Về thăm Di tích Văn hóa - lịch sử đình làng Bảo
An ở thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nhiều người rất tâm đắc với cặp vế đối
trước trụ biển của cổng đình. Nhưng ít người biết đây là một công trình hợp tác
bất đắc dĩ của hai nhân vật nổi tiếng: Nguyễn Bá Trác và Phan Khôi.
Làng Bảo An
Bảo An là làng cổ của Điện Bàn, nằm ở trung
tâm của vùng Gò Nổi nay là thôn Bảo An Đông và thôn Bảo An Tây của xã Điện
Quang, thị xã Điện Bàn. Theo một số tài liệu thì làng được thành lập từ giữa thế
kỷ thứ XV, gồm tổ tiên của 5 tộc họ chính Nguyễn, Phan, Ngô, Phạm và Thái có
quê gốc ở huyện Nghi Xuân, thừa tuyên Nghệ An theo vua Lê Thánh Tông đi bình
Chiêm vào năm 1471, sau đó được phân công ở lại khai phá vùng đất mới của Thừa
tuyên Quảng Nam.
Lúc đầu 5 tộc họ chính đến khai khẩn ở vùng
Hòa Đa, nằm ở phía bắc sông Thu Bồn, sau mới vượt sông đến khai phá vùng Bảo An
này. Từ khi thành lập đến nay làng đã trải qua nhiều tên, đầu tiên làng có tên
là Phi Phú (có phải đây là làng Thi Phụ trong Ô châu cận lục?). Sau được đổi
thành làng Phú An, Phú An Đông, Phú An Tây (dưới thời chúa Nguyễn). Dưới
thời Tây Sơn, làng có tên là Tây Nhị xã. Theo Địa bạ triều Nguyễn soạn
năm Gia Long thứ mười, làng có tên Bảo Đông, Bảo Tây nhị xã. Sau Cách mạng
tháng Tám làng mang tên danh nhân Hoàng Diệu. Sau năm 1954, Bảo An thuộc xã Phú
Tân. Từ năm 1948 đến nay, Bảo An thuộc xã Điện Quang (bị gián đoạn thời kỳ 1954
- 1975).
Nằm ở vị trí đặc biệt, kẹp giữa hai nhánh của
sông Thu Bồn, làng Bảo An có phong cảnh rất đẹp. Ngày trước dân gian đã truyền
tụng câu ca dao: Cây da mô cao bằng cây da Bàn Lãnh/ Đất mô thanh cảnh bằng
đất Bảo An.
Bảo An lại là làng nghề đường, nghề dệt nổi
tiếng với nhiều cô gái đẹp và khéo tay: Tiếng đồn con gái Bảo An/ Sáng mua
vải sợi, tối đan mành mành.
Bảo An cũng là làng văn vật hàng đầu của Quảng
Nam. Sách Khoa bảng Quảng Nam dưới thời nhà Nguyễn cho biết làng có 2
phó bảng, 16 cử nhân, 27 tú tài. Làng nổi tiếng không những là quê của Phan
Khôi (tác giả bài thơ Tình già), Nguyễn Bá Trác (tác giả bài thơ Hồ
trường) mà còn của Phan Thành Tài, Lương Khắc Ninh, Xuân Tâm, Nguyễn Đình, Phan
Thanh, Phan Bôi…
Hai câu đối ở trụ biểu (ảnh trên) và
đình Bảo An trong lễ khánh thành năm 2013. |
Câu đối ở đình làng
Đình Bảo An được xây dựng đầu tiên vào năm
1702, đã nhiều lần bị phá hoại và được xây dựng lại vào các năm 1848, 1955,
2013. Ngôi đình này đã được công nhận là Di tích Văn hóa - lịch sử cấp tỉnh từ
năm 2013 (cùng một lượt với lễ khánh thành đình làng).
Trước đình có hai trụ biểu với cặp vế đối rất
hay. Nhiều người lớn tuổi ở Bảo An vẫn cho rằng Nguyễn Bá Trác và Phan Khôi là
đồng tác giả của vế đối này. Thực ra đây là cặp câu đối Nguyễn Bá Trác đã cúng
cho làng và đã được Phan Khôi chỉnh sửa.
Chuyện kể: Khi Nguyễn Bá Trác làm Tổng đốc
Thanh Hóa, lúc ghé về thăm nhà gặp dịp có lễ tế ở đình làng. Các chức sắc
của làng đã mời ông đến dự. Quan Tổng đốc đã đi cho làng một câu đối để treo ở
đình với nội dung:
Bảo ngã tử tôn lê dân, tam xã phồn xương Diên
Phước chỉ/ An như Thái Sơn bàn thạch, song giang hoàn nhiễu hộ thần cư
Thấy câu đối, Phan Khôi lúc này đang ở đình
làng liền nói với Nguyễn Bá Trác:
-Theo tôi hai câu này chỉ treo ở nhà ông,
không nên treo ở đình làng là nơi đại diện cho cả làng Bảo An.
Nguyễn Bá Trác ngạc nhiên hỏi:
-Sao vậy?
Phan Khôi chậm rãi nói:
-Vế thứ nhất có chữ tử tôn là cháu con. Vậy
cháu con ai? Vế thứ hai đã có Thái Sơn lại còn bàn thạch là thừa chữ. Vế trước
nên bỏ chữ tử tôn, vế sau bỏ chữ Thái Sơn thì câu đối vừa hợp vừa gọn, vừa chỉnh
mới có thể treo ở đình làng được.
Nghe thế, các vị túc nho và chức sắc trong
làng đều tái mặt vì lời góp ý quá đúng nhưng lại gây… khó xử cho cụ Tổng. Nên
nhớ ngày trước, chức Tổng đốc rất lớn, hàm Chánh nhị phẩm, tương đương với Thượng
thư ở triều. Mặt khác, về khoa bảng, Phan Khôi chỉ là anh tú tài quèn trong khi
Nguyễn Bá Trác đã đỗ cử nhân. (Nguyễn Bá Trác và Phan Khôi không những là đồng
hương Bảo An mà còn là đồng môn với nhau tại trường của Trần Quý Cáp ở Bất Nhị.
Mặc dù Phan Khôi nhỏ hơn Nguyễn Bá Trác 6 tuổi nhưng học giỏi hơn, được đánh
giá cao hơn nhưng trong khoa thi Hương năm 1906, Phan Khôi chỉ đỗ tú tài còn
Nguyễn Bá Trác đỗ cử nhân. Hai ông cũng từng tham gia Phong trào Duy tân và bị
kết án tù).
Nguyễn Bá Trác là người rất hiểu tính cách và
tài năng của Phan Khôi nên dù trước mặt chức sắc của làng cũng đã chấp nhận đề
nghị của Phan Khôi. Chính vì vậy ngày nay ở hai bên trụ biển trước đình làng vẫn
còn hai câu đối rất hay
Bảo ngã lê dân, tam xã phồn xương Diên Phước
chỉ/ An như bàn thạch, song giang hoàn nhiễu hộ thần cư. Tạm dịch: Hãy
giúp dân ta, ba xã giàu sang Diên Phước ở/ Vững như tảng đá, đôi sông ôm kín giữ
gìn nơi.
Nghe chuyện này người ta cứ nghĩ Nguyễn Bá
Trác ngoài mặt chiều theo Phan Khôi nhưng trong lòng rất ấm ức vì bị mất mặt.
Nhưng sự thực dù không được Phan Khôi đánh giá cao nhưng Nguyễn Bá Trác luôn
quý trọng Phan Khôi. Con gái của Phan Khôi là Phan Thị Mỹ Khanh trong tác phẩm Nhớ
cha tôi Phan Khôi (NXB Đà Nẵng, 2001) có cho biết mỗi khi vợ Nguyễn Bá
Trác về Bảo An đều ghé thăm Phan Khôi, mặc dù không được ông tiếp đãi nồng hậu;
năm 1945 Nguyễn Bá Trác đã đích thân mời Phan Khôi tham gia Chính phủ Trần Trọng
Kim nhưng Phan Khôi không nhận lời.
Phan Khôi và Nguyễn Bá Trác, hai nhân vật với
hai tính cách và số phận khác nhau nhưng đã tình cờ gửi lại quê hương Bảo An một
kỷ niệm đặc biệt, ghi dấu theo thời gian, nhưng lại ít người biết!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét