Nguyễn Bính với chùm thơ viết
ở Huế
Cũng như nhà văn Nguyễn
Tuân, thời trai trẻ Nguyễn Bính rất thích xê dịch. Ông từng “lăn lóc có
dư mười mấy tỉnh” (Giời mưa ở Huế). Hầu như nơi nào từng đặt chân đến, ông đều
có thơ để lại. Năm 1940, Nguyễn Bính cùng Tô Hoài và Vũ Trọng Can rủ nhau đi
vào Huế theo lời mời của một mạnh thượng quân.
Tô Hoài chỉ lưu lại Huế
trong thời gian ngắn còn Nguyễn Bính và Vũ Trọng Can thì “bám trụ” ở cố đô gần
cả năm trời để dàn dựng và công diễn vở kịch thơ Bóng giai nhân, với sự cộng
tác đắc lực của thi sĩ Yến Lan.
Vị mạnh thường quân tạo điều
kiện cho ba thi sĩ công diễn Bóng giai nhân trên một vài sân khấu ở Huế. Tiếc
là khán giả ngày một thưa vắng. Ba thi sĩ lâm vào tình cảnh “nợ nần như chúa Chổm”
đành phải ngậm ngùi chia tay với Huế.
Yến Lan vào lại Bình Định, còn
Nguyễn Bính và Vũ Trọng Can thì trở ra Hà Nội. Nhưng chính nhờ gần nửa năm “nằm
mốc” ở cố đô mà Nguyễn Bính có được một chùm thơ viết về Huế, bài nào cũng đặc
sắc, trong đó phải kể đến Xóm Ngự Viên, Giời mưa ở Huế và Một
con sông lạnh.
Nguyễn Bính
(1918 - 1966)
|
Theo nhà văn Tô Hoài: Lúc mới
vào Huế, vị mạnh thường quân sắp xếp cho ba người ở ngôi nhà trọ ngay xóm Ngự
Viên (trên trục đường Ngự Viên, thuộc phường Phú Cát bây giờ), sau đó dời đến
chùa Trúc Lâm.
Tìm hiểu sách vở, Nguyễn
Bính được biết xóm Ngự Viên trước đây vốn là vườn Thượng Uyển. Tác giả đối sánh
quá khứ và hiện tại qua nghệ thuật sắp đặt. Quá khứ hết sức tao nhã. Nào là:
“ngời son phấn”, “nở gót sen”, “hương đưa bát ngát”… Còn hiện tại thì hết sức
tàn tạ với “giậu đổ, dây leo”, “xóm vắng, rêu xanh”, hoa tàn, lá rụng… Cái cảnh
“gieo cầu” của các nàng tôn nữ thời xưa ở vườn Thượng Uyển được Nguyễn Bính tái
hiện lại rất nên thơ:Gót sen bước nhẹ lầu tôn nữ/ Ngựa bạch buông chùng áo trạng
nguyên… Cảnh tượng thật lãng mạn: Lòng Trạng lâng lâng màu phú quý/
Quả cầu nho nhỏ bói lương duyên/ Tay ai ấy nhỉ gieo cầu đấy/ Nghiêng cả
mùa xuân, Trạng ngước nhìn…
Thơ Nguyễn Bính vốn bình dị,
dân dã nhưng khi cần cũng hết sức quý phái, cao sang. Cái “màu phú quý”
và “nghiêng cả mùa xuân” là cách nói khá độc đáo của thi sĩ. Đối lập với quá khứ
hào hoa, phong nhã là một hiện tại hỗ lốn, nhếch nhác: Nhà cửa xúm nhau
thành một xóm/ Cay nồng hơi thuốc lẫn với hơi men/ Mụ vợ bắc nam người tứ xứ/
Anh chồng tay trắng lẫn tay đen. Đạo đức suy thoái một cách trầm trọng: Đổi
thay tình nghĩa như cơm bữa. Những nàng tôn nữ đài các ngày xưa bây giờ ngồi
cặm cụi đan từng chiếc áo.
Khúc “Hậu đình hoa” sang trọng
như thế giờ đem “hát tự nhiên”. Tiếng nhạc ngựa vang lừng không còn nữa, chỉ
còn lại “nhọc nhằn tiếng cú trong thanh vắng”. Nghe và thấu hiểu được tiếng cú
“nhọc nhằn” thì quả là chỉ có tài thơ như Nguyễn Bính. Bằng trí tưởng tượng vô
cùng phong phú, thi sĩ đã làm sống lại những nét văn hóa cung đình tôn nghiêm,
trang nhã vốn đã bị mai một theo thời cuộc.
Ở bài thơ Xóm Ngự Viên,
có tiếc nuối nhưng không hẳn là hoài cổ mà chủ yếu là “nỗi đau đớn lòng”
trước cảnh “bãi bể nương dâu”. Bởi vậy, chúng ta hiểu vì sao tác giả đang ở
ngay xóm Ngự Viên mà lại “nhớ Ngự Viên”! Đây là một trong những bài thơ trữ
tình thế sự độc vận hiếm hoi của Nguyễn Bính.
Cũng viết theo lối độc
vận nhưng so với Xóm Ngự Viên thì bài Giời mưa ở Huế ra đời
muộn hơn. Đó là thời điểm tác giả rời xa Hà Nội “bốn tháng hình như kém mấy
ngày”. Nếu Xóm Ngự Viên Nguyễn Bính ẩn mình qua nhân vật du khách thì Giời mưa ở
Huế tác giả không chỉ bộc lộ tâm trạng của mình mà còn nói hộ nỗi lòng cho cả
người bạn đang “nằm mốc” ở Huế cùng với mình.
Huế nổi tiếng với núi Ngự,
sông Hương, với những đền đài, lăng tẩm. Huế còn nổi tiếng về mưa. Cả nước ai
cũng biết mưa Huế. Người Huế quá thấm thía cái mùa mưa của xứ sở mình. Nguyễn
Bính sống ở Huế vào đúng mùa mưa. Điệp khúc “Giời mưa ở Huế sao buồn thế/
Cứ kéo dài ra đến mấy ngày” láy đi, láy lại đã phần nào diễn tả được những
cơn mưa triền miên, dai dẳng, lê thê của Huế. Điệp khúc ấy tạo nên âm hưởng thật
đặc biệt. Cảm giác tụ đọng, quanh quẩn, ẩm ướt, chán ngán cũng bắt đầu từ điệp
khúc ấy. Trên cái nền mưa triền miên, dai dẳng, lê thê rả rích... là tâm trạng
tha hương của tác giả.
Thi sĩ Lăn lóc có dư mười
mấy tỉnh/ Để rồi nằm mốc ở nơi đây... Chỉ xét về phương diện sử dụng từ ngữ
thì Nguyễn Bính cũng rất xứng đáng bậc thầy. Phải là người “đi khắp thiên hạ
mòn gót giày, gãy bánh xe”; phải “giang hồ quen thói vẫy vùng” như Nguyễn Bính
mới cảm thấy như mình đang bị mốc meo trong sự bủa vây dai dẳng của mưa Huế.
Nguyễn Bính khi buồn chán
thường giải khuây bằng thuốc lào: Thuốc lào hút mãi người ra khói! Hút
thuốc lào đến mức “người ra khói”, chưa ai nói như thế cả! Thế mà Trường Tiền vẫn
“vắng ngắt người qua lại”, Đập Đá vẫn “mênh mang bến nước đầy...”. Một chút tơ
vương với cô hàng xóm cũng không thể làm cho thi sĩ khuây khỏa nỗi niềm chán
ngán của mình: Tôi rờn rợn lắm giai nhân ạ!/ Đành phụ nhau thôi kẻo đến
ngày/ Khăn gói gió đưa sang xứ lạ/ Ai cười cho được lúc chia tay?Quá khứ nặng nề,
u ám hiện ra trước mắt thi sĩ: gia đình ly tán, anh em phiêu dạt, người cũ thì
“vung vãi ân tình khắp đó đây”.
Thi sĩ cay đắng nhìn lại
quãng đời vừa qua của mình và chua chát rút ra kết luận: “sòng đời thua nhẵn cả
thơ ngây!”. Hiếm có bài thơ nào của Nguyễn Bính giúp chúng ta hiểu về tính
cách, cảnh ngộ, thân phận... của nhà thơ như Giời mưa ở Huế.
Cũng làm theo thể thất ngôn
trường thiên nhưng ở bài thơ Một con sông lạnh Nguyễn Bính không viết
theo lối độc vận như hai bài thơ trên. Đây là bài thơ tác giả sáng tác trước
khi chia tay với Huế: Khoan đàn em hãy gắng say/ Một đêm, còn một đêm nay thôi
mà... Một cuộc hội ngộ, giao lưu giữa tài tử với giai nhân.
Cảnh và tình hòa quyện vào
nhau chẳng khác gì Bạch Cự Dị nghe đàn tỳ bà trên bến Tầm Dương. Nhưng Bạch Cư
Dị thì tỉnh để chia sẻ, để cảm thông, để đồng cảm với người phụ nữ gảy đàn, còn
Nguyễn Bính thì say với tiếng đàn, với giọng ca của nàng kỹ nữ. Thi sĩ nhìn ánh
nến thấy “ánh nến hoen vàng”, thi sĩ nghe tiếng đàn mà ngỡ như đang nghe tiếng
vó ngựa dồn dập của quân Phiên. Thi sĩ lẫn lộn giữa người thực và người trong
tưởng tượng: “Ồ nàng không phải là em! Rồi “Đừng em, quên đấy thôi nàng...
Thi sĩ đắm mình trong cái trạng
thái “chập chờn cơn tỉnh, cơn mê” nửa hư, nửa thực. Cho đến khi:Đêm tàn chẳng
có chiêm bao/ Đêm tàn có mấy chòm sao cũng tàn/ Chén sầu đổ ướt tràng giang/
Canh gà bên ấy giăng sang bên này, thi sĩ ao ước: Lạy giời đừng sáng
đêm nay/ Thuyền không cập bến tôi say suốt đời. Tác giả bỏ lửng với câu kết: Chiêu
Quân lên ngựa mất rồi! gợi bao nỗi bâng khuâng, luyến tiếc… Bài thơ đã kết
thúc nhưng chàng thi sĩ của chúng ta thì dường như vẫn còn đương say. Vẻ đẹp Huế,
con người Huế làm thi sĩ không muốn rời xa.
Nguyễn Bính (1918 - 1966) đã
thành người thiên cổ cách đây đúng 50 năm, nhưng những vần thơ của thi sĩ viết
tại Huế như vẫn còn văng vẳng đâu đây. Mỗi lần đọc lại Xóm Ngự Viên, Giời
mưa ở Huế, Một con sông lạnh… tôi cứ hình dung Nguyễn Bính đang đứng trầm tư,
suy ngẫm trên đường Ngự Viên, đang cùng bạn chạm cốc bên bờ sông Bến Ngự và
đang nâng ly rượu mời người đẹp trong con thuyền trôi lơ lửng trên dòng Hương…
Xứ Huế đã gợi cho thi sĩ bao nhiêu thi tứ. Đi sâu tìm hiểu chùm thơ Nguyễn Bính
viết tại Huế chúng ta không chỉ hiểu thêm tài năng thi ca, thân phận, nỗi niềm…
mà còn hiểu đầy đủ hơn tình cảm sâu nặng của thi sĩ đối với xứ Huế mộng mơ.
MAI VĂN HOAN
Theo http://www.baodanang.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét