, xuất gia tu Phật, thường trì tụng
Đà-la-ni.
Tương truyền, Không
Lộ, Giác Hải và Đạo Hạnh là bạn đồng tu; họ thường vân du đây đó, dùng pháp
thuật lạ lùng, kêu gió, gọi mưa, dùng nước phép chữa bệnh, tùy duyên hóa độ
chúng sanh. Tài năng và đức độ của họ đều được vua phong tặng chức vụ Quốc Sư,
tuy nhiên, cả ba đều không màng danh lợi, chuộng nếp sống quê mùa, thanh bần
giản dị làm vui (an bần lạc đạo)! Về già, Không Lộ về quê lập
chùa, thâu nhận đệ tử và giáo hóa chúng đồ.
Ngoài hành trạng nổi
bật như thế, Không Lộ còn để lại hai bài thơ nổi tiếng, tứ lời giản dị, văn
phong thanh cao, thiền ý thâm sâu rất có giá trị văn học và thiền học.
Bài thơ thứ nhất,
“- Vạn lý thanh
giang, vạn lý thiên
Nhất thôn tang giá
nhất thôn yên
Ngư ông thùy trước vô
nhân hoán
Quá ngọ tình lai
tuyết mãn thuyền!”
Tạm dịch:
“- Trời nước xanh
xanh, muôn dặm liền
Làng dâu lạnh giá,
khói đông miên
Ông chài say ngủ,
không ai gọi
Trưa trợt, mây quang,
tuyết ngập thuyền!”
Bài thơ Ngư
nhàn này, ai cũng bảo đây là một điển hình thi pháp của nghệ thuật
thiền tông. Nó không nói bằng những thuật ngữ Phật học dành cho lý trí suy
nghiệm, không nói bằng tư duy khái niệm mệt mề khô rỗng - mà nói bằng tư duy
hình tượng - những hình ảnh khói sương, những nét chấm phá trời, nước, mây thủy
mặc. Đây là ngôn ngữ của những cảm xúc giác quan: Muôn dặm sông xanh
tiếp muôn dặm trời xanh, thôn làng lạnh giá chìm trong làn khói nửa thực, nửa
hư. Giữa trời nước mênh mông ấy, ông chài ngủ say tít trên chiếc thuyền câu,
không ai lay gọi được. Trời đã quá trưa, quang tạnh, tuyết rơi ngập thuyền... Người
và vật dường như cùng hòa với nhau làm một? Cái ta bé mọn, nhỏ nhoi với những
lo âu, phiền muộn của cuộc đời chợt như mất tích, mù tăm giữa vũ trụ bao la?
Trời đất người đều tịnh định, hòa đồng, nhất thể? Hay là tác giả muốn khơi mở
thế giới vong ngã, vong pháp - chỉ còn sự sống vô biên thầm lặng dịch hóa đến
muôn cùng?
Tuy nhiên, bài thơ
này, ta còn nghe hơi hướm nhàn của Lão Trang, ta còn đọc ra tư
tưởng trời đất người hòa nhập - tam tài thiên địa nhân - của
Nho triết, tương tự bóng dáng đại ngã nhất nguyên của
bà-la-môn giáo!
Và bài thơ thứ hai
sau đây - Ngôn hoài - mới chính là trọng tâm khảo sát của
chúng ta:
“- Trạch đắc long xà
địa khả cư
Dã tình chung nhật
lạc vô dư
Hữu thời trực thướng
cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất
thanh hàn thái hư”
Tạm dịch:
“- Tìm đất ẩn mình,
chọn được nơi
Tình quê dân dã suốt
ngày vui
Có khi chót vót đầu
non quạnh
Hoặc:
“- Giấu mình, chọn
đất dễ ưa
Niềm quê lạc đạo sớm
trưa chẳng rời
Có khi chót vót non
vời
Cất dài tiếng hú, đất
trời lạnh băng!”
Về mặt văn bản học,
các nhà nghiên cứu cho rằng, bài thơ này, Không Lộ đã lấy ý từ bài thơ của Thứ
sử Lý Cao [1] làm tặng Dược Sơn - Duy Nghiễm, nhân đêm kia, thiền sư
kinh hành trên núi cao, chợt thấy mây vẹt, trăng tỏ - bèn cất tiếng cười dài
vang xa đến 90 dặm Đông Phong Dương:
“- Tuyển đắc u cư
hiệp dã tình
Chung niên vô tống
diệc vô nghinh
Hữu thời trực thướng
cô phong đỉnh
Nguyệt hạ, phi vân
tiếu nhất thanh!”
Tạm dịch:
“- Được nơi thanh
vắng thú quê
Quanh năm đưa đón
chưa hề biết hay!
Chợt khi lên thẳng
non tây
Mây tan, trăng tỏ -
vỗ tay cười dài!”
Nếu so sánh hai văn
bản - thì đúng là Không Lộ của chúng ta đã tá văn, nếu như không
muốn nói là đạo văn của Thứ sử Lý Cao! Bài thơ thất ngôn tứ
tuyệt có 28 chữ mà Không Lộ đã vay của Lý Cao hết 14 chữ: đắc, cư, dã
tình, chung, hữu thời trực thướng cô phong đỉnh, nhất thanh! Do vậy,
có nhà nghiên cứu đã loại bài thơ này ra khỏi các tuyển tập văn học sử. Họ có
lý. Tuy nhiên, ta hãy cùng nhau khảo sát, xem thử có phát kiến gì mới mẻ để “khả
dĩ biện hộ” cho thiền sư Không Lộ hay chăng?
Trong văn học, thiền
học Việt Nam kể từ thời Lý, các vị thiền sư thường hay mượn lời, mượn ý của các
thiền đức, cao tăng đời trước để dạy môn sinh. Ví như vua Trần Thái Tông có nói
rằng: “Mỗi lần nêu lên là mỗi lần mới”. Tức là lặp lại mà vẫn
sinh động, hiện tiền; vẫn là ánh nắng tinh khôi, vẫn là giọt sương trong vắt
sáng nay trên đầu cây ngọn cỏ! Ánh nắng, giọt sương có bao giờ cũ? Đất trời
cũng bắt chước, cũng lập lại như vậy ru? Có lẽ vị vua khai tổ triều Trần, có
một đời sống giới định tuệ nghiêm túc - thật sự thấy như vậy chăng? Trước đó
nữa, Lý Giác và Pháp Thuận cùng vui cảnh, vui tình, xướng họa bài thơ Nga
nga – hóa ra chỉ sửa mấy chữ bài thơ của Lạc Tân Vương làm lúc 10
tuổi! Gần hơn, Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, truyện Kiều của Nguyễn Du -
đều không mượn của người ta cả hay sao? Đây chính là loại hình văn học phổ biến
ở trong các nước đồng văn, được gọi là hiện tượng tập cổ quen
thuộc của các tác gia đông phương. Chúng đâu chỉ đơn thuần là giao lưu văn hóa.
Các thiền sư nhờ học vấn thâm uyên – nên chỉ cần mượn một nhóm từ, một cụm từ
hoặc luyến láy, chuyển đảo một vài tứ của cổ thi, thiền ngữ, thiền thoại, niệm,
tụng gì đó – là có thể mở ra cả một trời liên tưởng về ngữ nghĩa hoặc hình
tượng văn học, thiền học. Những cảm xúc nghệ thuật, do vậy, chúng có thể tương
thuộc, tương đồng, đào sâu thêm, nới rộng ra, làm cho chúng mới mẻ hơn mà thôi
vậy.
Trở lại với bài thơ Ngôn
hoài.
- Trạch đắc long xà
địa khả cư...
(Giấu mình, chọn đất
dễ ưa...)
Câu thơ đầu, trước
đây có một số nhà nghiên cứu bảo là vị thiền sư này lựa tìm được một chỗ đất
hợp với phong thuỷ - do cụm từ long xà địa! Như Đặng Thai Mai
hiểu về“Kiểu đất long xà” rồi bình giảng như sau: “Nhà thơ
vui mừng nhìn địa hình địa vật qua những dặng (sic) đồi hình rồng hình rắn uốn
quanh ngôi nhà của mình. Đó là lối nhìn của các thầy địa lý”. [2] Và các vị trách nhiệm
biên soạn Thơ văn Lý, Trần cũng chú giải tương tợ: Long xà địa: Theo
cách nhìn của của các nhà phong thủy hay đi xem kiểu đất thì nơi nào có hình
thế của rồng rắn là nơi đất đẹp, có thể ở được”. [3] Nhà nghiên cứu An Chi
có nói về sự hiểu sai đáng tiếc này: Tiếc rằng, thuật phong thủy và các
thầy địa lý lại không bao giờ nói đến “những rặng núi hình rồng, hình rắn” hoặc
“kiểu đất có hình thể của rồng, rắn”, chỉ đơn giản vì “long xà địa” là một lối
nói không hề tồn tại trong thuật phong thủy. Rồi ông còn chịu khó lục
tìm trong sách “Bí ẩn của phong thủy”, trong đó nêu ra 21 khái
niệm thường dùng và 92 thuật ngữ cơ bản của thuật phong thủy nhưng chẳng có
khái niệm hoặc thuật ngữ nào là “long xà địa”.[4] Cuối cùng, An Chi
nói,“Long xà địa” là đất ẩn dật, bắt nguồn từ một lời “Hệ
từ” trong Kinh dịch: “Long xà chi trập, dĩ tồn thân dã”, nghĩa
là “rồng rắn mà ẩn nấp là để giữ mình vậy”.
Thế thì câu đầu trong
bài thơ, chỉ đơn giản là Không Lộ muốn ẩn thân để giữ mìnhnên đã lựa
tìm một chỗ đất có thể ở được, vậy thôi!
Còn nếu nói về phong
thủy thật thì ta cũng phải nắm cho rõ nguyên lý của phong thủy và giá trị giới
hạn của nó.
Phong thủy là các
lực, các từ, các khí của ngoại giới thiên nhiên, chúng tương quan, tương tác
với nhau mà ảnh hưởng, liên hệ đến con người là tiểu vũ trụ. Nói cách khác,
phong thủy là các định luật tự nhiên của trời đất tác động đến sông núi, mùa
tiết, muôn sinh và thảo mộc. Ở đây, nói đến phong thủy tác động đến nơi ở của
con người: Ai thuận thiên (thuận với các định luật vũ trụ) thì còn, ai
nghịch thiên thì mất! (thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong). Đối
với khoa thiên văn, địa lý thì phong thủy quan trọng như vậy đấy. Nhưng đối với
nhà Phật, nhà Thiền - chúng chỉ là ngoại duyên (thuận duyên, trợ duyên
hoặc ngại duyên, chướng duyên) mà thôi. Duyên cũng có hai là nội duyên
và ngoại duyên (theo Abhidhamma - trong và ngoài tương tác có cả thảy
24 duyên). Duyên bên ngoài không quan trọng bằng duyên bên trong. Ngay
cái duyên bên trong này cũng không quan trọng bằng nhân bên trong. Nói khái
lược như vậy để biết rằng, người tu Phật, tu Thiền dẫu xem ngoại duyên là có
thật – nhưng họ vẫn xem trọng nội nhân, nội duyên hơn. Bởi vì chính nội nhân,
nội duyên này mới là cái gốc, cái bản căn, chúng duyên hệ với ngoại duyên mới
sinh ra hữu vi, vô vi, khổ lạc, tham sân, si tuệ, trí bi, mê ngộ, sinh tử,
Niết-bàn... Biết phong thủy, có thể mượn phong thủy – nhưng chưa bao giờ con
cái nhà Phật xem phong thủy là yếu tố tích cực có thể quyết định số mạng, vận
mạng con người (Định mệnh thuyết của Khổng Nho - cái tơ cái tóc cũng do
trời định; tuy nhiên, nếu hiểu thiên - thiên lý, thiên mệnh - là những luật tắc
của vũ trụ thì nó lại khác).Là một vị thiền sư uyên thâm, thông tuệ, chẳng
lẽ nào những buồn vui, khổ lạc, trược thanh, mê ngộ của chính mình – Không Lộ
lại nương nhờ vào cuộc đất do phong thủy(ngoại duyên) quyết định?
Hóa ra, với những hiểu biết “gán ghép tùy tiện, suy diễn vô căn cứ” (An
Chi nói) - như trong Thơ văn Lý, Trần là có tội với cổ nhân.
Câu thơ thứ hai,
- Dã tình chung nhật
lạc vô dư...
( Niềm quê lạc đạo
sớm trưa chẳng rời...)
Người ta cũng đã bàn
luận khá nhiều về hai chữ dã tình. Ai cũng biết dã tình là
tình quê. Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy [5] có nói, các bản dịch đều dịch là tình quê, dạ
quê là không thích hợp. Đại lược, theo anh, chữ “dã tình” phải
liên hệ với liên văn bản từ bài thơ của Thứ sử Lý Cao, đó là hai chữ “u
cư” mới đúng: Trạch đắc u cư hiệp dã tình.Theo với sự liên
tưởng ấy, dã tình phải là nơi u cư, nhưng u cư này không phải
là nơi ở ẩn của những Nho gia bất đắc chí. Tôi đồng ý với anh Thúy - cả Nguyễn
Khắc Phi - khi đã lựa chọn nghĩa u cư là tính ưa ẩn
dật nhàn tản, cọng thêm với tính chất phóng khoángtheo cả
hai nghĩa của Từ nguyên. Phát kiến ấy thật là tuyệt, đã giải mã được ngữ nghĩa
mới lạ để mở mắt cho những học giả dốt mà ưa nói chữ. Đồng thời, mở hé được
cánh cửa tâm linh, để cho những bậc trí thức chủ quan, phiến diện bình giảng
rằng là, kết hợp giữa niềm vui về hạnh phúc trần thế...; rằng là tình
yêu quê hương đất nước, đặc biệt với đất nước nông nghiệp thường được bắt đầu
từ nguồn vui” thú quê” chung đó!? [6] Cũng đồng một suy
diễn áp đặt, Nguyễn Đình Chú phán rằng, “ ý thơ là một nỗi vui trần thế
suốt ngày không dứt, không thấy gì là dấu vết tâm lý ẩn dật”.[7] Ở đây, tại văn cảnh
này, ngữ cảnh này, tôi muốn tiếp với anh Thúy để nói thêm rằng, tính ưa ẩn dật
nhàn tản, phóng khoáng kia cũng vẫn là của Khổng, của Lão chứ chưa phải là của
Phật, của Thiền! Muốn nắm hết tâm yếu thiền - thiền Đông độ, thiền Zen hoặc cả
thiền Vipassanā nguyên thủy - thì ẩn dật, nhàn tản, phóng khoáng đều chưa phải
là thiền duyệt, niềm vui thầm lặng nội tâm (lạc về thiền, lạc về quả) của
thiền gia! Ẩn dật là còn ngại trú xứ, ngại hồng trần! Nhàn
tản là còn ngại công việc, ngại bận rộn. Phóng khoáng là
còn ngại buộc ràng, ngại luật nghi !
Các vị thiền sư là
những bậc đạt ngộ, do kinh nghiệm tâm linh tu chứng, họ thường vô ngại trước
mọi chướng duyên. Ví dụ, có vị vô ngại trước vô thường biến đổi của cuộc đời: “Nhậm
vận thịnh suy vô bố úy” (Gẫm chuyện thịnh suy không sợ hãi - Vạn Hạnh).Có
vị, càng chướng ngại chừng nào thì tâm tuệ càng sáng trong, càng cao đẹp chừng
ấy:“Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận, liên phát lô trung thấp vị can”(
Trên non ngọc đốt màu thêm nhuận, sen nở trong lò sắc chẳng phai - Ngộ Ấn). Có
vị không cần hỏi gì cả, chỉ tin vào nắm tay quyền biến phương tiện của mình: “
Đại dụng hiện tiền quyền tại thủ, thùy tri phàm thánh dữ tây đông” (Trước mắt,
nắm tay dùng việc lớn, biết chi phàm thánh với tây đông - Khánh Hỷ). Những
tư tưởng lớn, tâm tuệ lớn như thế ấy, trong thiền học Việt Nam, kể không hết
đâu. Tuy nhiên, có lẽ, câu nói sau đây của một vị thiền sư đương đại, nó gần
với văn mạch luận chứng của chúng ta: “Tự do là ung dung trong ràng
buộc, hạnh phúc là tự tại giữa khổ đau” (Viên Minh).
Vậy, Không Lộ là một
vị thiền sư có định, có thần thông, có tuệ - không lý nào lại còn ngại lắm
chuyện tầm thường như thế. Có lẽ, do người ta chưa giải mã đươc câu thơ thứ hai
này, nó nằm nơi chỗ “dã tình” và “lạc vô dư”. Nó
là hai nghĩa đối sánh trong câu, bổ túc cho nhau để làm nên một tâm tuệ vẹn
toàn. Dã tình là tình quê mùa thảo dã,tình thế gian; lạc
vô dư là niềm vui vượt ngoài trần tục, niềm vui siêu thế. Vô
dư – cái từ huyền mật, bí hiểm - mà từ xưa đến nay chưa ai diễn nghĩa
đúng nên cứ rơi vào những niềm vui dung tục, tầm thường. Vô dư là
thuật ngữ của Phật học - Vô dư Niết-bàn - có nghĩa là không
còn dư sót bất kỳ một lậu hoặc phiền não nào dù thô hay tế - chỉ cái tâm, cái
tuệ của bậc giải thoát! Lạc vô dư - chữ lạc này
cũng không phải là khổ-lạc tương quan đối đãi nhau - mà phải
là cái lạc siêu thế, ly thoát khổ-lạc (dukkha) tại thế. Nó tại
thế gian mà vẫn xuất thế gian – đúng như câu kinh: Phật pháp tại thế
gian, bất ly thế gian giác, ly thế mịch bồ đề, cáp như tầm thố giác. Tạm
diễn nghĩa: Phật pháp ở thế gian, không thể rời thế gian để tầm cầu
giác ngộ; ra khỏi thế gian mà tìm kiếm bồ-đề - thì chẳng khác gì đi tìm sừng
thỏ! Người học Phật có căn bản giáo pháp ai cũng hiểu điều tôi vừa
nói.
Có nắm bắt được ngữ
nghĩa tinh mật ấy, chúng ta mới với tới được câu thơ thứ ba, vì nó chính là sức
bật của lạc vô dư ở câu hai:
- Hữu thời trực
thướng cô phong đỉnh...
(Có khi chót vót non
vời...)
Hữu thời - có thời -
nhưng thời nào? Chính là thời của lạc vô dư, nó không còn hạn
cuộc vào thời gian tại thế sinh diệt nữa. Chính ở đây mới hiển lộ được nghĩa
của động từ trực thướng: Lên thẳng ngay, lên thẳng ngay tức khắc. Dưới
núi trên núi là một. Bờ này bờ kia là tức khắc ở đây và bây giờ. Nó không còn
lệ thuộc thời gian vật lý hay thời gian tâm lý phạm trù. Đây chính là sát-na kỳ
ngộ chói lòa vĩnh cửu, mà người ta hay nói văn chương bóng bẩy rằng là cố quận,
rằng là thiên thu... gì gì đó cũng được ráo trọi. Chính sự bừng nở ấy, trực
thướng ấy, giây khắc ấy mới hội ngộ được với đỉnh cô liêu, đỉnh cô phong, đỉnh
tuệ giác bất động tịch mịch của chính mình. Đúng như câu thơ của một thiền si
thi sĩ lãng đãng nào đó: “Bây giờ ta lại gặp ta; thiên thu, cố quận
thiệt là hoát nhiên”
Cảm hứng trầm hùng
của tâm linh siêu thoát, do nhân và duyên ở ba câu đầu, nên có lẽ, câu thứ tư,
nó đọng lại, nó nén chặt lại - dồn tụ nội lực mà bùng vỡ ra:
- Trường khiếu nhất
thanh hàn thái hư!
(Cất dài tiếng hú đất
trời lạnh băng!)
Trường khiếu nhất
thanh - một tiếng cười dài, một tiếng hét dài, một tiếng hú dài -
mọi người thường dịch như thế. Và có lẽ họ dịch đúng, vì chính ở tại đỉnh cô
phong ấy, tiếng cười của sự giác ngộ, của siêu thoát ấy mới làm lạnh cả hư
không mênh mông, rộng lớn, dao động cả vũ trụ càn khôn! Tuy nhiên, khi viết đến
ngang đây, một trực giác tâm linh xẹt đến, tôi bèn đi lục tra tất cả các từ, tự
điển hiện có trong tay – thì chữ khiếu, ngoài nghĩa kêu lên, hô lên, la hét
lên, lỗ hổng (như cửu khiếu), còn có nghĩa là năng lực hiểu
biết, năng lực hiểu biết từ chỗ nào đó nó thoát ra. Tự dưng, tôi nổi cả da gà,
lẽ nào nó vi diệu đến thế, bất khả tư nghị đến thế! Tôi rất dè dặt, thận trọng
- cả chủ quan nữa - mà nói rằng, tại sao một vài ngữ nghĩa nằm ẩn trong một bài
thơ đã ngàn năm qua, lại chưa ai phát hiện?
Tôi bần thần dã dượi.
Kinh khiếp quá. Bài thơ Ngôn hoài vậy là khó có thể dịch bằng
hiển ngữ rạch ròi. Cảm nhận thầm lặng. Cảm nhận và không thốt nên lời. Vì rằng
đây là tiếng hú, tiếng cười trên đỉnh cô phong, đỉnh cô liêu của tuệ giác!
Tiếng hú, tiếng cười ở biên cõi này vốn không có người hú, người cười! Chỉ có
năng lực của sự giác ngộ tự nó bùng vỡ thành băng giá làm đông lạnh cả thiên
nhiên ngoại vật.
“- Giấu mình, chọn
đất dễ ưa,
Niềm quê lạc đạo sớm
trưa chẳng rời
Có khi chót vót non
vời
Bây giờ, sau khi đi
qua những tầng lớp ngữ nghĩa của bài thơ Ngôn hoài – ta mới thấy rõ, bài thơ
của Thứ sử Lý Cao, do ngại chuyện đưa đón tầm thường (vô tống diệc vô
nghinh) nên tìm được chỗ ẩn cư (trạch đắc u cư) có
tình quê, có thú quê (dã tình); rồi có khi lên đỉnh núi cao (cô
phong đỉnh), thấy mây vẹt, trăng tỏ (nguyệt hạ, phi vân) bèn
cất lên một tiếng cười (tiếu nhất thanh)! Hai câu đầu có cốt cách
xử sĩ thanh cao của Nho hay Lão. Tuy nhiên, câu hai không có
đủ nội lực để đẩy lên câu ba như bài Ngôn hoài.Nên
cô phong đỉnh ở đây không phải là không gian tâm linh của tuệ giác. Điều ấy
càng rõ nghĩa hơn ở câu tư: Mây vẹt, trăng tỏ (vô minh tan, minh hiện), sau
đó mới là tiếng cười của sự giác ngộ! Cấu trúc bài thơ này lỏng lẻo ngữ nghĩa,
không chặt chẽ nhân quả bằng bài Ngôn hoài - có thể sử dụng
kiến thức vỏ não cũng làm được! Nguyễn Đình Chú có vẻ chê tiếng cười của Dược
Sơn-Duy Nghiễm: “Tiếng cười dài dưới trăng mây kia, tuy có hấp dẫn,
nhưng dù sao chỉ là tiếng cười cao đạo của một con người đã không thích gì mấy
sự hòa nhập trần gian...!” [8]
Vậy thì xin các nhà
nghiên cứu văn học, văn học sử hãy trả lại nguyên vị giá trị tót vời của bài
thơ Ngôn hoài – nó xứng đáng đại biểu cho văn học, thiền học không chỉ ở thời
Lý mà cả cho cả mọi thời! Nghi ngờ tá văn, đạo văn là có tội. Lại càng có tội
hơn khi giảng dạy văn học mà phân tích, bình luận áp đặt, chủ quan, không tới,
đôi chỗ chứng tỏ kiến thức nông cạn của người viết:
- Có một vị giáo sư
đã bình giảng rất đáng phàn nàn như sau: “Sự kết hợp giữa niềm vui về
hạnh phúc trần thế với khát vọng hòa nhập với vũ trụ bao la. Thứ nhất, là tình
yêu quê hương đất nước, đặc biệt với đất nước nông nghiệp thường được bắt đầu
từ nguồn vui “thú quê” chung đó. Thứ hai, là khát vọng vươn tới trời đất vũ trụ
bao la như một nhu cầu nhân văn cao đẹp. Nhà sư đang vui nỗi vui trần thế, bỗng
nhiên lên đỉnh núi cao trơ trọi, kêu vang một tiếng làm lạnh cả bầu trời. Ở đây
đã trèo lên là trèo lên thẳng một mạch, không chút rụt rè. Đã lên cao là lên
cao không lưng chừng. Và một tiếng kêu vang đủ làm cho cả vũ trụ bao la kia
kinh ngạc đến rùng mình ớn lạnh.”[9]
- Khá hơn một chút,
Trần Đình Sử - có vẻ như đã nói gần gần đúng, rằng là: “... Nêu ý nghĩa
biểu trưng của bài thơ “Lên thẳng” là hình ảnh của đốn ngộ, xảy ra trong chốc
lát, như ánh chớp. “Đỉnh núi cao trơ trọi” đây thuần túy là ẩn dụ chỉ thế giới
không vô. “Thái hư” là thế giới của nhà Phật mà chỉ kẻ đắc đạo mới có thể đạt
đến. Và “cất tiếng kêu dài làm lạnh cõi thái hư ấy là dấu hiệu hòa nhập giữa ta
và thế giới, thế giới và ta.”[10] Cái gọi là không
vô ấy, xin thưa rằng, không phải đơn giản, dễ hiểu đâu (Có rất
nhiều cái không: Ngoan không, hư vô, không đối đãi với có, không của ý niệm,
không của tâm, không của cảnh, không của vô, không của không, không trụ xứ,
không vô biên, thức không, không có gì cả, không của phi tưởng; mười mấy cái
không ấy đều không phải là không tánh (Suñnatā)- vì duyên khởi, vì vô ngã nên
không - của Nikāya hoặc của Kim cương Bát-nhã - thấy được cái không này mới có
tuệ giác); và còn cái thái hư kia – hư không rộng lớn
– thì nhà Phật đắc nó mà làm gì! Còn sự hòa nhập giữa ta và thế giới cũng có
phải là của Phật đâu! Một chỗ khác thì Trần Đình Sử lại bình giảng khá lạ lùng: “...
Thú quê là thú quê thật, leo núi là leo núi thật, cả bài như một bức tranh tả
thực và tư thế hiên ngang chinh phục vũ trụ được hiểu khá rõ...” [11] Hèn
gì, mà trong Thơ văn Lý, Trần, người ta đã dịch chữ trực thướng là leo
lên, trèo lên, xông lên, xông thẳng lên.. “Có khi xông thẳng lên đầu núi” như
đi đánh giặc!? Oan uổng quá! Biết bao nhiêu thế hệ học sinh đã không thể hiểu
được sức mạnh tâm linh của cha ông nội hàm trong dòng văn hóa dân tộc – là do
các bậc thầy giáo, các ông Nghè, ông Cống, các nhà nghiên cứu văn học – đã
không tự trang bị đủ cho mình những kiến thức cần thiết.
- Có người nói từa
tựa như đúng lắm, kêu lắm, cao siêu lắm, nhưng chỉ chứng tỏ kiến thức khuyết
lõm của mình: “... Để hòa đồng và vui suốt ngày với thiên nhiên là hình
ảnh con người mang khát vọng hòa nhập và chế ngự thiên nhiên... Là một tiếng
kêu sảng khoái của một tâm hồn khoáng đạt với tư tưởng phá chấp triệt để và
tinh thần thoải mái tột cùng, chứ không thể là của một người suốt ngày gõ mõ
tụng kinh, câu nệ và tín điều một cách cứng nhắc khô khan. Tiếng kêu đó chính
là sự trực cảm tâm linh, là trạng thái chứng ngộ của thiền sư. Cũng nhờ trực
ngộ mà con người hòa nhập vào đại ngã vũ trụ.[12] . Lời bình giảng
ấy thật là khó chịu, muốn nhẫn cũng không nhẫn được.
Tưởng là ca tụng vị thiền sư – nhưng hóa ra là phỉ báng ngài. Vui suốt
ngày với thiên nhiên không phải là tâm tuệ của một bậc thiền sư đạt
ngộ! Khát vọng là những tâm và tâm sở si uế và trần tục! Giác
ngộ, giải thoát của nhà Phật không bao giờ có tham vọng chế ngự thiên
nhiên, chinh phục thiên nhiên như tây phương khoa học trục vật! (trên
thì hòa đồng mà dưới là chế ngự!). Lạc của thiền duyệt không
phải là “tinh thần thoải mái tột cùng” như một cảm giác dung
tục, tầm thường như thế! (Nói thêm: Đạo Phật chung chung, thời nào cũng
vậy, giáo phái nào cũng vậy - có thể có chăng câu nệ và tín điều? Câu nệ là câu
nệ gì? Câu nệ hình thức lễ nghi – cái dĩ lễ chế tâm cần thiết để thu thúc bản
năng? Và tín điều ? Xin thưa, Đạo Phật không có tín điều, không có mặc khải,
đừng ngây ngô nhầm lẫn Đạo Phật với các tôn giáo hữu thần!). Còn nữa, “Con
người hòa nhập vào đại ngã vũ trụ” (tiểu ngã, Atman hòa nhập đại ngã, phạm thể
- Mahātman, Brāhman) là tư tưởng của Bà-la-môn giáo - sau này là Ấn Độ
giáo - chứ không phải của Phật! (Chưa nói đến luận văn tiến sĩ, Sđd của
tác giả này, có thể có trên trăm chỗ hiểu sai về Phật, về thiền một cách trầm
trọng - mặc dầu có hằng chục GS, PGS... khen ngợi).
Dầu sao, có điều an
ủi, là không phải ai cũng thế; Nhà thơ Chế Lan Viên có đôi mắt xanh, có nội lực
văn hóa thâm hậu đã thấy được sức mạnh tâm linh tỏa ra từ bài thơ này, tiếng hú
này - trong dòng mạch văn hóa, tiếp khí, tiếp lực, un đúc sức mạnh cho dân
tộc - nên đã cô đọng, gãy gọn, rất ấn tượng, rất hạo nhiên: “Không có
tiếng kêu dài này thì không có chiến thắng Bạch Đằng!” [13]
Để nói lời kết,
Vì tiếng cười, tiếng
hú của thiền sư Không Lộ nó cao diệu, mênh mông, ngoài biên tế, phạm trù, vượt
không thời gian, chẳng ở nơi cái vỏ của ngôn ngữ khái niệm; là tiếng vọng dài
của tuệ giác bên kia bờ - nên tôi xin mượn câu kết của Bát-nhã tâm kinh để nói
điều không thể nói: Gate, gate, paragate, parasamgate; Bodhi-svāha!
(Vượt qua, vượt qua, cứ vượt qua, hãy vượt qua một cách trọn vẹn; chào mừng sự
bùng vỡ của tuệ giác!)
Tiếng hú từ ngàn năm
trước ấy - chính là sự bùng vỡ của tuệ giác - đã bay qua sông dài, biển rộng,
sử lịch, thời đại, văn học, thiền học, khổ đế của trần gian - cho đến hôm nay,
tôi vẫn còn bị chấn động, bồi hồi và nghe buốt lạnh cả từng con chữ!
* Bài viết này được
lấy cảm hứng từ bài tiểu luận: “Không Lộ thiền sư - người làm lạnh vũ trụ” của
Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy trong Văn hóa Việt Nam ... Nxb Văn hóa
Thông tin, 2005.
[1] Xem thêm, An Chi trong Chuyện đông chuyện tây
(tr.355,q.3) – có trích dẫn Từ nguyên, Từ hải, nói rằng: Chữ đó thiết âm
là “nga lao thiết, âm ngao, hào vận” - vậy nó phải đọc là Ngao
chứ không phải Cao.
[2] Xem “ Mấy điều tâm đắc về một thời đại văn
học”, trong: Viện văn học, Thơ văn Lý, Trần – t.1, tr.41 – Hà Nội, 1974.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét