Về những ca khúc phản
chiến của Trịnh Công Sơn
Bửu Chỉ
Lúc 12 giờ 45, ngày 01 tháng 4 năm 2001, Trịnh Công Sơn đã ra đi. Trái
tim nhân ái và nhạy cảm ấy đã ngừng đập; bộ óc đầy mỹ cảm và sáng tạo ấy đã
thôi vận động. Anh đã để lại cho bạn bè và những người hâm mộ anh một nỗi tiếc
thương vô hạn. Một sự mất mát lớn, một khoảng trống không gì bù đắp nổi cho nền
âm nhạc hiện đại Việt Nam. Một nhạc sĩ nổi tiếng cùng thời đã nhìn nhận một
cách vô tư rằng Trịnh Công Sơn là người viết tình ca hay nhất thế kỷ của Việt
Nam. Nói về sự ra đi của anh, những người mến mộ còn ở lại cái cõi trần ai này
đã bày tỏ bằng nhiều cách với nhiều ý nghĩa khác nhau.
Nhạc sĩ Trịnh Công
Sơn, họa sĩ Đinh Cường
và họa sĩ Bửu Chỉ (1988)
Nhưng nói bằng cách gì
và với ý nghĩa nào thì cũng không thể làm vơi đi được nỗi đau thương và mất mát
ấy. Rõ ràng là có một sự biến mất về hình hài vật chất mà cha mẹ anh đã tạo nên
anh. Quy luật tự nhiên của vũ trụ vô tình vốn hữu sinh thì hữu diệt, hữu hình
thì hữu hoại. Nhưng mà thật ra anh vẫn ở lại, ở lại mãi mãi với nền âm nhạc,
với nền văn minh và văn hóa nước nhà. Cả một đời lao động sáng tạo cật lực anh
đã góp được vào trong sự nghiệp nghệ thuật chung của cả nước hơn 600 ca khúc.
Một sự nghiệp đồ sộ. Và đây chính là cái phương tiện, cái quyền năng đã giúp
anh chống lại định mệnh. Cái định mệnh của đời người vốn khắc nghiệt và độc ác
đã chưa từng bao giờ cho phép ai sống đến tận cùng niềm vui và nỗi khát vọng
sống như chính mình mong muốn.
Đối với cộng đồng xã
hội, một khi anh nằm xuống, anh đã thanh thỏa hết mọi "trái khoản"
một cách sòng phẳng với trần gian. Một đời mình anh đã làm hết mọi điều mà anh
mong muốn, và đã ra đi đúng lúc. Còn tất cả những gì mà anh đã để lại cuộc đời
nó sẽ cứ tồn tại một cách hiển nhiên và minh bạch. Không có gì đáng trách và
cũng không có gì phải hồ nghi cả.
Thiên tài ư? Anh đâu cần
cái hư danh ấy. Anh là anh, chính điều này mới lớn lao. Vả lại, chính hậu thế
vốn rộng lòng và trong sáng hơn đương thời sẽ quyết định điều này. Nhưng dù gì
thì gì, đấy vẫn là hư danh. Cái hư danh khiến cho những con người đầy tham vọng
sẽ vật lộn, tranh giành nhau một cách đau khổ. Mà thật ra chưa khi nào, dù một
lần anh đã thầm ước mơ đến cái tên gọi đầy sân hận đó.
Tôi nói nhân cách của
Trịnh Công Sơn nó đầy đủ ở trong thái độ nghệ thuật của anh. Thái độ nghệ thuật
này luôn nhất quán ở trong sáng tạo nghệ thuật của mình mà chưa hề khi nào vong
thân hay thoái hóa biến chất cho đến phút cuối cùng. Khẳng định về một điều như
thế đối với một người đang còn sống thật khó. Nhưng đối với một người đã nằm
xuống ta sẽ không còn phải lo sợ rằng họ còn có thể tốt hay có thể xấu, còn có
thể đúng hay có thể sai, xứng đáng hoặc không xứng đáng nữa.
Một con đường dẫn nhập
vòng quanh như vậy đối với tôi là cần thiết, để dọn đường vào vấn đề mà tôi đã
tự đặt ra cho mình: Trịnh Công Sơn và nhạc phản chiến của anh. Trong quá trình
trình bày vấn đề này, tôi sẽ cố gắng làm toát ra cái tài năng và nhân cách hiếm
có đó nổi bật lên trên cái bối cảnh Việt Nam máu và nước mắt, khói lửa và nỗi
kinh hoàng trong cuộc chiến dai dẳng và khốc liệt thời bấy giờ. Một cuộc chiến
tranh mang tính tất yếu lịch sử của một dân tộc bị áp bức ; nhưng sự chọn lựa
và quyết tâm ấy đã không ít đau thương. Và Trịnh Công Sơn đã xuất hiện trong
bối cảnh đó như lương tâm của một con người mang trái tim nhân ái nhạy cảm, chỉ
biết nói lên những cảm xúc nồng nhiệt của mình đối với quê hương dân tộc, dù
thiếu vắng một thái độ chính trị, nhưng trung thực. Nghĩa là tự đáy lòng mình
thì mình nói.
Tôi sẽ không nói đến
những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn với tư cách một nhà phê bình văn
học về lời nhạc, cũng như không phải trong tư cách của một nhà nghiên cứu âm
nhạc đối với nghệ thuật âm thanh của anh. Mà với tư cách của một người chứng,
sống cùng thời và từng sinh hoạt với anh, tôi sẽ nói về thái độ dấn thân bằng
âm nhạc của Trịnh Công Sơn trong công cuộc vận động hòa bình cho đất nước đầy
tuyệt vọng; nhưng cũng đầy ý nghĩa và giá trị nhân bản đó. Nghĩa là nói về một Trịnh
Công Sơn nghệ sĩ đích thực, một con dân nước Việt mang tình yêu chân thực đối
với quê hương vào cuộc. Khẳng định anh trong ý nghĩa này là khẳng định chính sự
đóng góp của anh vào trong những giá trị văn hóa, văn minh của cả nước. Một
Việt Nam luôn xây dựng trên nền tảng con người và hòa bình.
Thế nào là nhạc phản
chiến, và phản chiến như thế nào?
Phản chiến ở đây là bày
tỏ thái độ của mình không tán thành chiến tranh, và sự không tán thành này có
nghĩa là một sự đồng cảm, chia sẻ với những con người đang phải gánh chịu những
nỗi mất mát, đau thương trong chiến tranh. Đồng cảm mà không đứng ở ngoài, đứng
ở một bên; mà đứng ở cái thế chung cùng một số phận, một định mệnh. Sơn không
nhân danh một "Isme" nào cả; cũng như không chủ trương chống lại một
"Isme" nào cả. Hoặc có chăng là anh nhân danh cái gọi là
"humanisme", xu hướng nhân bản. Mà thật ra cũng chỉ là một cách gọi
đấy thôi. Nói cho cùng, đó là tất cả những gì mình cảm xúc, tất cả những gì
vang vọng trong tâm khảm của mình từ một thực tại máu xương như thế của đồng
bào thì mình nói ngay ra. Nói không do dự, nói như một lời khẩn báo. Đỗ Phủ
ngày xưa ở bên Tàu làm thơ bày tỏ sự xót thương đối với hàng vạn con đỏ đang bị
dìm trong máu lửa chiến tranh mà người đời sau cho rằng ông có tinh thần chống
chiến tranh là vậy. Thật ra ông chỉ muốn nói lên niềm xúc động sâu xa của mình
đối với thời thế, mà ở bên sau cái nỗi niềm này không tiềm chứa một ý thức, một
tinh thần cơ hội nào.
Tắt một câu, trong dòng
nhạc phản chiến của mình, Trịnh Công Sơn đã chẳng có một toan tính chính trị
nào cả. Mà tất cả là làm theo mệnh lệnh của con tim mình, một con tim thương
đời, thương người, để nói lên tiếng nói của con tim đó đối với quê hương, dân
tộc một cách trung thực và chân thành. Và một khi anh đã vĩnh viễn nằm xuống yên
nghỉ thì câu khẳng định này đã trở nên hùng hồn hơn.
Ta sẽ thấy mệnh lệnh của
trái tim này đi xuyên suốt trong tất cả các sáng tác thuộc dòng nhạc phản chiến
này của anh. Trước hết ta có thể tạm sơ lược về con đường sáng tác các ca khúc
phản chiến của Trịnh Công Sơn như sau:
- Ý thức phản chiến trong ca khúc của Trịnh Công Sơn đã manh nha
vào những năm 1965, 1966. Trong giai đoạn này anh đã cho ra đời tập ca
khúc Ca khúc Trịnh Công Sơn (Thần thoại quê hương, tình yêu
và thân phận) do An Tiêm xuất bản 1966. Sau đó phát triển dần trong
tập Ca khúc da vàng vào cuối 1966 và đầu 1967, tập Kinh Việt Nam năm
1968, tất cả đều do anh tự ấn hành lấy. Cùng với những cuộc xuống đường rầm rộ
của thanh niên, sinh viên, học sinh ở đô thị miền nam Việt Nam chống Mỹ và chế
độ cũ đòi hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước, anh đã cho xuất bản tập ca
khúc Ta phải thấy mặt trời vào năm 1970 (Tự ấn hành dưới cái tên Nhà xuất bản
Nhân Bản). Năm 1972, khi tình hình chiến sự ở miền nam Việt Nam ngày càng leo
thang đến độ khốc liệt nhất, anh đã cho ra đời tiếp tập Phụ khúc da vàng (tự ấn
hành dưới cái tên Nhà xuất bản Nhân Bản). Đây là tập cuối cùng của dòng nhạc
phản chiến của anh. Tổng kết tất cả gồm 5 tập, với 58 ca khúc, chưa kể những
bài rời được sáng tác ngay trong những cuộc xuống đường cùng thanh niên, sinh
viên, học sinh Huế.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, họa sĩ Bửu Chỉ, họa sĩ Đinh
Cường, nhà văn Lữ Quỳnh, họa sĩ Đỗ Quang Em)
Ảnh tư liệu ĐC |
So với những tình khúc mà Trịnh Công Sơn đã sáng tác được trong suốt cuộc đời
mình cho đến lúc qua đời, số lượng của những ca khúc phản chiến tương đối ít.
Nhưng chính những ca khúc này đã làm cho danh tiếng của anh sáng lên một cách
chói lọi. Phải nói là độc sáng. Và chính trong cái vầng hào quang làm nền này,
tình khúc của Trịnh Công Sơn tiếp tục sáng giá cho đến hôm nay và mai sau.
Chính những ca khúc phản chiến thời bấy giờ đã chắp cánh cho danh tiếng của anh
bay ra khỏi biên giới Việt Nam để đến với thế giới, đặc biệt là Nhật Bản. Nơi
xứ sở này anh đã từng có những "Đĩa Vàng". Và lưu danh trong bộ tự
điển Bách Khoa Pháp Encyclopédie de tous les pays du monde.
Thật vậy, vào những năm 58, 59, 61, 62, những tình khúc như Ướt
mi, Thương một người, Nhìn những mùa thu đi, Biển nhớ v.v... đã bắt
đầu nổi tiếng trong những phòng trà ca nhạc ở miền Nam. Nhưng phải chờ đến
những năm 65, 66, 67 khi tiếng hát của Trịnh Công Sơn cất lên trong các giảng
đường Đại Học Sài Gòn và Huế, trước hàng ngàn sinh viên học sinh cuồng nhiệt,
với những ca khúc trong các tập Ca khúc Trịnh Công Sơn và Ca khúc Da vàng, cái
tên Trịnh Công Sơn đã trở thành một hiện tượng. Hiện tượng Trịnh Công Sơn.
Những ca khúc phản chiến
của Trịnh Công Sơn được chép để chuyền tay, được in ra băng cassette, hoặc băng
từ loại lớn, còn gọi là băng Akai... Nghĩa là mọi hình thức phổ biến, phương
tiện phổ biến đều được tận dụng. Người ta nghe nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn
trong quán cà phê, người ta nghe trong những cuộc sinh hoạt tập thể của thanh
niên, thậm chí người ta nghe trong khuê phòng và nghe ở cả những tiền đồn heo
hút...
Dàn trải trên nền một điệu Blue buồn đau và uất nghẹn, với nhịp
hát kể Recitativo, ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn vút lên:
"... Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè
ngựa hồng đã mỏi vó chết trên đồi quê hương
còn có ai không còn người, ôi nhân loại mặt trời
và em tôi này đôi môi xin thương người
ôi nhân loại mặt trời trong tôi..."
(Xin mặt trời ngủ yên - ca khúc Trịnh Công Sơn)
Và,
"... Giọt nước mắt thương con, con ngủ mẹ mừng
Giọt nước mắt thương sông ấp ủ rêu rong
Giọt nước mắt thương đất,đất cằn cỗi bao năm
Giọt nước mắt thương dân, dân mình phận long đong"
(Nước mắt cho quê hương - Ca khúc Trịnh Công Sơn)
Rồi,
" Mẹ ngồi ru con đong đưa võng buồn năm qua tuổi mòn. Mẹ nhìn quê hương
nghe con mình buồn giọt lệ ăn năn. Giọt lệ ăn nănđưa con về trần tủi nhục chung
thân..."
Hay từ một hiện thực vừa mới xảy ra trong thành phố:
"Ghế đá công viên dời ra đường phố.
Người già co ro chiều thiu thiu ngủ.
Người già co ro buồn nghe tiếng nổ.
Em bé lõa lồ khóc tuổi thơ đi..."
(Người già em bé - Ca khúc Trịnh Công Sơn)
Và với Phúc âm buồn, Tuổi đá buồn v..v... Tiếng
hát Trịnh Công Sơn như một sợi dây vô hình đã nhanh chóng nối kết những tâm
trạng riêng, những số phận riêng của người dân đô thị miền Nam vào trong một
tâm trạng chung, một số phận chung. Tâm trạng và số phận này là gì? Đó là tâm
trạng và số phận của những con người Việt Nam đã từng bị lừa, họ là nạn nhân
của bạo lực vô minh, mà niềm tin và hy vọng của họ đã trải qua bao lần bể dâu.
Đối với họ, mọi khát vọng, mọi dự phóng đều là hư vô. Họ đang vẫy vùng trong
một cảnh sống đầy máu xương, mất mát tang tóc của một cuộc chiến tranh phi lí
mà lối thoát chưa một lần thấy lóe sáng ở cuối con đường hầm cuộc đời tăm tối
đó.
Tôi cho rằng, bằng một khả năng cảm nhận sắc bén bẩm sinh anh đã
dễ dàng biến những cảm nhận riêng của mình thành của chung. Bằng một phương
cách biểu hiện rất khéo do ở chỗ sử dụng những ẩn dụ, những hình tượng rất mới,
anh đã gây được những ấn tượng mạnh cho người nghe, và đặc biệt khi cần phải
đối kháng với một thực tại mà anh không thể nào vãn hồi được, anh dựng một thần
thoại. Nhờ thế mà tiếng nói của anh dễ dàng lọt vào lòng người, và dễ dàng được
đồng cảm.
"Người nằm co như loài thú khi mùa đông về
Người nằm yên không kêu than buốt xương da mình
Từng tiếng người nhiều tiếng người gọi hoài giữa đêm…
Người còn đó nhưng lời nói rơi về chân đồi
Người ngồi đó nhưng trong tim máu tuôn ra ngoài
Nhuộm đất này nhuộm cho hồng hạt mầm trót vay."
(Phúc âm buồn - Ca khúc Trịnh Công Sơn)
Bằng một định hướng, cũng như một phương pháp sáng tác như đã được
trình bày ở trên, Trịnh Công Sơn đi vào giai đoạn "Ca khúc da
vàng". Ở đây, những cảm nhận về quê hương và thân phận đã trở nên mãnh
liệt hơn, quặn thắt hơn và đôi khi dẫn đến sự phẫn nộ. Từ Ngày dài trên
quê hương, Người con gái Việt Nam, Đại bác ru đêm cho đến Tôi sẽ đi thăm, Tình
ca người mất trí, Hãy nói giùm tôi, Gia tài của mẹ... đã nói lên điều đó.
Ta hãy nghe:
"Người nô lệ da vàng ngủ quên ngủ quên trong căn nhà nhỏ đèn thắp thì
mờ ngủ quên quên đã bao năm ngủ quên không thấy quê hương. Bao giờ đập tan gông
cùm xiềng xích vô hình trói buộc ta bao giờ đập tan gông cùm xiềng xích vô hình
trói buộc tự do..."
(Đi tìm quê hương - Ca khúc Da vàng)
"Hãy sống giùm tôi hãy nói giùm tôi hãy thở giùm tôi thịt da
này dành cho thù hận cho bạo cường cho tham vọng của một lũ điên..."
(Hãy nói giùm tôi - Ca khúc Da vàng)
Tiếng hát đã tạo nên
những hiệu quả trong đời sống xã hội thật sự. Nó đã làm cho một số không ít
thanh niên nhìn ra cái bản chất phi nhân và tàn bạo của cuộc chiến khiến họ đi
đến hành động trốn lính hay đào ngũ. Dưới con mắt của những người cầm quyền
thuộc chế độ cũ Sơn là một kẻ phá hoại tinh thần chiến đấu của anh em binh sĩ.
Ở miền Nam lúc bấy giờ cường độ của cuộc chiến càng lúc càng gia
tăng. Người Mỹ ra sức củng cố chế độ cũ và đẩy mạnh cuộc chiến. Chiến tranh
càng lan tràn khắp nơi một cách khốc liệt. Năm 1968, với cuộc tổng công kích
xuân Mậu Thân, nhiều thành phố ở trên khắp miền Nam đã trở thành bãi chiến
trường. "Con người trong tôi "của Trịnh Công Sơn lại tiếp tục lên
tiếng mỗi lúc một khẩn thiết hơn:
"Xác người nằm trôi sông phơi trên ruộng đồng
Trên nóc nhà thành phố trên những đường quanh co
Xác người nằm bơ vơ dưới mái hiên chùa
Trên giáo đường thành phố trên thềm nhà hoang vu..."
(Bài ca dành cho những xác người - Ca khúc da vàng 2)
Và trong cái cảnh tượng trần gian là một lò sát sinh đó, đã có
những người mẹ, những người chị đã lâm vào trong một trạng thái tâm thần bệnh
lý :
"...Mẹ vỗ tay reo mừng chiến tranh chị vỗ tay hoan hô hòa bình người vỗ
tay cho thêm thù hận người vỗ tay xa dần ăn năn."
(Hát trên những xác người - Ca khúc da vàng 2)
Và sau đó nhiều năm,
người dân ở trong các thành phố miền Nam vẫn tiếp tục chịu đựng những cuộc nổ
mìn, những trận pháo kích gây thương vong không ít cho đám dân lành vô tội.
Ngày ngày không dứt tiếng súng tiếng bom. Và hằng đêm trong ánh hỏa châu vàng
vọt ghê rợn, người dân thành phố nín thở, nơm nớp đợi chờ những điều không may
có thể xảy đến cho mình. Mỗi ngày, từ chiến tuyến những chiếc quan tài phủ cờ
được đưa về thành phố, trên đầu những trẻ mồ côi, những góa phụ, khăn tang cứ
bay như phướn.
Từ 1968 cho đến những
năm 1969, 1970, 1971, thỉnh thoảng người ta lại nghe phong thanh đâu đó về một
giải pháp hòa bình cho Việt Nam. Rồi tất cả lại tắt ngấm. Người dân Việt khát
khao hòa bình như kẻ đi trong sa mạc khát đến cháy bỏng cổ họng mà ốc đảo xanh
tươi hiện ra trước mặt mình chỉ là những ảo ảnh. Cuộc chiến khốc liệt cứ tiếp
diễn. Phong trào đấu tranh hòa bình Việt Nam ở các đô thị lại bùng lên mãnh
liệt. Đặt biệt là phong trào thanh niên sinh viên học sinh, bây giờ lập trường
đã kiên định: Mỹ cút, ngụy nhào, hòa bình đến. Tôi, kẻ viết bài này đã quyết
định, đã chọn lựa đứng vào phong trào đó. Nhưng chọn lựa nào cũng có những đau
đớn. Tôi phải đứng về phía dân tộc theo cách của tôi. Để có hòa bình thì dân
tộc phải có quyền tự quyết, mà quyền tự quyết thì phải đấu tranh mà dành lấy
chứ chẳng ai cho. Nhưng càng đấu tranh thì càng chồng chất đau thương. Những kẻ
dễ quên thì dễ sống, còn tôi thì không thể quên điều này. Và phải nói một cách
thành thật rằng chính những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn trong những
năm đầu tiên đã đánh thức trong tôi tình tự dân tộc, sau đó thì tôi chọn một
thế đứng quyết liệt hơn, âu cũng là do tánh khí riêng của mình. Nhưng về sau
tôi vẫn thường tiếp tục hát những ca khúc phản chiến của anh. Vì tôi thấy nó
mang lại cho đầu óc mình sự "mát mẻ", khi mà mình không thể thường
xuyên chịu đựng mãi một sự căng thẳng sắt máu. Và đôi khi nó cũng khiến cho
mình mơ mộng về một nền hòa bình có thể thế này mà không phải thế kia... Đó là
con đường tự do đi đến hòa bình mà không phải đổ máu. Tôi sợ máu!
Trịnh Công Sơn trong giai đoạn cực đoan này thì sao? - Vẫn trung
thành với con đường mà tự anh đã vạch ra từ trước, anh tiếp tục đi, đi theo
tiếng gọi của dân tộc mà anh đã nghe thấy theo cách của mình. Có khi anh đi một
cách mạnh dạn hơn, và anh kêu gọi, anh hô hào. Và tinh thần của anh, tùy mỗi
hoàn cảnh khác nhau mà hy vọng, hào hứng hay tuyệt vọng... hoặc ngược lại. Kết
quả là hai tập ca khúc kế tiếp nhau ra đời Kinh Việt Nam (1968), Ta
phải thấy mặt trời (1970) (anh tự ấn hành dưới tên NXB Nhân Bản). Ở
giai đoạn này anh cùng xuống đường với thanh niên, sinh viên, học sinh. Anh hát:
"Nơi đây tôi chờ.
Nơi kia anh chờ.
Trong căn nhà nhỏ mẹ cũng ngồi chờ.
Anh lính ngồi chờ trên đồi hoang vu.
Người tù ngồi chờ bóng tối mịt mù...
... Chờ tin mừng sông chờ núi cũng chờ mong
Chờ trên vừng tráng mẹ thắp lên bình minh
Chờ khô nước mắt chờ đá reo ca
Chờ áo cơm nuôi cho những trẻ con không nhà
Chờ ngày Việt Nam thống nhất cho những tình thường vỡ bờ.
(Chờ nhìn quê hương sáng chói - Kinh Việt Nam)
Hay :
"Rừng núi dang tay nối lại biển xa
Ta đi vòng tay lớn mãiđể nối sơn hà..."
(Nối vòng tay lớn - Kinh Việt Nam)
Hoặc:
"Ta bước bước đi, bước bước hoài, trên quê hương dấu yêu này.
Còn bao nhiêu người nhìn nhau hôm nay.
Đôi mắt bóng tối trái tim nghi ngại còn ai quanh đây
chưa góp tiếng nói chưa nối lại nắm tay..."
(Chưa mòn giấc mơ - Ta phải thấy mặt trời)
Và:
"Huế - Sài Gòn - Hà Nội quê hương ơi sao vẫn còn xa. Huế - Sài Gòn - Hà
Nội bao nhiêu năm sao vẫn thờ ơ. Việt Nam ơi còn bao lâu những con người ngồi
nhớ thương nhau..."
(Huế - Sài Gòn - Hà Nội - Ta phải thấy mặt trời)
Sang đến năm 1972, cục diện chiến tranh trên toàn miền nam vô cùng
ác liệt, một cuộc "Việt Nam hóa chiến tranh" dưới mắt người Mỹ. Bằng
con đường phản chiến lấy trái tim nhân ái mà giải quyết mọi điều, trên cơ sở
tình tự dân tộc, Trịnh Công Sơn đến đây thì đã mệt nhoài, và tuyệt vọng. Anh
cho ra đời tập ca khúc Phụ khúc da vàng, mà anh đã cho rằng đáng lẽ
không nên viết. Đây là tập ca khúc cuối cùng của dòng nhạc phản chiến Trịnh
Công Sơn.
Anh hát để kết thúc cho một nỗ lực vô vọng của chính mình:
"...Đường anh em sao đi hoài không tới
Đường văn minh xương cao cùng với núi
Đường lương tâm mênh mông hoài bóng tối
Trái đau thương cho con mới rađ ời..."
Tác phẩm Cây đàn sắc không - Sơn dầu
của Bửu Chỉ vẽ nhạc sĩ Trịnh Công Sơn
|
Sau 1975, có một sự im lặng đè nặng lên những ca khúc phản chiến từng một thời
nổi tiếng lẫy lừng của anh. Và chính anh cũng giữ sự im lặng cho đến ngày qua
đời.
Nếu hôm nay ta nhìn nhận
và đánh giá cao những tình khúc của anh, chúng ta không thể nào bỏ qua được
những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn. Vì chính những ca khúc này đã tạo
cho anh có được một tầm cỡ như ngày nay, cho dù những tình khúc của anh vốn đã
rất tài hoa.
Có người sẽ cho rằng
không phải nói đến những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn nữa, vì chữ thời
đã qua rồi. Nghĩa là không còn thời tính nữa. Cũng có người sẽ góp ý thêm rằng
các ca khúc phản chiến của anh vốn lừng khừng, dễ dãi, nếu không muốn nói là
ngây thơ, hoặc thiếu logique lịch sử, chính trị hay là cái gì đó...
Tôi thì cho rằng, đến
ngày nay, qua những trò dâu bể của cuộc thế, thời tính của những ca khúc phản
chiến của Trịnh Công Sơn vẫn còn. Nó còn trong ý nghĩa của tiếng nói lương tâm
và nhân ái. Qua tác phẩm của mình chưa từng ai nói dến lương tâm và lòng nhân
ái đậm đà như anh. Tiếng nói này còn phải luôn luôn được tôn trọng trước khi ta
bắt tay vào một công việc, mà công việc đó sẽ có ảnh hưởng trên hàng vạn, hàng
triệu sinh linh.
Con đường anh đã chọn và
anh đã đi suốt cuộc đời mình là một con đường không dễ chọn. Nếu từ thời điểm
hôm nay để nhìn lại thời bấy giờ thì rõ ràng là anh đã đi giữa hai làn đạn. Mà
bất kỳ khi nào một viên đạn từ một hướng nào đó có thể kết liễu cuộc đời anh.
Anh có lý của riêng anh. Là một nghệ sĩ chân chính, anh đã chọn cái logique của
quả tim, và bằng trực giác nghệ thuật anh đã dựng nên sự nghiệp của mình. Đừng
bắt anh phải làm chính trị, cũng đừng bắt anh, làm một " con buôn thời
thế". Anh sẽ không dại gì đầu cơ, cũng như đầu tư tài năng và tâm huyết
của mình cho một cuộc chơi ngắn hạn như vậy, mà kết cục thua lỗ là một điều tất
nhiên. Anh chỉ biết sống và rung cảm bằng một quả tim trung thực, và dùng tài
năng của mình để nói lên điều mà con tim muốn nói. Vì anh là Trịnh Công Sơn,
một nghệ sĩ lớn, một nghệ sĩ của mọi người, và sống giữa mọi người. Chính sự
ngưỡng mộ của mọi người đối với anh lúc anh còn sống, và đoàn người đông đảo
tiễn đưa anh lúc anh qua đời đã nói lên rằng trong sứ mệnh nghệ thuật đối với
dân tộc anh đã thành công.
Trong những ca khúc phản
chiến anh còn để lại, phản chiến chẳng qua là một cách gọi, đừng chấp, vẫn có
nhiều ca khúc có thể hát đơn hay đồng ca vào thời bấy giờ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét