Đi... và tìm trong đất có thể được xem là tập bút ký của
một nhà khoa học nữ. Ở đây có bút ký là kết quả của một chuyến đi điền dã khảo
cổ học và có bút ký thực sự mang tính văn học và giàu chất văn.
Đốí với một người ngoại đạo về khảo cổ học như tôi, đọc cuốn
sách này chẳng khác nào tham dự một cuộc du khảo đến những vùng đất với những
vẻ đẹp bí ẩn mà trước đây mình chỉ hiểu biết một cách mơ hồ.
Cũng như những tour guide có kinh nghiệm, Nguyễn
Thị Hậu đã dẫn dắt du khách-bạn đọc vào những bảo tàng thiên nhiên và lịch sử
đầy trữ lượng văn hoá bằng con đường văn học. Trước khi đưa chúng ta đến với
những bài viết giàu yếu tố sử liệu và những phát hiện khảo cổ học vốn là thế
mạnh của ngòì bút Nguyễn Thị Hậu, tác giả đã “khuyến mãi” người đọc bằng những
bút ký mang chất trữ tình. Nếu ví những bài Đường đến Siem Riep - Angkor,
Đất và người Bến Tre, Lưu vực Đồng Nai - một vùng văn hoá cổ, Đô thị Sài Gòn
nhìn từ khảo cổ học, Văn hoá Óc Eo ở Nam Bộ…như những gian bảo tàng tương đối
hoành tráng cần phải khảo sát một cách kỹ lưỡng, thì những bàiNơi tôi gửi lại
tuổi thơ, Paris mùa thu tím, Đà Lạt mùa vắng dã quỳ…như là những bức tranh
phác thảo trong phòng triển lãm hội hoạ, tuy thoáng nhìn qua nhưng đã để lại
nhiều dư vị.
Như những món khai vị bao giờ cũng được bày ra trước trong
bữa tiệc, những bài viết in ở đầu tập sách này gieo trong chúng ta niềm ngạc
nhiên khi bắt gặp không chỉ cảm hứng của tác giả mà còn những chi tiết văn học
về thiên nhiên và con người ở những miền đất chị đã đi qua. Hãy nghe Nguyễn
Thị Hậu tả cái giờ phút từ biệt Paris sau một chuyến công tác ngắn ngày: “Tiễn
tôi ra phi trường là bầu trời xanh trong vắt của một sáng cuối thu, hàng cây
cổ thụ dọc theo các đại lộ, những tán lá đã ngả vàng rực rỡ…Nhưng níu giữ
trái tim tôi ở lại Paris là làn sương tím những buổi chiều nhạt nhoà, sắc tím
nao nao của thảm violet bên cạnh Viện Bảo tàng…”
Nghề khảo cổ học đòi hỏi sự chính xác gần như khoa học tự
nhiên. Niên đại của các cổ vật, chẳng hạn, phải được giám định một cách
nghiêm nhặt. Nhưng cuôc đời và tâm hồn con người thì lại thường lung linh, mờ
ảo. Ngòi bút của Nguyễn Thị Hậu đã kết hợp được hai điều đó: khi này thì chi
tiết và cụ thể đến độ tỉ mỉ; và khi khác thì để cho cảm xúc tuôn trào
qua các chứng liệu và sự kiện.
Bởi vì khảo cổ học đi tìm dấu tích của lịch sử mà cũng là dấu
tích của con người. Người đi…và tìm trong đất không thể như một con
robot, như một cái máy do thám lạnh lùng. Trần Quốc Vượng là tấm gương nổi bật
về một nhà khoa học có trái tim nóng hổi nhịp đập. Trong nhiều bài viết về
ông, tôi đặc biệt thích bài của Hoàng Phủ Ngọc Tường và bài của Nguyễn Thị Hậu.
Với nhạy cảm của một người phụ nữ, ngòi bút của chị đã chạm đến phần sâu kín ẩn
đằng sau một con người lúc nào cũng nói cười rôm rả, lúc nào cũng có bạn bè
và đệ tử vây quanh, nhưng cho đến phút cuối cuộc đời, có lẽ vẫn là một người
rất mực cô đơn: “Học Thầy đã lâu, lại ở xa Thầy, nhưng không hiểu sao cứ mỗi
lần gặp Thấy, tôi luôn luôn cảm nhận nỗi cô đơn của Thầy ngày một đầy hơn. Dường
như trên con đường khoa học gập ghềnh vạn dặm, trên những nẻo đường đời quanh
co đầy bất trắc, Thầy đã không có lấy một người bạn đồng hành, dù quanh thầy
bao giờ cũng tấp nập những người, ồn ào và náo nhiệt…”.Ở bên kia thế giới, đọc
được những dòng này, có lẽ Trần Quốc Vượng cũng mỉm cười vì có người tri kỷ.
Quá khứ của một dân tộc đôi khi cũng như tuổi thơ của một
con người. Nguyễn Thị Hậu viết về lịch sử một vùng đất cũng cảm động như viết
về tuổi thơ của chị. Mà tuổi thơ của một con người cũng có thể phản ánh một
phần lịch sử, như giọt nước phản chiếu đại dương. Đọc những gì tác giả viết về
kỷ niệm với cha mình là nghệ sĩ ưu tú Nguyễn Ngọc Bạch, ta hiểu được vẻ đẹp
và nét u buồn của một thời đã xa; “Mấy tháng trời nhớ ba tôi không khóc, vậy
mà chiều đó khi nhìn thấy ông còng lưng đạp xe đi, tấm khăn dù “chiến lợi phẩm”
bay phất phơ trong giá lạnh chiều đông, tôi đã khóc lặng lẽ bên cây gạo trên
bờ đê, nơi mà tôi thường ra đứng ngóng chờ ba má”.
Tác giả cuốn sách này không giấu niềm tự hào là người nữ
duy nhất trong khoá sinh viên sử học đầu tiên ở miền Nam sau 1975
đã chọn ngành khảo cổ học. Theo chỗ tôi biết, những năm gần đây, số thí sinh
thi vào khoa Sử ngày càng giảm, số sinh viên theo ngành khảo cổ lại càng hiếm
hoi, trong đó nữ sinh viên đã thành của quý. Vì đây là một ngành khó, nếu
không muốn nói là một trong những ngành khó nhất của khối khoa học xã hội và
nhân văn. Dấn thân váo đó là chấp nhận những công việc nặng nề, những chuyến
đi gian khổ, những thao tác tỉ mỉ mà nếu không có một niềm say mê và một kiến
văn cần thiết, người ta khó lòng theo đuổi đến cùng.
Nguyễn Thị Hậu đã làm nghề ngót 30 năm, chắc là chị không
còn đường rút lui được nữa! Đọc những gì chị viết về trữ lượng khảo cổ ở Đồng
Nai, Cần Giờ, rồi mở rộng ra cả vùng đồng bằng Nam Bộ, mới biết là không chỉ
chính chị đã chọn khảo cổ học, mà hình như cả khảo cổ học cũng đã chọn chị. Đọc
những trang viết mà tác giả diễn đạt những vấn đề khoa học hết sức giản dị, mạch
lạc, tôi như một người làm nghề văn dự “giờ ngoại khoá” về khảo cổ học. Tuy
nhiên, cái giờ ngoại khoá đó đã thổi vào trong tôi hơí ấm của lịch
sử và gợi lên nhiều suy nghĩ về mối quan hệ gắn bó giữa văn học với không
gian văn hoá của vùng đất nơi mình lập nghiệp.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét