61
Chỉ còn
lại khu vực phía Tây là khu vực gian nan nhất. Căn cứ theo bản đồ thì ở đấy có
một con đường đi bộ được, dẫn đến một vạt đất cao bằng phẳng có núi đá bao
quanh, tại đấy có di tích nổi tiếng của lâu đài "Bộ xương cùm xích"
và gần đó, như thường thấy trong những trường hợp như vậy, có quán rượu
"Trên đường đến bộ xương cùm xích"
Tại khu
di tích hoang tàn ấy, quả thật có thể nhìn thấy những phần còn lại của một
đường hầm ngầm và đằng sau dãy chấn song sắt là một bộ xương đồ sộ bị cùm chặt
trong mớ xích han gỉ, ở tư thế ngồi. Hình vẽ bộ xương ấy trên những tấm bưu
ảnh, trên những con dao cắt và cốc vại đựng bia được bày bán khắp nơi. Thậm chí
có thể mất hai đồng để chụp ảnh cạnh bộ xương và gửi bức ảnh cho những người
quen biết hoặc cô gái mình yêu mến. Cứ vào ngày chủ nhật là nơi di tích này lại
chen chúc những tiểu thị dân đến nghỉ ngơi, và quán rượu tấp nập người ra vào.
Thường có cả khách nước ngoài nữa.
Nhưng
sau chiến tranh, niềm ham thích bộ xương nổi tiếng kia giảm hẳn đi. Giới tiểu
thị dân đã sa sút, vào những ngày hội hè, họ ngại trèo lên ngọn núi dốc đứng và
ưa thích nằm dài trên bờ sông, dưới rặng cây đoạn, nhấm nháp bia và những
khoanh bánh mì kẹp thịt hơn...
Chính
di tích ấy là nơi Henrích và Khơlưnốp hiện đang đi đến. Họ tạt vào quán điểm
tâm trên quảng trường thành phố để ăn uống một lát, nghiên cứu hồi lâu tấm bản
đồ địa phương và hỏi han tỉ mỉ người hầu bàn.
Hóa ra
ở mạn Tây của thung lũng, ngoài khu di tích và quán rượu kia, còn một thắng
cảnh nữa: đó là tòa biệt thự của chủ xưởng sản xuất máy chữ đã bị phá sản trong
những năm qua. Tòa biệt thự nằm ở sườn đồi phía Tây, từ thành phố không nhận
thấy được. Viên chủ xưởng sống ở đây một mình, gần như không ra ngoài.
Mãi đến
quá nửa đêm trăng tròn mới mọc lên. Những gì mà trước đây hình như là một sự
chồng đống lờ mờ những tảng đá và núi đá, thì nay hiện ra lồ lộ dưới ánh trăng:
bóng mượt mà của những mái vòm còn lành lặn trải dài xuống phía dưới vào tận
hẻm núi, những phần còn lại của bức tường pháo đài mọc đầy những cây nhỏ cong
queo và đám đũm hương chằng chịt, ngọn tháp hình vuông như bừng sống dậy: đây
là phần cổ nhất của lâu đài do những người Noócmăng xây dựng nên, hoặc
"Tháp tra khảo", như tên gọi ghi trên các bưu ảnh.
Ở mạn
Đông, tiếp giáp với ngọn tháp này là những mái vòm bằng gạch, chắc hẳn khi xưa
đó là đường hành lang nối liền ngọn tháp cổ với tòa lâu đài dùng để ở. Dưới
chân ngọn tháp ấy chính là nơi có "Bộ xương cùm xích".
Henrích
tì khuỷu tay vào dãy chấn song nhìn bộ xương hồi lâu rồi quay về phía Khơlưnốp
nói:
- Bây
giờ anh hãy nhìn phía dưới kia!
Mãi
phía bên dưới là dải thung lũng chìm ngập trong ánh trăng mờ mờ. Dòng sông lấp
lánh vẩy bạc tại những nơi nước chảy qua các bụi cây. Thị trấn như một thứ đồ
chơi huyền ảo. Không một ô cửa sổ nào sáng ánh đèn. Bên kia thị trấn, mạn bên
trái, là hàng trăm ánh đèn rực sáng của Công ty hóa chất anilin. Những cột khói
trắng bốc cao, lửa hồng phát ra từ các ống khói. Văng vẳng vọng đến tiếng còi
tàu và tiếng ầm ầm gì đó.
- Tôi
nói đúng, - Henrích lên tiếng, - chỉ từ khoảng đất cao này mới có thể bắn phá
bằng tia được. Anh nhìn xem, kia là những kho chứa nguyên liệu, sau con đê bằng
đất kia kìa là những kho chứa bán thành phẩm, chúng hoàn toàn phơi mình ra, còn
kia là những tòa nhà dài, nơi sản xuất axít xuynphuyrích theo phương pháp Nga,
từ hợp chất xuynphua. Còn những mái nhà tròn đứng riêng hẳn ra là nơi sản xuất
anilin cùng tất cả những chất quỷ quái khác, những chất đó sẵn sàng nổ tung
lên, đôi khi chỉ là do tính đỏng đảnh của chúng thôi.
- Cứ
cho là thế đi, Henrích ạ. Nhưng nếu dự đoán rằng Garin sẽ chỉ bố trí bộ máy của
y vào đêm hai mươi bảy rạng ngày hai mươi tám thì nhất định phải có dấu hiệu
chuẩn bị sơ bộ chứ.
- Phải
xem xét kỹ khu di tích đổ nát này mới được. Tôi sẽ điều tra kỹ tình hình ngọn
tháp, còn anh hãy điều tra kỹ tình hình các bức tường và mái vòm... Thật ra,
không thể tìm được chỗ nào tốt hơn chỗ bộ xương này đâu.
- Đến
bảy giờ, chúng ta sẽ gặp lại nhau ở quán ăn.
- Đồng
ý.
63
Vào lúc
tám giờ, Henrích và Khơlưnốp ngồi uống sữa tại hàng hiên bằng gỗ của quán ăn
"Trên đường đến bộ xương cùm xích". Những cuộc tìm kiếm đêm qua không
đem lại kết quả gì hết. Họ ngồi im lặng, hai tay đỡ lấy đầu. Trong những ngày
qua, họ đã hiểu nhau đến nỗi có thể đọc được ý nghĩ của nhau. Vốn là người mẫn
cảm hơn và ít tự tin hơn, Khơlưnốp nhiều lần bắt đầu xem xét lại toàn bộ quá
trình suy nghĩ đã đưa anh và Henrích từ Pari đến nơi đây, một nơi hình như vô
hại này. Dựa vào đâu mà họ lại làm như vậy? Dựa vào hai ba dòng chữ trên báo.
-
Henrích, liệu chừng chúng ta bị mắc lỡm không?
Henrích
đáp:
- Trí
tuệ con người chỉ có hạn. nhưng đối với công việc thì dựa vào trí tuệ bao giờ
cũng hợp lý hơn là nghi ngờ. Hơn nữa, nếu chúng ta không tìm thấy gì hết và hành
động quỷ quyệt của Garin chỉ là sự tưởng tượng của chúng ta thì thật may mắn
quá. Chúng ta đã làm tròn nghĩa vụ của mình.
Người
hầu bàn mang đến dĩa trứng tráng và hai cốc vại bia. Rồi chủ quán xuất hiện,
đấy là một người đàn ông to béo, hồng hào. Ông ta huyên thuyên hồi lâu về lịch
sử trong vùng, rồi quay ra quảng cáo những tấm bưu ảnh in hình "bộ xương
cùm xích". Thấy hai người khách không tỏ ra quan tâm, ông ta bỏ đi, nhưng
lập tức trở lại ngay với một chiếc hộp nhỏ tựa như hộp xì gà. Trên nắp hộp bằng
gỗ cũng khắc hình bộ xương nổi tiếng kia.
- Các
ngài có muốn thử không? Bộ máy này hoạt động không thua kém gì những bộ máy
chạy bằng đèn âm cực đâu - Ông ta nhanh nhẹn lắp dây dẫn và các ống nghe rồi
cắm máy thu thanh vào ổ cắm bố trí dưới gầm bàn. - Chỉ cần ba mác rưỡi thôi, -
ông ta nói tiếp và đưa bộ tai nghe cho Khơlưnốp, - là có thể ta nghe thấy
Béclin, Hămbua, Pari nếu như ngài thích nghe. Tôi sẽ thu xếp để ngài nghe thấy
nhà thờ lớn Côlônhơ, tại đấy đang có buổi lễ, và ngài sẽ nghe thấy tiếng đàn
đại phong cầm, thật ghê gớm, phải không?... Ngài hãy quay cần gạt sang bên
trái... Có chuyện gì thế? Hình như gã Stuphe khốn kiếp lại gây trở ngại rồi thì
phải?
- Ai
gây trở ngại kia? - Henrích hỏi, cúi xuống bộ máy.
-
Stuphe, gã chủ xưởng sản xuất máy chữ đã phá sản, một kẻ say rượu và điên rồ...
Hai năm trước đây, gã ta đã lắp một đài phát sóng trong biệt thự của gã. Rồi gã
bị phá sản. Nhưng đài phát sóng lại mới bắt đầu hoạt động trở lại...
Mắt
Khơlưnốp sáng lên một cách lạ lùng, anh đặt ống nghe xuống.
-
Henrích, ta trả tiền rồi đi đi.
Một vài
phút sau, khi đã thoát được ông chủ quán lắm lời, họ bước ra đường, Khơlưnốp
nắm chặt tay Henrích:
- Tôi
nghe thấy rồi, tôi nhận ra giọng Garin...
64
Sáng
hôm đó, trước đấy một tiếng đồng hồ, tại ngôi biệt thự của Stuphe nằm trên sườn
đồi phía Tây, trong phòng ăn lờ mờ tối, Stuphe ngồi ở bàn và nói chuyện với một
người đối thoại vô hình. Đúng hơn đấy là những câu nói và những lời chửi rủa
rời rạc, đứt đoạn. Trên chiếc bàn phủ đầy tàn thuốc lá, lăn lóc những chai rượu
rỗng không, những đầu mẩu xì gà, chiếc cổ áo và chiếc cà vạt của Stuphe. Ông ta
chỉ mặc bộ đồ lót, tay gãi gãi bộ ngực mềm nhẽo, mắt chằm chằm nhìn vào ngọn
đèn điện duy nhất còn cháy sáng trong cả bộ đèn chùm đồ sộ bằng sắt, và vừa cố
kìm cơn sợ vừa khe khẽ chửi rủa những hình bóng người hiện lên trong đầu óc say
khướt của ông ta bằng các lời lẽ tục tằn nhất.
Chiếc
đồng hồ trong phòng ăn trang trọng đánh bảy tiếng như bảy tiếng cồng. Gần như
ngay lập tức vang lên tiếng xe hơi chạy đến. Garin bước vào phòng ăn, khắp
người y đẫm mùi gió sớm, vẻ mặt y đầy giễu cợt, răng y nhe ra, chiếc mũ da đội
sụp sau gáy:
- Ông
lại say suốt đêm phải không?
Stuphe
đưa cặp mắt đỏ ngầu liếc nhìn Garin. Ông ta thích y. Y trả tiền thứ gì cũng
thật hào phóng, y không hề mặc cả, thuê luôn mấy tháng hè ngôi biệt thự này
cùng hầm rượu, nhưng vẫn để Stuphe tha hồ sử dụng các loại rượu mùi và các loại
sâm banh lâu đời của Pháp và của vùng sông Ranh. Có trời mới biết y làm nghề
gì, chắc hẳn là nghề đầu cơ, nhưng y chửi mắng tàn tệ bọn người Mỹ là những kẻ
đã làm Stuphe phá sản hai năm trước đây, y khinh bỉ chính phủ và gọi mọi người
là đồ súc sinh - Điều đó cũng thật hợp ý Stuphe.
- Còn
ông thì có lẽ suốt đêm cầu Chúa chắc? - Stuphe khàn khàn hỏi lại.
Garin
cười phá lên một hồi ngắn. Rồi y vỗ vào tấm lưng núc ních của Stuphe.
- Mỗi
chúng ta đều giải trí theo cách riêng của mình. Mà này, trong lúc tôi vắng mặt,
không có hai người nào đến hỏi tôi chứ?
-
Không.
- Tốt
lắm. Ông đưa cho tôi chìa khóa nhà kho nào.
Garin
vừa quay quay chiếc chìa khóa vừa bước ra vườn, nơi có một ngôi nhà kho nhỏ lắp
kính dưới những dàn ăng ten ngang dọc. Y đẩy cửa ra vào, bước vào trong và mở toang
các ô cửa sổ. Chống khuỷu tay lên bậu cửa, y đứng một lát, hít thở bầu không
khí mát mẻ buổi sáng. Y đã ngồi trên ôtô gần hai mươi tiếng đồng hồ để thu xếp
công việc với các ngân hàng và các nhà máy. Giờ đây, mọi chuyện đã đâu vào đấy
trước ngày hai mươi tám.
Y không
nhớ là đã đứng như vậy bao nhiêu lâu bên cửa sổ. Rồi y vươn vai, châm thuốc
hút, mở máy phát điện, xem xét và điều chỉnh các bộ máy. Sau đó, y đứng trước
micrô và chậm rãi gọi to:
- Dôia,
Dôia, Dôia, Dôia... Hãy nghe đây, hãy nghe đây, hãy nghe đây... Tất cả những gì
em muốn rồi sẽ có. Chỉ có điều là hãy biết ham muốn. Anh cần có em. Không có
em, công việc của anh sẽ mất hết ý nghĩa. Vài ngày nữa, anh sẽ đến Naplơ. Đến
mai anh sẽ báo chính xác cho em biết. Em đừng lo lắng gì hết. Mọi việc đều tốt
đẹp.
Y im
lặng một lát, hít một hơi thuốc rồi lại bắt đầu gọi: "Dôia, Dôia,
Dôia...". Y nhắm mắt lại. Chiếc máy phát điện ầm ì kêu khe khẽ, những tia
chớp vô hình lần lượt thoát ra khỏi ăng ten.
Dù đoàn
xe kéo pháo có ầm ầm lăn bánh qua lúc này thì chắc hẳn Garin cũng không nghe
thấy. Y cũng không nghe thấy ở cuối bãi cỏ có tiếng sỏi đá lăn rào rào xuống
sườn dốc. Rồi bụi cây cách tòa nhà năm mươi bước chân bỗng tách ra và nòng đen
nhánh của một khẩu súng côn nâng
lên ngang tầm mắt.
Rôlinh
cầm lấy ống điện thoại:
- Nói
đi.
- Tôi
là Xêmiônốp đây. Tôi vừa bắt được làn sóng của Garin. Ngài cho phép đọc chứ?...
- Được.
-
"Tất cả những gì em muốn rồi sẽ có, chỉ có điều là hãy biết ham
muốn..." - Xêmiônốp vội vã dịch những câu nói của Garin từ tiếng Nga sang
tiếng Pháp. Rôlinh lặng im nghe, không thốt ra một lời nào.
- Hết
rồi chứ?
- Vâng
ạ.
- Ông
hãy ghi chép đi, - Rôlinh bắt đầu đọc: - điều chỉnh ngay đài phát sang làn sóng
bốn trăm hai mươi mốt. Ngày mai, mười phút trước lúc ông bắt được bức điện hôm
nay, hãy bắt đầu phát những câu sau đây: "Dôia, Dôia, Dôia... Xảy ra một
tai họa bất ngờ. Cần phải hành động. Nếu bà coi trọng tính mạng người bạn của
bà thì thứ sáu này hãy lên bờ ở Naplơ, dừng chân tại khách sạn
"Xplenđiđơ" và chờ tin tức cho đến trưa thứ bảy". Ông hãy nhắc
đi nhắc lại liên tục, ông nghe thấy chứ, ông nhắc đi nhắc lại liên tục bằng một
giọng to và thuyết phục. Có thế thôi.
Rôlinh
bấm chuông.
- Tìm ngay Tưclinxki và đưa đến đây gặp tôi, - y
bảo viên thư ký vừa hối hả chạy bổ vào. - Rồi ra ngay sân bay. Thuê hoặc mua
một chiếc máy bay chở khách. Mướn phi công và thợ máy. Đến ngày hai mươi tám,
mọi thứ đều phải sẵn sàng cho chuyến bay...
66
Suốt
ngày còn lại, Henrích và Khơlưnốp lang thang trong thị trấn K. Họ đi dạo khắp
các đường phố, tán gẫu về mọi chuyện linh tinh với những người dân địa phương,
tự xưng là khách du lịch. Khi thành phố đã lặng yên, họ lại đi vào núi. Quãng
nửa đêm, họ đã leo lên con đường dốc thoải dẫn vào khu vườn của Stuphe. Họ
quyết định sẽ khai là những nguời du lịch bị lạc đường, nếu như cảnh sát chú ý
đến họ. Nếu họ bị bắt thì cũng chẳng có gì nguy hiểm: cả thành phố có thể xác
nhận tình trạng ngoại phạm của họ. Sau phát súng bắn từ bụi cây, khi đã nhìn
thấy rõ đầu Garin vỡ tan thành từng mảnh và chỉ bốn mươi phút sau là cùng, họ
đã có mặt ở thành phố.
Họ đã
bò qua hàng dậu thấp, lẩn sau các bụi cây, đi vòng quanh quãng rừng thưa rồi
bước về phía nhà Stuphe. Họ dừng lại, liếc nhìn nhau, không hiểu gì hết. Trong
vườn và trong nhà vẫn yên tĩnh và bình lặng. Một vài ô cửa sổ sáng ánh đèn.
Chiếc cửa lớn dẫn thẳng vào vườn vẫn mở toang. Ánh sáng dìu dịu tỏa xuống hàng
bậc đá. Ở bậc thềm trên cùng, một người to béo đang khe khẽ thổi sáo. Bên cạnh
ông ta là một chai rượu đặt trong lưới bện. Đấy chính là người mà sáng nay đã
bất ngờ xuất hiện trên con đường hẻm gần đài phát sóng và khi nghe thấy tiếng
súng đã lảo đảo chạy về phía ngôi nhà. Giờ đây, ông ta đang ung dung, dường như
chẳng có gì xảy ra hết.
- Ta
đến đi, - Khơlưnốp thầm thì, - phải tìm hiểu mới được.
Henrích
lầu bầu:
- Tôi
không thể bắn trượt đâu.
Họ đi
về phía bậc thềm. Đến nửa chừng, Khơlưnốp thấp giọng hỏi:
- Xin
lỗi vì đã làm phiền ông... Ở đây không có chó chứ?
Stuphe
buông sáo xuống, quay đầu lại, vươn cổ ra nhìn hai bóng người lờ mờ.
- Có
đấy, - ông ta kéo dài giọng, - chó ở đây dữ lắm.
Khơlưnốp
giải thích:
- Chúng
tôi bị lạc đường, chúng tôi muốn tham quan khu di tích "Bộ xương cùm
xích"... Ông cho phép ngồi nghỉ một lát.
Xtuphe
đáp lại bằng một tiếng ầm ừ mơ hồ. Henrích và Khơlưnốp cúi chào rồi ngồi xuống
bậc thềm phía dưới - cả hai đều cảnh giác, hồi hộp. Stuphe từ bên trên nhìn họ.
- Các
ông biết không, - ông ta lên tiếng, - hồi tôi còn giàu có, tôi cho thả chó vào
vườn. Tôi không ưa những kẻ càn rỡ và những vị khách ban đêm. (Khơlưnốp nhanh
nhẹn bóp chặt tay Henrích ra ý bảo: đừng nói gì hết). Bọn Mỹ đã làm tôi phá sản
và khu vườn biến thành con đường qua lại của những kẻ vô công rồi nghề, mặc dù
đâu đâu cũng treo biển cảnh cáo là phạt đến một nghìn mác. Nhưng nước Đức không
còn là đất nước của những người dân tôn trọng luật pháp và quyền sở hữu nữa.
Tôi đã bảo người thuê biệt thự của tôi như thế này: hãy dùng dây thép gai bao
quanh khu vườn và hãy thuê lấy một người gác. Nhưng ông ta không chịu nghe tôi
và chính ông ta có lỗi...
Henrích
nhặt một viên đá ném vào bóng tối và hỏi:
- Ông
đã gặp một chuyện gì khó chịu vì những vị khách ấy phải không?
- Nói
"khó chịu" thì quá nhấn mạnh, nhưng buồn cười thì có. Và mới sáng hôm
nay thôi. Dù sao chăng nữa thì quyền lợi kinh tế của tôi không bị động chạm
đến, và tôi sẽ đắm mình trong trò giải trí của tôi.
Ông ta
đưa sáo lên môi và thổi vài âm thanh chói tai.
- Suy
đến cùng thì việc ông ta ở đây hay say sưa ở Côlônhơ nào có quan hệ gì đến tôi.
Ông ta trả tiền sòng phẳng... Không một ai dám trách móc ông ta điều gì hết.
Nhưng ông ta hóa ra là một người nóng nảy. Lẽ ra trong thời gian chiến tranh đã
phải quen với tiếng súng rồi... Ông ta thu xếp hết đồ đạc rồi từ biệt tôi...
Được thôi, xin cứ việc mà đi...
- Ông
ta đi hẳn rồi à? - Khơlưnốp bỗng hỏi to.
Stuphe
nhỏm dậy nhưng lại ngồi xuống. Có thể thấy rõ má ông ta được ánh sáng trong
phòng hắt ra chiếu sáng bỗng nhòa ra, béo phị - ông ta mỉm cười giễu cợt. Chiếc
bụng phệ của ông ta rung rung.
- Quả
đúng như ông ta đã báo cho tôi biết trước: nhất định sẽ có hai quí ông đến hỏi
tôi về việc ông ta ra đi. Ông ta đi hẳn, đi hẳn rồi, các quí ngài ạ. Nếu các
ngài không tin, tôi sẽ cho các ngài xem phòng của ông ta. Nếu các ngài là bạn
ông ta thì xin các ngài cứ việc mà xem... Đấy là quyền của các ngài vì căn
phòng đã được trả tiền rồi...
Stuphe
lại định đứng dậy, nhưng hai chân ông ta chỉ chực khuỵu xuống. Không thể khai
thác được gì có ích ở ông ta nữa. Henrích và Khơlưnốp trở lại thành phố. Suốt
dọc đường, họ không nói với nhau một lời nào. Mãi khi đến chiếc cầu qua dòng
sông đen sẫm phản chiếu ánh đèn, Henrích mới đột ngột dừng lại, bóp chặt nắm
tay:
- Quỷ
quái thật! Chính tôi nhìn thấy đầu y vỡ tan kia mà...
Một
người nhỏ bé, rắn chắc, bộ tóc hoa râm chải mượt, đeo đôi kính xanh che lấp cặp
mắt đau, đứng cạnh lò sưởi lát gạch men và cúi đầu nghe Khơlưnốp nói.
Lúc
đầu, Khơlưnốp ngồi trên đi văng, sau đó anh chuyển sang ngồi trên bậu cửa sổ,
rồi anh bắt đầu rảo bước đi đi lại lại trong phòng khách nhỏ của sứ quán Liên
Xô.
Anh kể
chuyện Garin và Rôlinh. Câu chuyện của anh chính xác và nhất quán, nhưng chính
anh cũng cảm thấy tất cả những biến cố lộn xộn ấy thật khó lòng tin nổi.
- Cứ
giả dụ tôi và Henrích sai lầm đi. Thế thì tuyệt quá, chúng tôi có những kết
luận sai lầm. Nhưng dù sao thì khả năng xảy ra tai nạn vẫn là năm mươi phần
trăm. Chúng ta phải quan tâm đến năm mươi phần trăm ấy. Với tư cách là đại sứ,
đồng chí có thể thuyết phục, gây ảnh hưởng, giải thích... Tất cả những chuyện
đó đều hết sức nghiêm trọng. Bộ máy kia là có thực. Đồng chí Senga đã sờ tận
tay rồi. Cần phải khẩn trương hành động ngay lập tức. Đồng chí chỉ còn có hơn
một ngày đêm thôi. Đêm mai, tất cả những chuyện đó nhất định sẽ xảy ra. Henrích
ở lại K. Anh ấy đang làm tất cả những gì có thể làm được để báo trước cho công
nhân, các công đoàn, nhân dân thành phố và ban quản trị các nhà máy. Đương
nhiên là không một ai tin cả... Đấy, ngay cả đồng chí nữa...
Đại sứ
vẫn cúi đầu im lặng.
- Tại
tòa soạn báo địa phương, họ đã cười giễu chúng tôi đến chảy nước mắt. May lắm
thì họ coi chúng tôi là hai gã điên rồ...
Khơlưnốp
ôm chặt lấy đầu - những món tóc rối bù nhô lên qua kẽ ngón tay. Mặt anh hốc
hác, dính đầy bụi. Cặp mắt trắng nhợt dừng lại, như trước một ảo ảnh ghê sợ.
Đại sứ thận trọng ngước nhìn anh qua đôi kính:
- Tại
sao đồng chí không đến gặp tôi sớm hơn?
- Chúng
tôi chưa có các sự việc cụ thể... Những giả thuyết, những kết luận - những thứ
đó rất gần với trí tưởng tượng huyễn hoặc, điên rồ... Ngay bây giờ tôi cũng
luôn có cảm giác là tôi sắp thức tỉnh và sẽ thở phào nhẹ nhõm. Nhưng tôi cam
đoan với đồng chí là đầu óc tôi hoàn toàn tỉnh táo. Đã tám ngày đêm nay tôi và
Henrích không ngủ.
Sau một
lát im lặng, đại sứ nghiêm trang nói:
- Tôi
tin rằng đồng chí không phải là kẻ lừa gạt, đồng chí Khơlưnốp ạ. Chắc hẳn đồng
chí đã bị ám ảnh bởi một ý tưởng gì đó, - ông lập tức giơ tay lên để chặn cử
chỉ tuyệt vọng của Khơlưnốp, - nhưng tôi bị thuyết phục vì khả năng năm mươi
phần trăm của đồng chí. Tôi sẽ làm tất cả những gì thuộc khả năng của tôi...
68
Ngày
hai mươi tám, từ sáng sớm, trên quảng trường thành phố K, dân chúng tụ tập lại
thành từng nhóm, người thì nghi hoặc, người thì có phần sợ hãi, họ thảo luận về
những bản cáo thị lạ lùng dán bằng bột mì nhão trên các bức tường nhà tại khắp
các ngã tư.
"Cả
chính quyền lẫn ban quản trị các nhà máy và các nghiệp đoàn đều không muốn lắng
nghe lời kêu gọi khẩn thiết của chúng tôi. Hôm nay, - chúng tôi tin chắc như
vậy, - các nhà máy, thành phố và toàn thể dân chúng đứng trước một tai họa chết
chóc. Chúng tôi đã cố gắng ngăn chặn nó, nhưng lũ khốn kiếp bị bọn chủ ngân
hàng Mỹ mua chuộc đã tỏ ra quá xảo quyệt. Đồng bào hãy tự cứu lấy mình, hãy rời
khỏi thành phố, chạy ra vùng đồng bằng ngay. Vì cuộc sống của đồng bào, vì tính
mạng của con cái đồng bào, hãy tin lời chúng tôi".
Cảnh
sát đã đoán ra ai là người viết các bản cáo thị này, họ lùng kiếm Henrích.
Nhưng anh đã biến mất. Đến trưa, chính quyền thành phố ra thông báo, cảnh cáo
là trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được rời bỏ thành phố và gieo rắc
kinh hoàng, bởi vì rõ ràng rằng đêm nay bọn vô lại có ý định cướp phá các ngôi
nhà bỏ trống.
"Thưa
toàn thể dân chúng, các người đang bị lừa gạt. Hãy tỏ ra tỉnh táo. Ngay hôm
nay, bọn vô lại sẽ bị phát hiện, bị bắt giữ và bị xử lý theo pháp luật".
Chính
quyền đã đạt được mục đích: điều bí ẩn đe dọa kia hóa ra thật giản dị. Dân
chúng lập tức yên tâm và thậm chí còn tự giễu cợt nữa: "Mưu mẹo kể cũng
khá thật đấy - bọn vô lại sẽ tha hồ mà làm mưa làm gió trong các nhà, các cửa
hàng. Còn lũ ngu muội chúng ta thì sẽ sợ run lên suốt đêm ngoài đồng bằng, ha
ha".
Buổi
tối hôm ấy cũng hệt như hàng nghìn buổi tối khác, ánh hoàng hôn soi sáng các ô
cửa sổ trong thành phố. Chim chóc đã im tiếng trên các cây cối. Ngoài sông, ếch
nhái kêu ộp oạp trên đôi bờ ẩm ướt. Ánh sáng êm dịu chiếu qua cửa sổ các hàng
quán, đám khách quen ung dung nhúng bộ ria trong bọt bia. Cả người chủ quán ăn
ngoại thành "Trên đường dẫn tới bộ xương cùm xích" cũng đã dịu bớt,
ông ta vừa đi đi lại lại trên khu gác sân vắng vẻ vừa nguyền rủa chính phủ, nguyền
rủa bọn đảng viên xã hội và dân Do Thái, ra lệnh đóng kín cửa rồi lên xe đạp đi
về thành phố.
Đúng
lúc đó, trên sườn đồi phía Tây, một chiếc xe hơi không bật đèn, gần như không
có tiếng động cơ, lao vun vút trên con đường ít người qua lại. Hoàng hôn đã
tắt, các ngôi sao vẫn chưa thật sáng, phía sau các ngọn núi tỏa lan một vừng
sáng lành lạnh - trăng lên. Ở vùng đồng bằng, đây đó lập lòe ánh lửa vàng vàng.
Chỉ ở phía các nhà máy là vẫn rộn ràng, nhộn nhịp.
Henrích
và Khơlưnốp ngồi bên dốc đứng ở cuối khu di tích lâu đài cổ. Họ đã một lần nữa
lục soát mọi ngõ ngách và trèo lên ngọn tháp vuông - không hề thấy chỗ nào có
dấu vết công việc chuẩn bị của Garin. Đã có lúc họ cảm thấy như xa xa có tiếng
xe hơi chạy. Họ lắng nghe, chăm chú nhìn. Buổi tối êm ả, đượm vẻ thanh bình cổ
xưa của trái đất. Đôi lúc, những dòng không khí chuyển động, mang đến hơi ẩm
của hoa lá từ phía dưới.
- Tôi
đã xem bản đồ rồi, - Khơlưnốp nói, - nếu chúng ta đi xuống theo hướng Tây thì
chúng ta sẽ cắt ngang con đường sắt tại một ga xép, nơi chuyến xe thư thường đỗ
lại, vào lúc năm rưỡi. Theo tôi thì ở đấy không có cảnh sát gác đâu.
Henrích
đáp:
- Toàn
bộ câu chuyện này đã kết thúc một cách lố bịch và ngu ngốc. Con người chỉ mới
chuyển từ tư thế bò bằng tứ chi lên tư thế đứng thẳng bằng hai chân và nó còn
bị đè nặng bởi hàng triệu thế kỷ sống trong tình trạng man rợ tăm tối. Đám đông
dân đen không được một tư tưởng lớn hướng dẫn thì thật đáng sợ. Không thể để
mặc mọi người chịu cảnh không có người hướng dẫn được. Họ luôn luôn có khuynh
hướng trở lại tư thế bò.
- Ý anh
muốn nói gì đấy, Henrích?
- Tôi
mệt rồi, - Henrích đáp rồi ngồi xuống đống đá, tì chiếc cằm rắn chắc vào hai
nắm tay, - Chẳng lẽ anh không một giây phút nào nghĩ rằng vào ngày hai mươi
tám, chúng ta sẽ bị bắt như những tên bịp bợm và ăn cướp hay sao? Nếu như anh
nhìn thấy những kẻ đại diện chính quyền đã đưa mắt nhìn nhau như thế nào khi
tôi ra sức chứng minh cho họ thấy tai họa có thể xảy ra... Chà! Sao tôi lại ngu
ngốc đến thế. Và họ có lý, vấn đề là như vậy. Họ không bao giờ biết được chuyện
gì đang đe dọa họ...
- Thật
quái quỷ... Nếu như tôi không bắn trượt... Tôi sẵn sàng chịu án mười năm khổ
sai, miễn là chứng minh được cho lũ ngu ngốc ấy...
Giọng
Henrích giờ đây âm vang trong khu thành quách đổ nát. Cách họ ba mươi bước -
hệt như người đi săn lần mò theo tiếng gà rừng - Garin đang men theo bóng tối
của bức tường đã đổ một nửa. Y nhìn rõ bóng hai người bên dốc đứng, nghe rõ
từng câu nói của họ. Đến khoảng trống giữa ngọn tháp và cuối bức tường, y nằm
xuống bò. Ở chỗ giáp giới giữa chân ngọn tháp và chiếc hang mái vòm "Bộ
xương cùm xích" còn sót lại một khúc cột bằng sa thạch Garin lần ra sau
khúc cột đó. Có tiếng đá lạo xạo và tiếng sắt gỉ kêu ken két. Henrích nhảy bật
dậy:
- Anh
nghe thấy không?
Khơlưnốp
nhìn đống đá, nơi Garin vừa độn thổ. Họ chạy đến chỗ đó. Họ đi một vòng quanh
ngọn tháp.
- Ở đây
có cáo, - Henrích nói.
-
Không, chắc đấy là tiếng chim đêm.
- Ta
phải đi thôi. Chúng ta bắt đầu mắc chứng ảo giác rồi đấy...
Khi họ
bước đến gần con đường dốc dẫn từ khu di tích xuống con đường núi, thì một
tiếng động thứ hai vang lên - dường như một cái gì đó rơi xuống và lặng đi.
Henrích run bắn lên. Họ nín thở lắng nghe hồi lâu. Hình như bản thân sự tĩnh
mịch cũng vang lên trong tai họ.
- Ta đi
đi.
- Đúng
đấy, thật ngu ngốc.
Lần
này, họ quả quyết rảo bước, không ngoái đầu lại. Và do đó một người đã thoát
chết.
69
Henrích
không hoàn toàn sai khi đoán chắc rằng anh đã nhìn thấy những mảnh xương sọ của
Garin bắn tóe ra. Khi Garin im lặng khoảng một giây trước micrô, vươn người lấy
điếu xì gà đang tỏa khói ở mép bàn, thì chiếc ống nghe bằng êbônít mà y áp chặt vào tai để kiểm tra giọng nói của mình,
bỗng tan ra từng mảnh. Đồng thời, y nghe thấy một tiếng súng đanh gọn và cảm
thấy đau nhói bên trái đầu. Y lập tức ngã nghiêng xuống rồi nằm sấp và lặng đi
không nhúc nhích. Y nghe thấy tiếng Stuphe rú lên và tiếng chân người chạy đi.
"Ai
- Rôlinh hay Senga?" - y cố sức giải đáp câu hỏi đó khi ngồi trên xe phóng
về Côlônhơ khoảng hai giờ sau. Nhưng chỉ bây giờ, khi nghe thấy câu chuyện của
hai người ngồi bên dốc đứng, y mới đoán ra được. Senga khá thật... Nhưng dù sao
cũng không nên dùng những thủ pháp không cho phép như vậy...
Y đẩy
khúc cột sang bên - khúc cột này che lấp một nắp cửa sập han gỉ, rồi y bò xuống
đất và bật đèn pin, đi theo những hàng bậc vỡ nát lên chiếc "túi đá"
- một hốc nhỏ ăn sâu vào bức tường của ngọn tháp thời Noócmăng. Đấy là một ngăn
xà lim, dài rộng mỗi bề chừng hai bước chân. Trong tường còn giữ lại được những
chiếc vòng và cùm xích bằng đồng. Cạnh bức tường đối diện, bộ máy đặt trên một
chiếc bệ gỗ ghép thô lại với nhau. Phía dưới là bốn hộp sắt tây chứa đinamít.
Phần tường đối diện với nòng bộ máy bị đục thủng, nhưng lỗ thủng bị "Bộ
xương cùm xích" che kín từ phía ngoài.
Y tắt
đèn pin, đẩy nòng bộ máy sang bên, rồi thò tay qua lỗ hổng, gạt bộ xương đi.
Chiếc sọ tung lên, lăn lông lốc. Qua lỗ hổng, có thể nhìn thấy ánh đèn của các
nhà máy. Mắt Garin rất tinh. Y thấy được cả những bóng người nhỏ bé đang đi đi
lại lại giữa các tòa nhà. Cả người y run lên. Răng y nghiến chặt. Y không ngờ
rằng tới được giây phút này lại khó khăn như vậy. Y lại chĩa nòng bộ máy vào lỗ
hổng và lắp khít vào. Y tháo nắp phía sau ra, kiểm tra các khối chóp than. Mọi
việc đều đã chuẩn bị xong xuôi trước đó một tuần lễ. Bộ máy thứ hai và mô hình
cũ nằm trong chiếc xe đỗ ở phía dưới, trong rừng.
Y đóng
nắp lại và đặt tay lên cần động cơ điện dùng để đốt cháy tự động các khối chóp
than. Người y run lên suốt từ đầu đến chân. Không phải lương tâm (còn lương tâm
gì được nữa sau chiến tranh thế giới), cũng không phải nỗi sợ hãi (y quá khinh
suất) cũng không phải lòng thương xót đối với các nạn nhân của y (họ ở quá xa)
đã khiến y cảm thấy vừa ớn lạnh vừa nóng bừng bừng. Y hiểu hết sức rõ rệt rằng
chỉ cần quay một vòng tay lên thôi là sẽ trở thành kẻ thù của nhân loại.
Y thậm
chí bỏ bàn tay khỏi cần gạt và thò vào túi lấy thuốc lá. Nhưng khi ấy, bộ óc
hồi hộp của y trả lời cử chỉ của tay y: "Ngươi trùng trình, ngươi thích
thú, đấy là sự điên rồ..."
Y quay
manhêtô. Lửa trong bộ máy bùng lên, kêu xèo xèo. Y chậm rãi vặn chiếc vít đo vi
lượng.
70
Khơlưnốp
là người đầu tiên chú ý đến luồng ánh sáng trên trời cao.
- Kia
lại thêm một luồng sáng nữa, - anh khẽ nói.
Họ dừng
lại giữa đường và ngẩng đầu nhìn. Phía dưới luồng sáng đầu tiên, bên trên các
vòm cây đã xuất hiện luồng lửa thứ hai, nó vừa để rơi những tia lửa như chiếc
pháo sáng đang tắt vừa hạ thấp xuống.
- Đó là
chim bị bốc cháy đấy, - Henrích thầm thì, - anh nhìn kìa.
Bên
trên khu rừng, một con chim đang bay thong thả, loạng choạng trên dải sáng của
bầu trời. Nó bốc lửa, chao đảo rồi rơi xuống.
- Chúng
bị chạm vào dây điện.
- Dây
điện nào kia?
- Chẳng
lẽ anh không nhìn thấy ư, Henrích?
Khơlưnốp
chỉ một sợi dây lấp lánh thẳng tắp như mũi tên. Nó chạy từ khu di tích trên cao
về phía các nhà máy của Công ty hóa chất anilin. Đường đi của nó được đánh dấu
bằng những chiếc lá bốc cháy, bằng những con chim biến thành lửa. Giờ đây, nó
sáng chói lọi, một đoạn dài của nó đang cắt đứt hàng thông đen dày đặc.
- Nó hạ
xuống kìa! - Henrích hét lên.
Cả hai
đã hiểu sợi dây đó là gì. Họ chỉ có thể sững sờ theo dõi hướng đi của nó. Đòn
đầu tiên của tia sáng giáng vào ống khói nhà máy - ống khói đung đưa, gẫy đôi
rồi rơi xuống. Nhưng cảnh đó xảy ra rất xa, không nghe thấy tiếng rơi.
Gần như
ngay lập tức, ở phía bên phải ống khói, một cột hơi nước bốc lên, bên trên mái
tòa nhà dài, nó đượm hồng và trộn lẫn với khói đen. Dịch sang bên trái một chút
là tòa nhà năm tầng. Đột nhiên, tất cả các ô cửa sổ của nó đều tắt phụt. Khắp
bề mặt tòa nhà, suốt từ trên xuống dưới là những đường chữ chi lửa chạy vùn
vụt...
Khơlưnốp
la hét như điên dại... Tòa nhà đổ sụp, bộ khung nhà chìm trong lửa khói.
Mãi đến
lúc này, Henrích và Khơlưnốp mới lao ngược lại về phía núi, về phía tòa nhà đổ
nát. Họ chạy qua con đường ngoằn ngoèo, bò lên những bờ dốc dựng đứng rậm rạp
cây cối. Họ ngã xuống rồi lại bò tiếp. Họ la hét, chửi rủa - một người bằng
tiếng Nga, một người bằng tiếng Đức. Rồi bỗng vọng đến tai họ là một tiếng động
âm vang như tiếng thở dài của trái đất.
Họ quay
đầu lại nhìn. Giờ đây đã nhìn rõ toàn bộ nhà máy trải dài nhiều cây số. Một nửa
các tòa nhà đang bốc cháy như bằng bìa cứng. Bên dưới, ngay sát thành phố, khói
vàng sẫm bốc lên như chiếc nấm khổng lồ. Tia sáng của bộ máy khủng khiếp lồng
lộn giữa cảnh đổ nát này, lần tìm con mồi chính là các kho chứa chất nổ bán
thành phẩm. Ánh hồng loang ra đến nửa bầu trời. Những đám khói dày đặc, những
bó tia lửa màu vàng, màu hung, màu trắng bạc cuồn cuộn bốc lên cao hơn núi.
- Chà,
chậm mất rồi! - Henrích kêu lên.
Họ nhìn
thấy một khối gì đó sống động tràn ra từ thành phố theo những dải đường trắng
mờ. Đoạn sông phản chiếu toàn bộ đám cháy khủng khiếp hình như gợn lăn tăn vì
những chấm đen. Đấy là dân cư trong thành phố hốt hoảng bỏ chạy ra vùng đồng
bằng.
- Chậm
rồi, chậm mất rồi! - Henrích tiếp tục kêu lên. Bọt và máu trào ra cằm anh.
Chạy
trốn lúc này quả là đã muộn. Cánh đồng cỏ nằm giữa thành phố và khu nhà máy lợp
những hàng mái ngói chạy dài đột nhiên như nâng cao lên. Mặt đất phình ra. Đấy
là cảnh tượng đầu tiên mà mắt họ nhìn thấy. Ngay lập tức, từ trong lòng đất,
những lưỡi lửa phụt lên qua các khe nứt. Rồi cũng ngay lập tức, lửa bùng cao
thành một cột lửa và hơi đốt nóng bỏng, chói lọi và rực rỡ đến mức chưa ai thấy
bao giờ. Bầu trời dường như bay lên cao tít bên trên toàn bộ vùng đồng bằng.
Khắp khoảng không tràn ngập làn ánh sáng xanh xanh, hồng hồng. Trong làn ánh
sáng đó, hệt như vào lúc nhật thực, hiện rõ từng cành cây, từng bụi cỏ, từng
tảng đá và hai mặt người trắng bệch như hóa đá.
Một
tiếng nổ dữ dội. Những tiếng ầm ầm vang rền. Đất toác ra. Núi non rung chuyển.
Trận cuồng phong làm cây cối chao đảo và rạp xuống. Đất đá cùng những khúc gỗ
cháy vỡ bay tứ tung. Những đám khói dầy đặc phủ kín vùng đồng bằng.
Trời
tối lại, và trong bóng tối vang lên tiếng nổ thứ hai, còn khủng khiếp hơn nữa.
Cả bầu không khí mờ khói đều thấm đượm một thứ ánh sáng ảm đạm, ghê sợ.
Gió, những mảnh đá và những cành cây khiến
Henrích và Khơlưnốp ngã lộn nhào rồi kéo băng họ xuống chỗ dốc đứng.
71
- Thuyền trưởng
Gianxen, tôi muốn lên bờ.
- Xin tuân lệnh.
Gianxen đỏ bừng mặt vì
vui sướng. Một phút sau, chiếc xuồng sáu mái chèo sơn bóng được nhẹ nhàng hạ
từ du thuyền "Aridôna" xuống làn nước trong suốt. Ba thủy thủ có
nước da màu đồng hun trượt theo một dây chão xuống xuồng. Họ nâng mái chèo
lên, ngồi bất động.
Gianxen đứng chờ bên
thang du thuyền. Dôia trùng trình, ả vẫn lơ đãng nhìn hình bóng chập chờn vì
không khí nóng rực của thành phố Naplơ với những gác sân lên cao dần, nhìn
những bức tường đất nung và những ngọn tháp của pháo đài cổ kính trên mặt
nước, nhìn đỉnh Vêduyvơ đang lững lờ bốc khói. Trời lặng gió, mặt biển phẳng
lặng như gương.
Rất nhiều thuyền bè
chậm chạp trôi trong vịnh. Trên chiếc thuyền, có một lão già cao to, nom
giống như hình vẽ của Mikenlangiêlô[1], đang đứng chèo. Bộ râu bạc rũ xuống
chiếc áo khoác màu sẫm, rách rưới, vá chằng vá đụp, những món tóc bạc bù xù
như tổ quạ. Khoác qua vai là một chiếc túi bằng vải gai.
Đó là Péppô, lão ăn
mày mà người nào cũng biết.
Lão thường đi ăn xin
trên chiếc thuyền riêng của lão. Hôm qua, Dôia đứng trên du thuyền đã ném cho
lão tờ giấy bạc một trăm đô la. Hôm nay, lão lại chèo thuyền đến chiếc
"Aridôna". Péppô là kẻ lãng mạn cuối cùng của nước Ý cổ xưa, được
các vị thần và các nàng thơ say đắm. Tất cả những chuyện đó đã qua đi không
bao giờ trở lại. Không một ai còn vừa khóc vừa đưa cặp mắt sung sướng nhìn
những khối đá cổ nữa. Những họa sĩ thường trả bằng tiền vàng để vẽ Péppô giữa
những di tích đổ nát của ngôi nhà Xêxili Giucunđut ở Pompây, nay họ đã thối
rữa trên các bãi chiến trường. Thế giới đã trở nên buồn tẻ.
Péppô vừa chậm rãi
chèo vừa cho con thuyền bơi dọc theo mạn du thuyền "Aridôna" đượm
màu xanh vì những làn ánh sáng phản chiếu. Rồi lão ngẩng khuôn mặt nhăn nheo,
lông mày bù xù, tuyệt đẹp như một tấm huy chương, và giơ tay ra, xin của bố
thí. Dôia cúi mình xuống, hỏi bằng tiếng Ý:
- Péppô, lão hãy đoán
chẵn hay lẻ?
- Chẵn, thưa bà.
Dôia ném xuống thuyền
lão một tập giấy bạc mới tinh.
- Xin cảm ơn quí bà
xinh đẹp, - lão trang trọng nói.
Chẳng có gì phải trùng
trình nữa. Dôia đã dự tính rằng nếu lão ăn xin già lại chèo thuyền đến và trả
lời "chẵn" thì có nghĩa mọi chuyện sẽ tốt đẹp.
Tuy nhiên, ả vẫn lo
ngại vì những linh cảm gở: nếu đột nhiên cảnh sát mai phục sẵn ở khách sạn
"Xplenđiđơ" thì sao? Nhưng giọng nói oai vệ lại vang lên trong tai
ả: "... Nếu bà coi trọng tính mạng người bạn của bà...". Không còn
một sự lựa chọn nào khác.
72
Đến khách sạn, Dôia
hỏi người gác cổng xem có thư từ gì gửi bà Lamôlơ hay không? Người gác cổng
đưa cho ả một bức điện không có chữ ký: "Hãy chờ đến tối thứ bẩy".
Ả nhún vai, đặt phòng rồi cùng Gianxen đi thăm thành phố. Họ đi hết cửa hàng
này đến cửa hàng khác. Dôia mua tất cả những thứ mà đám quản lý lắm lời giới
thiệu. Cuối cùng ả thấy chán.
- Ta đến Pômpây đi, -
ả bảo.
Họ phóng xe hơi đến
chân núi Vêduyvơ và lang thang ở đó hồi lâu, trên những đường phố đã quét dọn
sạch tro tàn của thành phố cổ kính.
Dôia lấy đầu dù hù dọa
mấy con thằn lằn xanh đang mơ màng ngủ trên ngưỡng cửa của những ngôi nhà đá
bỏ không từ hai nghìn năm trước.
- Buồn quá, ta trở về
thôi, - ả nói, - Tôi không thích những gì đã qua, tôi không thích những kỷ
niệm.
Họ ăn trưa tại tiệm ăn
trên bờ biển. Đang ăn, thỉnh thoảng Dôia lại đứng dậy, đặt cánh tay để trần
lên vai Gianxen và nhảy với vẻ mặt thờ ơ, mi mắt khép hờ. Ai cũng háo hức
nhìn ả. Các lần nhảy như vậy làm ăn uống ngon miệng hơn.
Khi họ ra khỏi tiệm
ăn, Gianxen hỏi:
- Đêm nay bà ra lệnh
cho tôi ngủ ở đâu - trên du thuyền hay trong khách sạn?
Dôia đưa mắt nhìn
nhanh ông ta và lập tức quay đầu đi, không trả lời. Khi vào cổng khách sạn, ả
dựa người vào cánh tay cứng như đá của Gianxen. Người gác cổng vừa đưa chìa
khóa vừa nhăn bộ mặt đen sạm cạo nhẵn và nhếch mép cười giễu cợt. Dôia đột
nhiên cảnh giác:
- Có tin tức gì phải
không?
- Ồ, thưa bà, không có
gì đâu.
Ả bảo Gianxen:
- Ông hãy đến phòng
hút thuốc mà hút thuốc đi. Nếu ông không ngán chuyện vãn với tôi thì tôi sẽ
gọi điện cho ông...
Ả nhẹ nhàng bước trên
tấm vải đỏ của cầu thang. Gianxen đứng lại phía dưới. Đến chỗ rẽ, ả quay đầu
lại, mỉm cười. Gianxen đi vào phòng hút thuốc, ngồi gần máy điện thoại, châm
thuốc hút như ả ra lệnh và ngửa người ra, chờ hồi chuông gọi. Ông ta thả hồn
theo mộng...
Nhưng không thấy tiếng
chuông điện thoại reo, Gianxen nhắm mắt lại để khỏi phải nhìn thấy cái máy
điện thoại khốn kiếp kia... Chà, thật ra, làm sao ta lại có thể đâm mê mẩn
như trẻ con được... Một người nào đó dừng lại sau lưng ghế bành của Gianxen.
Ông ta mở mắt ra, chồm dậy. Người đứng trước mặt là Rôlinh. Viên thuyền
trưởng cảm thấy máu bốc lên mặt.
- Thuyền trưởng
Gianxen, - Rôlinh nói với giọng nghe ghê cả tai, - cảm ơn ông đã chăm sóc bà
Lamôlơ, nhưng hôm nay bà ấy không cần đến sự chăm sóc của ông nữa. Đề nghị
ông trở về với trách nhiệm của mình.
- Xin tuân lệnh, -
Gianxen mấp máy môi đáp.
Rôlinh đã thay đổi
nhiều trong tháng qua - mặt y đen sạm lại, mắt trũng xuống, bộ râu hung sẫm
lan lởm chởm trên hai má. Y mặc Véttông sẫm, hai túi ngực cộm lên, đựng đầy
tiền và sổ séc... "Tay trái nện vào thái dương, tay phải đấm xiên vào gò
má - thế là mày sẽ đi tong..." - hai nắm tay cứng như thép của Gianxen
run lên vì tức giận. Nếu như lúc này Dôia ở đây và đưa mắt nhìn Gianxen thì
Rôlinh sẽ biến thành một đống thịt.
- Một giờ nữa tôi sẽ
có mặt trên du thuyền "Aridôna", - Rôlinh cau mày, hách dịch nói.
Gianxen lấy chiếc mũ
trên bàn, đội sụp xuống và bước ra.
Ông ta đi ngang qua
phố, đến sát mặt nước và gọi to:
- Xuồng.
Rồi ông ta nhảy bổ lên
chiếc xuồng con từ du thuyền "Aridôna" lao tới, ngồi sát vào tay
lái:
- Chèo đi, đồ chó đẻ!
Sau đó, ông ta theo
thang chạy lên du thuyền, quát người thuyền phó: "Sao để du thuyền bẩn
thế?" rồi vào phòng riêng, khóa cửa lại, cứ để nguyên quần áo và nằm vật
xuống giường, miệng làu bàu lảm nhảm.
Đúng một giờ sau vang
lên tiếng thét hỏi của của người thủy thủ đứng gác và một giọng yếu ớt từ
dưới nước trả lời lại. Thang du thuyền kêu ken két. Người thuyền phó vui vẻ
ra lệnh:
- Tất cả tập hợp trên
boong!
Ông chủ đã đến. Chỉ có
thể cứu vớt phần tự ái còn sót lại bằng cách đón Rôlinh như không có chuyện
gì xảy ra hết lúc trên bờ. Gianxen đàng hoàng và bình thản bước lên cầu chỉ
huy... Rôlinh đi về phía ông ta, nhận báo cáo về tình trạng hoàn hảo của du
thuyền rồi bắt tay. Phần nghi lễ kết thúc. Rôlinh châm thuốc hút - trông y
nhỏ bé, chẳng có vẻ gì là người của biển cả và bộ complê màu sẫm ấm áp của y
dường như xúc phạm đến vẻ thanh nhã của du thuyền "Aridôna" và bầu
trời bên trên thành phố Naplơ.
Đã nửa đêm. Giữa đám
cột buồm và trụ buồm, những chùm sao lấp lánh. Những đốm sáng của thành phố
và các con tàu phản chiếu trong làn nước đen sẫm của vịnh biển. Tiếng còi của
một con tàu kéo nhỏ rúc lên rồi lặng đi. Những cột khói chập chờn ánh lửa dầu
chao đảo ở phía xa.
Rôlinh hình như mải mê
hút thuốc - y liên tục hít và thở ra những làn khói nhỏ về phía thuyền
trưởng. Gianxen buông thõng hai tay, trịnh trọng đứng trước mặt y.
- Bà Lamôlơ muốn ở lại
trên bờ, - Rôlinh lên tiếng rồi đưa bàn tay trái lên miệng, mút làn da trên
mu bàn tay, - tôi sẽ ở lại du thuyền cho đến sáng, có lẽ suốt cả ngày mai
nữa. Để việc tôi lưu lại đây không bị giải thích một cách sai lệch (mút xong
y giơ bàn tay về phía ánh sáng tỏa ra từ cửa phòng mở toang)... đúng thế đấy,
để khỏi bị giải thích sai lệch... (Gianxen nhìn bàn tay y, trên bàn tay ấy
thấy rõ các vết móng tay), tôi xin làm thỏa mãn trí tò mò của ông: tôi đợi
một người đến du thuyền này. Nhưng người này lại không ngờ tôi có mặt ở đây.
Ông ta nhất định sẽ đến trong khoảng một vài giờ nữa. Khi ông ta đến, ông hãy
báo cho tôi biết ngay lập tức. Chúc ông ngủ ngon.
Đầu Gianxen nóng bừng.
Ông ta cố sức hiểu một chuyện gì đó. Bà Lamôlơ ở lại trên bờ. Để làm gì? Đỏng
đảnh chăng? Hay bà ta chờ mình? Không phải. Thế còn những vết cào xước còn
mới trên tay ông chủ... Chuyện gì đã xảy ra?... Nhỡ bà ta đang nằm trên
giường với cổ họng bị cứa đứt thì sao? Hay đang nằm trong bao tải dưới đáy
vịnh thì sao? Bọn tỷ phú đâu có ngại gì những chuyện ấy.
Trong bữa ăn tối ở
buồng sĩ quan, Gianxen gọi một ly uýtxki, không pha xôđa để làm minh mẫn đầu
óc. Người thuyền phó kể lại một tin giật gân trên báo - vụ nổ khủng khiếp
trong khu nhà máy anilin ở Đức, thành phố gần đấy bị phá hủy và hơn hai nghìn
người bị chết.
Người thuyền phó nói:
- Ông chủ của chúng ta
cực kỳ may mắn. Việc tiêu hủy các nhà máy anilin sẽ làm ông ấy phất to đến
nỗi có thể mua được toàn bộ nước Đức cùng vương triều và bọn xã hội dân chủ ở
đấy. Ta hãy nâng ly mừng ông chủ.
Gianxen đem tờ báo về
buồng mình. Ông ta chăm chú đọc bài báo miêu tả vụ nổ và những giả thuyết
khác nhau về nguyên nhân gây ra vụ nổ, giả thuyết này nhảm nhí hơn giả thuyết
khác. Tên của Rôlinh xuất hiện khắp nơi trong các cột báo. Mục thời trang
nhận xét rằng từ mùa sắp tới trở đi, mốt thịnh hành sẽ là bộ râu che kín hai
má và chiếc mũ chụp cao thay cho loại mũ mềm. Trên trang nhất tờ Ếchxenxiô
đăng tấm ảnh du thuyền "Aridôna" và mái đầu kiều diễm của bà
Lamôlơ. Nhìn tấm ảnh ấy, Gianxen cảm thấy mất bình tĩnh. Nỗi lo lắng mỗi lúc
một tăng.
Lúc hai giờ đêm, ông
ta bước ra khỏi phòng, nhìn thấy Rôlinh ngồi trong ghế bành ở boong thượng.
Gianxen lại trở vào. Ông ta cởi bỏ áo ngoài, mặc bộ complê nhẹ may bằng vải
len quí, đội mũ, đi giày và buộc chặt ví tiền vào túi cao su. Đồng hồ điểm ba
giờ. Rôlinh vẫn ngồi trong ghế bành. Lúc bốn giờ, Rôlinh vẫn tiếp tục ngồi
yên, nhưng bóng y rụt đầu vào hai vai như mất hết sức sống - y đã ngủ. Một
phút sau, Gianxen nhẹ nhàng lần theo xích neo thuyền xuống nước và bơi về
phía bờ.
73
- Bà Dôia, bà đừng có
lồng lộn lên, vô ích thôi. Dây điện thoại và dây chuông đều bị cắt đứt rồi.
Dôia lại ngồi ghé
xuống thành giường. Một nụ cười méo xệch đầy giận dữ giật giật trên môi ả.
Tưclinxki ngồi ngả người trong chiếc ghế bành ở giữa phòng, xoắn xoắn bộ ria
và chăm chú nhìn đôi ủng thấp bóng loáng của mình. Y vẫn không dám hút thuốc
- Dôia cấm ngặt việc đó, còn Rôlinh thì đã nghiêm khắc ra lệnh là phải tỏ ra
lịch sự với bà Dôia.
Đã gần năm giờ sáng.
Mọi cố gắng của Dôia nhằm thoát ra, nhằm đánh lừa Tưclinxki đều vô hiệu.
- Dù sao chăng nữa, -
Dôia nói, - tôi sẽ bằng một cách nào đó báo được cho cảnh sát biết.
- Đám gia nhân trong
khách sạn đã bị mua chuộc, đã được cho một số tiền lớn rồi.
- Khi ngoài phố bắt
đầu có đông người, tôi sẽ đập vỡ cửa sổ và hét to lên.
- Cái đó cũng đã được
dự kiến trước. Thậm chí, chúng tôi đã thuê cả bác sĩ để xác nhận những cơn
rối loạn tâm thần của bà. Sẽ không một ai giúp bà và tin lời bà đâu. Bà hãy
ngồi yên thì hơn
Dôia bẻ ngón tay răng
rắc và nói bằng tiếng Nga:
- Đồ khốn kiếp. Đồ hèn
hạ. Đồ liếm gót người khác.
Tưclinxki bắt đầu nổi
giận, bộ ria của y vểnh lên. Nhưng y không được phép đôi co với Dôia. Y càu
nhàu:
- Tôi không hơi đâu mà
cãi nhau với phụ nữ. Tôi thương hại bà đấy, bà Dôia ạ. Nhưng chúng ta sẽ phải
ngồi đối diện nhau một ngày hoặc hai ngày cũng nên. Bà nên đi nằm cho bình
tĩnh lại đi. Chúc bà ngủ ngon.
Y hết sức ngạc nhiên
thấy lần này thì Dôia nghe lời y. Ả cởi giày, nằm xuống, ngả người xuống gối
và nhắm mắt lại.
Qua hàng mi, ả nhìn
thấy bộ mặt béo phị, giận dữ của Tưclinxki đang chăm chú theo dõi ả. Ả ngáp
một cái, hai cái rồi đặt tay xuống dưới má.
- Mệt quá rồi, mặc kệ,
muốn ra sao thì ra,- ả khẽ tự nhủ rồi lại ngáp.
Tưclinxki thu xếp để
ngồi thoải mái hơn trong ghế bành. Dôia thở đều đều. Một lát sau, Tưclinxki
bắt đầu giụi mắt. Y đứng dậy, đi đi lại lại, tựa người vào khung cửa. Rõ ràng
y quyết định thức đứng.
Tưclinxki thật ngu
ngốc. Dôia đã khai thác được ở y tất cả những gì cần thiết và giờ đây ả đợi y
ngủ thiếp đi. Không thể đứng mãi ở cửa được. Y xem xét lại ổ khóa rồi trở về
ghế bành.
Một lúc sau, chiếc hàm
núc ních của y sệ xuống. Dôia liền trườn khỏi giường. Ả nhanh nhẹn rút chìa
khóa trong túi áo gilê của y và chộp lấy đôi giầy. Ả tra chìa khóa vào ổ - ổ
khóa bỗng kêu ken két.
Tưclinxki thét lên như
trong cơn ác mộng "Ai? Cái gì?" rồi chồm dậy. Dôia mở toang cửa.
Nhưng y đã tóm được vai ả, xô ả ngã vật xuống. Rồi y vừa lấy chân đẩy ả vào
giữa phòng vừa cố sức đóng cửa lại. Nhưng, một cái gì đó cản trở y. Dôia nhìn
thấy cổ y đỏ bừng lên.
- Ai đấy? - y vừa khàn
khàn hỏi vừa áp tai vào cửa.
Nhưng hai bàn chân y
tiếp tục trượt trên sàn gỗ - cửa từ từ mở ra. Y vội vã rút khẩu súng lục ở
túi sau và bỗng bị hất tung vào giữa phòng.
Ở ngưỡng cửa xuất hiện
thuyền trưởng Gianxen. Thân hình rắn chắc của Gianxen bó chặt trong bộ quần
áo ướt dẫm. Gianxen thoáng nhìn Tưclinxki rồi lao vụt về phía trước như bị
ngã. Đòn đánh định dành cho Rôlinh thì nay giáng xuống gã Ba Lan: tay trái
vươn thẳng ra nện một cú trời giáng vào sống mũi và đồng thời tay phải vung
rộng cho một cú móc hàm. Tưclinxki lặng lẽ đổ nhào xuống thảm. Mặt y dập nát,
bê bết máu.
Động tác thứ ba của
Gianxen là quay về phía bà Lamôlơ. Tất cả các bắp thịt của Gianxen đều giật
giật.
- Bà Lamôlơ, xin bà ra
lệnh.
- Ông Gianxen, đưa tôi
về du thuyền ngay.
- Xin tuân lệnh.
Như hôm qua ở tiệm ăn,
ả quàng tay quanh cổ Gianxen và kề sát mặt vào mặt viên thuyền trưởng.
- Ông Gianxen, cuộc
chiến đấu chỉ mới bắt đầu thôi. Phần nguy hiểm nhất là ở phía trước.
- Xin tuân lệnh.
- Xà ích, đánh xe mau
lên, phóng hết tốc lực đi... Tôi nghe đây, thưa bà Lamôlơ... Vậy là... trong
khi tôi chờ ở phòng hút thuốc...
- Khi ấy, tôi lên
phòng riêng. Tôi bỏ mũ và cởi áo ngoài ra. Tôi không để ý là chiếc tủ vẫn
dùng để bịt cánh cửa thông sang phòng bên đã bị đẩy sang bên. Tôi chưa kịp
bước đến giường thì cửa đã mở ra và Rôlinh xuất hiện. Nhưng tôi biết rằng hôm
qua Rôlinh còn ở Pari. Tôi cũng biết rằng y sợ đi máy bay đến chết khiếp. Nếu
y có mặt ở đây thì tức là đó là vấn đề sống chết đối với y... Bây giờ tôi mới
hiểu những toan tính của y... Còn lúc ấy tôi giận dữ ghê gớm. Y đã dám chăng
bẫy và dụ tôi vào... Tôi chửi mắng y thậm tệ.. Y bịt tai lại và bước ra.
- Y xuống phòng hút
thuốc và bắt tôi trở về du thuyền... - Gianxen nói.
- Vấn đề là ở đấy
đấy... Tôi ngốc nghếch thật!... Lại còn nào nhảy nhót, nào rượu chè, nào
những chuyện vớ vẩn nữa chứ.. Phải, anh bạn thân mến ạ, khi ta muốn chiến đấu
thì phải gác những chuyện vớ vẩn lại.. Khoảng hai ba phút sau y quay lại. Tôi
bảo: ta hãy giãi bày với nhau đã... Y liền nói với tôi bằng một giọng láo
xược mà y không bao giờ dám dùng đến: "Tôi chẳng có gì phải giãi bày
hết, bà sẽ ngồi lại trong căn phòng này cho tới khi tôi cho phép bà ra
ngoài..." Tôi liền cho y mấy cái tát...
- Bà dũng cảm thật
đấy, - Gianxen khâm phục nói.
- Anh bạn thân mến ạ,
đấy là hành động ngu ngốc thứ hai của tôi. Nhưng y thật hèn nhát!.. Y cam
chịu đến bốn cái tát... Miệng y run rẩy... Y chỉ dám tìm cách giữ tay tôi,
nhưng y đã phải trả giá đắt... Và rốt cuộc, tôi đã phạm một hành động ngu
ngốc thứ ba: tôi òa khóc...
- Chà, đồ khốn kiếp,
đồ khốn kiếp!...
- Để tôi kể nốt đã,
Gianxen... Rôlinh không chịu được khi nhìn thấy nước mắt... Y thà chịu bốn
mươi cái tát còn hơn..., y liền gọi gã Ba Lan đến - gã đã chờ sẵn sau cánh
cửa. Chúng đã thỏa thuận với nhau rồi... Gã Ba Lan ngồi trên ghế bành. Rôlinh
bảo tôi: "Trong trường hợp cực chẳng đã, tôi đã ra lệnh cho y được phép
bắn". Rồi y bỏ đi. Tôi khai thác gã Ba Lan. Một giờ sau, tôi đã được
biết tỉ mỉ kế hoạch phản trắc của Rôlinh. Gianxen thân mến ạ, đây là vấn đề
hạnh phúc của tôi. Nếu ông không giúp tôi thì mọi chuyện sẽ hỏng hết. Ông hãy
giục xà ích đánh xe mau lên đi....
Chiếc xe ngựa phóng
vùn vụt trên con đường ven biển mà vào lúc rạng sáng này hết sức vẳng vẻ, rồi
dừng lại cạnh bậc đá hoa cương, nơi một vài chiếc thuyền khẽ kêu cọt kẹt trên
làn nước đen sẫm.
Ít phút sau, Gianxen
đỡ bà Lamôlơ nhẹ nhàng bước lên du thuyền "Aridôna" theo chiếc
thang dây từ mũi du thuyền thả xuống.
75
Hơi lạnh buổi sớm làm
Rôlinh thức dậy. Boong thuyền ẩm ướt. Những đốm sáng trên các cột buồm đã
nhợt nhạt đi. Vịnh biển và thành phố vẫn mờ mờ tối, nhưng khói trên ngọn
Vêduyvơ đã đượm hồng.
Rôlinh nhìn khắp lượt
những ngọn đèn bảo vệ, những hình bóng tàu thuyền. Y bước lại gần người gác,
đứng một lát bên cạnh, khịt khịt mũi. Rồi y bước lên cầu chỉ huy. Ngay lập
tức Gianxen bước ra, tươi tỉnh, sạch sẽ, quần áo là phẳng, và chúc Rôlinh một
buổi sáng tốt lành. Rôlinh khịt khịt mũi - đôi chút lịch sự hơn so với lúc
đứng cạnh người gác.
Sau đó, y yên lặng hồi
lâu, tay xoay xoay chiếc khuy áo vét tông. Đó là một thói quen xấu mà trước
đây Dôia đã bắt y phải bỏ. Nhưng bây giờ y chẳng cần nữa. Rất có thể trong
mùa sắp tới, mốt thịnh hành ở Pari sẽ là động tác xoay xoay khuy áo này. Đám
thợ may nhất định sẽ nghĩ ra loại khuy đặc biệt để xoay xoay như vậy.
Y hỏi nhát gừng:
- Những người chết
đuối có nổi lên không?
- Nếu không bị buộc
vật nặng thì sẽ nổi lên, - Gianxen bình thản đáp.
- Tôi muốn hỏi là ở
ngoài biển, nếu có ai chết đuối thì tức là chết đuối hẳn chứ?
- Có nhiều lý do làm
chết đuối: hoặc là khinh suất, hoặc là bị sóng cuốn đi, hoặc là do một chuyện
ngẫu nhiên gì đó. Các nhà chức trách thường không can thiệp vào...
Rôlinh nhún vai.
- Đấy là tất cả những
gì tôi muốn biết về những kẻ chết đuối. Tôi về phòng riêng đây. Tôi nhắc lại
là nếu có ai đi thuyền đến thì không được cho biết là tôi có mặt trên du
thuyền. Ông hãy tiếp họ rồi báo cáo với tôi.
Y bước đi. Gianxen trở
lại phòng, nơi Dôia đang ngủ trên giường thuyền trưởng, đằng sau những tấm
rèm xanh hạ xuống.
Chú
thích:
[1] Buônarôti
Mikenlangiêlô (1475-1564): nhà điêu khắc, họa sĩ, nhà kiến trúc, nhà thơ Ý
nổi tiếng. N. D.
|
Vào lúc
chín giờ, một chiếc thuyền bơi lại gần chiếc "Aridôna". Một gã rách
rưới, vui vẻ, ngồi bên tay lái. Gã nâng mái chèo lên, hỏi to:
-
Alô!... Du thuyền "Aridôna" phải không?
- Cứ
cho là phải đi, - người thủy thủ Đan Mạch cúi gập người qua thành du thuyền,
trả lời.
- Trên
du thuyền của anh có người nào tên là Rôlinh không?
- Cứ
cho là có đi.
Gã rách
rưới mỉm cười để lộ hàm răng tuyệt đẹp.
- Bắt
lấy này.
Gã khéo
léo ném lên thuyền một bức thư, người thủy thủ bắt lấy, gã tặc lưỡi:
- Cho
tớ điếu thuốc nào.
Trong
khi người thủy thủ còn đang ngẫm nghĩ xem nên ném cho gã rách rưới cái gì thì
gã đã bơi thuyền đi và vừa nhún nhảy trong thuyền vừa uốn éo vì niềm vui sống
mãnh liệt vào buổi sáng nắng ấm như vậy, gã lớn tiếng cất giọng hát.
Người
thủy thủ đem bức thư đến cho thuyền trưởng. (Mệnh lệnh là như vậy). Gianxen vén
rèm lên, cúi xuống Dôia đang ngủ. Ả mở mắt, mơ màng hỏi:
- Anh
ta ở đây à?
Gianxen
đưa bức thư cho ả. Dôia đọc.
"Tôi
bị thương nặng. Hãy thương tôi. Tôi đã vật lộn dữ dội vì lợi ích của ngài,
nhưng đã xảy ra một điều không thể xảy ra được: bà Dôia đã ra thoát. Tôi quì
xuống chân ngài..."
Dôia
không đọc hết, xé tan bức thư.
- Bây
giờ chúng ta có thể bình tĩnh chờ đợi ông ấy. (Ả ngước nhìn Gianxen, đưa tay
cho Gianxen). Gianxen, ông phải hiểu rằng hoặc là tôi chết, hoặc là tôi sẽ
thống trị cả thế giới. (Môi Gianxen mím lại. Dôia thích cử chỉ này). Ông sẽ là
công cụ phục vụ cho ý chí của tôi. Giờ đây, ông hãy quên đi việc tôi là phụ nữ.
Tôi chỉ là một kẻ mơ tưởng mãnh liệt, là một kẻ ưa phiêu lưu mạo hiểm - ông
hiểu chứ? Tôi muốn tất cả đều là của tôi. (Ả khoát tay vẽ một vòng tròn). Con
người duy nhất có thể làm tôi được như vậy nhất định đã sắp đến chiếc
"Aridôna" này. Tôi đợi người ấy, cả Rôlinh cũng vậy...
Gianxen
giơ ngón tay lên, đưa mắt nhìn quanh. Dôia hạ rèm xuống. Gianxen bước ra, lên
cầu chỉ huy. Rôlinh đang đứng ở đấy, bám tay vào lan can. Miệng y mím chặt, mặt
y méo xệch đi vì giận dữ. Y chằm chằm nhìn vào khoảng vịnh phía xa vẫn còn mờ
mờ khói.
- Hắn
kia kìa, - Rôlinh vừa khó nhọc nói vừa giơ tay ra, ngón tay y lơ lửng như chiếc
móc trên mặt biển xanh thẳm, - trên chiếc thuyền kia kìa.
Và
Rôlinh vội vã đến mức làm đám thủy thủ phải hoảng sợ, y khệnh khạng như con cua
chạy theo cầu thang khỏi cầu chỉ huy rồi biến mất trong phòng riêng. Y gọi điện
thoại cho Gianxen để nhắc lại mệnh lệnh cũ: bắt người đàn ông chèo thuyền sáu
mái chèo lên du thuyền "Aridôna".
Từ
trước đến nay, chưa bao giờ Rôlinh lại dứt đứt khuy áo vét tông. Vậy mà giờ đây
y đã vặn đứt tất cả ba chiếc khuy. Y đứng giữa căn phòng lộng lẫy, trải kín
thảm Ba Tư, trang hoàng toàn đồ gỗ quí, và nhìn đồng hồ treo tường.
Sau khi
dứt đứt khuy áo, y bắt đầu cắn cắn móng tay. Y trở lại trạng thái man rợ nguyên
thủy với một tốc độ khủng khiếp. Y nghe thấy tiếng thét hỏi của người thủy thủ
đứng gác và câu trả lời từ dưới thuyền của Garin. Hai tay y ướt đẫm mồ hôi khi
nghe thấy giọng nói ấy.
Chiếc
thuyền nặng nề va vào mạn thuyền "Aridôna". Có tiếng hò hét đồng
thanh của đám thủy thủ. Thang du thuyền kêu ken két, các bước chân thình thịch,
"Giữ lấy, bắt lấy.. Cẩn thận đấy.. Xong rồi... Đưa đi đâu?" Đấy là
các thủy thủ khiêng những chiếc hòm đựng bộ máy phát tia khủng khiếp. Sau đó,
tất cả im ắng đi.
Garin
đã sa bẫy! Rốt cuộc, thế là xong. Rôlinh dùng những ngón tay lạnh lẽo, ẩm ướt
cầm lấy mũi và phát ra những âm thanh rin rít, khùng khục. Những người biết y
khẳng định rằng y không bao giờ cười. Nói láo! Y thích cười, nhưng cười vào lúc
không có ai chứng kiến, cười một mình, sau một thành công nào đó, và cười theo
kiểu cười ngất như thế.
Rồi y
gọi điện thoại cho Gianxen:
- Đã
bắt được lên thuyền rồi chứ?
- Vâng.
- Dẫn
hắn xuống buồng tầng dưới và khóa cửa lại. Phải cố làm cho kín đáo.
- Xin
tuân lệnh! - Gianxen hoạt bát trả lời. Có vẻ như quá hoạt bát nữa, Rôlinh không
thích như vậy.
- A lô,
ông Gianxen phải không?
- Vâng.
- Một
giờ nữa, du thuyền phải ở ngoài khơi.
Trên du
thuyền, các thủy thủ bắt đầu chạy tới chạy lui. Xích neo kéo lên kêu loảng
xoảng. Động cơ bắt đầu làm việc. Bên ngoài cửa mạn, các dòng nước xanh nhạt
chuyển động. Bờ bắt đầu lùi dần. Gió ẩm ướt thổi vào các phòng. Và cảm giác
sung sướng được di chuyển lan khắp thân hình cân đối của chiếc "Aridôna".
Dĩ nhiên,
Rôlinh hiểu rằng y đang hành động hết sức ngu ngốc. Nhưng không còn Rôlinh
trước kia nữa - một con bạc lạnh lùng, một con trâu không gì lay chuyển nổi,
một kẻ thường xuyên tham dự những buổi giảng đạo ngày chủ nhật. Giờ đây, y hành
động thế này hay thế khác không phải bởi vì việc đó có lợi, mà là bởi vì nỗi
đau khổ của những đêm không ngủ, mối căm thù với Garin và nỗi ghen tuông tưởng
chừng như đã che mờ đầu óc y. Y chỉ sôi sục một nguyện vọng thôi - đó là tiêu
diệt Garin và cướp lại Dôia.
Thậm
chí, ngay cả thành công không thể tin được - việc tiêu hủy các nhà máy của Công
ty anilin -
cũng trôi qua như trong giấc mộng. Y cũng chẳng hề quan tâm đến việc các thị
trường chứng khoán thế giới đã đem lại cho y bao nhiêu trăm triệu đô la vào cái
ngày hai mươi chín ấy.
Vào hôm
đó, y đợi Garin ở Pari như đã ước định nhưng Garin không đến. Rôlinh đã tiên
liệu như vậy và ngày ba mươi y đáp máy bay lao tới Naplơ.
Giờ
đây, Dôia đã bị gạt ra khỏi cuộc chơi. Giữa y và Garin không có ai đứng giữa
nữa. Việc thanh toán đã được nghiền ngẫm đến từng chi tiết. Rôlinh châm thuốc
hút. Y cố ý trùng trình. Y bước ra hành lang, mở cửa xuống khoang dưới, nơi để
mấy chiếc hòm đựng bộ máy phát tia. Hai người thủy thủ đang ngồi bên trên mấy
chiếc hòm ấy đứng phắt dậy. Y ra lệnh cho họ trở về buồng thủy thủ.
Sau đó,
y đóng sập cửa khoang dưới rồi ung dung đi về phía cửa đối diện, bước vào buồng
bên cạnh. Nắm lấy tay nắm cửa, y nhận thấy tàn trên điếu thuốc gãy làm đôi. Y
thỏa mãn mỉm cười, mọi ý nghĩ của y đều rõ ràng, đã từ lâu y không cảm thấy một
sự thỏa mãn như vậy.
Y mở
toang cửa. Trong buồng, dưới chiếc chụp pha lê của ngọn đèn trên trần, có ba
người đang ngồi nhìn y bước vào: đó là Dôia, Garin và Senga. Rôlinh liền bước
lùi lại hành lang. Y thấy nghẹn thở, óc y dường như thoáng đảo lộn lên. Mũi y
toát mồ hôi. Và thật quái lạ, y mỉm cười một cách thảm hại và ngốc nghếch.
- Chào
ông Rôlinh, - Garin vừa nói vừa đứng dậy, - tôi đây, ông bạn ạ.
Điều
khủng khiếp nhất đã xảy ra - Rôlinh rơi vào tình thế lố bịch.
Có thể
làm gì bây giờ được? Nghiến răng trèo trẹo, làm om sòm lên hay bắn chăng? -
Càng tồi tệ hơn nữa, càng ngu ngốc hơn nữa... Thuyền trưởng Gianxen đã phản bội
y, cái đó rõ rồi. Đoàn thủy thủ không đáng tin cậy... Du thuyền đang ở ngoài
khơi. Rôlinh phải dùng nỗ lực của ý chí (y thậm chí cảm thấy một cái gì đó
trong người kêu ken két) để làm tắt nụ cười thảm hại trên mặt.
- Kìa!
- y giơ tay lên và lắc lắc ra ý chào hỏi, - Kìa, ông Garin... Ông muốn đi hóng
mát chắc? Tôi rất mừng... Chúng ta sẽ vui thú cùng nhau...
Dôia
nói xẵng:
- Ông
đóng kịch tồi lắm, Rôlinh ạ. Ông hãy thôi cái trò mua vui cho công chúng đi.
Mời ông vào đây và ngồi xuống. Toàn những người quen biết, toàn những kẻ thù
không đội trời chung mà. Chính ông có lỗi về việc chuẩn bị cho ông một nhóm bạn
bè vui vẻ thế này để đi dạo trên Địa Trung Hải đấy.
Rôlinh
đưa đôi mắt trắng dã nhìn ả:
- Bà
Lamôlơ ạ, trong những việc lớn thì không có sự thù hằn cá nhân hoặc tình bạn cá
nhân.
Và y
ngồi xuống như ngồi xuống ngai vua giữa Dôia và Garin. Rồi y đặt hai tay lên
bàn. Một phút im lặng kéo dài. Y nói:
- Được,
tôi đã thua cuộc. Tôi phải trả bao nhiêu đây?
Garin
mỉm cười đáp lại, mắt long lanh, hình như y sẵn sàng phá lên cười hết sức hiền
hậu.
- Đúng
một nửa, ông bạn già ạ, như chúng ta đã thỏa thuận ở Phôngtenơblô ấy. Người làm
chứng đây, - y hất bộ râu về phía Senga đang ủ rũ gõ móng tay liên miên xuống
bàn. - Tôi sẽ không tọc mạch vào sổ sách kế toán của ông đâu. Nhưng ước tính
cũng phải đến một tỷ đô la. Đối với ông thì chuyện này sẽ chẳng có gì ghê gớm
lắm. Ông đã vơ hàng đống tiền ở châu Âu còn gì.
- Một
tỷ đô thì khó lòng thanh toán ngay được - Rôlinh đáp - Để tôi suy nghĩ đã.
Được, ngay hôm nay tôi sẽ đi Pari. Tôi hy vọng là đến thứ năm, ở Mácxây [1] chẳng hạn, tôi sẽ có thể trả phần lớn số tiền này.
- Chà, -
Garin nói, - ông bạn già ạ, ông chỉ có thể được tự do sau khi thanh toán xong
thôi.
Senga
đưa mắt nhìn nhanh y, yên lặng. Rôlinh nhăn mặt như nghe thấy một câu thiếu
lịch sự.
- Tôi
phải hiểu rằng ông có ý định giam giữ tôi trên chiếc du thuyền này, có đúng thế
không?
- Tôi
xin nhắc rằng với tư cách là công dân Hoa Kỳ, tôi có quyền bất khả xâm phạm. Tự
do của tôi và quyền lợi của tôi sẽ được toàn bộ hạm đội Mỹ bảo vệ.
- Càng
hay, - Dôia phấn chấn thốt lên, đầy giận dữ, - Càng sớm càng tốt!...
Ả đứng
dậy, giơ hai tay ra, nắm chặt lại đến nỗi khớp xương kêu răng rắc.
- Toàn
bộ hạm đội của ông cứ việc chống lại chúng tôi, toàn thế giới cứ việc chống lại
chúng tôi. Càng tốt!
Ả cử
động nhanh quá khiến chiếc váy cũn cỡn bay tung lên; chiếc áo cắt theo kiểu
lính thủy có đính khuy vàng của ả, mái đầu nhỏ nhắn cắt tóc theo kiểu con trai
của ả, hai tay nắm lại mà ả định dùng để siết chặt số phận của thế giới, cặp
mắt xám đen sẫm lại vì xúc động và khuôn mặt phấn chấn của ả - tất cả thật ngộ
nghĩnh và đáng sợ.
- Thưa
bà, hình như tôi nghe không rõ thì phải, - Rôlinh quay cả người về phía ả, - Bà
định chiến đấu với hạm đội của Hoa Kỳ? Bà vừa nói vậy có phải không?
Senga
ngừng gõ móng tay xuống bàn. Lần đầu tiên trong suốt tháng nay, anh cảm thấy
vui vẻ. Thậm chí anh duỗi hai chân ra và ngả người như đang ngồi trong nhà hát.
Dôia
nhìn Garin, ánh mắt ả càng sẫm hơn nữa.
Garin
đút hai tay vào túi, kiễng gót giầy đứng dậy, vừa lắc lư vừa mỉm cười bằng cặp
môi đỏ như tô son. Cả người y hình như toát ra vẻ nông nổi, điệu bộ. Chỉ riêng
Dôia là đoán được ý chí tội lỗi sắt đá của y.
- Thứ
nhất, - y nói và nhón chân lên, - chúng tôi không có gì đặc biệt thù địch với
nước Mỹ. Chúng tôi sẽ cố gắng đánh tan bất kỳ hạm đội nào có ý định thực hiện
những hành động xâm lược chống lại chúng tôi. Thứ hai, - y lại chuyển sang thế
đứng bằng gót giầy, - chúng tôi hoàn toàn không muốn xảy ra chiến sự. Nếu các
lực lượng quân sự của Mỹ và của châu Âu thừa nhận chúng tôi có quyền thiêng
liêng chiếm bất cứ lãnh thổ nào cần thiết cho chúng tôi cũng như chủ quyền đối
với lãnh thổ đó và các quyền tương tự thì khi đó, chúng tôi sẽ để họ yên, ít
nhất là về mặt quân sự. Nếu không các lực lượng trên biển và trên bộ của nước
Mỹ và của châu Âu, những pháo đài, căn cứ quân sự, kho tàng quân sự, các bộ
tổng tham mưu.. v.. v... sẽ bị đối xử thẳng tay. Tôi hy vọng rằng số phận các
nhà máy của Công tyanilin khiến ông có thể tin được
rằng tôi không nói để mà nói.
Y vỗ
vai Rôlinh:
- Ông
bạn già ạ, đã có thời gian tôi đề nghị ông hợp tác trong công việc của tôi...
Nhưng ông đã không đủ trí tưởng tượng, mà đó là vì trình độ văn hóa của ông
không cao lắm. Ông chỉ biết làm khánh kiệt giới chứng khoán và vơ lấy vơ để các
nhà máy thôi. Thật hủ lậu quá... Còn kẻ có tài thực sự thì ông lại bỏ qua...
Ông đã bỏ qua kẻ tổ chức thực sự cho hàng tỷ đô la ngốc nghếch của ông.
Rôlinh
bắt đầu giống như một xác chết đang thối rữa. Y vất vả lắm mới rít lên được
thành lời:
- Ông
là một kẻ vô chính phủ...
Nghe
thấy thế, Senga lập tức dùng bàn tay lành lặn ôm lấy đầu và cười phá lên to đến
nỗi bên trên, sau lớp trần bằng thủy tinh, xuất hiện khuôn mặt hốt hoảng của
thuyền trưởng Gianxen. Garin lại quay người bằng gót giày và bảo Rôlinh.
- Không
phải đâu, ông bạn ạ, đầu óc ông kém đi rồi đấy. Tôi không phải là kẻ vô chính
phủ. Tôi chính là nhà tổ chức vĩ đại mà trong thời gian rất ngắn nữa thôi ông
sẽ phải thắp đèn ban ngày mà tìm đấy... Về chuyện đó thì lúc nào rỗi rãi ta sẽ
nói sau. Ông hãy viết séc đi và cho thuyền chạy hết tốc lực về Mácxây...
Trong
mấy ngày tiếp theo xảy ra các biến cố sau: du thuyền "Aridôna" thả
neo tại vũng tàu ngoài của hải cảng Mácxây. Garin đến ngân hàng tín dụng Liông
đưa tấm séc của Rôlinh để lĩnh hai mươi triệu bảng Anh. Giám đốc ngân hàng hốt
hoảng đi Pari ngay.
Người
ta thông báo trên du thuyền là Rôlinh bị ốm. Y bị giam trong phòng riêng của y
và Dôia suốt ngày đêm theo dõi việc cách ly y. Trong suốt ba ngày đêm, du
thuyền "Aridôna" chất nhiên liệu lỏng, nước ngọt, đồ hộp, rượu và các
thứ khác. Các thủy thủ và đám người vô công rồi nghề trên bờ hết sức ngạc nhiên
khi thấy một chiếc sà lan chất đầy những bao cát tiến lại gần du thuyền. Người
ta đồn là dường như du thuyền sắp đi đến quần đảo Xalômông [2] lúc nhúc những kẻ ăn thịt người. Thuyền trưởng Gianxen
thì mua trữ vũ khí - súng lục, mặt nạ phòng hơi ngạt và hai mươi khẩu súng
trường.
Vào
ngày đã định, Garin và Gianxen lại đến nhà băng. Đón hai người là trợ lý bộ
trưởng tài chính vừa khẩn cấp từ Pari đến. Tuy tỏ ra hết sức nhã nhặn và không
dám nghi ngờ gì về tấm séc, ông ta vẫn mong muốn được gặp đích thân Rôlinh. Ông
ta được đưa lên du thuyền.
Rôlinh
đón ông ta với vẻ rất ốm yếu, mắt trũng sâu. Vất vả lắm y mới đứng dậy nổi. Y
xác nhận rằng tấm séc đó do chính tay y viết, y sắp mở một chuyến viễn du và
yêu cầu mau chóng hoàn tất mọi thủ tục.
Trợ lý
bộ trưởng tài chính nắm lấy lưng ghế bành, hoa chân hoa tay như Camin Đơmulanh [3] nói về tình anh em vĩ đại giữa các dân tộc, về kho
tàng văn hóa của nuớc Pháp và yêu cầu hoãn việc thanh toán.
Rôlinh
mệt mỏi nhắm mắt lại, lắc đầu. Rốt cuộc, hai bên thỏa thuận với nhau là ngân
hàng tín dụng Liông sẽ thanh toán một phần ba số tiền bằng bảng Anh, số còn lại
sẽ trả bằng đồng phơrăng theo thời giá.
Vào lúc
chiều tối, tiền được chở đến trên một chiếc tàu quân sự. Sau đó, khi những
nguời ngoài đã đi hết, trên cầu chỉ huy xuất hiện Garin và Gianxen.
- Tất
cả tập hợp lại trên boong.
Đoàn
thủy thủ xếp hàng lại. Garin nói bằng một giọng cứng cỏi và cương quyết:
- Các
bạn thủy thủ, du thuyền "Aridôna" sắp mở một chuyến viễn du hết sức
gian nan và mạo hiểm. Tôi sẽ là một kẻ khốn kiếp nếu tôi dám đảm bảo cho tính
mạng của một người nào đó, cho tính mạng của những nguời chủ du thuyền và cho
sự bình an của chính du thuyền. Các bạn là những con sói biển, các bạn biết tôi
đấy... Tôi sẽ tăng gấp đôi tiền luơng cũng như tăng gấp đôi các khoản tiền
thưởng thường lệ. Tất cả những ai mà sau này trở về được quê hương sẽ được bảo
đảm trợ cấp hưu trí suốt đời. Tôi để các bạn suy nghĩ cho đến sẩm tối. Những ai
không muốn dấn thân vào con đường mạo hiểm thì có thể cuốn gói khỏi đây.
Buổi
tối, một số thủy thủ lên bờ. Cũng trong đêm đó, đoàn thủy thủ được bổ sung thêm
tám kẻ liều lĩnh mà thuyền truởng Gianxen đích thân tìm kiếm được trong các
quán rượu ở cảng.
Năm
ngày sau, chiếc du thuyền bỏ neo ở Saohemtơn [4]. Garin và Gianxen đến ngân hàng Hoàng gia Anh xuất trình tờ
séc của Rôlinh để lĩnh hai mươi triệu bảng Anh. (Tại Nghị viện, thủ lĩnh Công
đảng đã chất vấn một cách mềm mỏng về chuyện này). Tiền được trao đầy đủ. Báo
chí làm rùm beng lên. Trong nhiều thành phố nổ ra các cuộc biểu tình của công
nhân. Các nhà báo đổ xô đến Saohemtơn. Rôlinh không tiếp một ai hết. Chiếc
"Aridôna" lấy nhiên liệu lỏng rồi vượt qua đại dương.
Mười
lăm ngày sau, du thuyền đỗ lại kênh Panama và qua làn sóng điện triệu tổng giám
đốc của công ty "Anilin Rôlinh" là Linnây đến đài thu. Vào giờ cố
định, Rôlinh ngồi trong buồng phát sóng, dưới họng súng lục, ra lệnh cho Linnây
phải trao cho người cầm séc là ngài Garin một trăm triệu đô la. Garin đi Niu
Yoóc và trở về cùng với tiền và chính Linnây. Đó là một sai lầm: Rôlinh nói
chuyện với viên tổng giám đốc đúng năm phút với sự hiện diện của Dôia, Garin và
Gianxen. Do đó, khi ra đi, Linnây tin chắc rằng đây là một việc mờ ám.
Sau đó,
chiếc "Aridôna" bắt đầu chạy ngang dọc trên biển Caribê vắng vẻ.
Garin đến nhiều nhà máy ở khắp nước Mỹ, thuê tàu, mua trữ máy móc, thiết bị,
thép, xi măng, thủy tinh. Việc xếp hàng xuống tàu diễn ra ở Xan Phranxixcô. Đại
diện của Garin ký kết hợp đồng với các kỹ sư, kỹ thuật viên và công nhân. Một
đại diện khác của Garin đi châu Âu và mộ năm trăm nguời trong số đám bạch vệ cũ
để làm nhiệm vụ cảnh sát.
Gần một
tháng trôi qua như vậy. Rôlinh nói chuyện hàng ngày qua điện thoại với Niu
Yoóc, Pari, Béclin... Những mệnh lệnh của y hết sức nghiêm khắc và nghiệt ngã.
Sau khi công ty Anilin bị Đức hủy diệt, nền công nghiệp hóa chất châu Âu đã quy
hàng. Dấu hiệu của công ty "Anilin Rôlinh" xuất hiện trên mọi chế
phẩm. Đó là một vòng tròn vàng có ba sọc đen, bên trên là hai chữ "Thế
giới", bên dưới là hàng chữ "Công ty Anilin Rôlinh".
Có vẻ như bất kỳ người châu Âu nào đều phải bị đóng triện bằng vòng tròn nhỏ
màu vàng này. Vậy là công ty "Anilin Rôlinh" đang triển khai cuộc
tiến công qua đống hoang tàn đầy khói của các nhà máy thuộc công ty Anilin ở
Đức.
Khắp
châu Âu sặc sụa mùi thuộc địa khủng khiếp. Các niềm hy vọng tắt dần. Không khí
vui tươi không trở lại. Vô số kho tàng tinh thần bị mục nát trong các thư viện
đầy bụi. Mặt trời màu vàng có ba sọc đen tỏa một thứ ánh sáng ảm đạm lên các
thành phố, các ống khói và vô số các biển quảng cáo chuyên hút máu người. Trong
các đường phố và ngõ hẻm, giữa các quầy hàng, các biển quảng cáo, các vòng tròn
lớn và nhỏ màu vàng là những khuôn mặt nhăn nhúm vì đói, vì buồn bã và tuyệt
vọng.
Tiền
xuống giá. Thuế khóa tăng. Nợ nần chồng chất. Và luật pháp thiêng liêng đòi hỏi
phải tôn trọng nghĩa vụ và pháp luật đã bị chiếc vòng tròn màu vàng đập một cú
vào giữa trán. Hãy trả tiền đi!
Tiền
bạc chảy thành suối, thành sông vào các két sắt của công ty Anilin Rôlinh. Các
giám đốc của công ty thọc tay vào công việc nội bộ của các quốc gia, can thiệp
vào nền chính trị quốc tế. Dường như họ tạo thành một hội những kẻ cầm quyền bí
mật.
Garin
ngang dọc khắp nước Mỹ với hai viên thư ký, với các kỹ sư, các nữ nhân viên tốc
ký và một đám tùy phái. Y làm việc hai mươi giờ một ngày. Y không bao giờ hỏi
giá hoặc mặc cả.
Linnây
lo lắng và ngạc nhiên theo dõi y. Ông ta không hiểu y mua tất cả những thứ đó
và chất lên tàu nhằm mục đích gì, ông ta không hiểu y phung phí khắp nơi hàng
triệu đô la của Rôlinh để làm gì. Một viên thư ký của Garin, một nữ nhân viên
tốc ký và hai tùy phái là điệp viên của Linnây. Ngày nào họ cũng gửi báo cáo
chi tiết về Niu Yoóc cho ông ta. Nhưng thật khó mà hiểu được điều gì đó trong
cơn lốc những vụ mua hàng, đặt hàng và ký hợp đồng này.
Đầu
tháng chín, du thuyền "Aridôna" lại xuất hiện trên kênh đào Panama để
đón Garin, và sau khi ra đến ngoài khơi Thái Bình Dương thì biến mất về hướng
Tây nam.
Hai
tuần sau, mười chiếc chất nặng hàng hóa cũng tiến theo hướng đó.
80
Biển
động, chiếc "Aridôna" căng buồm chạy. Lúc thì nó khuất sâu giữa các
ngọn sóng, lúc thì nó nổi lên trên đỉnh sóng ngầu bọt.
Lớp mái
che đã bỏ đi. Các cửa mạn đóng kín. Mấy chiếc xuồng được đưa lên boong và buộc
chặt. Các bao cát xếp dọc theo hai thành du thuyền, buộc bằng dây chão. Trên
sàn mũi và tầng lái trên, người ta dựng hai chiếc tháp có chấn song với hai
buồng nhỏ hình tròn. Những chiếc tháp phủ kín vải bạt này khiến chiếc
"Aridôna" có hình dáng lạ lùng của một chiếc tàu quân sự.
Đứng
trên cầu chỉ huy, nơi chỉ có những vụn nước là bắn tóe lên được, là Garin và
Senga. Cả hai đều mặc áo khoác da và đội mũ. Tay Senga đã không bị bó thạch cao
nữa, nhưng vẫn chỉ có thể dùng để lấy bao diêm hoặc cầm dĩa ở bàn ăn.
- Đại
dương đây, - Garin nói, - và con thuyền nhỏ xíu, kết tinh của thiên tài và ý
chí con người.. Dù anh có nói gì đi nữa thì anh Senga ạ, chúng ta vẫn đang
bay.. đang chiến đấu... Anh nhìn xem, những đợt sóng trào lên cao vút như ngọn
núi vậy.
Một đợt
sóng lớn xuất phát từ mạn phải du thuyền. Ngọn sóng sôi sục, dâng dần lên, ngầu
bọt. Phía dưới, mặt nước trong xanh mỗi lúc một uốn cong hơn, gầm réo... Chiếc
"Aridôna" nghiêng hẳn sang trái. Gió hung dữ rít lên giữa các cánh
buồm, đưa con thuyền từ vực thẳm lên. Con thuyền ngả hẳn ra, để lộ đáy thuyền
màu đỏ. Nước gầm réo quanh cầu chỉ huy.
- Tuyệt
quá, - Garin kêu lên.
Chiếc
"Aridôna" vươn thẳng dậy, nước trào qua boong, và con thuyền lại lao
xuống dưới.
- Hệt
như con người vậy, anh Senga ạ, hệt như con người trong biển người vậy! Sao tôi
lại mê con thuyền này đến thế... Chẳng lẽ chúng tôi không giống nhau ư?... Ngực
cả hai đều căng đầy gió... Có phải thế không?
Senga
nhún vai, không trả lời. Chẳng hơi đâu mà tranh cãi với y, một kẻ say mê bản
thân mình đến mức mù quáng... Mặc cho y cứ khoái trá đi, cái kẻ tự coi mình là
siêu nhân ấy... Không phải vô cớ mà y và Rôlinh tìm thấy nhau: tuy là những kẻ
thù không đội trời chung của nhau, nhưng chúng không thể thiếu nhau được.
Thật
khó hiểu là tại sao cho đến nay Rôlinh vẫn chưa bị làm mồi cho cá mập. Y đã làm
xong phần việc của y rồi. Garin chưa nhận được một tỷ đô la, nhưng cũng đã nhận
được ba trăm triệu đô la. Bây giờ đã đến lúc thủ tiêu đầu mối rồi mới phải.
Nhưng không, một cái gì đó vững chắc hơn đã liên kết hai kẻ đó lại.
Senga
cũng không hiểu sao anh chưa bị đẩy xuống biển. Hồi ở Naplơ, anh cần cho Garin
với tư cách là nhân vật thứ ba và người làm chứng. Nếu Garin lên chiếc
"Aridôna" một mình thì có thể xảy ra những chuyện bất ngờ khó chịu.
Nhưng Rôlinh sẽ khó hơn nhiều nếu định tiêu diệt cả hai một lúc. Mọi chuyện đó
đều rõ ràng. Garin đã thắng cuộc. Nhưng giờ đây y cần đến Senga để làm gì?
Cuộc
vượt biển này giống như một cuộc du lịch thú vị. Các bữa ăn, - sáng, trưa, tối,
- đều hết sức thịnh soạn. Ngồi quanh bàn là Garin, bà Lamôlơ, Rôlinh, thuyền
trưởng Gianxen, thuyền phó, Senga, kỹ sư Sécmắc người Tiệp (phụ tá của Garin),
một người đàn ông ốm yếu, tóc bù, cặp mắt chăm chú trắng dã, râu thưa và cuối
cùng là nhà hóa học Sêphe người Đức (phụ tá thứ hai của Garin), một thanh niên
gầy giơ xương, rụt rè, mới đây còn đang chết đói ở Xan Phranxixcô.
Thật là
một đám người lạ lùng. Ngồi bên phải Senga là kẻ đã có lần nhả bốn phát đạn vào
anh, ngồi bên trái anh là kẻ đã giết chết ba nghìn người, còn đối diện anh là
một ả đàn bà cực kỳ nguy hiểm.
Hôm
nay, trái với thường lệ, Garin theo Senga lên cầu chỉ huy và bắt chuyện với anh
một cách thân mật, dường như không có chuyện gì xảy ra từ hôm hai người ngồi
trên ghế đá ở đại lộ Công Đoàn tại Lêningrát.
- Anh
Senga ạ, - y lên tiếng, - tôi có một đề nghị với anh.
- Anh
có nhớ là chúng ta đã thỏa thuận chơi bài một cách trung thực không? Vậy mà một
trợ thủ của anh đã làm tôi suýt tan sọ.
- Tôi
chẳng biết gì hết...
Garin
liền kể về phát súng tại ngôi nhà nghỉ của Stuphe, Senga lắc đầu:
- Tôi
chẳng can dự gì đến chuyện ấy... Và thật đáng tiếc là phát súng đó lại bắn
trượt.
- Tức
là tại số chăng?
- Đúng
thế.
- Anh
Senga ạ, tôi đề nghị anh hãy lựa chọn, - đôi mắt tàn nhẫn và sắc sảo của Garin
ghé gần lại, nét mặt y ngay lập tức trở nên độc ác, - hoặc là anh hãy vứt cái
trò đóng vai một kẻ nguyên tắc đi, hoặc là tôi sẽ quẳng anh xuống biển. Anh hiểu
chứ?
- Hiểu
- Tôi
cần đến anh. Tôi cần đến anh để làm những việc lớn... Chúng ta có thể thỏa
thuận được với nhau. Anh là người duy nhất mà tôi tin cậy...
Y không
nói hết - một đợt sóng dữ dội hơn những đợt sóng trước kia đổ ụp lên du thuyền.
Bọt sóng sôi sục phủ kín cầu chỉ huy. Senga bị hất tung lên tay vịn, đôi mắt mở
to của anh, cái miệng há ra của anh và bàn tay với những ngón tay tẽ ra của anh
thoáng hiện rồi biến mất dưới nước. Garin nhảy vèo xuống chỗ nước xoáy...
Chú thích:
[3] Camin Đơmulanh( 1760 - 1791) nhà hoạt động cách mạng
tư sản Pháp, nhà báo và nhà viết văn đả kích. Về sau, ngả về phía phản động, và
cuối cùng gia nhập nhóm của Đăngtông. Bị hành hình cùng Đăngtông hồi tháng 3
-1791. (Chú thích của nguyên bản)
81
Về sau,
Senga nhiều lần nhớ lại biến cố đó.
Garin
liều mình nắm lấy vạt áo anh và vật lộn với sóng cho đến khi họ bay qua du
thuyền. Senga mắc lơ lửng trên tay vịn. Phổi anh đầy nước. Anh nặng nề ngã
xuống sàn du thuyền. Các thủy thủ vất vả lắm mới làm cho anh tỉnh lại được rồi
đưa anh vào buồng.
Một lát
sau, Garin cũng bước vào. Y đã thay quần áo, vẻ mặt tươi tỉnh. Y ra lệnh đem
đến hai ly rượu rum pha nước nóng và sau đó hút hết điếu thuốc, lại tiếp tục
câu chuyện dang dở.
Senga
ngắm nhìn khuôn mặt giễu cợt của y và tấm thân dẻo dai ngả trong ghế bành da
của y. Một kẻ lạ lùng, đầy mâu thuẫn. Một tên ăn cướp, một tên khốn khiếp, một
tên phiêu lưu đen tối. Nhưng không hiểu vì rượu hay vì cơn chấn động vừa trải
qua, Senga cảm thấy dễ chịu khi thấy Garin bắt chéo chân ngồi trước mặt anh,
vừa hút thuốc vừa tán gẫu về đủ thứ chuyện, dường như không có chuyện gì xảy ra
hết.
Y đã
thay đổi nhiều từ hồi ở Lêningrát, y tỏ ra hết sức tự tin, hay cười đùa, vẻ
sảng khoái và hiền hậu, một vẻ mà chỉ có ở những kẻ ích kỷ rất thông minh và tự
tin.
- Sao
anh lại bỏ lỡ một cơ hội thuận lợi như vậy? - Senga hỏi y - hay là anh quá cần
đến tính mạng của tôi? Tôi không hiểu đấy.
Garin
ngửa đầu, phá lên cười vui vẻ:
-
Senga, anh kỳ cục thật... Tại sao tôi lại phải hành động theo lôgích mới được
chứ?... Tôi không phải là giáo viên dạy toán... Anh đâm lẩn thẩn rồi, không
hiểu được một biểu hiện đơn giản của lòng nhân đạo!
- Khi
anh làm nổ tung các nhà máy anilin thì hình như anh không nghĩ đến lòng nhân
đạo thì phải.
-
Không! - Garin hét to - Không. Tôi không nghĩ đến... Anh vẫn chưa thoát khỏi
những tàn tích của đạo đức... Nhân đạo là cái quái gì mới được chứ!.. Các anh
cứ có thói quen bắc lên cân xem cái gì tốt, cái gì xấu. Vậy theo anh cái gì là
tốt, cái gì là xấu nào?
- Tất
cả những gì dẫn đến việc thiết lập chính quyền Xô viết trên trái đất đều là
tốt, những gì ngăn trở quá trình đó đều là xấu.
- Thật
tuyệt... Nhưng cá nhân anh thì có quan hệ gì đến chuyện đó? Cái gì gắn bó anh
với chính quyền Xô viết. Kinh tế ư?... Vớ vẩn. Tôi đề nghị trả lương cho anh năm
vạn đô la... Tôi nói hoàn toàn nghiêm túc đấy. Anh đồng ý chứ?
-
Không, - Senga thản nhiên đáp.
- Vậy
là không phải yếu tố kinh tế đã gắn bó anh với chính quyền Xô viết mà là một
yếu tố khác - tư tưởng, lòng trung thực, tóm lại là một vật chất bậc cao... Các
anh muốn đảo lộn thế giới. Các anh muốn làm trong sạch những quy luật kinh tế
khỏi những rác rưởi đã bám vào hàng nghìn năm, các anh muốn làm nổ tung những
thành trì đế quốc chủ nghĩa. Được thôi. Tôi cũng muốn làm đảo lộn thế giới,
nhưng theo kiểu riêng của tôi. Và tôi nhất định sẽ đảo lộn được chỉ bằng sức
mạnh của thiên tài tôi mà thôi.
- Chà,
gớm nhỉ!
- Tôi
đề nghị anh một việc khác. Kẻ thù của tôi, anh hãy nghe đây... Tôi sắp nắm
trong tay toàn bộ quyền lực trên trái đất. Nếu không có lệnh của tôi thì không
một ống khói nào được nhả khói, không một con tàu nào được rời cảng, không một
chiếc búa nào được nện xuống. Tất cả mọi thứ - ngay cả quyền được thở nữa - đều
phục tùng, đều lệ thuộc vào trung tâm quyền lực. Trung tâm đó là tôi. Tất cả
đều thuộc về tôi. Tôi sẽ cho khắc hình của tôi lên mặt phải các đồng tiền vàng
và mặt trái là hình bà Lamôlơ. Rồi tôi sẽ chọn lọc khoảng hai - ba triệu cặp
nam nữ gì đấy làm tầng lớp tinh hoa của xã hội. Họ được quyền hưởng thụ và sáng
tạo. Sau đó, chúng tôi sẽ tổ chức một lực lượng lao động cần thiết, đủ để phục
vụ hoàn toàn cho văn hóa. Ở đây cũng phải tiến hành chọn lọc. Để cho lịch sự,
chúng tôi sẽ gọi đó là những người lao động...
- Dĩ
nhiên rồi...
- Anh
bạn ạ, anh chớ cười vội, cứ nghe tôi nói hết đã... Họ sẽ không nổi loạn đâu,
đồng chí Senga thân mến ạ. Khả năng xảy ra cách mạng sẽ bị loại trừ tận gốc rễ.
Sau khi phân loại và trước khi cấp sổ lao động, mỗi người lao động sẽ bị làm
một phẫu thuật nhỏ, hết sức kín đáo, ở hộp sọ, chỉ choáng váng một lát thôi,
nhưng khi tỉnh lại thì đã biến thành nô lệ. Và cuối cùng, chúng tôi sẽ chọn lọc
một nhóm người rồi đưa đến một hòn đảo tuyệt đẹp để chuyên làm nhiệm vụ sinh
sản. Tất cả những người khác sẽ bị loại bỏ vì không cần thiết. Đó, cấu trúc
nhân loại tương lai theo ý định của Garin sẽ là như vậy đó.
Bọn
người chuyên lao động ấy vì miếng ăn sẽ nhẫn nhục hầu hạ và làm việc như trâu
bò vậy. Họ không còn là con người nữa, họ không còn điều gì lo sợ ngoài cái
đói. Họ sẽ cảm thấy sung sướng khi được tiêu hóa thức ăn. Còn nhóm người chọn
lọc kia cũng cảm thấy gần như thần như thánh ấy rồi. Mặc dù nhìn chung mà nói
tôi coi khinh con người, nhưng dẫu sao sống giữa một tầng lớp ưu việt cũng sẽ
thấy dễ chịu hơn. Tôi khẳng định với anh, anh bạn ạ, đó sẽ là một thế kỷ tột
cùng và thực sự hoàng kim mà các nhà thơ đã từng mơ ước. Những ấn tượng kinh
hoàng trong việc tiêu trừ lớp quần chúng cặn bã khỏi mặt đất này sẽ được mau
chóng xóa bỏ.
- Đúng
là chủ nghĩa không tưởng kiểu phát xít - Senga nói - Anh có kể cho Rôlinh về ý
đồ đó không?
- Không
hề không tưởng chút nào - điều lạ lùng là ở chỗ đó. Tôi chỉ hết sức lôgích
thôi... Dĩ nhiên là tôi không kể gì cho Rôlinh biết vì hắn ta chỉ là đồ súc
vật... Mặc dù Rôlinh và cả lũ những Rôlinh khác trên đời này đang mù quáng làm
tất cả những gì mà tôi phát triển thành một chương trình hoàn chỉnh và rành
mạch.
- Vậy
anh định bắt đầu từ đâu? Từ việc khắc hình anh lên đồng tiền vàng chứ?
-
Không. Tôi sẽ bắt đầu từ việc phòng thủ. Tôi sẽ củng cố hòn đảo đồng thời ráo
riết xâm nhập đến vòng đai Ôlivin. Khi tôi lật đổ được hệ thống kim bản vị [1] thì thế giới sẽ bị đòn
đe dọa đầu tiên. Tôi sẽ có thể khai thác vàng bao nhiêu tùy ý. Rồi tôi sẽ
chuyển sang tiến công. Sẽ xảy ra chiến tranh, một cuộc chiến tranh hết sức
khủng khiếp. Nhưng thắng lợi của tôi là chắc chắn. Sau đó sẽ bắt đầu phân loại
người như tôi đã nói với anh.
Garin
lại cười vang. Senga nhắm mắt lại để không phải nhìn y. Trò chơi đã bắt đầu ở
đại lộ Công Đoàn, nay đang biến thành một ván cờ quan trọng. Anh nằm suy nghĩ.
Vẫn còn lại một nước cờ nguy hiểm, nhưng là nước cờ độc nhất có thể dẫn tới
thắng lợi. Dù sao chăng nữa thì lúc này không được cự tuyệt lời đề nghị của
Garin.
Senga
vươn tay lấy thuốc lá. Garin mỉm cười giễu cợt theo dõi anh.
- Quyết
định rồi chứ?
- Quyết
định rồi.
- Tuyệt
lắm. Tôi lật bài cho anh biết nhé: tôi rất cần có anh. Senga ạ, xung quanh tôi
toàn là những kẻ đần độn, không có óc tưởng tượng. Chúng ta sẽ cãi nhau, nhưng
tôi sẽ thuyết phục bằng được để anh làm việc với tôi. Dù chỉ cho đến lúc chúng
ta đánh bại được bọn Rôlinh... Tiện đây tôi xin báo trước là anh nên đề phòng
Rôlinh. Y rất bướng bỉnh, và nếu y quyết định giết anh thì y sẽ thực hiện bằng
được đấy.
- Lâu
nay tôi vẫn ngạc nhiên là tại sao anh chưa xô hắn xuống biển cho cá mập.
- Tôi
cần một con tin. Vả lại dù sao hắn cũng nằm trong danh sách giới tinh hoa của
nhân loại tương lai... Thôi anh mặc quần áo rồi đi ăn đi.
82
Những
đám mây dông đã lùi lại mạn Đông Bắc. Đại dương xanh thẳm vừa bao la vừa êm
đềm. Xa xa, hiện lên hình bóng xanh xanh như ảo ảnh của một hòn đảo lô nhô núi
đá.
Trên du
thuyền, một người thủy thủ kêu to: "Đất liền!". Và những người đứng
trên boong giật mình. Đó là mảnh đất của tương lai vô định. Nó giống như một
đám mây dài nằm ở chân trời. Những cánh buồm căng gió đưa chiếc
"Aridôna" lại gần hòn đảo xa lạ.
Ánh
hoàng hôn mùa thu rực rỡ trên đảo Vaxiliépxki.[2] Làn ánh sáng đỏ rực và
ảm đạm trùm lên những xà lan chở củi, những người đánh cá và những làn khói mờ
mờ.
Từ phía
Tây, từ sau những làn khói đó, một chiếc tàu thủy đang tiến lại gần theo dòng
sông Nêva đen sẫm.
Một
hành khách hạng nhất, da ngăm đen, vai rộng và trong hộ chiếu ghi là cộng tác
viên khoa học của Hội Địa lý Pháp, đứng cạnh mạn tàu. Y nhìn thành phố
Lêningrát bị màn sương mù buổi tối bao phủ. Vẫn còn ánh sáng trên mái vòm nhà
thờ Ixắcxki, trên những tháp vàng nhọn hoắt của trụ sở Bộ tư lệnh Hải quân và
nhà thờ Pêtơrôpavlốpxki.
Người
hành khách vai rộng nghển cổ nhìn tháp nhọn của tòa nhà thờ. Hình như y sửng
sốt và xúc động, chẳng khác gì người lữ khách lại nhìn thấy mái nhà thân thuộc
sau bao năm xa cách.
Tại
trạm hải quan, y xuất trình hộ chiếu mang tên Áctua Lêvi, và trong lúc khám xét
y rầu rĩ đứng cúi đầu để không lộ ra ánh mắt long lanh giận dữ.
Sau đó,
y choàng khăn len, xách chiếc vali nhỏ đi xuống đường ven bờ của đảo
Vaxiliépxki. Những ngôi sao mùa thu rực rỡ. Y vươn thẳng người lên kèm theo
tiếng thở dài đã nén lại từ lâu.
Một
người cao lớn, mặc áo khoác vải thô, chậm rãi đi ngược lại. Khi đi ngang qua y,
người này nhìn vào mặt y, thầm thì: "Trời!", rồi bỗng hỏi với theo:
- Anh
Vônsin phải không?
Người
xưng tên ở trạm hải quan là Áctua Lêvi giật mình, nhưng không quay đầu lại, y
rảo bước nhanh hơn.
Chú bé
Ivan sống ở nhà Taraskin, chú nửa như con nửa như em trai của anh. Taraskin dạy
chú học chữ và những điều hay lẽ phải.
Chú tỏ
ra hết sức sáng trí và chăm chỉ khiến anh rất vui mừng. Cứ tối tới là họ lại
uống trà và ăn bánh với nhau, mỗi khi Taraskin thò tay vào túi lấy thuốc lá thì
anh lại chợt nhớ là đã hứa bỏ thuốc với tập thể Câu lạc bộ, anh ậm ừ, vò tóc và
bắt đầu câu chuyện đại loại như:
- Cháu
có biết chủ nghĩa tư bản là gì không?
-
Không, cháu không biết.
- Chú
sẽ giải thích thật dễ hiểu nhé. Mười người cùng làm việc nhưng người thứ mười
lấy tất, bụng béo nứt ra, trong khi chín người kia bị đói. Đó là chủ nghĩa tư
bản. Cháu hiểu chứ?
- Cháu
chưa hiểu.
- Cháu
chưa hiểu điều gì?
- Tại
sao họ lại cho hắn lấy tất?
- Hắn
bắt họ phải cho, hắn là kẻ bóc lột.
- Bắt
là thế nào? Họ chín người, còn hắn chỉ có một mình kia mà...
- Hắn
có vũ khí, những người kia không có vũ khí...
- Vũ
khí thì lúc nào mà chẳng tước lấy được. Tức là họ vụng về quá đấy, chú ạ...
Taraskin
khâm phục, há miệng nhìn Ivan.
- Đúng
đấy... Cháu lập luận theo kiểu Bônsêvích đấy. Ở nước ta, chúng ta đã làm như
vậy, chúng ta tước lấy vũ khí, tống cổ bọn bóc lột đi, và ở nước ta, cả mười
người cùng làm việc, cùng no đủ...
- Và
cùng béo nứt bụng ra nữa.
-
Không, không nên béo nứt bụng làm gì, chúng ta là người chứ có phải lợn đâu.
Chúng ta ăn no để phát triển trí tuệ.
- Để
làm gì hả chú?
- Để
trong thời gian ngắn nhất chúng ta sẽ trở thành một dân tộc thông minh nhất, có
học thức nhất... Cháu hiểu chứ? Bây giờ, đem vở toán ra đây.
- Vâng,
- Ivan đáp, rồi lấy vở toán và bút chì ra.
- Không
được nhấm nước bọt bút chì. Như vậy là không văn hóa... Cháu hiểu chứ?
Tối nào
họ cũng học như vậy cho tới quá nửa đêm, khi cả hai đều díp mắt lại.
85
Cạnh
cổng câu lạc bộ chèo thuyền có một người đàn ông cằm bạnh, ăn mặc sang trọng,
đứng đợi. Y ngẩng đầu lên và nhìn Taraskin cùng Ivan đang lại gần với một vẻ lạ
lùng đến nỗi Taraskin phải rùng mình. Ivan nép vào người anh. Người kia nói:
- Tôi
đã chờ ở đây từ sáng. Chú bé này là Ivan Guxép phải không?
- Nhưng
ông cần gì mới được chứ? - Taraskin thở phì phì và hỏi.
- Xin
lỗi, tôi xin tự giới thiệu đã. Tên tôi là Áctua Lêvi.
Y rút
một tấm thẻ và giở ra cho Taraskin thấy:
- Tôi
là nhân viên sứ quán Liên xô ở Pari. Đồng chí biết như vậy đủ rồi chứ?
Taraskin
càu nhàu một câu gì đó. Áctua Lêvi rút trong ví ra tấm ảnh mà Garin lấy của
Senga.
- Đồng
chí có thể xác nhận rằng tấm ảnh này chụp chú bé kia chứ?
- Đồng
chí Senga trao cho tôi tấm ảnh này. Tôi được giao nhiệm vụ mật là phải đưa chú
bé đến một địa điểm đã quy định. Nếu chú bé chống cự thì tôi phải dùng vũ lực.
Đồng chí có đồng ý phục tùng không?
- Giấy
ủy quyền của ông đâu? - Taraskin hỏi.
Áctua
Lêvi đưa ra giấy ủy quyền của sứ quán Liên Xô tại Pari với đủ các dấu và chữ
ký. Taraskin đọc một lúc lâu rồi thở dài, gập lại.
- Có
trời mới hiểu nổi nhưng dường như mọi thứ đều đúng hết. Liệu người khác đi thay
có được không? Em bé này còn phải học...
Áctua
Lêvi nhe răng mỉm cười:
- Đồng
chí chớ ngại. Đi với tôi thì chẳng việc gì phải lo cả...
1] Giá trị cố định của
vàng trên khắp thế giới. Nhiệm vụ của Garin là làm vàng bị mất giá để gây hỗn
loạn trong giới tài phiệt của thế giới tư bản, do đó mà chiếm lấy quyền lực. (Chú
thích của tác giả)
[2] Một quận của
Lêningrát. (N.D.)
86
Taraskin
bắt Ivan phải hứa là dọc đường sẽ viết thư về. Anh đỡ lo lắng ít nhiều khi nhận
được một tấm bưu ảnh gửi từ Trêliabinxcơ:
"Chú
Taraskin yêu quí, cháu đi tàu hạng nhất chú ạ. Cháu được ăn uống ngon lành và
đối xử tử tế. Ở Mátxcơva bác Áctua mua cho cháu một chiếc mũ, một áo độn lông
và một đôi ủng mới. Chỉ có điều là cháu buồn lắm: bác Áctua suốt ngày chẳng nói
một lời. Đến nhà ga ở Xamara, cháu gặp một đứa bạn cũ cũng lang thang như cháu
trước kia. Cháu có cho nó địa chỉ của chú, chắc là nó sẽ đến chỗ chú, vậy chú
đợi nó nhé."
87
Vônsin
đến Liên Xô bằng tấm hộ chiếu mang tên Áctua Lêvi và giấy tờ của Hội địa lý
Pháp. Tất cả những giấy tờ này đều hợp lệ (Garin đã phải chạy vạy nhiều mới
xoay nổi), chỉ có giấy ủy quyền và giấy của sứ quán Liên Xô là giả mạo. Nhưng
Vônsin chỉ đưa hai loại giấy này cho Taraskin xem. Còn chính thức thì Áctua
Lêvi đến Liên Xô để nghiên cứu hoạt động núi lửa ở Camsatca.
Vào
trung tâm tuần tháng chín, y cùng Ivan đến Vlađivôxtốc. Những hòm dụng cụ và đồ
đạc cần thiết cho chuyến thăm dò đã đến trước từ Xan Phranxixcô bằng đường
biển. Áctua rất vội. Trong vài ngày, y đã mộ xong được đoàn thăm dò và ngày hai
tám tháng chín đáp tàu Liên Xô từ Vlađivôxtốc đến Pêtơrôpavlốpxcơ. Chuyến đi
rất vất vả. Mãi đến ngày thứ mười một, họ mới tới nơi.
Từ
Pêtơrôpavlốpxcơ, họ đi bộ. Họ đi xuyên qua rừng núi, sình lầy, men theo những
con đường nhỏ và lòng suối.
Ivan
dẫn đường, chú có trí nhớ tốt và trực giác thính nhạy. Áctua luôn luôn khẩn
trương, họ lên đường lúc trời còn mờ sáng và dừng chân lúc đã tối mịt. Người
ngựa mệt lử, nhưng Áctua rất nghiệt ngã. Y không thương hại một ai, song trả
tiền hậu hĩnh.
88
Gió bấc
thổi suốt ngày, những đám mây dầy đặc bay là là trên khu rừng. Đám thông cao
vút xào xạo một cách buồn bã, những ngọn bá hương đen sẫm cong xuống. Những
giọt mưa lạnh giá rơi lộp bộp. Rừng taiga vắng vẻ. Hình như giữa cảnh vắng lặng
này không thể nghe thấy gì hết ngoài tiếng xào xạc trang trọng của cây cối và
tiếng gió rít. Chim chóc đã bay đi, thú vật cũng bỏ đi hoặc ẩn nấp một chỗ. Nếu
con người đến chốn này thì chắc hẳn chỉ để cầu cái chết.
Nhưng
con người đã xuất hiện. Ông ta mặc bộ quần áo tã nát, râu ria xồm xoàm che kín
mặt, mớ tóc bạc buông xõa xuống hai vai, chống tay vào khẩu súng mà lê bước
quanh ngọn đồi, thỉnh thoảng lại khuất bóng sau đám rễ cây to tướng.
Bảy năm
trước đây, ông ta tìm cách sử dụng những ý đồ thiên tài của mình. Lúc đó, ông
ta còn khỏe mạnh, lực lưỡng. Vào một ngày tai hại, ông ta đã gặp Garin. Y vẽ
lên cho ông ta thấy những kế hoạch đồ sộ đến nỗi ông ta vứt bỏ hết để đến đây,
đến chân núi lửa này.
Những
người cùng ông ta đến đây hoặc đã chết, hoặc đã bỏ trốn. Nhà cửa đã hư hỏng,
con đê của trạm thủy điện đã bị lũ xuân cuốn trôi. Toàn bộ lao động trong bảy
năm trời, tất cả những lập luận lạ lùng cùng những cuộc nghiên cứu các lớp đất
sâu - vòng đai ôilvin - nhất định sẽ mai một đi cùng với ông ta.
Trước
đây, đi bộ ba trăm cây số trong rừng taiga để đến nơi có người ở chỉ là chuyện
chơi đùa đối với ông ta. Giờ đây, chân tay đã bị tê thấp nặng, răng rụng hết vì
chứng hoại huyết. Mùa đông lại sắp đến, mà mùa đông là cái chết. Tim ông ta đau
thắt lại... Chẳng lẽ ông ta sẽ không còn bao giờ được nhìn thấy mặt người, được
ngồi cạnh lò sưởi, được hít thở hương vị bánh mì, hương vị cuộc sống nữa hay
sao? Ông ta lặng lẽ bật khóc.
- Ông
Manxép, ông Manxép! - đột nhiên ông ta nghe thấy một giọng thanh thanh của trẻ
con gọi lẫn vào tiếng gió.
Ông ta
sững sờ lắng nghe. Một lát sau lại vang lên tiếng gọi:
- Ông
Manxép? Ông ở đâu đấy? Ông còn sống không?
Bộ râu
Manxép run rẩy, môi run rẩy, ông ta dang tay ra và nhắc đi nhắc lại không thành
tiếng:
- Tôi
đây... Manxép đây... Tôi còn sống đây...
Những
súc gỗ ám khói của chốn trú thân này chưa bao giờ được chứng kiến một cảnh
tượng huy hoàng như vậy. Lửa cháy rực trong chiếc lò sưởi xây bằng đá núi lửa,
nước reo vui trong các soong nồi. Manxép hít lấy hít để mùi trà, mùi bánh mì,
mùi mỡ - những hương vị ông ta đã quên mất từ lâu.
Những
con người ăn nói oang oang hết ra lại vào, đem vào và tháo gỡ các gói bọc. Một
người đàn ông cằm bạnh đưa cho Manxép ca trà bốc khói nghi ngút và một khoanh
bánh mì... Bánh mì! Manxép run rẩy, vội vã nhai bằng lợi. Một chú bé ngồi xổm
xuống, nhìn Manxép với vẻ thương cảm khi thấy ông ta lúc thì cắn một mẩu bánh,
lúc thì áp bánh vào bộ râu xồm xoàm như e sợ: cái cuộc sống ồn ào xộc vào chỗ
trú thân đổ nát này của ông ta có phải là một giấc mơ không?
- Không,
không, ta đã xa lạ với mọi người rồi, - Manxép lẩm bẩm, - ta không ăn bánh mì
đã từ rất lâu rồi.
- Cháu
là Ivan đây mà... Cháu đã làm tất cả những điều bác căn dặn... Bác có nhớ là
bác còn dọa chặt đầu cháu không?
Manxép
không nhớ ra hết, chỉ giương mắt nhìn những khuôn mặt xa lạ bừng lên dưới ánh
lửa. Ivan liền kể lại toàn bộ cuộc hành trình gian nan của mình tới đây.
- Cháu
giữ lời hứa với bác, bác Manxép ạ, cháu đã đưa người ta đến tìm bác đây. Chỉ có
điều là hồi đó bác không nên viết lên lưng cháu mới phải. Bác chỉ cần bảo:
"Ivan, cháu hứa chứ?" - "Cháu xin hứa". Thế là đủ. Vậy mà
hình như bác lại viết lên lưng cháu những dòng chữ gì đó chống chính quyền Xô
viết ấy. Thật không hay chút nào. Bây giờ bác đừng trông cậy vào cháu nữa, cháu
là đội viên thiếu niên tiền phong rồi.
Manxép
cúi xuống chú bé và phều phào hỏi:
- Những
người này là ai thế?
- Đoàn
thăm dò khoa học Pháp đấy. Họ đã ra sức tìm kiếm cháu ở Lêningrát để cháu đưa
họ đến chỗ bác đây.
Manxép
bóp chặt vai Ivan:
- Cháu
gặp Garin rồi chứ?
- Bác
đừng có dọa cháu, bây giờ sau lưng cháu có chính quyền Xô Viết rồi... Bức thư
bác viết trên lưng cháu đã rơi vào những bàn tay tin cậy... Garin chẳng có liên
quan gì đến cháu cả.
- Thế
họ đến đây làm gì? Họ cần gì ở bác?.. Bác sẽ không nói một điều gì với họ,
không cho họ biết một điều gì đâu.
Khuôn
mặt Manxép đỏ bừng lên, ông ta kích động nhìn quanh. Áctua Lêvi ngồi xuống tấm
ván nằm ở bên cạnh ông ta.
- Bác
phải bình tĩnh mới được, bác Manxép ạ. Bác hãy ăn uống đi, hãy nghỉ ngơi đi...
Chúng ta còn nhiều thời gian, chúng tôi sẽ không đưa bác đi khỏi đây trước
tháng mười một đâu.
Manxép
từ tấm ván nằm bước xuống, hai tay ông ta run run...
- Tôi
muốn nói chuyện riêng với ông.
Ông ta
tập tễnh đi về phía cửa, đẩy cửa ra. Ngọn gió ban đêm thổi tung mớ tóc bạc
trắng. Áctua Lêvi bước theo vào khoảng đêm tối, nơi những làn tuyết ẩm quay
cuồng.
- Khẩu
súng của tôi còn băng đạn cuối cùng... Tôi sẽ giết ông! Ông đến để cướp bóc
tôi! - Manxép hét lên, run rẩy vì giận dữ.
- Ta ra
chỗ khuất gió đi, - Áctua Lêvi nói và kéo Manxép tới dựa vào bức tường gỗ. -
Đừng có nói mê sảng nữa. Tôi được Garin phái đến đây tìm bác.
Manxép
vội vàng nắm lấy hai tay Lêvi. Khuôn mặt phù thũng của ông ta rung rung, hai mí
mắt lộn lên, chiếc miệng móm mém nức nở:
- Garin
còn sống?... Ông ta không quên tôi ư? Chúng tôi đã cùng nhau chịu đói khát,
cùng nhau xây dựng những kế hoạch đồ sộ... nhưng tất cả những cái đó đều vớ
vẩn, đều nhảm nhí... Tôi đã khám phá được gì ở nơi đây?... Tôi đã lục soát vỏ
trái đất... Tôi đã xác nhận được những dự đoán lý thuyết của tôi... Tôi không
chờ đợi những kết luận rực rỡ như vậy... Ôlivin ở đây, - Manxép giậm đôi ủng tã
nát, - có thể khai thác thủy ngân và vàng không bao giờ hết... Ông biết không,
tôi đã dùng sóng ngắn thăm dò lõi trái đất... Ở đấy có quỷ mới biết đang diễn
ra chuyện gì... Tôi đã đảo lộn nền khoa học thế giới... Nếu như Garin có thể
xoay được mười vạn đô la thì chúng tôi sẽ làm được biết bao nhiêu chuyện.
- Ông
Garin hiện có hàng tỷ đôla trong tay, báo chí khắp thế giới đều làm om xòm lên
về ông ta, - Lêvi nói, - ông ta đã chế tạo được bộ máy phát tia khủng khiếp,
ông ta đã chiếm lấy một hòn đảo ở Thái Bình Dương và chuẩn bị làm những việc
lớn. Ông ta chỉ chờ đợi những công trình nghiên cứu vỏ trái đất của bác. Một
chiếc khí cầu máy sẽ đến đón bác. Nếu như thời tiết thuận lợi thì một tháng nữa
chúng ta sẽ có thể đến nơi đấy.
Manxép
dựa người vào tường, im lặng hồi lâu, đầu cúi gục.
-
Garin, Garin, - ông ta nhắc đi nhắc lại với một vẻ trách móc não nuột, - tôi đã
gợi cho Garin ý tưởng chế tạo bộ máy phát tia khủng khiếp. Tôi đã gợi cho ông
ta ý nghĩ về vòng đai Ôlivin. Tôi đã bàn với ông ta về hòn đảo ở Thái Bình
Dương. Ông ta đã đánh cắp bộ óc tôi, đã làm tôi thối rữa trong vùng Taiga đáng
nguyền rủa này... Bây giờ tôi sẽ lấy được gì từ cuộc sống? - giường bệnh, thầy
thuốc, cháo tấm ư?... Garin, Garin... Ông ta đã ăn cắp những tư tưởng của người
khác!...
Manxép
ngẩng mặt lên nhìn những làn tuyết quay cuồng:
- Chứng
hoại huyết đã làm răng tôi rụng hết, nấm mốc đã tàn hại da tôi, tôi đã gần như
đui mù, óc tôi đã khô kiệt... Muộn rồi, Garin nhớ đến tôi quá muộn rồi.
Garin
đánh điện báo cho các tờ báo của Cựu Thế Giới và Tân Thế Giới biết rằng y, Piốt
Garin, đã chiếm ở Thái Bình Dương, khoảng ba mươi độ kinh Tây và hai mươi độ vĩ
Nam, một hòn đảo có diện tích năm mươi lăm cây số vuông cùng những hòn đảo nhỏ
phụ cận, và y coi hòn đảo này là lãnh địa của mình, y sẵn sàng bảo vệ chủ quyền
của mình đến giọt máu cuối cùng.
Ấn
tượng do bức điện đó gây ra thật khôi hài. Hòn đảo nhỏ xíu này ở Nam Thái Bình
Dương là hòn đảo không có người ở và chỉ được mỗi một điều là phong cảnh đẹp.
Thậm chí còn xảy ra lẫn lộn nữa, không hiểu nó thuộc về nước nào: Mỹ, Hà Lan
hay Tây Ban Nha? Nhưng với người Mỹ thì từ lâu rồi không nên tranh cãi làm gì,
người ta chỉ càu nhàu rồi tránh cho xa.
Hòn đảo
không đáng giá lượng than phải tiêu hao để đến đó, nhưng nguyên tắc là trước
hết, và do đó, một chiếc khinh hạm rời Xan Phranxixcô để bắt gã Garin này và
đặt vĩnh viễn trên hòn đảo một cột buồm sắt có gắn lá cờ sao sọc của Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ.
Chiếc
khinh hạm đã ra đi. Về câu chuyện hài hước với Garin ấy, người ta đã sáng tác
điệu phốcxtơrốt "Chàng Hary tội nghiệp" kể lại rằng chàng Pie Hary nhỏ bé, tội
nghiệp, yêu một cô gái da trắng và yêu tha thiết đến nỗi muốn biến cô ta thành
hoàng hậu. Gã dẫn cô ta đến một hòn đảo nhỏ và cặp vua - hoàng hậu nhảy một
mình điệu phốcxtơrốt ở đấy. Bỗng hoàng hậu yêu cầu: "Anh Hary tội
nghiệp ơi, em đói quá rồi". Hary chỉ biết thở dài đáp lại và tiếp tục nhảy
- than ôi, ngoài vỏ sò và hoa thì gã chẳng có gì hết. Nhưng rồi một chiếc tàu
cặp bờ. Viên thuyền trưởng đẹp trai giơ tay đỡ hoàng hậu và đưa đến một bữa ăn
thịnh soạn. Hoàng hậu cười vui vẻ, ngồi ăn. Còn Hary tội nghiệp chỉ còn một
cách là nhảy một mình... Vân vân... Tóm lại, toàn là những câu đùa cợt.
Khoảng
mười ngày sau, khinh hạm đánh điện báo cáo:
"Chúng
tôi đã nhìn thấy hòn đảo. Chúng tôi chưa đổ bộ vì được cảnh cáo là hòn đảo đã
tăng cường phòng thủ. Đã gửi tối hậu thư cho Garin, kẻ tự xưng là chủ nhân hòn
đảo. Thời hạn là bảy giờ sáng mai. Sau đó sẽ cho đổ bộ lên đảo".
Chàng
Hary tội nghiệp mà lại giơ nắm đấm nhỏ xíu ra đe dọa những khẩu pháo sáu đuim [1] - thật nghe cũng đã
buồn cười rồi. Nhưng ngày mai và cả những ngày sau đó nữa, không có tin tức gì
thêm từ khinh hạm điện về.
Nó cũng
không trả lời cả câu chất vấn gần đây nữa. Chà! Một vài người ở Bộ Chiến tranh
cau mày.
Sau đó,
các báo đăng một bài phỏng vấn giật gân với Mắc Linnây. Ông ta khẳng định rằng
Pie Hary chính là kỹ sư nổi tiếng, một kẻ phiêu lưu người Nga mà tên tuổi gắn
liền với những lời đồn đại về cả một loạt tội ác, trong đó có vụ giết người bí
ẩn ở Vinlơ Đavrê gần Pari. Câu chuyện chiếm hòn đảo còn làm Linnây ngạc nhiên
hơn bởi vì trên chiếc du thuyền chở Garin đến đảo lại có mặt chính ngài Rôlinh,
người đứng đầutơrớt "Anilin Rôlinh". Tiền bạc của ông ta đã được
sử dụng để mua những lượng hàng hóa lớn ở châu Mỹ và châu Âu cũng như để thuê
đoàn tàu chở vật liệu đến hòn đảo. Trong khi mọi chuyện diễn ra hết sức hợp
pháp thì Linnây im lặng, nhưng giờ đây ông ta khẳng định rằng nét nổi bật của
ông vua hóa học Rôlinh là tuyệt đối tôn trọng luật pháp. Bởi vậy, rõ ràng rằng
việc chiếm lĩnh hòn đảo một cách láo xược là ngoài ý muốn của Rôlinh và chỉ
chứng tỏ rằng Rôlinh hiện đang bị cầm tù trên đảo và nhà tỷ phú đang bị lợi
dụng nhằm tạo nên một sự đe dọa chưa từng thấy.
Những
chuyện đùa cợt lập tức chấm dứt. Điều thiêng liêng nhất đã bị chà đạp. Các nhân
viên cảnh sát thu thập được mọi tin tức về các vụ mua hàng của Garin trong
tháng tám. Kết quả là những con số kinh hoàng. Trong lúc ấy bộ Chiến Tranh ra
sức tìm kiếm chiếc khinh hạm nhưng vô ích - nó đã biến mất. Thêm vào đó, báo
chí đăng bài mô tả vụ án phá nổ các nhà máy anilinở Đức theo lời kể của một nhân chứng người Nga là
Khơlưnốp.
Dư luận
xôn xao, thật vậy, ngay dưới mũi chính phủ mà một kẻ phiêu lưu đã mua những
lượng hàng khổng lồ phục vụ cho mục đích quân sự, đã chiếm lấy hòn đảo, đã cầm
tù người công dân vĩ đại nhất của nước Mỹ, hơn thế nữa, đó lại là một kẻ khốn
kiếp vô liêm sỉ, một kẻ giết hại nhiều tính mạng và một gã độc ác gớm ghiếc.
Điện
báo còn đem đến một tin gây chấn động nữa: một chiếc khí cầu máy bí mật, kiểu
mới nhất, đã bay trên quần đảo Haoai, rồi hạ xuống cảng Ghilô lấy xăng và nước
ngọt, sau đó bay trên quần đảo Curin và đảo Xakhalin, rồi hạ xuống cảng
Alếchxanđơrốp lấy xăng và nước ngọt, cuối cùng biến mất theo hướng Tây - Bắc.
Trên vỏ kim loại của khí cầu máy có ghi hai chữ P và G.
Mọi
chuyện thế là rõ ràng: Garin là tay sai của Mátxcơva. "Chàng Hary tội
nghiệp" là như thế đó. Nghị viện thông qua những biện pháp kiên quyết
nhất. Một hạm đội gồm tám thiết giáp hạm tiến về phía "Đảo Khốn kiếp"
- theo tên đặt của báo chí Mỹ.
Vào
ngày hôm đó, các đài vô tuyến trên khắp thế giới nhận được một bức điện hết sức
láo xược và kệch cỡm phát đi trên làn sóng ngắn:
"Alô,
alô! Đây là tiếng nói của đài phát thanh trên đảo Vàng, một hòn đảo bị mệnh
danh một cách ngu ngốc là Khốn Kiếp. Alô! Pie Hary thành thật khuyên các chính
phủ của tất cả các nước không nên thọc mũi vào công việc của ông ta. Pie Hary
sẽ tự vệ, và bất kỳ một chiếc tàu quân sự hay hạm đội nào xâm nhập vào vùng
biển của đảo Vàng sẽ chịu chung số phận như chiếc khinh hạm Mỹ đã bị đánh chìm
trong vòng không quá mười lăm giây. Pie Hary thành thật khuyên nhân dân trên
trái đất hãy vứt bỏ chính trị và vui vẻ nhảy điệu phốcxtơrốt mang tên ông ta".
90
Con đê
ở khu vực gần chỗ trú thân đã được khôi phục. Trạm thủy điện bắt đầu hoạt động.
Lêvi ngày nào cũng nhận được những câu hỏi nôn nóng từ đảo Vàng: trụ đón khí
cầu máy đã xong chưa?
Những
làn sóng điện từ bay bổng vào không gian để lao nhanh vào các máy thu, truyền
đi giọng khàn khàn giận dữ của Garin: "Nếu một tuần nữa mà bãi đón không
xong thì tôi sẽ phái khí cầu máy đi và ra lệnh bắn chết anh, anh nghe thấy chứ,
Vônsin?"
Tại
trạm trú đóng cạnh chân núi lửa, công việc diễn ra hối hả, tất bật: nào phát
quang diện tích rộng, nào đốn những cây thông to làm trụ chống, nào dựng một
chiếc tháp cao hai mươi lăm mét, nóc nhọn dần, trên ba chân chống chôn sâu vào
đất.
Ai cũng
làm việc cật lực, nhưng người hối hả và xúc động nhất là Manxép. Ông ta đã ăn
thỏa thích suốt thời gian qua, người khỏe hơn một chút, nhưng hình như đầu óc
hơi lẩn thẩn. Có những ngày ông ta dường như quên bẵng hết, thờ ơ với mọi thứ
và hai tay ôm mái tóc rối bù, ngồi lặng lẽ trên tấm ván nằm. Hoặc ông ta bảo
Ivan:
- Cháu
có muốn bác chỉ cho cháu thấy những thứ mà chưa bao giờ có một ai nhìn thấy
không?
Và thế
là hai người bắt đầu leo lên miệng núi lửa.
Dàn trụ
chống đã xây xong, bên trên, giữa những tảng đá lớn là một bụi cây cong queo,
cao hơn nữa chỉ thấy những khối đá đen phủ rêu mốc và đôi chỗ phủ cả tuyết nữa.
Rìa
miệng núi lửa cao lên thành những mép răng cưa dốc đứng, trông tựa những bức
tường đổ nát của một khán đài xiếc khổng lồ. Nhưng Manxép thông thạo từng khe
hẻm ở nơi đây. Ông ta vừa thở hổn hển vừa lần theo đường chữ chi từng bậc này
đến bậc khác, luôn luôn phải ngồi nghỉ. Chỉ có một lần thôi, vào một ngày êm ả
rực nắng, họ leo lên được đến tận rìa núi lửa.
- Ở
kia, - Manxép nói và đưa những ngón tay co quắp chỉ một khối hình nón đang tỏa
khói, - ở kia là vực thẳm dẫn xuống lòng đất, nơi con người không thể nhìn thấy
được... Bác đã ném những cục thuốc nổ pirôxilin xuống đấy, và khi nghe thấy tiếng
nổ ở dưới đấy thì bác bấm đồng hồ giây, tính toán độ sâu theo tốc độ của âm
thanh. Bác đã nghiên cứu những khí thoát ra và phát hiện thấy trong quang phổ
của những khí đó có những vạch ăngtimon, thủy ngân, vàng và nhiều kim loại
khác... Cháu hiểu chứ, Ivan?
- Vâng,
bác cứ nói tiếp đi...
- Làn
ánh sáng kia là bắt nguồn từ độ sâu bảy nghìn mét đấy. Tại đó, vàng và thủy
ngân sôi sùng sục và bốc hơi. Cháu cũng hiểu chứ?
- Vâng.
[1] Một đuim (duim)
bằng 2.54 centimét - N.D.
91
Bãi đón
khí cầu máy đã xây dựng xong. Đảo Vàng báo tin rằng khí cầu máy đã cất cánh,
mặc dù phong vũ biểu chỉ thời tiết rất xấu.
Suốt
trong những ngày cuối cùng này, Lêvi thường mời Manxép đến để chuyện trò về
những phát minh kỳ diệu của ông ta. Y ngồi trên tấm ván nằm, hơi xa các công
nhân, rút chai rượu ra và pha vào trà cho Manxép. Y cố nói khẽ, dịu dàng, âu
yếm. Nhưng Manxép hình như đã phát điên...
- Ông
Lêvi ạ, ông đừng tìm cách đánh lừa tôi nữa. Các tài liệu, giấy tờ của tôi, các
công thức của tôi, các bản thiết kế khoan sâu của tôi cũng như các tập nhật ký
của tôi đều đã cho vào hộp sắt, hàn kín lại và đem giấu ở một nơi chắc chắn..
Tôi sẽ bay đi, còn những thứ đó sẽ ở lại đây, không một ai, kể cả Garin, sẽ
nhận được những tài liệu ấy. Dù có tra tấn tôi chăng nữa, tôi cũng không đưa ra
đâu...
- Bác
cứ yên tâm, bác Manxép ạ, bác làm việc cùng những người tử tế cả.
- Tôi
không ngu ngốc lắm đâu. Garin cần những công thức của tôi... Tôi cần cuộc sống
của tôi. Tôi muốn ngày nào cũng được tắm nước thơm, được hút thuốc lá đắt tiền,
được uống bia ngon... Tôi sẽ lắp răng giả và sẽ nhai kẹo sôcôla... Tôi cũng
muốn vinh quang chứ?... Quỷ tha ma bắt tất cả các ông cùng với Garin đi...
- Bác
Manxép, đến đảo Vàng, bác sẽ được sống cuộc sống như đế vương vậy...
- Thôi
đi ông... Tôi biết Garin lắm... Garin căm ghét tôi bởi vì con người anh ta hoàn
toàn do tôi nhào nặn nên... Nếu không có tôi, anh ta sẽ chỉ là một thằng bịp
bợm hạng bét... Cái ông sẽ chở đi bằng khí cầu máy sẽ là bộ óc thiên tài của
tôi chứ không phải những cuốn vở ghi chép các công thức của tôi.
Chú bé
Ivan dỏng tai nghe những đoạn đứt quãng của các câu chuyện này. Vào đêm hoàn
thành việc xây dựng bãi đón khí cầu máy, em bò đến bên Manxép đang mở mắt nằm
yên và thì thầm tận tai ông ta:
- Bác
Manxép ạ, thây kệ bọn chúng. Ta nên đi Lêningrát là hơn... Cháu và chú Taraskin
sẽ chăm nom bác chu đáo... sẽ lắp răng giả cho bác... sẽ tìm cho bác một nơi ở
tử tế. Bác việc gì phải bám lấy bọn tư sản cơ chứ...
- Không
được đâu, Ivan ạ, bác là người bỏ đi rồi, những ước muốn của bác quá mãnh liệt,
- Manxép đáp, ánh mắt vẫn nhìn trần nhà. - Trí tưởng tượng điên rồ của bác đã
sôi sùng sục suốt bảy năm rồi dưới cái mái nhà khốn kiếp này, bác không muốn
đợi thêm một ngày nào nữa...
Ivan đã
hiểu từ lâu về thực chất của "đoàn thăm dò Pháp" này, do đó chú chăm
chú lắng nghe, quan sát và rút ra kết luận riêng của chú.
Giờ
đây, chú theo dõi từng cử chỉ của Manxép và vào đêm cuối này, chú không ngủ,
mỗi khi mắt chú bắt đầu díp lại là chú lại chọc lông chim vào lỗ mũi hoặc véo
cho mình một cái thật đau.
Lúc
rạng sáng, Lêvi giận dữ choàng áo khoác, quấn khăn kín cổ rồi đi đến trạm phát
sóng trong hầm ngay bên cạnh. Ivan không rời mắt khỏi Manxép. Lêvi vừa bước ra
thì Manxép lập tức nhìn quanh xem mọi người có ngủ không, rồi ông ta thận trọng
bước xuống đất, lần vào góc tối, ông ta quay lại, bỏ thêm củi vào lò. Khi lửa
cháy bùng lên, ông ta lại đi vào góc nhà.
Ivan đã
đoán ra được chỗ ông ta nhìn... Em vứt đi chiếc lông chim vẫn dùng để chọc vào
lỗ mũi cho tỉnh, nằm nghiêng người, chùm chăn kín đầu và lập tức ngủ thiếp đi.
Cơn bão
tuyết vẫn không ngớt. Suốt hai ngày đêm nay, chiếc khí cầu máy đồ sộ treo lơ
lửng trên khoảng rừng trống, tựa mũi vào hàng trụ của bến đón. Phi hành đoàn
phải vất vả lắm dọn sạch tuyết bám vào thành ngoài.
Viên
đoàn trưởng phi hành đoàn khom người, gọi to với Lêvi đứng ở dưới:
- Ông
Lêvi, ông làm cái trò gì thế? Phải bay đi thôi... Mọi người kiệt sức rồi.
Lêvi
rít răng đáp:
- Tôi
vừa nói chuyện với đảo một lần nữa. Đảo ra lệnh phải chở thằng nhãi đi bằng bất
cứ giá nào...
- Trụ
chống không chịu nổi nữa đâu...
Lêvi
chỉ nhún vai. Dĩ nhiên, vấn đề đâu phải ở Ivan. Đêm qua, chú mất tích... Khi
biết tin ấy, Lêvi phủi tay:
- Không
quan trọng.
Nhưng
câu chuyện hóa ra nghiêm trọng hơn nhiều.
Manxép
là người đầu tiên leo vào khoang khí cầu máy. Một phút sau, lo lắng một việc gì
đó, ông ta leo theo chiếc cầu thang nhôm xuống đất và tập tễnh đi vào nhà. Ngay
lập tức, từ trong nhà vang ra tiếng gào thét tuyệt vọng của ông ta. Ông ta điên
cuồng vung hai tay lên:
- Chiếc
hộp sắt của tôi đâu rồi? Ai đã lấy mất những tài liệu của tôi?... Mày, mày ăn
cắp của tao phải không, thằng khốn kiếp?
Manxép
nắm lấy cổ áo Lêvi lắc mạnh làm chiếc mũ của y bay vèo đi...
Thế là
đã rõ: những công thức vô giá, mục đích của chiếc khí cầu máy được phái đến
đây, đã bị thằng nhãi trời đánh thánh vật kia cuỗm đi mất. Manxép lồng lộn:
- Những
tài liệu của tôi! Những công thức của tôi! Tôi làm sao viết lại được nữa!...
Tôi biết đưa cho Garin cái gì đây? Tôi đã quên hết rồi!
Lêvi
lập tức ra lệnh đuổi bắt chú bé. Mọi người càu nhàu. Nhưng vẫn có mấy người
đồng ý, Manxép dẫn họ đi. Lêvi ở lại, cắn cắn móng tay. Một lúc lâu sau, hai
người trong số những người đi đuổi bắt trở lại.
Tuyết
rơi ghê quá, không thể nào bước nổi.
- Các
anh giấu Manxép đâu? - Lêvi thét to.
- Ai
biết được... Lão ta trốn rồi.
- Đi
tìm Manxép ngay. Tìm thắng bé ngay... Ai bắt được sẽ được thưởng một vạn đồng
tiền vàng.
Mây đen
che kín bầu trời. Đêm đến, gió mạnh dần. Viên đoàn trưởng phi hành đoàn lại dọa
sẽ bay đi.
Cuối
cùng, từ phía đám người đi đuổi bắt chú bé, một người cao lớn xuất hiện, áo
ngoài phủ đầy tuyết, hai tay ẵm Ivan. Lêvi chạy bổ đến, tháo găng tay ra, luồn
tay vào ngực áo chú bé. Ivan dường như đang ngủ, hai bàn tay cứng đờ của em áp
chặt hộp sắt nhỏ vào ngực.
- Còn
sống, còn sống, chỉ bị cóng một chút thôi, - người cao lớn nói. - Ta đưa nó lên
chứ? - Và không đợi trả lời, ông ta ẵm Ivan vào khoang khí cầu máy.
- Thế
nào? - viên đoàn trưởng phi hành đoàn hỏi vọng xuống. - Ta bay chứ?
Lêvi
lưỡng lự ngước nhìn lên:
- Các
anh sẵn sàng bay chưa?
- Xong
hết rồi. - viên đoàn trưởng trả lời.
Lêvi
lại ngoái nhìn một lần nữa về phía Manxép ra đi lúc nãy. Mây đen dầy đặc, tuyết
bay lả tả. Dù sao thì các công thức cũng nằm trên khí cầu máy rồi.
- Ta
bay thôi. - y vừa nói vừa trèo lên thang.
Động cơ
nổ ầm ầm. Cánh quạt bắt đầu quay.
Đúng
lúc đó, Manxép chạy vùng ra từ trong màn bão tuyết. Gió thổi dựng mái tóc ông
ta lên. Hai tay giang ra của ông ta cố bám lấy khí cầu máy.
- Gượm
đã!... Gượm đã! - Ông ta khàn khàn hét lên. Khi chiếc thang nhôm đã rời khỏi
mặt đất chừng một mét, ông ta bám được bậc cuối cùng. Một vài người nắm lấy áo
ông ta kéo lại. Ông ta đạp họ ra. Chiếc khí cầu máy chao đảo. Động cơ nổ inh
tai. Cánh quạt giận dữ gầm rít. Chiếc khí cầu máy bay lên cao, vào những đám
tuyết cuồn cuộn.
Manxép
bíu vào bậc thang cuối. Ông ta bị kéo bổng lên. Ở dưới đất có thể nhìn thấy hai
chân dạng ra của ông ta và vạt chiếc áo bay phần phật.
Ông ta
bay được bao xa và bay đến độ cao nào thì ngã xuống - điều đó thì những người
đứng ở dưới không thể nhìn thấy được.
92
Khom
người qua ô cửa sổ chiếc khoang khí cầu máy bằng nhôm, Dôia nhìn qua ống nhòm.
Chiếc khí cầu máy bay chầm chậm, vẽ thành một vòng tròn trên bầu trời xanh
thẳm. Phía dưới, cách một nghìn mét, là đại dương trong xanh trải rộng mênh
mông. Ở giữa là hòn đảo có hình dạng không cân đối mà từ trên cao, trông tựa
như Châu Phi thu nhỏ lại.
Những
chiếc tàu chở hàng thả neo ven bờ. Dôia đếm được hai mươi bốn chiếc - chúng tựa
như đàn bọ hung đang ngủ trên mặt nước.
Hòn đảo
bị cắt ngang dọc bởi những con đường mảnh như sợi chỉ - chúng tụ lại ở phần núi
đá mạn Đông - Bắc đảo, nơi lấp lánh những mái nhà bằng kính. Đó là tòa lâu đài
đang xây dở với ba hàng hiên chạy về phía sóng nước của một vịnh cát nhỏ.
Ở mạn Nam đảo thấp thoáng những
công trình, những nhà cửa, những cần cẩu, những đường ray, những toa tầu nhỏ
chạy đi chạy lại. Hàng chục động cơ gió quay tít. Khói bốc lên ngùn ngụt từ ống
khói các nhà máy điện và các trạm bơm nước.
Giữa
những công trình đó là miệng giếng mỏ hình tròn hiện lên đen đen. Tại đây, công
việc chia làm sáu ca, diễn ra suốt ngày đêm: Garin đang đục thủng lớp bọc đá
của vỏ trái đất. Sự táo tợn của y gần như là sự điên rồ. Dôia nhìn đám mây hơi
nước trên giếng mỏ, chiếc ống nhòm rung rung trong bàn tay rám nắng của ả.
Mới nửa
năm trước, hòn đảo còn là một bãi trống không, chỉ có cỏ gai và đá. Các con tầu
đã đổ lên đảo hàng nghìn tấn phân hóa học, người ta đã đào các giếng phun và
chở đến rất nhiều cây cối.
Từ trên
cao, Dôia ngắm nhìn mảnh đất cô độc giữa đại dương, nay lấp lánh, rực rỡ, giữa
những lớp bọt sóng trắng phau. Ả ngắm nhìn hòn đảo như một phụ nữ cầm trong tay
một thứ đồ quý báu
Có bảy
kỳ quan trên thế giới. Nhưng ký ức nhân dân chỉ truyền lại cho chúng ta có ba
kỳ quan: đền thờ nữ thần Điana ở Êphétxơ, khu vườn treo ở Babilon và pho tượng
khổng lồ bằng đồng ở Rôđôxơ. Về những kỳ quan khác thì kỷ niệm đã bị chìm xuống
đáy Đại Tây Dương.
Kỳ quan
thứ tám, như Dôia ngày nào cũng nhắc đi nhắc lại, phải là chiếc giếng mỏ trên
đảo Vàng. Trong bữa ăn tại tòa lâu đài vừa xây dựng xong, với những cửa sổ lớn
mở rộng đón gió đại dương, ả đã nâng ly nói:
- Chúc
mừng kỳ quan của chúng ta, chúc mừng thiên tài và đầu óc táo bạo!
Tất cả
đám người tinh hoa của hòn đảo đều đứng dậy chúc mừng Dôia và Garin. Ai cũng bị
nhiễm không khí khẩn trương của công việc và của những ý đồ gần như huyền hoặc.
Mặc cho bọn người ở các đại lục cứ việc làm om xòm lên về việc vi phạm pháp
luật. Chẳng việc gì phải để ý đến chúng. Ở đây, giếng mỏ ngày đêm ầm ì, các gầu
xúc ngày đêm hoạt động ầm ầm, ăn sâu mãi vào lòng đất, tiến sâu mãi về phía
những trữ lượng vàng vô tận. Những mỏ sa khoáng ở Xibia, những khe xói ở
Caliphonia, những bãi tuyết mênh mông ở Clônđaica - tất cả đều là trò trẻ. Vàng
ở đây ngay dưới chân, tại bất kỳ chỗ nào, miễn là xuyên qua được các lớp đá hoa
cương và vòng đai Ôlivin sôi sùng sục.
Mép
phía trên của giếng mỏ được bọc một lớp vỏ thép. Những ống xilanh liền khối làm
bằng thép khô nóng chảy được hạ dần xuống giếng theo mức sâu của nó. Chúng
xuống đến chỗ nhiệt độ trong giếng mỏ tăng lên tới ba trăm độ. Tình huống đó
xảy ra bất ngờ, đột ngột, tại độ sâu năm cây số.
Một kíp
nhân công bị chết và hai bộ máy phát tia bị thiêu hủy ở đáy giếng mỏ.
Garin
bực bội. Việc hạ các ống xilanh và hàn chúng với nhau làm chậm trễ công việc.
Giờ đây, khi thành giếng bị nung nóng, nó được làm mát bằng không khí nén và
khi nguội đi thì bản thân thành giếng cũng tạo thành một lớp vỏ bọc vững chắc.
Đường
kính giếng mỏ không lớn lắm - chỉ độ hai mươi mét. Bên trong giếng là một hệ
thống phức tạp gồm những đáy thông hơi, những thiết bị chống, những mạng dây
dẫn, những bệ để bộ phận vận chuyển và những bệ đặt các máy chế không khí lỏng
và các bộ máy phát tia.
Tất cả
các thiết bị, máy móc ấy đều chạy bằng điện. Ở hai bên thành giếng mỏ có đục
nhiều hang làm kho chứa máy móc và làm chỗ nghỉ ngơi cho công nhân. Để giảm bớt
gánh nặng cho giếng mỏ chính, Garin ra lệnh đào một giếng mỏ thứ hai, song song
với giếng mỏ chính và có đường kính sáu mét - nó nối liền các hang với nhau
bằng những thang máy chạy với tốc độ cực nhanh.
Phần
quan trọng nhất của công việc là khoan giếng. Việc khoan giếng được thực hiện
bằng tác động đồng bộ của các tia do các bộ máy phát tia phát ra, của việc làm
nguội bằng không khí nén và của việc múc đất đá lên bằng máy nâng. Mười hai bộ
máy phát tia có cấu tạo đặc biệt liên tục xuyên thủng và làm nóng chảy các lớp
đất đá, những đất này lập tức được dòng không khí lỏng làm mát đi, tan vụn ra
và tràn vào những gầu xúc của các máy nâng.
Tòa lâu
đài ở phần Đông - Bắc đảo Vàng được xây dựng theo những kế hoạch đầy hoang
tưởng của Dôia.
Đó là
một công trình đồ sộ bằng thủy tinh, thép, đá màu huyết dụ và đá hoa, gồm năm
trăm phòng to phòng nhỏ. Phần mặt trước với hai dẫy cầu thang xây bằng đá hoa
nhô hẳn ra biển. Sóng biển vỗ vào các hàng bậc và trụ chống quanh hai cầu
thang, nơi thay cho những pho tượng và những chiếc độc bình thông thường là bốn
ngọn tháp bằng đồng, có chấn song bao kín, nâng bốn khối cầu mạ vàng, mà bên
trong đặt những bộ máy phát tia đã nạp điện sẵn, đe dọa những cửa ngõ từ phía
đại dương tiến vào.
Hai
chiếc cổng bằng đồng dẫn vào trong hòn đảo. Đó vừa là ngôi nhà vừa là pháo đài.
Bên cạnh, trên núi đá, sừng sững một ngọn tháp có chấn song, cao trăm rưỡi mét,
được nối bằng lối ngầm với phòng ngủ của Garin. Trên mặt bằng cao ở đỉnh tháp
có bố trí những bộ máy phát tia cực mạnh. Một thang máy bọc thép chạy từ mặt
đất đến đỉnh tháp chỉ trong vài giây. Tất cả mọi người, ngay cả Dôia, đều bị
cấm ngặt không được đến gần chân tháp. Đó là pháp lệnh đầu tiên của đảo Vàng.
Bên
cánh trái tòa lâu đài là dãy phòng của Dôia, còn bên cánh phải là dãy phòng của
Garin và Rôlinh. Không một ai được sống ở đây nữa. Tòa lâu đài dành cho những
lúc mà một kẻ người trần mắt thịt nào đó được hưởng vinh dự lớn lao là được mời
đến đảo Vàng để chiêm ngưỡng khuôn mặt đẹp lộng lẫy của nữ chúa tể thế giới.
Dôia đã
chuẩn bị để đóng vai trò này. Công việc ngập đầu ả. Ả soạn thảo một bộ luật về
nghi thức: lúc dậy buổi sáng, những cuộc đi dạo, những buổi chiêu đãi lớn nhỏ,
những bữa ăn, những hội hóa trang, những cuộc vui chơi giải trí. Tính cách diễn
viên của ả được bộc lộ rộng rãi. Ả thích nhắc đi nhắc lại rằng ả sinh ra là để
biểu diễn trên sân khấu có quy mô toàn thế giới.
Ngoài
hai điều luật có tính chất nội bộ ở lâu đài này, ả còn cùng Garin soạn thảo
"Bộ luật thế kỷ Hoàng Kim" - bộ luật của nhân loại tương lai. Nhưng
đó mới chỉ là những đề án chung và những tư tưởng chính mà về sau còn phải được
các nhà luật học hoàn chỉnh.
Garin
bận tối mắt. Y thường trở về thẳng từ giếng mỏ, mệt rã rời, bẩn thỉu, người sặc
mùi đất và mùi dầu máy. Y vội vã ăn uống rồi ngả người trên chiếc đi văng
nhung, hối hả hút thuốc, nhả khói mù mịt (y được phép không phải tuân theo nghi
thức, những thói quen của y là thiêng liêng và không ai được bắt chước).
Để tham
khảo ý kiến về một vài vấn đề, người ta mời thêm Rôlinh. Y sống trong một dãy
phòng lộng lẫy nhưng chưa xây xong hẳn. Y chỉ ra ngoài vào bữa ăn. Ý chí và
niềm kiêu hãnh của y đã bị bẻ gãy. Y gầy xọp đi trong nửa năm qua. Y sợ Garin,
y tránh mặt đối mặt với Dôia. Không ai biết y làm gì trong những ngày dài đằng
đẵng ấy, mà cũng chẳng ai quan tâm đến chuyện đó. Người ta đồn là y bắt đầu ham
mê sưu tập các tẩu thuốc.
Ý chí y
bị bẻ gẫy không phải vì y bị mất ba trăm triệu đô la, không phải vì y bị giam
giữ trên đảo Vàng và thậm chí không phải vì sự phản bội của Dôia. Hai mươi lăm
năm trước đây, y đã từng bán xi đánh giày trên hè phố. Y biết cách chiến đấu và
ưa thích chiến đấu. Y đã dồn biết bao nỗ lực, tài năng và ý chí để vàng chảy
như suối vào két sắt của công ty "Anilin Rôlinh".
Vậy mà
đột nhiên cái thứ vàng ấy, cái thước đo sức mạnh và hạnh phúc ấy, lại sẽ được
múc lên như đất sét, như đất bùn, và múc lên bao nhiêu tùy ý. Và thế là Rôlinh cảm thấy như bị hẫng chân, cảm thấy
mình không còn là chúa tể của thiên nhiên. Chỉ còn một cách là đi sưu tập tẩu
thuốc thôi.
Nhưng
theo lời yêu cầu của Garin, y vẫn ra lệnh hàng ngày qua đài phát sóng cho ban
giám đốc công ty "Anilin Rôlinh". Những câu trả lời của họ rất mơ hồ.
Ngày càng rõ ràng rằng ban giám đốc của y không tin vào việc y tự nguyện sống
biệt lập trên đảo Vàng. Họ hỏi y:
"Cần
phải làm gì để đưa ngài trở lại lục địa?"
Y trả
lời:
"Đợt
điều trị chứng rối loạn tinh thần đang đem lại kết quả tốt đẹp".
Theo lệnh y, các ngân hàng xuất thêm năm triệu
bảng Anh nữa. Nhưng hai tuần sau, khi y lại ra lệnh xuất một số tiền như vậy,
thì mấy nhân viên của Garin bị bắt lúc xuất trình tờ séc của Rôlinh. Đó là tín
hiệu đầu tiên báo hiệu cuộc tiến công của lục địa vào đảo Vàng. Một hạm đội gồm
tám tuần dương hạm tuần tiễu trên Thái Bình Dương, gần hai mươi hai độ vĩ Bắc
và một trăm ba mươi độ kinh Tây, đang sẵn sàng chờ mệnh lệnh chiến đấu.
96
Sáu
ngàn công nhân viên chức của đảo Vàng được tuyển mộ từ khắp các lục địa. Viên
phụ tá số một của Garin là kỹ sư Sécmắc được phong chức tổng trấn và chịu trách
nhiệm phân bố sức lao động theo thành phần dân tộc tại mười lăm khu vực có hàng
rào dây thép gai ngăn cách với nhau.
Đề biện
minh cho các đường ranh giới bằng dây thép gai này trước mắt mọi người, Sécmắc
tổ chức một đội khiêu khích gồm mười lăm tên. Chúng có nhiệm vụ thổi bùng lên
sự thù hằn giữa các công nhân thuộc các dân tộc khác nhau: vào ngày thường
chúng khiêu khích có chừng mực, nhưng vào các ngày hội hè thì chúng gây những
vụ khiêu khích đến mức ẩu đả nhau.
Cảnh
sát trên đảo toàn là bọn cựu sĩ quan bạch vệ. Chúng có nhiệm vụ duy trì trật
tự, không cho phép các công nhân thuộc các dân tộc khác nhau giết hại lẫn nhau.
Công
nhân được trả lương cao hơn nhiều so với tiền lương trên lục địa. Một số gửi
tiền về nước theo chuyến tầu sắp đến, một số khác giữ lại. Chẳng có chỗ nào mà
chi tiêu, bởi vì vào những ngày hội, tại một khu hẻo lánh trên bờ biển phía
Đông - Nam, mới mở các quán rượu và nơi vui chơi.
Các
công nhân biết rõ chiếc giếng mỏ khổng lồ kia đi sâu mãi vào lòng đất để làm
gì. Garin tuyên bố với mọi người là khi thanh toán mọi khoản, y sẽ cho phép mỗi
người được quyền mang theo bao nhiêu vàng cũng được, miễn là mang theo nổi. Và
trên đảo không có người nào lại không xúc động khi nhìn những băng chuyền thép
chuyển đất đá từ lòng đất ra ngoài biển, lại không say sưa với đám khói vàng
nhạt lơ lửng trên miệng giếng mỏ.
- Thưa
các ngài, đã đến giờ nghiêm trọng nhất trong công việc của chúng ta. Tôi đã dự
kiến và đã chuẩn bị xong xuôi, nhưng dĩ nhiên không vì thế mà nguy hiểm giảm
bớt. Chúng ta đã bị phong tỏa. Tôi vừa nhận được tin là hai chiếc tàu của chúng
ta, hai chiếc tầu chất đầy sắt định dùng để củng cố giếng mỏ cùng với đồ hộp và
thịt cừu ướp lạnh đã bị một tuần dương hạm Mỹ bắt giữ và tịch thu. Điều đó
nghĩa là chiến tranh đã bắt đầu. Bất cứ giờ phút nào cũng có thể nhận được lời
tuyên chiến chính thức. Một trong những mục tiêu cần nhất của tôi là chiến
tranh. Nhưng nó đã nổ ra sớm hơn dự tính của tôi. Những kẻ trong lục địa quá
nôn nóng. Tôi thấy trước kế hoạch của họ: họ sợ chúng ta, họ sẽ cố làm cho
chúng ta bị chết đói. Tôi xin thông báo là lượng thực phẩm trên đảo đủ cho hai
tuần lễ, không kể súc vật. Trong mười bốn hôm sắp tới, chúng ta sẽ phải chọc
thủng vòng vây và đem đồ hộp về đây. Nhiệm vụ thật khó khăn, nhưng có thể thực
hiện được. Ngoài ra, những nhân viên của tôi đem séc của Rôlinh đi lấy tiền đều
đã bị bắt. Ngân quỹ chúng ta trống rỗng. Ba trăm năm mươi triệu đô la đã tiêu
hết và nếu chúng ta trả bằng séc thì công nhân sẽ nổi loạn và ngăn chặn bộ máy
phát tia. Chắc hẳn trong vòng bảy ngày chúng ta phải kiếm được tiền.
Phiên
họp diễn ra vào lúc sẩm tối trong căn phòng làm việc chưa xây xong hẳn của
Garin. Những người tham dự là Sécmắc, kỹ sư Sêphe, Dôia, Senga và Rôlinh. Như
thường thấy vào những giây phút nguy hiểm và căng thẳng tâm trí, Garin vừa nói
vừa mỉm cười giễu cợt, người lắc lư trên đế giày, hai tay đút túi. Dôia chủ
tọa, tay cầm chiếc búa nhỏ. Sécmắc vóc người nhỏ bé, tính tình nóng nảy, mắt đỏ
mọng, y hằng giọng rồi nói:
- Điều
luật thứ hai của đảo Vàng viết rằng không một ai được âm mưu tìm hiểu bí mật
của cấu tạo bộ máy phát tia. Bất kỳ người nào, dù chỉ chạm vào lớp vỏ bộ máy
ấy, đều sẽ bị tử hình.
- Đúng
thế, - Garin xác nhận, - pháp luật là như vậy.
- Để
hoàn thành tốt đẹp những công việc ông vừa nêu ra thì ít nhất cũng phải có ba
bộ máy phát tia đồng thời hoạt động: một chiếc để lấy tiền, một chiếc để chọc
thủng vòng phong tỏa và một chiếc để bảo vệ đảo... Ông sẽ phải có hai người phụ
tá được quyền vi phạm điều luật trên.
Mọi
người im lặng. Đám đàn ông nhìn theo làn khói xì gà. Rôlinh mải mê hít tẩu
thuốc. Dôia quay đầu về phía Garin. Y nói:
- Được.
(Y làm một động tác buông thả). Hãy công bố đi: điều luật thứ hai sẽ không áp
dụng cho hai người trên đảo: bà Lamôlơ và...
Y vui
vẻ cúi người qua bàn và vỗ vai Senga:
- Ông
Senga sẽ là người thứ hai được tôi cho biết bí mật của bộ máy phát tia...
- Anh
nhầm rồi, anh bạn ạ, - Senga vừa trả lời vừa hất tay Garin khỏi vai. - Tôi từ
chối.
- Lý
do?
- Tôi
không việc gì phải giải thích. Anh cứ nghĩ rồi sẽ đoán ra được.
- Tôi
trao cho anh nhiệm vụ tiêu diệt hạm đội Mỹ.
- Chịu,
tôi không thể làm được.
- Tại
sao chứ?
- Tại
sao ấy ư?... Bởi vì đường trơn lắm!...
- Cẩn
thận đấy, Senga...
- Tôi
đang cẩn thận đây.
Bộ râu
của Garin vểnh lên, hàm răng trắng bóng. Y cố kìm mình, hỏi khẽ:
- Anh
đã mưu tính chuyện gì phải không?
- Đường
lối của tôi là đường lối công khai. Tôi không giấu giếm điều gì hết.
Cuộc
trao đổi ngắn ngủi này được tiến hành bằng tiếng Nga. Ngoài Dôia, không một ai
hiểu nổi.
Senga
lại bắt đầu vẽ những hình ngoằn ngoèo trên giấy. Garin nói:
- Như
vậy, tôi chỉ định một người làm phụ tá trong việc điều khiển các máy phóng tia.
Nếu bà đồng ý thì ngày mai bà sẽ ra khơi...
- Tôi
sẽ phải làm gì ngoài biển? - Dôia hỏi.
- Đánh
cướp tất cả các con tàu xuất hiện trên tuyến đường xuyên Thái Bình Dương. Một
tuần nữa chúng ta phải trả tiền cho công nhân rồi.
98
Vào lúc
hai mươi hai giờ, trên chiếc tuần dương hạm chỉ huy thuộc hạm đội Bắc Mỹ, người
ta nhận thấy một vật thể lạ bên trên chòm sao Chữ Thập Nam.
Những
tia đèn chiếu xanh xanh như đuôi sao chổi, rạch ngang bầu trời đầy sao, lồng
lộn và tụ vào vật thể lạ. Nó sáng bừng lên. Hàng trăm kính viễn vọng quan sát
thấy một chiếc khí cầu máy cùng những vòng cánh quay trong suốt và hai chữ cái
P và G hiện rõ trên thành khí cầu máy.
Những
đèn tín hiệu nhấp nháy trên các con tàu. Từ tuần dương hạm chỉ huy, bốn thủy
phi cơ cất cánh và gầm rú bay lên cao. Cả phi đội tăng tốc, bay theo đội hình
hàng một.
Tiếng
máy bay mỗi lúc một nhỏ dần. Đột nhiên, chiếc khí cầu máy mà bốn máy bay lao
tới bỗng biến mất. Nhiều kính viễn vọng được lau chùi kỹ bằng khăn tay. Nhưng
chiếc khí cầu máy đã mất tích trong bầu trời đêm, dù các ngọn đèn chiếu đã ra
sức sục sạo.
Nhưng
rồi lại yếu ớt vọng đến tiếng súng máy: họ đã tìm ra được. Tiếng súng đứt
quãng, một chấm sáng rực chao đảo, rơi xiên xuống. Những người nhìn qua kính
viễn vọng ồ lên ngạc nhiên: đây là một chiếc thủy phi cơ đâm đầu xuống biển.
Chuyện gì xảy ra vậy?
Rồi các
khẩu súng máy lại nhả đạn liên tục trên bầu trời, rồi tiếng súng lại tắt ngấm
và ba chiếc thủy phi cơ lần lượt lộn nhào xuống qua các tia đèn chiếu rồi đâm
sầm xuống biển. Các ánh đèn tín hiệu lại nhảy nhót trên tàu chỉ huy. Những ánh
lửa nhấp nháy tận sát chân trời: có chuyện gì xảy ra vậy?
Sau đó,
mọi người nhìn thấy ngay trên đầu là một đám mây đen rách nát bay ngược chiều
gió, cắt ngang đội hình hàng một của đoàn tàu. Đó là chiếc khí cầu máy đang bay
thấp xuống, bị một màn khói phủ kín. Tàu chỉ huy phát đi tín hiệu: "Hãy
cẩn thận, hơi độc! Hãy cẩn thận, hơi độc!" Pháo cao xạ gầm lên. Và ngay
lập tức, những quả bom hơi độc rơi tới tấp xuống boong tàu, cầu chỉ huy và tháp
bọc thép, rồi nổ tung.
Người
thiệt mạng đầu tiên là đô đốc chỉ huy đoàn tàu. Một thanh niên tuấn tú hai mươi
tám tuổi, vì kiêu hãnh nên không chịu đeo mặt nạ, ôm lấy cổ và ngã lộn nhào,
khuôn mặt phồng lên, xanh tím. Trong một vài giây, tất cả những ai có mặt trên
boong tàu đều bị chết ngạt - mặt nạ phòng hơi độc tỏ ra ít hiệu quả. Tàu chỉ
huy đã bị tấn công bằng một thứ hơi độc lạ.
Quyền
chỉ huy được trao cho viên phó đô đốc. Đoàn tuần dương hạm nhất tề sử dụng hỏa
lực cao xạ. Ba loạt đạn làm rung chuyển đêm tối. Ba ánh chớp lóe từ các khẩu
đội phát ra làm nhuộm đỏ đại dương. Ba đàn quỷ thép kêu vun vút, bay thẳng lên
nhưng chẳng biết nhắm vào đâu, nổ tung rồi chiếu sáng rực bầu trời đầy sao.
Tiếp
theo mấy loạt cao xạ là sáu chiếc thủy phi cơ cất cánh, toàn bộ các phi hành
đoàn đều đeo mặt nạ phòng hơi độc. Rõ ràng là bốn thủy phi cơ đầu tiên đã bị
tiêu diệt khi bay vào bức màn khói độc của khí cầu máy. Bây giờ vấn đề là danh
dự của hạm đội Mỹ. Cả đoàn tàu đều tắt hết đèn. Chỉ còn các ngôi sao trên trời.
Trong đêm tối nghe rõ tiếng sóng vỗ vào mạn tàu và tiếng phi cơ gầm rú trên
cao.
Cuối
cùng, từ phía làn sương mù lấp lánh bạc của dải Ngân Hà đã thấy vọng đến tiếng
súng nổ liên hồi. Rồi dường như ở đó có tiếng mở nút chai. Đó là khởi đầu cuộc
tiến công bằng lựu đạn. Trên đỉnh đầu, một đám mây đang cuồn cuộn bốc lên bỗng
rực sáng một thứ ánh sáng mầu nâu sẫm, từ trong đám mây ấy một vệt tựa như điếu
xì gà bằng kim loại nhảy bật ra, chúc nghiêng chiếc mũi tù. Dọc theo sườn phía
trên của nó là những lưỡi lửa nhảy nhót. Nó lao xiên xuống dưới, để lại đằng
sau một chiếc đuôi lấp lánh, và sau khi bốc cháy rừng rực, biến mất ở chân
trời.
Nửa giờ
sau, một thủy phi cơ báo cáo là đã hạ thấp cạnh chiếc khí cầu máy đang cháy và dùng
súng máy bắn chết tất cả những người bên trong và bên cạnh khí cầu máy.
Đội tàu
chiến Mỹ đã phải trả giá đắt cho chiến thắng: bốn máy bay cùng toàn bộ phi hành
đoàn bị tiêu diệt. Hơi độc làm chết hai mươi tám sĩ quan, kể cả đô đốc chỉ huy
và một trăm ba mươi hai thủy thủ. Điều nhục nhã nhất là những chiếc tuần dương
hạm tuyệt vời với hỏa lực pháo hùng hậu lại bị rơi vào tình trạng của lũ chim
cụt cánh: kẻ địch thả sức tiến công chúng từ trên không bằng hơi độc (không
hiểu là loại hơi độc gì). Nhất định phải phục thù, phải cho biết sức mạnh thật
sự của pháo binh hạm tàu.
Theo
tinh thần đó, viên phó đô đốc ngay đêm ấy gửi về Oasinhtơn bản báo cáo về những
diễn biến của trận hải chiến. Ông ta thiết tha yêu cầu cho phép ném bom đảo
Khốn kiếp.
Sau một
ngày đêm, họ nhận được trả lời của bộ trưởng quốc phòng: tiến đến ngay hòn đảo
đã nói trên và san bằng nó cùng với sóng biển.
99
Các
ngài nghĩ sao đây? - Garin vừa hỏi với vẻ thách thức vừa đặt ống nghe máy thu
vô tuyến lên bàn viết. (Phiên họp diễn ra vẫn với thành phần cũ, trừ Dôia). -
Các ngài thấy thế nào?... Tôi có thể chúc mừng được. Chúng ta không còn bị
phong tỏa nữa. Hạm đội Mỹ đã được lệnh ném bom đảo Vàng.
Người
Rôlinh run lên, y đứng dậy khỏi ghế bành, chiếc tẩu rời khỏi miệng y, cặp môi
xám ngoét cong lên, dường như y muốn nói một điều gì đó nhưng không thốt ra
nổi.
- Ông
bạn già làm sao thế? - Garin hỏi. - Ông bạn quá xúc động vì hạm đội thân yêu
sắp đến gần chứ gì? Ông bạn nóng lòng muốn treo cổ tôi lên cột buồm chứ gì? Hay
ông bạn sợ bị ném bom? Tất nhiên, đối với ông bạn thì thật ngu ngốc nếu bị tan
xác vì đạo pháo Mỹ. Hay lương tâm ông bạn đã bắt đầu ngọ nguậy đấy?... Dù thế
nào chăng nữa thì chúng tôi cũng sẽ chiến đấu bằng tiền bạc của ông bạn.
Garin
cười vang một tiếng, quay mặt đi. Rôlinh không nói một câu gì hết, buông mình
xuống ghế, che bộ mặt xám ngoét bằng đôi tay run rẩy.
-
Không, thưa các ngài... Không liều mạng thì chỉ có thể kiếm được theo kiểu cò
con thôi. Hiện nay, chúng ta đang thực hiện một chuyến liều mạng lớn. Khí cầu
máy thám thính của chúng ta đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ. Tôi đề nghị tất cả
đứng dậy mặc niệm mười hai người đã hy sinh, trong số đó có ông Vôsin, chỉ huy
trưởng khí cầu máy. Khí cầu máy đã kịp báo tin tỉ mỉ về thành phần đội tàu
chiến Mỹ. Có tám tuần dương hạm loại tối tân, được trang bị bằng bốn tháp bọc
thép, trong mỗi tháp có ba khẩu pháo. Sau trận chiến đấu, họ còn lại ít nhất là
mười hai thủy phi cơ. Ngoài ra là các khinh hạm, khu trục hạm và tàu ngầm. Nếu
tính mỗi quả đạn pháo là bảy lăm triệu kilôgam hoạt năng thì một loạt đạn của
toàn bộ đoàn tàu sẽ tính tròn bằng một tỷ kilôgam hoạt năng.
- Càng
hay, càng hay, - Rôlinh thầm thì.
- Đừng
có lầu bầu nữa, ông bạn già ạ, thật xấu hổ... Thưa các ngài, tôi quên bẵng mất
một việc: chúng ta phải cảm ơn ngài Rôlinh đã có nhã ý trao cho chúng ta một
sáng chế mới nhất và tạm thời còn trong vòng bí mật: đó là một thứ hơi độc tên
là "Chữ thập đen". Nhờ loại hơi độc ấy, chúng ta đã dìm xuống biển
bốn thủy phi cơ và loại ra khỏi vòng chiến chiếc tuần dương hạm chỉ huy.
-
Không, ông Garin ạ, tôi đâu có nhã ý trao cho ông loại hơi độc "Chữ thập
đen"! - Rôlinh khàn khàn kêu lên. - Ông đã giơ súng đe dọa tôi, buộc tôi
phải ra lệnh gửi những bình hơi "Chữ thập đen" đến đảo này đấy chứ!
Y thở
hổn hển và lảo đảo bước ra. Garin bắt đầu trình bày chi tiết kế hoạch bảo vệ
đảo. Ba hôm nữa chắc hẳn đoàn tàu Mỹ sẽ tiến công.
100
Chiếc
"Aridôna" đã giương lá cờ cướp biển.
Điều đó
hoàn toàn không có nghĩa là trên du thuyền phất phới lá cờ lãng mạn màu đen với
hình sọ người và hai khúc xương bắt chéo của bọn cướp biển. Thật ra, trên chiếc
"Aridôna", chẳng có lá cờ nào được giương lên hết. Hai ngọn tháp có
chấn song mà bên trong có để bộ máy phát tia đã khiến hình dạng nó khác hẳn mọi
tàu thuyền trên trái đất. Chỉ huy du thuyền là Gianxen, cấp dưới trực tiếp của
Dôia.
Dãy
phòng lộng lẫy của Dôia - phòng ngủ, phòng tắm, phòng trang điểm, phòng khách -
đều khóa kín. Dôia dọn lên buồng chỉ huy cùng với Gianxen. Mọi đồ đạc xa hoa
trước đây - mái che lụa xanh, thảm, gối, ghế bành - đều được dọn đi.
Đội thủy thủ tuyển mộ hồi ở Mácxây được vũ trang
đầy đủ, được cho biết rõ mục đích của chuyến ra khơi và phần thưởng khi chiếm
được mỗi chiếc tàu.
101
- Báo
cáo thuyền trưởng, gió sắp lên tới cấp bảy.
- Hạ
buồm xuống.
- Xin
tuân lệnh.
- Thay
phiên gác từng giờ một.
- Xin
tuân lệnh.
- Nếu
thấy có ánh đèn, lập tức đánh thức tôi dậy.
Gianxen
nhíu mày, nhìn đại dương mênh mông đen sẫm. Trăng chưa mọc. Sao mờ mờ. Trong
suốt năm ngày đêm qua cho tàu chạy về hướng Đông - Bắc, y luôn luôn cảm thấy
khắp người rạo rực một niềm hân hoan phấn chấn. Cũng phải thôi, ông cha y đã
từng sống bằng nghề cướp biển kia mà. Y gật đầu với viên thuyền phó rồi bước
vào buồng riêng.
Căn
buồng thuyền trưởng thấp, đầy đủ tiện nghi, được trần thiết bằng da và gỗ sơn
bóng - nơi ở khắc khổ của người thủy thủ, nay tràn ngập sự hiện diện của người
phụ nữ trẻ.
Trước
hết là mùi nước hoa... Nữ thủ lãnh của bọn cướp biển xức nước hoa ghê gớm đến
nỗi có lẽ người chết cũng phải hắt hơi. Còn trên lưng ghế thì ả vứt bừa bãi
chiếc váy may bằng nỉ và chiếc áo săngđay vàng óng.
Dôia
đang ngủ trên chiếc giường của Gianxen. (Suốt năm ngày qua, Gianxen cứ mặc
nguyên quần áo mà ngả lưng trên chiếc đi văng nhỏ bọc da). Ả nằm nghiêng, miệng
hé mở, mặt nám xạm vì gió biển! Cánh tay trần vắt sau gáy. Má đỏ hồng vì ngủ.
Thật đúng là một nữ hải tặc!
Thử
thách nặng nề đối với Gianxen là việc Dôia quyết định một cách táo bạo đến ở
phòng thuyền trưởng cùng với y. Xét trên quan điểm chiến đấu thì như vậy là
đúng. Họ đang lao mình vào cuộc cướp bóc, rất có thể là lao vào cái chết nữa. Nếu
cả hai bị bắt thì dứt khoát cả hai đều sẽ bị treo cổ lên cột buồm bên nhau.
Đứng
trước căn buồng sặc mùi nước hoa, Gianxen vừa tuyệt vọng vừa hân hoan ngắm nhìn
khuôn mặt yêu dấu, ngắm nhìn mối tình của y.
Chắc
hẳn, nguyên nhân của mọi chuyện đó là những tên hải tặc, những tên cướp biển tổ
tiên của Gianxen - những kẻ lênh đênh trên mặt biển, cách xa mảnh đất quê
hương, trên những con thuyền có đuôi và mũi vồng lên tựa mào gà, có những tấm
mộc dựng lên hai bên mạn và cánh buồm thẳng băng trên cột buồm bằng gỗ tần bì.
Đứng bên chiếc cột buồm như vậy, tổ tiên của Gianxen đã cất tiếng hát về những
làn sóng xanh biếc và những đám mây dông bão, về cô gái có mái tóc màu hạt dẻ
đang đứng đợi ở bến bờ xa xôi và đăm đăm nhìn ra xa, - năm tháng qua đi, nhưng cặp
mắt cô gái ấy vẫn như biển xanh, vẫn như những đám mây giông bão. Chính cái
thời xa xưa đó đã khiến gã Gianxen tội nghiệp trở nên mơ mộng.
Y sợ ả
thức dậy. Y nhẹ nhàng bước đến đi văng, rồi nằm xuống, nhắm mắt lại. Sóng bên
ngoài ầm ì. Đại dương ầm ì như hát bài ca xưa cũ về cô gái xinh đẹp. Gianxen
gối đầu lên hai tay, chìm ngập trong giấc ngủ và niềm hạnh phúc.
102
-
Thuyền trưởng! (Có tiếng gõ cửa). Thuyền trưởng!
- Ông
Gianxen! - Giọng lo lắng của Dôia xuyên vào óc Gianxen.
Y chồm
dậy, vùng ra khỏi giấc mộng vui với cặp mắt đỏ ngầu. Dôia vội vã mặc áo.
- Báo
động, - ả nói, - vậy mà ông lại ngủ...
Lại có
tiếng gõ cửa, tiếp đó là giọng viên thuyền phó:
- Thưa
thuyền trưởng, có ánh đèn phía bên trái.
Gianxen
mở toang cửa. Làn gió ẩm ướt xộc vào phổi y. Y húng hắng ho, bước lên cầu chỉ
huy. Đêm tối như mực. Xa xa ở bên trái có hai ánh lửa chập chờn trên sóng.
- Báo
động! Tất cả lên boong! Hạ buồm xuống!
Vang
lên những tiếng còi, những khẩu lệnh. Gianxen hạ lệnh:
- Rẽ
sang trái! Tăng hết tốc lực thẳng tiến! Tắt đèn!
Chiếc
"Aridôna" giờ đây chỉ chạy bằng động cơ, nó ngoặt gấp. Từ bên phải,
ngọn sóng quay cuồng và trào lên boong. Đèn đã tắt hết. Giữa cảnh tối đen mịt
mù, chiếc du thuyền rung rung, tăng tốc đến mức tối đa.
Những
ánh đèn nhận thấy lúc nãy bây giờ mau chóng hiện to lên từ dưới chân trời. Một
lát sau, mờ mờ hiện lên một chiếc tàu buồm lớn có hai ống khói đang nhả khói.
Dôia
bước lên cầu chỉ huy. Ả đã đội lên đầu chiếc mũ len đan và quàng lên cổ chiếc
khăn lông bay phần phật trước gió. Gianxen đưa ống nhòm cho ả. Ả đưa ống nhòm
lên mắt, nhưng vì thuyền lắc lư mạnh nên ả phải đặt tay cầm ống nhòm lên vai y.
Y nghe thấy tiếng tim đập thình thịch dưới lớp áo săngđay.
- Tiến
công đi! - Ả nói và rắn rỏi nhìn sát vào mắt y.
Cách
khoảng năm trăm mét thì chiếc "Aridôna" bị chiếc tàu buôn kia nhận
thấy: trên tàu, người ta vẫy đèn rồi còi báo động trầm trầm rú lên. Chiếc
"Aridôna" không bật đèn, không trả lời tín hiệu, cứ lao thẳng về phía
chiếc tàu buồm rực sáng. Nó chạy chậm lại, bắt đầu quay mũi để tránh đụng vào
nhau...
Một
tuần sau, phóng viên tờ Niu Yoóc Giêrân miêu tả lại sự kiện chưa từng có này như sau:
"... Lúc năm giờ
kém mười lăm thì còi báo động ré lên đánh thức chúng tôi. Hành khách tràn lên
boong. Đang ở trong phòng sáng ánh đèn nên chúng tôi cảm thấy bên ngoài tối như
mực. Chúng tôi nghe thấy hiệu lệnh báo động trên cầu chỉ huy và đưa ống nhòm
dõi tìm trong đêm đen... Không một ai hiểu rõ chuyện
gì đã xảy ra. Chiếc tàu của chúng tôi chạy chậm lại. Đột nhiên, chúng tôi nhìn
thấy có một chiếc tàu lạ lùng lao thẳng về phía chúng tôi. Nó hẹp và dài, có ba
cột buồm cao, hình dạng giống như loại tàu buồm lớn chạy nhanh, trên mũi tàu và
đuôi tàu sừng sững hai ngọn tháp kỳ dị có chấn song... Chúng tôi
lập tức cảm thấy kinh hoàng. Cách chúng tôi một trăm mét, chiếc tàu bí ẩn kia
dừng lại và từ đây một giọng dữ dội nói qua loa phóng thanh bằng tiếng Anh:
"Hãm
máy! Tắt đèn đi!"
Thuyền
trưởng chúng tôi đáp:
"Trước
khi thực hiện mệnh lệnh, chúng tôi cần biết ai ra lệnh đã".
Chiếc
tàu kia đáp lại:
"Người
ra lệnh là bà chúa đảo Vàng".
Chúng
tôi sửng sốt. Một chuyện đùa cợt chăng? Một hành động láo xược mới của Pie Hary
chăng?
Thuyền
trưởng chúng tôi lên tiếng:
"Tôi
xin cấp cho bà chúa đảo một căn buồng bỏ không và bữa ăn sáng, nếu như bà ta
đói".
Đó là
những lời trích ra từ điệu phốcxtơrốt "Chàng Hary tội nghiệp". Mọi
người trên boong cười ồ lên. Và ngay lập tức, trên chiếc tháp ở đuôi con tàu bí
ẩn kia xuất hiện một tia sáng. Nó mảnh như kim đan, sáng lóa mắt, từ ngọn tháp
chiếu ra, không hề nhòa rộng thêm. Vào giây phút đó, không một ai nghĩ rằng
trước mắt chúng tôi là thứ vũ khí khủng khiếp nhất mà con người có thể chế ra
được. Chúng tôi vẫn hết sức vui vẻ.
Tia
sáng vẽ thành một hình thòng lọng trong không khí rồi chiếu vào phần mũi con
tàu của chúng tôi. Vang lên một tiếng xèo xèo ghê sợ, bùng lên ngọn lửa xanh
nhạt của chất thép bị cắt đứt. Người thủy thủ đứng ở tầng lái trên thét lên
kinh hoàng. Phần mũi trên mặt nước của con tàu chúng tôi đổ sụp xuống biển. Tia
sáng dâng lên, run rẩy trên cao, rồi lại hạ xuống, lướt song song trên đầu
chúng tôi. Đỉnh cả hai cột buồm đổ ập xuống boong tàu. Hành khách kinh hoàng
chạy về phía cầu thang tàu. Thuyền trưởng bị mảnh vỡ làm bị thương.
Đoạn còn lại thế nào thì
mọi người đều biết. Bọn cướp biển vũ trang đầy đủ, chèo xuồng đến, trèo lên
boong và đòi nộp tiền. Chúng lấy đi mười triệu đô la.
Khi chiếc xuồng chở
những thứ đã cướp được về đến chiếc tàu kẻ cướp thì đèn trên boong con tàu ấy
rực sáng. Chúng tôi nhìn thấy một phụ nữ cao, mảnh khảnh, đội mũi len đan, từ
tháp bước xuống rồi nhanh nhẹn lên cầu chỉ huy, úp máy tăng âm vào miệng. Mụ ngửa
đầu lên, hét to với chúng tôi:
"Các
người có thể đi tiếp."
Chiếc
tàu cướp biển vòng lại và vụt biến mất ở chân trời.
Những
biến cố xảy ra trong những ngày gần đây - việc chiếc khí cầu máy "P.
G" tiến công đội tàu chiến Mỹ và việc hạm đội Mỹ đã được lệnh oanh tạc đảo
Vàng - đã làm náo động toàn bộ cư dân trên đảo.
Đơn xin
thanh toán tới tấp gởi đến văn phòng. Tiền tiết kiệm rút ra hết khỏi quỹ. Công
nhân hội họp sau hàng rào dây thép gai, không thèm để ý đến bọn cảnh sát đang
đi đi lại lại với vẻ mặt cau có và nghiêm nghị. Xóm công nhân giống như tổ ong
bị quấy rối. Kèn trống nổi lên ầm ĩ, nhưng vô ích. Mười lăm tên khiêu khích cố
gắng hết sức biến sự bất bình của công nhân thành các vụ ẩu đả về dân tộc,
nhưng cũng chẳng ăn thua. Trong những ngày này, chẳng ai muốn quại nhau chỉ vì
mình sống sau một hàng rào dây thép gai khác.
Kỹ sư
Sécmắc cho dán thông báo khắp đảo, vừa đe dọa, vừa mua chuộc. Nhưng vào buổi
sáng hôm trước ngày hạm đội Mỹ trù liệu sẽ tiến công, các công nhân làm ở giếng
mỏ tuyên bố rằng họ sẽ cho hãm các bộ máy phóng tia và các máy chế không khí
lỏng nếu đến trưa hôm đó vẫn không được trả lương (đó là ngày lĩnh lương), vẫn
không gửi cho chính phủ Mỹ một bản tuyên bố tỏ ý hòa bình và tỏ thiện ý ngừng
mọi hoạt động quân sự.
Trước
tình hình ấy, Sécmắc nóng nảy đe dọa sẽ thẳng tay bắn giết. Bọn cảnh sát bắt
đầu tập trung cạnh giếng mỏ. Thấy thế, một trăm công nhân liền lao xuống giếng
mỏ rồi gọi điện thoại về văn phòng:
"Chúng
tôi không còn lối thoát nào khác ngoài cái chết. Đến bốn giờ, chúng tôi sẽ nổ
tung lên cùng hòn đảo".
Dù sao
thì đó cũng là một sự trì hoãn bốn tiếng đồng hồ. Sécmắc lập tức đuổi bọn cảnh
sát khỏi khu vực giếng mỏ và phóng mô tô về lâu đài. Y bắt gặp Garin và Senga
đang trò chuyện. Cả hai đều đang đỏ mặt, tía tai và đầu tóc rối bù. Thấy
Sécmắc, Garin nhảy chổm dậy như điên:
- Anh
học ai cách quản lý ngu ngốc thế?
-
Nhưng...
- Im
đi... Anh đã bị cách chức. Hãy về phòng thí nghiệm hoặc bước đi đâu thì bước...
Đồ con lừa!
Garin
mở toang cửa và đẩy Sécmắc ra. Rồi y quay lại bàn, nơi Senga đang ngồi hút
thuốc lá.
- Senga
ạ, đã đến lúc tôi tiên liệu trước rồi đây. Chỉ mình anh là có thể làm dịu tình
hình và cứu vãn công việc. Những biến cố bắt đầu xảy ra trên đảo còn nguy hiểm
hơn mười hạm đội Mỹ.
- Đúng
thế, - Senga đáp, - lẽ ra phải hiểu thế từ lâu rồi.
- Đừng
có lên giọng bảo ban tôi... Tôi bổ nhiệm anh làm tổng trấn đảo với những quyền
hành đặc biệt... Anh cứ thử từ chối xem, - Garin vội vã hét lên, lao đến bàn và
rút súng lục ra, - Tóm lại: nếu anh từ chối thì tôi sẽ bắn ngay... Anh có đồng
ý hay không?
-
Không, - Senga vừa đáp vừa liếc nhìn khẩu súng.
Garin
nổ súng. Senga đưa bàn tay đang cầm điếu thuốc lên thái dương:
- Đồ
khốn!..
- À,
tức là anh đồng ý chứ?
- Hãy
đặt súng xuống đã.
- Được.
(Garin quăng súng vào ngăn kéo)
- Anh
cần gì nào? Anh muốn công nhân không làm nổ tung giếng mỏ chứ gì? Được thôi,
nhưng với một vài điều kiện...
- Tôi
xin đồng ý trước.
- Tôi
vẫn phải là nhân vật độc lập trên đảo như trước đây. Tôi không phải làm công
nhân hoặc làm thuê cho anh. Đó là một. Tất cả các hàng rào dây thép gai phải
hủy bỏ ngay hôm nay. Đó là hai...
- Đồng
ý.
- Bọn
khiêu khích của anh...
- Tôi
không có một tên khiêu khích nào hết, - Garin nói nhanh.
- Anh
nói dối.
- Được,
tôi nói dối đấy. Vậy xử lý bọn chúng thế nào? Dìm chúng chết chăng?
- Ngay
đêm nay.
- Được.
Anh hãy coi là chúng không còn nữa. (Garin ghi nhanh bằng bút chì vào sổ tay).
- Điểm
cuối cùng, - Senga nói tiếp, - anh tuyệt đối không được can thiệp vào quan hệ
của tôi với công nhân.
- Chà!
(Senga cau mày, bắt đầu rời khỏi bàn. Garin nắm lấy tay anh). Đồng ý. Dù sao
cũng sẽ có lúc tôi bẻ gãy xương sườn anh. Gì nữa?
Senga
nheo mắt, hút thuốc, do đó làn khói làm không nhìn thấy rõ khuôn mặt dầu dãi và
tinh quái của anh với bộ ria ngắn nhạt màu và chiếc mũi hơi hếch lên. Đúng lúc
đó, chuông điện thoại reo vang. Garin cầm lấy ống nghe.
- Tôi
đây. Gì kia? Có điện gọi à?
Y quăng
máy điện thoại đi và đeo tai nghe vào. Vừa nghe, y vừa cắn móng tay. Y toét mồm
cười.
- Anh
có thể trấn an công nhân được. Ngày mai chúng tôi sẽ trả lương. Bà Dôia đã lấy
được mười triệu đô la. Tôi sẽ phái ngay một khí cầu máy đi lấy tiền. Chiếc
"Aridôna" chỉ cách đây có bốn trăm hải lý về mạn Tây - Bắc.
- Nếu
thế thì càng tốt, - Senga nói. Anh đút hai tay vào túi, bước ra ngoài.
104
Sau khi
treo mình trên dây đai để chân không chạm vào sàn và nheo mắt lại, thoáng nín
thở, Senga lao vụt xuống dưới trong chiếc thang máy bằng thép.
Đến độ
sâu tám cây số, anh nhìn chiếc kim đỏ của đèn hiệu, bật bộ biến trở và dừng
thang máy lại. Đây là hang số ba mươi bảy.
Cũng
như mọi hang ngách khác của giếng mỏ chính, hang số ba mươi bảy là một khối
vuông sắt tán bằng đinh rivê. Ở bên ngoài, không khí lỏng liên tục bốc hơi để
làm nguội lớp thành giếng dày bằng đá bị đốt nóng tới năm trăm độ. Bên trong
khối sắt này là giường cá nhân, ghế dài và mấy thùng nước. Sau phiên làm việc
bốn tiếng đồng hồ, công nhân thường mệt lử đến mức không muốn cử động nữa, họ
được đặt lên giường cá nhân trước khi đưa lên mặt đất. Quạt máy và những ống
thông gió chạy vù vù. Ngọn đèn trần chiếu sáng những khuôn mặt ủ rũ, ốm yếu,
hốc hác của hai mươi lăm người. Bảy mươi lăm người khác đang ở ba hang ngách
phía trên, được liên lạc với nhau bằng đường dây điện thoại.
Senga
bước ra khỏi thang máy. Vài người quay về phía anh nhưng không chào hỏi mà vẫn
im lặng. Rõ ràng họ quyết tâm làm nổ tung giếng mỏ.
- Tôi
cần người phiên dịch. Tôi sẽ nói bằng tiếng Nga, - Senga vừa nói vừa ngồi vào
bàn, lấy khuỷu tay đẩy sang bên những hộp mứt, hộp muối và những ly rượu uống
dở.
Một
người Do Thái gầy gò, gù gù, râu ria lởm chởm, bước lại gần bàn.
- Tôi
sẽ làm phiên dịch cho anh.
Senga
bắt đầu nói:
- Garin
và toàn bộ công việc của y chính là một thứ quan điểm đế quốc cực đoan nhất.
Giai cấp tư sản còn chưa hiểu được y, vả lại chính y cũng không vội vã làm
chúng hiểu được y. Y bị coi là một tên cướp. Nhưng rốt cuộc chúng sẽ hiểu rằng
chủ nghĩa đế quốc đang dựa vào hệ thống quan niệm của y... Các đồng chí ạ,
chúng ta phải lường trước giờ phút nguy hiểm nhất, khi Garin bắt tay với bọn tư
sản. Lúc đó thì các đồng chí sẽ gay go đấy. Vậy mà trong cái lồng sắt này, các
đồng chỉ lại đã quyết định sẽ hy sinh để Garin phải thỏa hiệp với chính phủ Mỹ.
Thật lạ lùng, các đồng chí ạ. Garin mà thắng thì thật tệ hại, bọn tư bản mà
thắng thì tình hình cũng tệ hại. Bọn chúng mà cấu kết được với nhau thì tình
hình còn tệ hại hơn nữa. Các đồng chí chưa biết được giá trị của mình, sức mạnh
là trong tay các đồng chí. Một tháng nữa, khi những chiếc gầu kia liên lục múc
vàng lên mặt đất thì điều đó sẽ không có lợi cho Garin đâu, mà có lợi cho các
đồng chí, cho sự nghiệp mà chúng ta phải hoàn thành trên trái đất. Nếu các đồng
chí tin tôi, mà phải tin hoàn toàn, tin triệt để kia, thì tôi sẽ nhận trách
nhiệm hướng dẫn các đồng chí... Các đồng chí phải nhất trí tán thành mới
được... Còn nếu các đồng chí không tin tôi thì...
Senga
ngừng lại, nhìn khắp lượt những khuôn mặt cau có của anh em công nhân đang nhìn
anh không chớp mắt, anh gãi mạnh vào gáy...
- Nếu
các đồng chí không tin thì tôi sẽ không nói nữa.
Một
thanh niên vai rộng, cởi trần, khắp người đầy mồ hóng, bước lại gần bàn, nhìn
thẳng vào Senga bằng cặp mắt xanh biếc rồi quay về phía các bạn mình:
- Tôi
tin.
- Chúng
tôi tin, - Những người khác lên tiếng. sau đó những công nhân ở các hang khác
cũng nói qua máy điện thoại: "Chúng tôi tin, chúng tôi tin".
- Nếu
các đồng chí tin thì tốt quá rồi, - Senga nói, - Bây giờ tôi sẽ nêu từng điểm
một: tối nay, các hàng rào ngăn cách những nhóm công nhân thuộc các dân tộc
khác nhau sẽ bị loại bỏ. Ngày mai, các đồng chí sẽ có lương. Mười lăm tên khiêu
khích sẽ bị thanh toán, - đó là điều kiện đầu tiên mà tôi đặt ra. Bây giờ,
nhiệm vụ của các đồng chí là đào tới chỗ có vàng càng nhanh càng tốt. Các đồng
chí hiểu chứ?.
105
Ban
đêm, ở mạn Đông - Bắc xuất hiện ánh đèn chiếu mò mẫm. Ở cảng, còi báo động rú
lên đầy lo ngại. Lúc bừng sáng, khi biển vẫn còn nằm trong bóng tối, xuất hiện
những dấu hiệu đầu tiên của đoàn tàu chiến đang đến gần: vài chiếc máy bay lấp
lánh trong ánh rạng đông màu hồng, lượn cao tít bên trên đảo.
Đội bảo
vệ đảo nổ súng vào mấy chiếc máy bay đó, nhưng chỉ một lát sau đã ngừng bắn.
Dân cư trên đảo túm tụm lại thành từng nhóm. Cột khói tiếp tục bốc lên trên
giếng mỏ. Tàu vẫn bốc dỡ hàng, - cần cẩu ở bờ biển vẫn cẩu lên bờ những hòm
nặng buộc dây cẩn thận.
Đại
dương phẳng lặng trong màn sương mù. Trên trời, chong chóng quay tít. Mặt trời
hiện lên như một quả cầu mờ đục. Và khi ấy mọi người nhìn thấy những cột khói ở
chân trời. Chúng kéo thành một đám mây đen dài dày đặc về hướng Đông - Nam. Đó
là cái chết đang tiến đến gần.
Trên
đảo im ắng, dường như cả những con chim đem đến từ lục địa cũng ngừng hót. Tại
một nơi trên đảo, một tốp người chạy túa ra những con thuyền ở bến cảng, và
những con thuyền chật ních vội vã bơi ra ngoài biển. Nhưng thuyền thì ít, hòn
đảo thì phơi mình ra, chẳng có chỗ nào ẩn trốn. Dân cư trên đảo đứng sững, lặng
lẽ. Một vài người nằm úp mặt xuống đất.
Trong
lâu đài không thấy động tĩnh gì hết. Những cánh cửa bằng đồng khóa chặt. Đội
bảo vệ đội mũ cao rộng vành, mặc áo bludông trắng thêu chỉ vàng, vai khoác
súng, đi lại dọc theo những bức tường nghiêng màu hồng nhạt. Bên cạnh, chiếc
tháp đặt bộ máy phát tia đồ sộ đứng sừng sững, trong suốt như phalê. Màn sương
mù bốc lên cao che kín đỉnh tháp. Nhưng ít người hy vọng vào sự bảo vệ này, đám
khói đen ở chân trời quá hiện thực và đầy đe dọa.
Nhiều người sợ hãi quay mặt về phía giếng mỏ. Tại
đấy, tiếng còi tầm rú lên báo hiệu đến phiên kíp thứ ba. Thật khéo tìm được lúc
làm việc. Cái chất vàng kia thật đáng nguyền rủa. Sau đó, đồng hồ trên nóc lâu
đài điểm tám tiếng. Đúng lúc đó tiếng ầm ầm nặng nề, to như sấm, vang lên khắp
mặt biển. Loạt đạn đầu tiên của đoàn tàu chiến Mỹ. Những giây phút chờ đợi
dường như kéo căng trong không trung, trong tiếng gầm rú của loạt đạn pháo đang
tới tấp bay đến.
106
Khi
loạt đạn đầu tiên của đoàn tàu chiến Mỹ vang lên, Rôlinh đang đứng trên gác
sân, bên trên cái cầu thang chạy lần xuống nước. Y rút tẩu thuốc khỏi miệng và
lắng nghe tiếng rú rít của loạt đạn: ít nhất là chín mươi quả đạn pháo chứa đầy
thuốc nổ và hơi ngạt đang lao thẳng về phía đảo, đang lao thẳng vào óc Rôlinh.
Chúng gầm rú một cách đắc thắng. Tim y hình như không chịu nổi những âm thanh
đó. Y lùi về phía cửa ra vào trong bức tường đá. (Y đã chuẩn bị từ lâu một chỗ
trú ẩn cho y ở hầm nhà nếu hòn đảo bị pháo kích). Loạt đạn pháo nổ tung ngoài
biển, làm bắn tóe lên những cột nước. Chúng không bay được tới đích.
Khi ấy,
Rôlinh liền ngước nhìn đỉnh ngọn tháp. Garin đã có mặt ở đó từ tối qua. Chiếc
vòm tròn trên tháp đang quay - có thể thấy rõ như vậy căn cứ theo các khe chạy
dọc, Rôlinh đeo kính không gọng lên, chăm chú nhìn. Chiếc vòm quay rất nhanh -
hết sang phải lại sang trái. Khi chiếc vòm quay sang bên phải, có thể thấy rõ
nòng bộ máy phát tia sáng lấp lánh chạy lên chạy xuống.
Điều
khủng khiếp nhất là vẻ gấp gáp của Garin trong lúc điều khiển bộ máy. Và không
khí im ắng nữa. Không có một âm thanh nào trên đảo.
Nhưng
rồi, từ ngoài biển đã vọng đến một tiếng trầm đục, lan rộng, dường như tiếng
bong bóng nổ vỡ trên trời. Rôlinh sửa lại chiếc kính không gọng trên mũi ướt
đẫm, nhìn về phía đoàn tàu chiến Mỹ. Tại đây, ba đám khói dày đặc màu vàng nhạt
bốc lên như ba chiếc nấm khổng lồ. Phía bên trái ba đám khói ấy là mấy cột khói
cuồn cuộn bốc lên, phồng to ra, đỏ rực rồi biến thành chiếc nấm thứ tư. Ngay
tiếp đó vọng đến tiếng ầm ầm thứ tư to như tiếng sấm.
Chiếc
kính không gọng rơi khỏi mũi Rôlinh nhưng y vẫn dũng cảm đứng nhìn những nấm
khói dựng lên ở chân trời, nhìn toàn bộ tám tuần dương hạm Mỹ bị nổ tung.
Trên
đảo, trên biển và trên trời lại trở nên yên tĩnh. Chiếc thang máy ở tháp chạy
vụt từ trên xuống. Cửa nhà đóng sập lại, vang lên tiếng huýt sáo lạc giọng điệu
phốcxtơrốt, rồi Garin chạy ra góc sân. Khuôn mặt y mệt mỏi, phờ phạc, tóc dựng
đứng lên.
Không
nhân thấy Rôlinh, Garin bắt đầu cởi quần áo rồi theo bậc thang xuống sát tận
mặt nước, lấy chân thử xem nước ấm hay lạnh và bơi ra. Nhưng y lập tức quay
lại, lên bờ, và chỉ khi đó mới trông thấy Rôlinh.
- Kìa!
- y kêu dài giọng - Ông cũng định tắm hay sao đấy? Nước lạnh quá đi mất.
Đột
nhiên y cười vang, vơ lấy quần áo rồi vừa vung vẩy vừa bước vào nhà.
Khi mở
chiếc cửa lớn bằng đồng, y quay lại:
- Ông
bạn già ạ, ta đi ăn sáng đi. Ta phải mở một chai sâm banh mới được.
107
Điều lạ
lùng nhất trong thái độ tiếp theo đây của Rôlinh là việc y ngoan ngoãn lẽo đẽo
đi ăn sáng. Quanh bàn ăn, ngoài Garin và Rôlinh, chỉ có thêm Dôia, ả tái nhợt
và lặng lẽ vì nỗi xúc động vừa trải qua. Khi ả đưa ly lên miệng thì miệng ly
chạm lanh canh vào hàm răng đều đặn trắng bóng của ả.
Rôlinh
thì dường như sợ mất thăng bằng, y căng thẳng nhìn vào một điểm, đó là chiếc
nút chai bằng vàng tạc hình bộ máy khủng khiếp nhất mà mới vài phút trước đây
đã phá tan mọi khái niệm cũ của Rôlinh về sức mạnh, về sự hùng mạnh.
Garin,
với mái tóc mới không chải và mặc chiếc áo véttông nhàu nát, sau khi uống liền
một hơi mấy ly rượu, đang vừa ba hoa một chuyện vớ vẩn gì đó vừa nhai sò.
- Mãi
đến bây giờ tôi mới hiểu mình đói đến mức nào.
- Anh
đã làm việc rất có hiệu quả đấy, - Dôia khẽ nói.
- Đúng
thế. Thú thật là đã có giây phút anh cảm thấy hơi hoảng sợ, khi chân trời bao
phủ đầy khói đại bác... Dù sao thì họ cũng đã đi trước anh một bước... Cái bọn
quỷ quái ấy. Chỉ cần chúng tiến gần thêm chút nữa thôi thì cả hòn đảo sẽ tan
thành tro bụi...
Y uống
thêm một ly rượu nữa, và mặc dù y nói là y đói, nhưng y vẫn lấy khuỷu tay gạt
người hầu bàn đem thức ăn đến.
- Thế
nào, ông bạn già? - y bất ngờ quay sang phía Rôlinh, và không cười nữa, nhìn
chằm chằm vào Rôlinh, - đã đến lúc chúng ta cần nói chuyện nghiêm chỉnh rồi.
Hay ông bạn vẫn còn chờ những ấn tượng chấn động hơn?
Rôlinh
nhẹ nhàng đặt dĩa và chiếc móc bạc để khều sò xuống đĩa rồi cụp mắt xuống.
- Ông
cứ nói đi, tôi nghe đây.
- Đáng
lẽ phải như vậy từ lâu rồi chứ... Tôi đã hai lần đề nghị ông hợp tác. Tôi hi
vọng là ông còn nhớ? Nhưng tôi không trách ông đâu; ông không thuộc loại biết
suy nghĩ mà chỉ biết húc bừa đi như trâu ấy. Bây giờ tôi lại đề nghị ông hợp
tác một lần nữa. Ông ngạc nhiên ư? Tôi sẽ giải thích cho ông nghe. Tôi là nhà
tổ chức. Tôi sẽ cải tạo lại toàn bộ hệ thống tư bản chủ nghĩa kềnh càng, nặng
nề, đầy những thành kiến ngu ngốc của các ông. Ông hiểu chứ? Nếu tôi không làm
được việc đó thì bọn cộng sản sẽ ăn tươi nuốt sống các ông và sẽ thích thú nhổ
nước bọt nữa là khác. Chủ nghĩa cộng sản không phải là thứ duy nhất trên đời mà
tôi căm ghét... Tại sao? Nó hủy diệt tôi, Piốt Garin, hủy diệt cả một vũ trụ ý
đồ trong óc tôi... Ông có quyền hỏi: vậy thì tôi cần đến ông để làm gì, khi
dưới chân tôi là nguồn vàng vô tận?
- Đúng
thế, - Rôlinh khàn khàn nói.
- Ông
bạn ạ, ông hãy uống ly rượu gin [1] với ớt Cayen [2] đi, sau đó trí tưởng tượng của ông sẽ sinh động hơn.
Chẳng lẽ ông lại có giây phút nào nghĩ rằng tôi định biến vàng thành phân bón
hay sao? Quả thật, tôi sẽ tổ chức vài ngày nóng bỏng cho nhân loại, khi một cân
vàng trong tay họ chỉ đáng giá mấy xu.
Rôlinh
đột ngột ngẩng đầu lên, cặp mắt mờ đục của y lóe lên đầy vẻ trẻ trung, miệng y
há ra thành một nụ cười méo xệch...
- Ái
chà! - y kêu lên.
- Ồ,
đúng thế đấy. Cuối cùng ông hiểu rồi chứ?... Và khi ấy, vào những ngày vô cùng
kinh hoàng ấy, chúng ta - tức là tôi, ông và ba trăm con trâu như ông, hoặc ba
trăm tên khốn kiếp cỡ thế giới, hoặc ba trăm ông vua tài chính, ông muốn gọi
thế nào thì gọi, - chúng ta sẽ nắm lấy cổ họng thế giới... Chúng ta sẽ mua tất
cả các xí nghiệp, các nhà máy, các đường sắt, các máy bay và các tàu biển...
Tất cả những gì chúng ta cần và thích hợp với chúng ta sẽ là của chúng ta. Đến
lúc đó, chúng ta sẽ làm nổ tung hòn đảo cùng giếng mỏ này và sẽ tuyên bố rằng
dự trữ vàng của thế giới là có hạn, vàng ở trong tay chúng ta và vàng được trả
lại giá trị cũ của nó, tức là, là thước đo giá trị duy nhất...
Rôlinh
lắng nghe, ngả người vào lưng ghế, cái miệng có mấy chiếc răng vàng của y há ra
như mồm cá mập, mặt y đỏ tía lên.
Y cứ
ngồi như vậy, không động đậy, cặp mắt nhỏ long lanh. Dôia thậm chí thoáng nghĩ:
đòn giáng quá mạnh.
- Chà!
- y lại kêu lên, - một tư tưởng thật táo bạo... Ông có thể hy vọng thành công
được... Nhưng ông chưa lưu ý đến mối nguy hiểm của những cuộc đình công, những
cuộc nổi loạn...
- Điều
ấy được tôi lưu ý đến trước tiên, - Garin nói xẵng, - Bước đầu, chúng ta sẽ xây
dựng các trại tập trung lớn. Tất cả những kẻ nào bất mãn với chế độ của chúng
ta đều bị nhốt vào sau hàng rào dây thép gai. Sau đó, chúng ta sẽ thi hành bộ
luật về "hoạn não". Như vậy, ông bạn thân mến ạ, ông có bầu tôi làm
lãnh tụ không?... Ha ha! (Y bất chợt nháy mắt và trông thật đáng sợ).
Rôlinh
cúi đầu, cau mày. Người ta đã hỏi y, y phải suy nghĩ.
- Ông
Garin, ông cưỡng bức tôi phải không?
- Thế
ông nghĩ sao, ông bạn thân mến? Tôi phải quì xuống van xin ông chắc? Nếu ông
vẫn còn chưa hiểu rằng ông đã từ lâu chờ đợi tôi như chờ đợi một cứu tinh thì
tôi cưỡng bức ông đấy.
- Tốt
lắm, - Rôlinh nói với vẻ khinh bỉ và đưa bàn tay sần sùi qua bàn cho Garin.
- Tốt
lắm, - Garin nhắc lại. - Các biến cố đang diễn ra hết sức nhanh chóng. Cần
chuẩn bị sẵn cho lục địa tiếp nhận ý kiến của ba trăm ông vua. Ông hãy viết thư
cho họ nói về toàn bộ sự điên rồ của các chính phủ đã phái hạm đội đến nhằm
tiêu diệt hòn đảo của tôi. Ông hãy cố chuẩn bị cho họ đón nhận "cơn sốt
vàng" đi. (Y bật ngón tay đánh toách, người hầu lập tức xuất hiện). Rót
thêm sâm banh! Vậy thì, ông Rôlinh ạ, ta hãy cạn ly chúc mừng cho biến cố lịch
sử vĩ đại...
Piốt
Garin đã thỏa thuận với Rôlinh... Lịch sử đã bị giật dây cương, lịch sử đã lồng
lên, bộ móng vàng kêu xoang xoảng trên sọ lũ người ngu ngốc.
108
Việc
đoàn tàu chiến Mỹ bị hủy diệt ở Thái Bình Dương gây ra cho châu Mỹ và châu Âu
một ấn tượng thật kinh hoàng, ghê gớm. Hợp chủng quốc Bắc Mỹ đã bị một hòn đảo
làm rung chuyển trái đất. Các chính phủ Đức, Pháp, Anh và Ý bỗng tươi tỉnh lên:
biết đâu đấy, nhỡ năm nay (và có thể là mãi mãi) sẽ không phải trả nợ lãi cho
nước Mỹ béo nứt ra vì vàng thì sao? "Tên khổng lồ hóa ra là chân đất sét,
- các báo viết, - chinh phục thế giới đâu phải chuyện đơn giản..."
Ngoài
ra, những bản tin về các vụ cướp biển của chiếc "Aridôna" đã gây rối
loạn trong ngành buôn bán đường biển. Các chủ tàu từ chối việc vận chuyển, các
thuyền trưởng không dám đi qua đại dương, các hãng bảo hiểm nâng giá, trong hệ
thống ngân phiếu xảy ra sự hỗn loạn, một vài hãng buôn bán bị phá sản. Nhật Bản
vội vã đưa những loại hàng hóa kém phẩm chất và rẻ mạt vào các thị trường thuộc
địa của Mỹ.
Trận
hải chiến thảm bại đã khiến Mỹ mất những món tiền lớn. Uy tín, hay như người ta
thường gọi, "niềm kiêu hãnh dân tộc" của Mỹ bị thương tổn. Các nhà
công nghiệp đòi hỏi phải động viên toàn bộ lực lượng hải quân và không quân -
quyết tiến hành chiến tranh đến cùng bằng bất kỳ giá nào. Báo chí Mỹ đe dọa sẽ
không "gỡ băng tang" (tên các báo được lồng trong khung đen, điều đó
gây được ấn tượng cho nhiều người mặc dù về mặt in ấn thì chẳng tốn kém là bao)
cho đến khi Pie Hary bị nhốt trong lồng sắt chở đến Niu Yoóc và bị xử tử trên
ghế điện. Ở các thành phố lan truyền những tin đồn khủng khiếp về bọn điệp viên
của Garin dường như được trang bị những bộ máy phát tia loại bỏ túi. Đã xảy ra
những vụ đánh đập những kẻ lạ mặt và những cơn hốt hoảng chốc lát trong các rạp
chiếu bóng, các tiệm ăn và trên các đường phố. Chính phủ Mỹ trấn an bằng những
lời lẽ đao to búa lớn, nhưng về thực chất chỉ bộc lộ nỗi bối rối đến tột độ.
Chiếc tàu chiến duy nhất còn lành lặn sau cuộc hải chiến gần đảo Vàng - một chiếc
tàu phóng ngư lôi - đã trình một bản báo cáo cho bộ trưởng chiến tranh với
những chi tiết ghê gớm đến nỗi không ai dám công bố.
Tất cả
những biến cố bất lợi ấy đã buộc chính phủ Mỹ phải triệu tập một cuộc hội nghị
ở Oasinhtơn.
Khi
ngày diễn ra hội nghị được công bố, tất cả các báo và đài phát thanh khắp thế
giới đều nhận được thông báo cho biết rằng kỹ sư Garin sẽ đích thân đến dự buổi
khai mạc.
Garin,
Sécmắc và kỹ sư Sêphe đáp thang máy xuống đáy giếng mỏ chính. Bên ngoài cửa sổ
bằng mica, thấp thoáng những dãy đường ống dài vô tận, những dây dẫn, những
thiết bị gia cố, những băng nâng, những mặt bằng hẹp, những cửa sắt.
Họ đi
qua mười tám vành đai của vỏ trái đất, mười tám lớp đất đánh dấu những thời kỳ
biến đổi của hành tinh. Và bây giờ thang máy đang đưa họ qua lớp đất cuối cùng,
thứ mười chín.
Garin
sốt ruột cắn cắn móng tay. Cả ba đều im lặng. Ai cũng cảm thấy khó thở. Trên
lưng mỗi người đều đeo thiết bị dưỡng khí. Vang động tiếng gầm rú của các bộ
máy phát tia và những tiếng nổ.
Sêphe
lấy một nắm bụi màu xám trong chiếc gầu xúc bay vụt qua. Garin nghiền nát nó
trong long bàn tay. Y nôn nóng đòi đưa cho y chiếc bút chì rồi viết lên hộp
thuốc lá:
"Xỉ
nặng. Phún thạch".
Sêphe
gật chiếc mũ chụp tròn. Họ thận trọng men theo rìa một mặt bằng chạy vòng và
dừng lại trước một hệ thống đồng hồ to. Đó là những khí áp kế, chấn động kế,
địa bàn, con lắc và đồng hồ đo điện từ.
Sêphe
chỉ vào con lắc, cầm lấy hộp thuốc lá ở tay Garin và thong thả viết lên trên:
"Gia
tốc trọng lực đã tăng lên chín phần trăm từ sáng hôm qua. Tại độ sâu này, gia
tốc phải giảm xuống đến 0,98, nhưng chúng ta lại thấy gia tốc tăng đến 1,07..."
"Nam châm chăng?" - Garin viết.
Sêphe
trả lời:
"Từ
sáng hôm nay, các dụng cụ đo từ tính đứng ở số không. Chúng ta đã xuống dưới
trường từ".
Tì hai
tay vào đầu gối, Garin nhìn hồi lâu xuống dưới. Từ sáng nay, giếng mỏ bắt đầu
đi vào vòng đai Ôlivin.
110
Senga
xoa đầu chú bé. Ivan ngồi trong căn nhà nhỏ của anh bên bờ biển, cạnh cửa sổ và
nhìn ra đại dương.
Khi
được đưa từ khí cầu máy về đây, Ivan gần như ngắc ngoải. Senga không rời em một
bước. Nếu như không có anh trên đảo thì chưa chắc em đã sống nổi. Em bị rét
cóng, bị cảm lạnh nặng, và thêm vào đó là tâm hồn em bị thương tổn: em tin vào
người khác, em đã cố gắng hết sức, vậy mà chỉ chuốc lấy tai họa.
- Chú
Senga ạ, bây giờ thì cháu chẳng về được Liên xô nữa, cháu sẽ bị kết án mất.
- Đừng
nói vớ vẩn. Cháu chẳng có lỗi gì hết.
Khi
Ivan bình phục, Senga bắt đầu thận trọng giải thích cho em biết về tình hình
công việc và cũng như Taraskin hồi ở Lêningrát, anh thấy em sáng ý, chỉ cần nói
nửa lời đã hiểu và tính tình rất kiên quyết, không khoan nhượng, theo đúng kiểu
người Xô Viết. Nếu như em không buồn nhớ Lêningrát quá thì em quả là một chú bé
vàng ngọc.
- Ivan
này, - một lần Senga vui vẻ bảo em, - Chú sắp đưa cháu về nhà đấy.
- Cảm
ơn chú.
- Chỉ
có điều là trước hết phải làm một việc đã.
- Cháu
sẵn sàng.
- Cháu
leo trèo giỏi chứ?
- Hồi ở
Xibia cháu đã từng trèo lên những cây bá hương cao đến năm mươi mét, cao đến
nỗi không nhìn được mặt đất nữa.
- Khi
nào cần chú sẽ bảo cháu phải làm gì. Và cháu đừng lang thang khắp đảo nữa. Cháu
hãy lấy cần câu mà câu cầu gai còn hơn.
111
Giờ
đây, Garin đang tin tưởng điều hành công việc theo bản kế hoạch tìm thấy trong
các ghi chép và nhật ký của Manxép.
Các gàu
múc đã qua lớp mắcma mạnh.
Ở đáy giếng mỏ vang lên tiếng ầm ầm của đại dương ngầm dưới đất đang sôi sục.
Thành giếng vốn đã được làm lạnh cứng tới một độ dày ba mươi mét và tạo thành
một khối trụ hết sức vững chắc, vẫn rung lên và bị rung chuyển dữ đội đến nỗi
phải tung mọi lực lượng vào việc làm lạnh cứng nhiều hơn nữa. Các máy nâng bắt
đầu chuyển lên mặt đất sắt, kền và Ôlivin.
Bắt đầu
xảy ra những hiện tượng kỳ lạ. Khi đất đá trong lòng đất được chuyển theo những
băng tải bằng thép và phao ra ngoài biển thì phát sáng. Hiện tượng đó mạnh lên
suốt mấy ngày đêm. Cuối cùng, những khối lớn nào nước, nào đá, cát và một phần
cầu phao nổ tung, bay vọt lên không trung. Tiếng nổ mãnh liệt đến nỗi như một
trận cuồng phong quét sạch các lán gỗ của công nhân và một đợt sóng dữ dội ập lên
đảo, suýt tràn ngập giếng mỏ.
Người
ta phải chuyển thứ nham thạch đó lên các sà lan và nhận chìm nó ở ngoài khơi
xa, nơi đó lại tiếp tục phát sáng và phát nổ. Việc này được giải thích là do
các hiện tượng chưa từng biết của sự phân rã nguyên tử của nguyên tố M.
Một
hiện tượng không kém phần lạ lùng khác xảy ra ở đáy giếng. Những dụng cụ đo từ
tính mà mới đây thôi vẫn đứng ở vạch số không thì nay bỗng cho thấy một trường
từ cực mạnh. Kim các dụng cụ đo vọt lên mức cao nhất.
Garin
hầu như không ra khỏi giếng mỏ. Chỉ đến bây giờ y mới bắt đầu hiểu toàn bộ sự
điên rồ của công việc y đang làm. Niềm an ủi đối với y chỉ là những tin tức từ
chiếc "Aridôna" gửi về. Vào một đêm, chiếc du thuyền ấy, sau khi đã
lại bắt đầu ngang dọc trên mặt biển dưới cờ cướp biển, đã xông vào cảng Menbuốc [1], đốt cháy các kho chứa hàng để báo tin về
sự hiện diện của mình và đòi năm triệu bảng Anh. Bộ máy phát tia còn quét sạch
một đại lộ trên bờ biển nhằm đe dọa. Trong vài giờ, thành phố trở nên vắng
ngắt, các ngân hàng đem tiền ra nộp. Khi rời khỏi cảng, chiếc
"Aridôna" bị một tàu tuần biển Anh bắt gặp. Chiếc tàu Anh nổ súng.
Chiếc "Aridôna" bị đạn pháo bắn thủng một lỗ phía trên đường mớn
nước, liền phản công và tiêu diệt chiếc tàu Anh. Cuộc chiến đấu do Dôia chỉ huy
từ đỉnh tháp có đặt bộ máy phát tia khủng khiếp.
Tin tức
này làm Garin vui hẳn lên. Trong thời gian qua, y bắt đầu có những ý nghĩ u ám.
Nhỡ Manxép tính toán sai thì sao? Hệt như trong ngôi nhà hẻo lánh ở khu vực
Pêtơrôgrátxcaia trước kia, bộ óc mệt mỏi của y tìm kiếm những khả năng thoát
thân nếu công việc đào giếng mỏ bị thất bại.
Ngày
hai mươi lăm tháng tư, Garin quan sát thấy một hiện tượng khác thường. Từ phía
trên, từ chiếc phễu thu khí, thủy ngân chảy ra. Đành phải ngừng hoạt động của
các bộ máy phát tia và giảm việc làm đông cứng ở đáy giếng mỏ. Các gầu múc đã
đi qua lớp nham thạch Ôlivin và bây giờ đang múc thủy ngân nguyên chất. Theo
bảng tuần hoàn Menđêlêép thì sau thủy ngân là kim loại tali. Còn vàng (nguyên
tử lượng là 197,2 và số thứ tự là 79) thì nằm trên thủy ngân trong bảng đó.
Vậy là
không có vàng - tai họa khủng khiếp đó chỉ có hai người hiểu được, đó là Garin
và kỹ sư Sêphe. Lão Manxép khốn kiếp kia đã tính lầm.
Garin
cúi đầu. Y chờ đợi mọi chuyện, nhưng không chờ đợi một kết thúc như vậy...
Sêphe bối rối giơ tay ra, ngửa bàn tay lên bắt những giọt thủy ngân chảy từ
phễu xuống. Đột nhiên y nắm lấy khuỷu tay Garin và lôi tới cầu thang chênh
chếch. Khi cả hai đã lên trên, ngồi vào thang máy và bỏ mũ chụp bằng cao su ra
thì Sêphe giậm giậm đôi giày nặng trịch. Khuôn mặt xương xẩu của y rạng rỡ niềm
vui.
- Đó là
vàng chứ còn gì nữa! - y vừa cười vang vừa kêu lên, - Chúng ta thật ngốc
nghếch... Vàng và thủy ngân sôi bên cạnh nhau. Và do đó, đây là vàng thủy ngân!
Ông hãy nhìn xem! - Sêphe mở bàn tay ra, trên đó có những hạt nhỏ lấp lánh, -
Trong thủy ngân có ánh vàng, có tới chín mươi phần trăm vàng nguyên chất!
112
Vàng cứ
từ dưới đất trào lên như dầu mỏ. Công việc đào sâu thêm giếng mỏ tạm đình lại.
Những hệ thống gia cố tạm thời giếng mỏ được gỡ bỏ đi. Thay vào đó người ta hạ
xuống suốt chiều sâu của giếng những hình trụ bằng thép mà bên trong là hệ
thống ống làm mát.
Từ
giếng mỏ đến mạn Đông - Bắc, một đường ống dẫn thủy ngân được khẩn trương xây
dựng. Ở cánh trái lâu đài là nơi tiếp giáp với chân ngọn tháp có đặt bộ máy
phát tia lớn, người ta xây lò và lắp đặt những lò nổi bằng sứ để làm vàng bốc
hơi.
Garin
dự tính là trong thời gian đầu sẽ đưa sản lượng vàng một ngày đêm lên tới 160
tấn, tức là lên tới một triệu đô la một ngày đêm.
Chiếc
"Aridôna" được lệnh trở về đảo. Dôla đánh điện chúc mừng và tuyên bố
qua đài phát thanh cho toàn thế giới biết là sẽ ngừng những cuộc tiến công kẻ
cướp trên Thái Bình Dương.
113
Một ít
lâu trước khi khai mạc cuộc hội nghị ở Oasinhtơn, có năm chiếc tàu xuyên đại
dương đi vào cảng Xan Phranxixcô. Năm chiếc tàu này trương cờ Hà Lan và thả neo
cạnh bờ biển, giữa hàng nghìn chiếc tàu buôn, tương tự, trong cái vịnh rộng đầy
khói và chói chang nắng hè.
Các
thuyền trưởng lên bờ. Mọi việc đều đúng phép tắc. Các thủy thủ phơi quần áo lót
và cọ rửa boong tàu. Các viên chức hải quan chỉ hơi ngạc nhiên về hàng hóa trên
các con tàu treo cờ Hà Lan này. Nhưng họ được giải thích rằng những thỏi kim
loại màu vàng được đúc thành từng khối năm cân này chính là vàng được chở đến
để bán.
Các
viên chức hải quan cười giễu khi nghe thấy câu nói đùa ngộ nghĩnh như vậy.
- Thế
các ông bán vàng theo giá nào?
- Bán
theo giá thành, - các thuyền phó trả lời. (Trên tất cả năm chiếc tàu đều diễn
ra cuộc đối thoại hệt như vậy).
- Cụ
thể là bao nhiêu?
- Hai
đô la rưỡi một cân.
- Các
ông tính giá vàng của mình hơi thấp đấy.
- Chúng
tôi bán rẻ thôi, hàng nhiều lắm, - các viên thuyền phó vừa ngậm tẩu thuốc vừa
trả lời.
Các
viên chức hải quan liền ghi vào sổ. "Hàng hóa là những thỏi kim loại màu
vàng được gọi là vàng", rồi cười giễu, bỏ đi. Nhưng chẳng có gì đáng cười
cả.
Hai
ngày sau, ở Xan Phranxixcô, trên các tờ báo buổi sáng, trong bản tin cáo thị,
trên các tờ áp phích màu trắng chen màu vàng dán đầy trên các cột quảng cáo, và
ngay trên các hè phố cũng thấy viết bằng phấn bản thông báo sau:
"Kỹ
sư Piốt Garin coi cuộc chiến tranh dành độc lập cho đảo Vàng đã chấm dứt và rất
lấy làm ân hận về những thiệt hại mà đối thủ phải chịu đựng. Để mở đầu những
quan hệ buôn bán hòa bình, kỹ sư Garin bày tỏ lòng kính trọng đối với dân chúng
Mỹ và đem đến cho họ năm con tàu chất đầy vàng mười. Những thỏi vàng năm cân
được đem bán với giá là hai đô la rưỡi một cân. Những ai muốn mua xin hãy đến
các quầy thuốc lá, các quầy hóa chất, các cửa hàng sữa, các quán báo và các em
bé đánh giày, v. v... Tôi cam đoan đó là vàng thật, và tôi có trong tay một số
lượng vàng vô tận. Xin gửi các bạn lời chào kính trọng. Garin".
Dĩ
nhiên, không một ai tin những lời quảng cáo ngu ngốc đó. Đa số những người được
ủy thác đều đem giấu những thỏi vàng đó đi. Nhưng cả thành phố bắt đầu nói đến
Piốt Garin, tên cướp biển và tên khốn kiếp kỳ lạ này lại làm xáo động cuộc sống
yên ổn của những người lương thiện. Các báo buổi tối đòi phải hành quyết Garin.
Vào lúc sáu giờ tối, những đám người nhàn rỗi kéo ra cảng, tổ chức những cuộc
họp chớp nhoáng và ra quyết nghị - đánh đắm đội tàu của Garin và treo cổ các
thủy thủ trên cột đèn. Cảnh sát phải vất vả lắm mới kìm giữ được các đám đông.
Trong
lúc đó, các nhà chức trách ở cảng cũng tiến hành điều tra. Tất cả giấy tờ trên
năm chiếc tàu đều hợp lệ, bởi vì chủ nhân là một công ty vận tải Hà Lan nổi
tiếng. Song chính quyền đòi phải cấm việc buôn bán những thỏi kim loại màu vàng
đã gây náo động trong nhân dân. Nhưng không một viên chức nào đứng vững nổi
trước sự cám dỗ khi mỗi người được đút vào túi hai thỏi vàng. Người ta thử bằng
răng, xem xét màu sắc, trọng lượng, và đều xác nhận đấy là vàng thật. Vấn đề
bán đành để ngỏ, tạm thời lờ ỉm đi.
Khắp ba
mươi hai tòa soạn báo hàng ngày đều có những thủy thủ vác đến một bao đựng thứ
thỏi kim loại bí ẩn kia. Họ chỉ nói: "Xin biếu các ông". Các biên tập
viên phẫn nộ, kêu la một cách khủng khiếp. Thợ kim hoàn được triệu đến. Người
ta đề nghị những biện pháp đẫm máu chống lại thái độ trắng trợn của Pie Hary.
Nhưng các thỏi đó đã biến mất tiêu khỏi ba mươi hai tòa soạn.
Trong
đêm đó, các thỏi vàng được đem vứt lung tung ngay trên các hè phố. Đến chín giờ
sáng, các hiệu cắt tóc và các quầy thuốc lá đều treo biển: "Ở đây bán
vàng mười với hai đô la rưỡi một cân".
Dân
chúng kinh hoàng.
Điều tệ
hại nhất là không ai hiểu người ta bán vàng với giá hai đô la rưỡi một cân để
làm gì. Nhưng không mua là dại. Trong thành phố bắt đầu diễn ra những cảnh xô
đẩy và náo loạn.
Hàng
nghìn người đứng trước năm chiếc tàu ngoài biển và hét to: "Vàng, vàng,
vàng..." Vàng được đem bán ngay trên các cầu tàu. Xe điện và xe điện ngầm
ngừng chạy. Trong các văn phòng và các cơ quan chính phủ xảy ra tình trạng hỗn
loạn, viên chức vứt bỏ công việc, chạy khắp các quầy thuốc lá hỏi mua vàng. Các
kho và các cửa hàng đóng cửa, các viên quản lý chạy tứ tung, trộm cắp tha hồ
hoành hành trong thành phố.
Có tin
đồn là dường như số vàng chở đến để đem bán chỉ có hạn và sẽ không có tàu nào
chở đến nữa.
Đến
ngày thứ ba, khắp các hang cùng ngõ hẻm của nước Mỹ đều lên cơn sốt vàng. Các
tuyến đường sắt chở sang phía Tây những kẻ mưu tìm hạnh phúc đầy xúc động,
hoang mang, nghi ngờ và kích động. Phải đánh nhau mới lên được các toa. Ai cũng
bối rối, ngơ ngác trong làn sóng ngu ngốc đó của con người. Từ Oasinhtơn gửi
đến một cách muộn mằn mệnh lệnh của chính phủ: "Dùng lực lượng cảnh sát
ngăn chặn dân chúng đến những con tàu chất đầy thứ kim loại gọi là vàng, bắt
giữ các thuyền trưởng và thủy thủ, niêm phong các con tàu". Mệnh lệnh được
thi hành.
Những
đám người phẫn nộ đổ đến mưu tìm hạnh phúc từ các nơi trong nước, những kẻ đã
bỏ việc làm, nhiệm sở để tràn ngập vùng ven biển nóng nực của Xan Phranxixcô,
nơi tất cả những thứ gì ăn được đều bị ngốn sạch, - những kẻ hung dữ đó chọc
thủng các hàng rào cảnh sát, điên cuồng đánh lộn nhau bằng súng lục, bằng dao,
bằng răng, và đã ném một số lớn cảnh sát xuống biển, giải phóng đoàn thủy thủ
trên các con tàu của Garin, sau đó tổ chức việc xếp hàng có vũ trang để nhận
vàng.
Thêm ba
con tàu nữa đến từ đảo Vàng, cần cẩu bốc dỡ ngay những hòm vàng lên bờ và chất
thành từng đống. Cảnh đó chứa đựng một nỗi kinh hoàng không sao tả xiết. Những
người đứng xếp hàng run lên khi nhìn những kho tàng lấp lánh ngay trên mặt
đường.
Vào lúc
đó, đám nhân viên của Garin đã kết thúc việc lắp đặt những hệ thống loa phóng
thanh ngoài phố tại những thành phố lớn. Vào ngày thứ bảy, khi dân chúng các
thành phố đã hoàn tất công việc và đổ ra ngoài phố thì khắp nước Mỹ vang lên
một giọng nói to, âm sắc lạ tai nhưng hết sức tự tin:
"Hỡi
dân chúng Mỹ! Người đang nói chuyện với các bạn là kỹ sư Garin, kẻ đã bị đặt ra
ngoài vòng pháp luật và bị đem ra để hù dọa trẻ con. Hỡi dân chúng Mỹ, ta đã
phạm nhiều trọng tội nhưng tất cả những việc làm đó đều giúp ta đạt đến một mục
đích: đó là hạnh phúc của nhân loại. Ta đã chiếm cứ một mảnh đất, một hòn đảo
nhỏ bé để tại đó thực hiện đến cùng một công việc lớn lao chưa từng có. Ta
quyết định xâm nhập vào lòng đất, vào các lớp vàng chưa một ai động đến. Tại độ
sâu tám cây số, giếng mỏ đã đi vào một lớp vàng vô tận sôi sùng sục. Hỡi dân
chúng Mỹ! Mỗi người đều có quyền buôn bán những gì người đó có. Ta đề nghị các
người mua thứ hàng hóa của ta, đó là vàng. Ta chỉ lấy lãi 10 xu một đô la, với
giá là hai đô la rưỡi một cân vàng. Như vậy là rất ít ỏi. nhưng tại sao ta lại
bị cấm đem bán thứ hàng hóa của ta? Đâu là quyền tự do buôn bán của các người.
Chính phủ các người đã chà đạp lên những cơ sở thiêng liêng của tự do và tiến
bộ. Ta sẵn sàng bồi thường chiến phí. Ta sẽ trả lại cho các quốc gia, các công
ty và tư nhân tất cả số tiền mà chiếc "Aridôna" đã tịch thu trên các con tàu và trong các nhà băng
trong thời gian chiến tranh. Ta chỉ yêu cầu một điều thôi là hãy để ta được tự
do buôn bán vàng. Chính phủ các người cấm ta làm việc đó và ra lệnh bắt giữ tàu
của ta. Ta nguyện sẽ bảo vệ toàn bộ dân chúng Mỹ".
Ngay
đêm đó, các loa phóng thanh đều bị dỡ bỏ. Chính phủ kêu gọi đến lý trí của nhân
dân:
"...
dù những điều mà kỹ sư Garin, tên kẻ cướp khét tiếng xuất thân từ Nga Xô, vừa
nói qua loa phóng thanh có là đúng chăng nữa thì vẫn cần lấp đi các giếng mỏ
trên đảo Vàng, vẫn cần loại trừ khả năng có nguồn trữ lượng vàng vô tận. Cái
thước đo lao động, hạnh phúc và cuộc sống sẽ ra sao nếu vàng sẽ được múc lên
như đất sét? Nhân loại nhất định sẽ trở về những thời kỳ mông muội, trở về chế
độ buôn bán vật đổi vật, trở về tình trạng dã man và hỗn loạn. Kỹ sư Garin là
một tên khiêu khích bất trị, là tay sai của quỷ sứ. Mục tiêu của y là làm mất
giá đồng đôla. Nhưng nhất định y sẽ không đạt được mục đích đó..."
Chính
phủ cố vẽ ra một bức tranh thảm hại nếu hủy bỏ hệ thống kim bản vị. Nhưng những
kẻ biết lý lẽ thật ít ỏi, khắp nước Mỹ đã phát điên. Sinh hoạt trong các thành
phố khác cũng đình trệ như ở Xan Phranxixcô. Các đoàn tàu hỏa và hàng triệu ô
tô để sang phía Tây. Càng gần đến bờ biển Thái Bình Dương thì thực phẩm càng
đắt đỏ. Không có phương tiện chuyên chở thực phẩm. Những kẻ tìm kiếm hạnh phúc
bị đói lả, tiến công các cửa hàng ăn uống. Ở Xan Phranxixcô người chết đói nằm
la liệt trên đường phố.
Tại các
ga lớn và trên các giao điểm đường sắt, ngổn ngang những xác chết khi các đoàn
tàu bị tiến công. Trên các con đường, trên các đường hẻm qua núi, qua rừng,
chạy ngược lại về phía Tây, nườm nượp những toán người cõng các bị vàng trên
lưng. Những kẻ chậm chân lập tức bị dân chúng địa phương và các toán cướp giết
chết.
Bắt đầu
cuộc săn đuổi những kẻ chở vàng, thậm chí họ bị cả máy bay tiến công.
Rốt
cuộc, chính phủ phải thi hành những biện pháp gắt gao. Hạ nghị viện thông qua
các đạo luật tổng động viên những người từ mười bảy đến bốn lăm tuổi, ai trốn
tránh sẽ bị đưa ra tòa án binh. Trong các khu phố nghèo ở Niu Yoóc, hàng trăm
người đã bị bắn chết. Binh lính xuất hiện tại các nhà ga, nào bắt bớ, nào bắn
chỉ thiên, nào bắn vào dân chúng. Nhưng các đoàn tàu vẫn đầy ắp. Các công ty
đường sắt tư nhân thấy tốt hơn là cứ phớt lờ mệnh lệnh của chính phủ.
Thêm
năm chiếc tàu nữa của Garin đến Xan Phranxixcô và chiếc "Aridôna" -
"mối đe dọa của biển cả" - bỏ neo ngay ngoài khơi với đầy vẻ lộng
lẫy, khắp vịnh đều nhìn thấy. Hai bộ máy phóng tia khủng khiếp của nó bảo vệ
các con tàu bốc dỡ hàng.
Ngày
khai mạc hội nghị Oasinhtơn đã đến trong hoàn cảnh như vậy. Một tháng trước
đây, nước Mỹ sở hữu một nửa số vàng của toàn thế giới. Giờ đây, dù nói gì thì
nói, vốn vàng của nước Mỹ bị đánh giá rẻ đi đúng hai trăm năm mươi lần. Dù vất
vả, dù bị những tổn thất ghê gớm hay đổ mất nhiều máu chăng nữa - những việc đó
vẫn có thể chịu đựng được. Nhưng nhỡ cái gã điên rồ khốn kiếp Garin lại nảy ra
ý định bán vàng với giá hai đô la một cân thì sao? Các vị thượng nghị sĩ và dân
biểu cao niên đi đi lại lại ngoài hành lang với cặp mắt trắng nhợt vì kinh
hoàng. Các ông vua công nghiệp và tài chính Mỹ hoang mang khiếp đảm.
"Đúng
là một thảm họa của thế giới, một thảm họa còn tồi tệ hơn việc va phải sao
chổi".
"Cái
gã kỹ sư Garin này là ai nhỉ? - người ta hỏi - Thực ra thì y cần cái gì nhỉ?
Làm khánh kiệt đất nước này chăng? Ngu xuẩn? Khó hiểu... Y muốn đạt được mục
đích gì? Muốn trở thành nhà độc tài chắc? Xin cứ việc, nếu y là người giàu có
nhất thế giới. Suy đến cùng thì chúng ta cũng đã chán ngấy cái chế độ dân chủ
này rồi... Đâu đâu trong nước cũng xảy ra tình trạng hỗn loạn, cướp bóc, lộn
xộn, cứ để một tên độc tài có bàn tay sắt điều hành đất nước còn tốt hơn."
Khi
biết tin là đích thân Garin sẽ đến dự phiên họp, dân chúng kéo đến hội nghị
đông đến nỗi nhiều người đánh đu trên hàng cột và các ô cửa sổ. Đoàn chủ tịch
xuất hiện, ngồi vào ghế, nhưng im lặng, chờ đợi. Cuối cùng, chủ tọa hội nghị
bắt đầu nói, nhưng mọi người trong phòng đều quay về phía cửa ra vào màu trắng
có nạm vàng. Cửa mở toang. Một người đàn ông bước vào. Y nhỏ nhắn, mặt tái nhợt
khác thường, bộ râu dê đen sì, cặp mắt màu sẫm thâm quầng, mặc chiếc vettông
bình thường màu xám, đeo cà vạt kiểu con bướm màu đỏ, đi đôi giày nâu, đế cao,
bàn tay trái cầm đôi găng mới.
Y đứng
lại, hít một hơi thật sâu. Y thoáng gật đầu rồi nhanh nhẹn bước lên diễn đàn. Y
vươn thẳng người. Râu y vểnh lên. Y gạt bình nước về phía mép bàn, (Trong phòng
chỉ nghe thấy tiếng nước sóng sánh, - yên tĩnh như vậy đó)
Bằng
một giọng cao, âm sắc rất chướng tai, y lên tiếng:
- Thưa
quý vị... Tôi là Garin... Tôi đã đem vàng đến cho thế giới.
Cả
phòng rung chuyển trong tiếng hoan hô. Mọi người nhất tề đứng dậy và đồng thanh
hét lớn.
- Ngài
Garin muôn năm!... Nhà độc tài muôn năm.
Bên
ngoài, một đám đông hàng triệu người vừa giậm chân theo nhịp vừa hò hét:
-
Vàng!... Vàng!... Vàng!....
114
Chiếc
"Aridôna" vừa trở lại đảo Vàng. Gianxen báo cáo với Dôia về tình hình
hội nghị Oasinhton. Dôia vẫn nằm trên giường, giữa một đống gối viền đăng ten.
Phòng ngủ mờ mờ tối sực nức mùi hoa từ ngoài vườn tràn vào. Một cô gái đang sửa
móng bàn tay phải của ả. Ả cầm trong tay trái một chiếc gương nhỏ và vừa nói
chuyện vừa bực bội ngắm nghía mình trong gương.
- Nhưng
ông Gianxen ạ, Garin phát điên rồi, - ả bảo Gianxen, - sao lại làm vàng mất giá
nhỉ?... Anh ấy muốn trở thành nhà độc tài của lũ khố rách áo ôm chắc?
Gianxen
liếc nhìn vẻ lộng lẫy của căn phòng ngủ vừa trần thiết xong rồi đáp:
- Thưa
bà, khi tạm biệt tôi, ông Garin bảo tôi nói với bà là bà chớ lo lắng. Ông ấy
không đi chệch một bước nào so với kế hoạch đã dự định. Nhờ đánh đổ được vàng,
ông ấy đã chiến thắng. Tuần sau, thượng nghị viện sẽ suy tôn ông ấy là nhà độc
tài. Khi đó ông ấy sẽ nâng giá vàng lên.
- Bằng
cách nào, tôi không hiểu đấy.
- Ông
ấy sẽ ban bố đạo luật cấm nhập vàng và bán vàng. Sau một tháng, vàng sẽ tăng
đến giá cũ. Số vàng bán ra không nhiều lắm đâu. Những lời đồn đại nhiều hơn.
- Thế
giếng mỏ?
- Giếng
mỏ sẽ bị phá hủy.
Dôia
cau mày, châm thuốc hút.
- Tôi
chẳng hiểu gì hết.
- Số
lượng vàng phải được hạn chế, nếu không nó sẽ mất hết giá trị. Dĩ nhiên, trước
khi phá hủy giếng mỏ, sẽ phải khai thác một số lượng vàng như thế nào để ông
Garin có được trong tay hơn một nửa số vàng trên thế giới.
- Tuyệt
lắm... nhưng họ sẽ bỏ bao nhiêu tiền cho triều đình của ta, cho những kế hoạch
huyễn hoặc của ta. Ta cần nhiều, cần nhiều lắm đấy.
- Ông
Garin đề nghị bà lập bản quyết toán đi. Rồi bà sẽ được cấp bao nhiêu tùy ý...
Rồi
Gianxen nói bằng một giọng van vỉ:
- Thưa
bà Lamôlơ, suốt cả tháng qua tôi không được gặp bà. Lúc này bà vẫn còn được
thoải mái. Ta hãy ra biển đi. Chiếc "Aridôma" đã sửa sang lại rồi.
Tôi muốn được cùng bà đứng trên cầu chỉ huy, dưới các vì sao.
- Tôi
không biết, Gianxen ạ, tôi không biết, - Dôia đáp - Đôi khi tôi bắt đầu cảm
thấy rằng người ta chỉ hạnh phúc khi săn đuổi hạnh phúc. Và khi hồi tưởng lại
nữa... Nhưng đó là vào những giây phút mệt mỏi... Rồi sẽ đến lúc tôi trở về với
ông, ông Gianxen ạ... Tôi biết là ông sẽ nhẫn nại chờ tôi... nhưng nếu tôi
không trở về thì niềm mơ ước và nỗi nhớ tôi chẳng lẽ lại không phải là hạnh
phúc ư?... Gianxen, ông Gianxen yêu quí, tôi biết làm gì bây giờ?... Tôi phải
bay vào chốn tưởng tượng huy hoàng của tôi cho tới khi tim tôi ngừng đập...
115
Tại
ngôi nhà nhỏ màu trắng trên bờ một vùng biển hẻo lánh của đảo Vàng, suốt đêm
diễn ra những cuộc tranh luận sôi nổi. Senga đọc lời hiệu triệu do anh vừa vội
vã soạn thảo:
"Hỡi
nhân dân lao động toàn thế giới! Các bạn đều đã biết quy mô và hậu quả của cơn
kinh hoàng đang bao trùm nước Mỹ sau khi những con tầu chất đầy vàng của Garin
cập bến San Phranxixcô.
Chủ nghĩa tư bản bắt đầu
lung lay, vàng bị mất giá, tất cả các loại tiền đều rối loạn, bọn tư bản chẳng
có gì để trả công cho những kẻ làm thuê cho chúng: cảnh sát, các đội quân càn
quét, bọn khiêu khích... Bóng dáng của cuộc cách mạng vô sản đã hiện lên rõ
rệt.
Nhưng kỹ sư Garin, kẻ đã
nện một đòn choáng váng vào chủ nghĩa tư bản, không hề muốn rằng hậu quả những
hành động phiêu lưu của y lại là cách mạng.
Garin
đang đi tới nắm chính quyền. Trên đường đi của y, y đang bẻ gãy sự kháng cự của
bọn tư bản là những kẻ hiểu chưa thật rõ rằng Garin là thứ vũ khí mới trong
cuộc đấu tranh với cách mạng vô sản...
Chẳng
mấy nữa, Garin sẽ thỏa thuận được với bọn trùm tư bản.
Chúng
sẽ suy tôn y là nhà độc tài và lãnh tụ. Y sẽ giữ cho y một số vàng trên thế
giới rồi sẽ ra lệnh lấp giếng mỏ trên đảo Vàng để hạn chế số lượng vàng.
Y sẽ cùng bọn trùm tư
bản bóc lột toàn thể nhân loại và biến mọi người thành nô lệ.
Hỡi anh chị em lao động
trên toàn thế giới! Giờ chiến đấu quyết định đã điểm. ủy ban cách mạng của đảo
Vàng tuyên bố như vậy. ủy ban tuyên bố rằng đảo Vàng cùng giếng mỏ và tất cả
các bộ máy phát tia đều chuyển vào tay những người khởi nghĩa khắp thế giới. Từ
nay, những nguồn vàng vô tận sẽ nằm trong tay nhân dân lao động.
Garin
cùng bè lũ của y sẽ chống cự điên cuồng. Chúng ta chuyển sang tiến công càng
nhanh thì thắng lợi càng bảo đảm".
Không
phải mọi ủy viên ủy ban cách mạng đều tán thành lời hiệu triệu này. Một số
người do dự, chưa hoàn toàn tin tưởng. Nhưng Senga nói với họ:
- Cách
mạng là chiến lược cao nhất. Mà chiến lược là khoa học để chiến thắng. Chiến
thắng chỉ thuộc vào những ai táo bạo; những ai nắm được chủ động. Thắng lợi của
chúng ta là chắc chắn vì toàn thể nhân dân lao động khắp thế giới đều muốn
chiến thắng, và chúng ta là đội tiên phong của họ. Những người Bônsêvích nói
như vậy. Mà những người Bônsêvích thì không biết đến thất bại.
Nghe
thấy những lời lẽ ấy, một anh thanh niên cao lớn, mắt xanh, từ nãy đến giờ vẫn
im lặng, nay rút chiếc tẩu ra khỏi miệng.
- Đủ
rồi, - anh nói bằng một giọng trầm đặc. - Bàn cãi mãi thế là đủ rồi! Bắt tay
vào việc đi, các bạn!...
[1] Một hải cảng ở Úc - N.
D.
116
Người
hầu phòng tóc bạc, cao lớn, mặc chế phục nhẹ nhàng bước vào phòng, đặt tách
nước sôcôla và đĩa bích quy lên chiếc bàn kê ở đầu giường rồi khẽ khàng vén rèm
cửa sổ. Garin mở mắt ra:
- Đưa
thuốc lá đây.
Y không
thể bỏ được cái thói quen đặc Nga là hút thuốc lúc đói này, mặc dù y biết rằng
giới thượng lưu Mỹ đang theo dõi từng bước đi, từng cử động, từng lời nói của y
và sẽ thấy việc hút thuốc lúc đói này là dấu hiệu không được đẹp đẽ lắm.
Trong
những bài tiểu phẩm hàng ngày, toàn bộ báo chí Mỹ đều hoàn toàn biện minh cho
quá khứ của Piốt Garin. Nếu trước đây y có uống rượu thì đó là do sự bắt buộc,
còn trong thực tế thì y là kẻ thù của rượu; tất cả các báo đều khẳng định rằng
công việc yêu thích của y và bà Lamôlơ trong lúc nghỉ ngơi là đọc một số chương
ưa thích trong Thánh Kinh; một vài hành động tàn ác của y (biến cố ở Vinlơ
Đavrê, vụ phá hủy các nhà máy hóa chất, việc đánh chìm đội tàu chiến Mỹ) được
giải thích hoặc là một sự ngẫu nhiên tai hại, hoặc là do sử dụng bất cẩn bộ máy
phát tia, nhưng dù sao thì con người vĩ đại ấy vẫn thành thật và ân hận sâu sắc
về những hành động đó, vẫn sẵn sàng bước vào giáo đường để rửa sạch những tội
lỗi ngẫu nhiên phạm phải (giữa nhà thờ Tin lành và nhà thờ Cơ Đốc đã bùng lên
cuộc xung đột nhằm tranh thủ Piốt Garin), và cuối cùng, y được tâng bốc là từ
nhỏ đã ham mê ít nhất là mười môn thể thao.
Sau khi
hút một điếu thuốc to bự. Garin liếc nhìn ly nước sôcôla. Nếu như vào trước
kia, khi y bị coi là tên khốn kiếp và ăn cướp, thì y đã đòi nước sôđa và rượu
cônhắc rồi, nhưng nhà độc tài của nửa thế giới không thể được phép uống cônhắc
từ sáng sớm!
Y nhăn
mặt tợp một ngụm nước sôcôla. Người hầu phòng vẫn đứng ở cửa với vẻ buồn bã
trang trọng, nay khẽ hỏi:
- Ngài
có cho phép thư ký riêng vào gặp không ạ?
Garin
uể oải ngồi dậy, khoác bộ pigiama lụa. - Được.
Viên
thư ký riêng bước vào, cúi chào nhà độc tài ba lần - ở cửa, ở giữa đường và khi
đến cạnh giường. Y chúc nhà độc tài một buổi sáng tốt lành rồi hơi liếc nhìn
chiếc ghế.
- Ông
ngồi xuống đi, - Garin ngáp mạnh đến nỗi răng kêu lách cách rồi nói.
Viên
thư ký riêng ngồi xuống. Y được coi là con người thanh nhã nhất Tân Thế Giới và
theo Garin thì y được bọn trùm tài chính cử đến để dò xét.
- Có gì
mới không? - Garin hỏi. - Giá vàng thế nào?
- Đang
lên ạ.
- Lên
chậm lắm phải không?
Viên
thư ký rầu rĩ dướn mày:
- Vâng,
chậm lắm.
- Bọn
khốn nạn!
Garin
xỏ chân vào đôi ủng bằng gấm và đi đi lại lại trên lớp thảm trắng.
- Bọn
khốn kiếp, bọn ngu xuẩn! - y nhắc lại, - Việc giá vàng lên chậm chứng tỏ mọi
người chưa tin vào tôi. Chưa tin vào tôi! Ông hiểu chứ? Tôi sẽ ban sắc lệnh cấm
bán tự do các thỏi vàng, kẻ nào vi phạm sẽ bị tử hình. Ông ghi đi: "Từ hôm
nay thượng viện quyết định..."
Sau khi
xong việc đó, y hút điếu thuốc thứ hai và vứt đầu mẩu thuốc lá vào tách sôcôla
uống dở. Rồi y hỏi:
- Còn
gì mới nữa không? Không phát hiện được vụ mưu sát nào nhằm vào tôi hay sao?
- Tối
qua và lúc bảy giờ sáng hôm nay cảnh sát đã khám phá ra hai vụ mưu sát ngài.
- Tốt
lắm. Cho công bố ngay trên báo. Chúng là ai vậy? Tôi hy vọng là chính dân chúng
đã thanh toán những tên khốn kiếp ấy rồi chứ?
- Tối
qua, trong công viên trước cửa lâu đài, đã phát hiện thấy một gã thanh niên có
vẻ như công nhân và trong túi tìm thấy hai cái êcu sắt, mỗi cái nặng năm trăm
gam. Thật đáng tiếc lúc đó đã muộn, công viên rất vắng vẻ, và chỉ một vài người
qua lại được biết là có kẻ định mưu sát nhà độc tài mà họ tôn thờ nên họ đã nện
cho tên khốn kiếp một trận. Hắn đã bị bắt.
- Những
người qua lại đó là dân chúng hay nhân viên mật vụ?
Mí mắt
viên thư ký động đậy, y hơi nhếch miệng cười - nụ cười độc nhất vô nhị trong
khắp Bắc Mỹ:
- Thưa
ngài, dĩ nhiên đấy là dân chúng rồi, đấy là những thương gia trung thực, hết
lòng với ngài.
- Tìm
biết ngay họ tên những thương gia ấy, - Garin ra lệnh, - và công bố trên báo
lời biết ơn nồng nhiệt của tôi. Kẻ mưu sát phải bị xét xử thật nghiêm khắc theo
pháp luật. Sau khi kết án, tôi sẽ khoan hồng cho hắn.
- Vụ
mưu sát thứ hai cũng xảy ra trong công viên, - viên thư ký nói tiếp, - cảnh sát
phát hiện thấy một phụ nữ nhìn qua cửa sổ vào phòng ngủ của ngài. Trong người
mụ ta tìm thấy một khẩu súng lục nhỏ.
- Còn
trẻ chứ?
- Mụ ta
năm mươi ba tuổi.
- Thế
dân chúng phản ứng ra sao?
- Dân
chúng chỉ giật mũ mụ ta, bẻ gẫy ô và giẫm nát túi xách. Sở dĩ họ phản ứng tương
đối yếu ớt như vậy là vì lúc đó trời quá sớm, mụ ta trông thật thảm hại và ngã
ngất ngay lập tức khi nhìn thấy đám đông dân chúng bừng bừng nổi giận.
- Cấp
hộ chiếu cho con quạ già ấy và tống cổ ra khỏi nước Mỹ. Chuyện này không nên
đăng trên báo. Còn gì nữa?
Lúc
chín giờ kém năm, Garin tắm hương sen rồi phó thác cho một người thợ cạo lừng
danh và bốn nữ phụ tá của ông ta - hai cô gái tóc vàng và hai cô gái lai - sửa
sang đầu tóc, râu ria, móng chân, móng tay cho y. Y phải kiên nhẫn lắm mới chịu
nổi đến cuối thủ tục này, một thủ tục mà sáng nào y cũng phải theo và được báo
chí nói đến như là "một khắc sau khi tắm" của y. Chẳng làm thế nào
được.
Sau đó,
y sang phòng thay quần áo. Tại đây, hai gia nhân và viên hầu phòng giàu kinh
nghiệm đã chờ sẵn y cùng bít tất, sơ mi, giày và nhiều thứ khác. Hôm nay, y
chọn bộ comlê nâu có chấm sáng. Báo chí viết rằng một trong những tài năng kỳ
diệu nhất của nhà độc tài là nghệ thuật chọn cà vạt. Garin vừa rủa thầm vừa
chọn chiếc cà vạt sặc sỡ như lông công.
Khi
sang phòng ăn - một căn phòng bài trí theo phong cách trung thế kỷ, - Garin
thầm nghĩ:
"Không
thể chịu nổi lâu thế này được. Thật quỷ quái, chúng không còn cho ta được tự do
gì nữa."
Trong
lúc ăn sáng (lại vẫn không có một giọt rượu nào), nhà độc tài phải xem các thư
từ gửi đến. Khoảng ba trăm lá thư đã chờ sẵn Garin. Vừa nhai những món ăn dành
cho các vận động viên và những kẻ đức hạnh, y lấy hú họa những tấm phong bì kêu
sột soạt. Y dùng nĩa bẩn mở phong bì ra và thoáng đưa mắt đọc qua:
"Trái
tim em đập mạnh, bàn tay em run rẩy khi viết những dòng chữ này... Ngài sẽ
nghĩ gì về em? Trời ơi! Em yêu ngài. Em yêu ngài ngay từ giây phút được nhìn
thấy chân dung ngài trên báo. Em trẻ trung. Gia đình em là gia đình danh giá".
Các bức
thư thường kèm thêm ảnh. Những tấm ảnh (trong một tháng số lượng ảnh đã lên tới
vài nghìn chiếc) các cô gái miệng to, tóc dày, cặp mắt thơ ngây và cái mũi ngốc
nghếch ấy khiến Garin cảm thấy chán ngán đến phát khiếp.
Y đã đi
qua một con đường nhanh đến chóng mặt từ đảo Crextôpxki tới Oasinhtơn, từ căn
phòng lạnh lẽo trong căn nhà hẻo lánh ở khu vực Pêtơrôgrátxcaia đến chiếc ghế
chủ tọa mạ vàng ở thượng viện Hoa Kỳ, nơi mà hai mươi phút nữa y sẽ phải đến. Y
đã làm cả thế giới phải kinh hoàng, đã chiếm hữu một kho vàng vô tận trong lòng
đất, đã giành được quyền lực tầm cỡ thế giới, - y đã làm mọi việc ấy để rồi sa
vào bẫy của một cuộc sống tầm thường tẻ nhạt nhất.
- Thật
tởm!
Y vứt
khăn ăn đi, gõ tay liên tục vào bàn. Không thể nghĩ ra được gì hết. Chẳng có gì
để vươn đến nữa. Y đã leo tới đỉnh cao nhất. Đã trở thành nhà độc tài. Chẳng lẽ
lại đòi tước hiệu hoàng đế ư? Y sẽ càng khốn khổ thêm. Cuốn gói ư? Nhưng đi
đâu? Và để làm gì? Đến với Dôia ư? Chà, Dôia! Giữa ả và y đã đứt đoạn một cái
gì đó chủ yếu nhất, xuất hiện vào một đêm ẩm ướt, ấm áp, tại một nhà trọ ở
Vinlơ Đavrê. Khi ấy, giữa tiếng lá xào xạc ngoài cửa sổ, đã nảy sinh ý tưởng
ngông cuồng và toàn bộ chuyến phiêu lưu của Garin. Khi ấy, y tràn ngập niềm hân
hoan tiến công. Khi ấy, thật dễ dàng nói rằng: "Anh sẽ ném thế giới xuống
chân em". Và nay, y đã chiến thắng. Thế giới đã nằm dưới chân y. Vậy mà y,
vị chúa tể của thế giới, lại phải ăn món cháo nhạt thếch, phải vừa ngáp dài vừa
nhìn những khuôn mặt ngốc nghếch trên các tấm ảnh.
Y quay
lại hai người hầu đang kính cẩn đứng cạnh cửa. Cả hai lập tức bước tới, một
người cúi chào với vẻ dò hỏi, người kia lên tiếng.
- Xe
của ngài đã sẵn sàng.
Nhà độc
tài bước ngạo nghễ vào thượng viện. Y ngồi xuống chiếc ghế bành mạ vàng, nói
sang sảng mấy câu qui định sẵn để khai mạc phiên họp. Lông mày y dướn lên,
khuôn mặt lộ vẻ cương nghị. Hàng chục bộ máy chụp ảnh và quay phim chĩa vào y
giây phút này.
Hôm
nay, thượng viện vinh dự được trao cho nhà độc tài tước hiệu: huân tước xứ Uên
(Anh), tử tước xứ Napplơ (Ý), bá tước xứ Saclơroa (Bỉ), nam tước xứ Muynhaoden
(Đức) và đồng hoàng đế Đại Nga. Còn Hợp chủng quốc Hoa Kỳ - thật đáng tiếc, đấy
là nước dân chủ nên không có tước hiệu - thì trao cho nhà độc tài danh hiệu "Bidơman
ôphogốt" có nghĩa là "Người được thượng đế ân sủng."
Garin
cảm ơn. Y sẽ rất sung sướng nếu được nhổ toẹt vào những gã đầu hói béo phị đang
ngồi trước mặt y. Nhưng y hiểu rằng y sẽ không nhổ toẹt mà sẽ đứng dậy cảm ơn.
Từ
thượng viện, y đi thẳng đến chỗ dự tiệc.
Ngoài
phố, xe của nhà độc tài được dân chúng reo hò chào đón. Nhưng nếu nhìn kỹ thì
đấy chỉ là những đám cảnh sát và viên chức cải trang. Chà, nếu Garin không sinh
ra ở nước Nga, nếu y không trải qua cách mạng thì chắc hẳn chuyến diễu phố giữa
những tiếng tung hô nay sẽ làm y hết sức thích thú. Nhưng y đã từng trải rồi. Y
giận dữ: "Trò rẻ tiền, rẻ tiền, câm họng đi, chẳng có gì đáng sung sướng
hết!". Y xuống xe cạnh cổng tòa thị chính và hàng chục bàn tay phụ nữ (con
gái các ông vua dầu mỏ, đường sắt, đồ hộp,... ) tung hoa lên người y.
Lúc
bước lên thang, y gửi những chiếc hôn gió hết sang phải lại sang trái. Trong
phòng, âm nhạc nổi lên chào mừng con người được thượng đế ân sủng. Y ngồi
xuống, tất cả ngồi xuống theo. Bàn ăn trải khăn trắng tinh, kê thành hình chữ
"п"[1] sặc sỡ hoa và lấp lánh
pha lê. Cạnh mỗi bộ đồ ăn là mười một con dao bằng bạc và mười một chiếc dĩa
to, nhỏ khác nhau (không kể thìa, và các thứ khác). Phải cẩn thận để không lầm
lẫn khi dùng các loại dao và dĩa.
Garin
giận dữ nghiến răng kèn kẹt: quí tộc gì cái bọn này! Trong số hai trăm người
ngồi quanh bàn ăn thì ba phần tư chuyên buôn bán cá mòi ngoài phố! Nhưng mọi
cặp mắt đều hướng vào nhà độc tài và y buộc mình phải cư xử thật mẫu mực.
Sau bữa
tiệc, y đi ngay về nhà.
Tại
tiền sảnh lâu đài, y quẳng can và mũ xuống sàn khiến đám người hầu kinh hoàng
nhảy bổ đến nhặt lên, rồi y đút sâu hai tay vào túi quần, giận dữ vểnh râu,
bước theo lớp thảm lộng lẫy. Viên thư ký riêng đã chờ sẵn trong phòng làm việc
của y.
- Vào
bảy giờ tối, tại câu lạc bộ "Paxiphích" sẽ tổ chức buổi chiêu đãi có
hòa nhạc giao hưởng để chào mừng ngài.
- Được,
- Garin đáp. - Còn gì nữa không?
- Còn
vào mười một giờ hôm nay sẽ có vũ hội tại căn phòng trắng của khách sạn "Inđiana" để
chào mừng.
- Gọi
điện đến cả hai nơi đó bảo là ta bị ốm vì ăn quá nhiều cua tại tòa thị chính.
- Nhưng
tôi e rằng việc giả ốm sẽ còn gây nhiều phiền nhiễu hơn nữa: cả thành phố sẽ
lập tức đến vấn an ngài. Ngoài ra, lại còn các tay săn tin cho báo chí. Họ sẽ
tìm mọi cách vào đây bằng được, dù có phải chui qua đường ống bằng đá chăng
nữa.
- Ông
nói có lý. Ta sẽ đi vậy, - Garin bấm chuông. - Chuẩn bị buồng tắm, quần áo buổi
tối, mũ miện và huân chương cho ta.
Garin
ngồi vào bàn (bên trái là máy thu tiếng, bên phải là điện thoại, trước mặt là
micro). Y lấy một mảnh giấy trắng, chấm bút vào mực và đột nhiên trầm ngâm suy
nghĩ.
"Dôia,
- y bắt đầu viết bằng tiếng Nga, nét chữ to và rắn rỏi, -chỉ có em là người
duy nhất hiểu được ta đang đóng vai một thằng ngốc như thế nào."
Lúc tám
giờ kém mười lăm, Garin vội vã bước lại gần bàn. Y mặc lễ phục, đeo huân
chương, đeo sao và một dải băng ngoài áo gilê.
Những
tín hiệu dồn dập của chiếc máy thu bao giờ cũng bắt sẵn làn sóng điện của đảo
Vàng. Y đeo ống nghe. Giọng Dôia rõ ràng nhưng mất hết sức sống, như từ một
hành tinh khác vọng đến, nhắc đi nhắc lại bằng tiếng Nga:
-
Garin, chúng ta nguy mất... Garin, chúng ta nguy mất... Khởi nghĩa ở đảo Vàng.
Bộ máy phát tia chính đã bị chiếm... Gianxen đang ở chỗ em. Nếu may mắn thì em
và Gianxen sẽ chạy trốn trên chiếc "Aridôna".
Giọng
nói đứt quãng. Garin đứng bên bàn, để nguyên ống nghe. Viên thư ký riêng cầm
sẵn mũ và can của Garin, đứng chờ cạnh cửa. Và chiếc máy thu lại đã bắt đầu
phát tín hiệu. Nhưng một giọng khác, một giọng đàn ông, mạnh mẽ, cất tiếng nói
bằng tiếng Anh:
"Hỡi
nhân dân lao động toàn thế giới! Các bạn đều đã biết quy mô và hậu quả của cơn
kinh hoàng đang bao trùm nước Mỹ..."
Sau khi
nghe hết lời kêu gọi của Senga, Garin gỡ ống nghe. Y thong thả, nhếch mép cười,
châm thuốc hút. Rồi y rút trong ngăn kéo ra một tập giấy bạc một trăm đô la
cùng một bộ máy mạ kền hình khẩu súng lục nòng to: đây là bộ máy phát tia bỏ
túi, phát minh mới nhất của y. Y cau mày ra hiệu gọi viên thư ký riêng lại gần.
Lần đầu
tiên trong suốt thời gian ấy, viên thư ký trố mắt, đôi mắt màu nâu, nhìn chòng
chọc vào Garin:
- Nhưng
thưa ngài...
- Im!
Truyền đạt ngay lập tức cho tư lệnh thành phố, thống đốc thành phố và giới chức
chính quyền là từ bảy giờ sẽ ban hành lệnh giới nghiêm. Phương sách duy nhất để
dập tắt rối loạn trong thành phố là thẳng tay bắn hàng loạt.
Viên
thư ký biến mất sau cửa.
Garin
bước lại gần chiếc gương ba mặt. Y đeo huân chương và đeo sao, tái nhợt như
hình nhân bằng sáp. Y soi mình hồi lâu trong gương, đột nhiên một mắt y cứ tự
nháy nháy đầy giễu cợt. "Chuồn thôi, Garin, chuồn cho thật mau thôi",
- y thầm thì tự nhủ.
117
Những
biến cố trên đảo Vàng bắt đầu từ tối hai mươi ba tháng sáu. Biển động suốt
ngày. Những đám mây dông bão kéo đến từ mạn Tây Nam. Bầu trời như nứt nẻ vì những làn chớp lửa ngoằn ngoèo. Tại
cảng, đối diện với lâu đài, chiếc "Aridôna" đơn độc ngả nghiêng trên
các đợt sóng.
Số dân
trên đảo giảm đi rõ rệt trong thời gian gần đây. Công việc ở giếng mỏ tạm thời
đình lại. Trong số sáu nghìn công nhân, chỉ còn lại ngót năm trăm.
Bọn
cảnh sát chẳng có việc gì làm trên mảnh đất nhỏ bé này. Chúng bắt đầu đâm rượu
chè và buồn nhớ những thành phố lớn, những tiệm ăn xa hoa. Chúng xin nghỉ phép,
đe dọa sẽ nổi loạn. Nhưng Garin nghiêm khắc ra lệnh: không có nghỉ phép, không
có chuyện thôi việc gì hết. Các doanh trại cảnh sát là mục tiêu thường xuyên
nhằm vào của bộ máy phát tia chính.
Trong
các doanh trại diễn ra cảnh chơi bời dữ dội. Người ta sát phạt nhau không phải
để lấy vàng (vàng chất đống gần đấy đã khiến ai nấy phát ngán đến tận cổ) mà là
để lấy vũ khí, những tẩu thuốc đã lâu đời hoặc chai rượu cônhắc lâu năm. Đến
tối thì cả doanh trại thường say bí tỉ. Viên tướng Xúpbôtin phải vất vả lắm mới
duy trì được một thứ kỷ luật hết sức lỏng lẻo.
Không
một biện pháp nào còn tác dụng. Nhưng chưa bao giờ tình trạng say sưa rượu chè
lại ghê gớm như vào ngày dông bão hai mươi ba tháng sáu. Tướng Xúpbôtin quát
tháo khản cả giọng, nhưng rồi cũng thây kệ tất và chính y cũng say bí tỉ nốt.
Trinh
sát của ủy ban Cách mạng (chú bé Ivan) thông báo về tình hình tồi tệ của kẻ
địch trong các doanh trại. Vào lúc bảy giờ tối, Senga cùng năm người thợ mỏ lực
lưỡng đến trạm gác và gây chuyện cãi lộn với hai tên lính gác đang ngà ngà say
đứng cạnh giá súng. Hai tên này mất cảnh giác, lại bị tiến công bất ngờ nên lập
tức bị tước vũ khí và bị trói gô lại. Senga chiếm được một trăm khẩu súng. Số
súng ấy lập tức được phân phát cho anh em công nhân đang nấp sau các bụi cây và
bò tới gần từ cột đèn này đến cột đèn khác.
Một
trăm nghĩa quân xông vào các trại lính. Bắt đầu cảnh rối loạn cực kỳ hỗn độn,
bọn cảnh sát kháng cự bằng chai, bằng ghế đẩu rồi tạm thời lùi bước, tổ chức
lại đội ngũ và bắn trả. Trên các cầu thang, trong các hành lang và trong các
buồng ngủ đều diễn ra những trận đánh nhau. Hai bên đánh giáp lá cà. Từ các ô
cửa sổ vỡ nát vọng ra những tiếng gào thét man rợ. Bên tiến công tuy ít người
(một người phải chọi với năm), nhưng họ đã đánh bọn cảnh sát nhu nhược bằng các
dây xích, bằng các nắm đấm nổi đầy chai. Lực lượng tiếp viện chạy đến. Bọn cảnh
sát bắt đầu nhảy qua cửa sổ ra ngoài. Một vài chỗ bùng lên các đám cháy, doanh
trại ngập trong khói lửa.
118
Gianxen
chạy qua những căn phòng trống trải, tối tăm của lâu đài. Thỉnh thoảng y hối hả
gọi Dôia rồi lắng nghe trong tâm trạng lo lắng đầy kinh hoàng.
Y chạy
xuống dưới, nơi vọng lên tiếng súng và tiếng la hét. Y ngó đầu nhìn vào bên
trong khu vườn. Vắng vẻ, không một bóng người. Ở phía đối diện, dưới chiếc cổng
vòm quấn dây leo, có nhiều người đang phá cổng. Bà Lamôlơ chạy trốn rồi ư? Hay
bị giết chết rồi?
Y mở hú
họa một cánh cửa nào đấy rồi bước vào. Đấy là phòng làm việc của Garin. Trên
thảm lăn lóc một chiếc khăn tay vo tròn lại. Gianxen nhặt lên, cảm thấy thơm
mùi nước hoa của bà Lamôlơ. Y chợt nhó rằng từ phòng làm việc này có một đường
ngầm dẫn đến thang máy của bộ máy phát tia chính nên chắc hẳn quanh đây phải có
một cửa bí mật. Dĩ nhiên là khi những phát súng đầu tiên vừa vang lên thì bà
Lamôlơ phải lao lên tháp rồi, - làm sao lại không đoán ra ngay như thế nhỉ?
Y nhìn
quanh, tìm cánh cửa bí mật. Nhưng bỗng vang lên tiếng kính vỡ, tiếng chân người
và bên kia tường có tiếng lao xao gọi nhau. Những kẻ nổi loạn đã xộc vào lâu
đài. Vậy thì bà Lamôlơ đã chậm chân hay sao? Y nhẩy tới cửa và khóa lại, rút
súng lục ra. Hình như cả lâu đài đều ngập chìm trong tiếng chân người và những
tiếng la hét.
-
Gianxen!
Đứng
trước mặt y là Dôia. Đôi môi nhợt nhạt của ả mấp máy, nhưng y không nghe thấy
gì hết. Y thở hổn hển nhìn ả.
- Chúng
ta chết mất, Gianxen, chúng ta chết mất! - ả nhắc lại.
Ả mặc
chiếc áo dài đen. Đôi tay hẹp nắm chắc lại của ả áp vào ngực. Mắt nhớn nhác, ả
nói:
- Thang
máy của bộ máy phát tia chính không hoạt động, buồng thang máy ở trên đỉnh.
Trên tháp có một người nào đó. Chúng đã từ bên ngoài leo lên theo các thanh xà.
Tôi tin rằng đấy là thằng bé Ivan...
Ả bẻ
ngón tay răng rắc, nhìn ra cửa. Lông mày ả nhíu lại. Ngoài cửa, hàng chục bước
chân chạy rầm rập. Rồi vang lên tiếng la hét, tiếng súng nổ gấp. Dôia lanh lẹn
ngồi vào bàn, mở cầu dao phát tín hiệu.
Một
phút sau, cửa ra vào rung chuyển dưới những tiếng đấm tay và đạp chân.
- Mở
cửa ra! Mở ngay ra! - nhiều giọng nói quát to.
Dôia
nắm lấy tay Gianxen kéo đến tường và ấn chân vào một vòng hoa văn trang trí
ngay sát sàn nhà. Một tấm panen lặng lẽ mở ra. Dôia và Gianxen bước qua lỗ cửa
bí mật đó xuống đường ngầm. Tấm panen lại trở về vị trí cũ.
Ngoài
bến, chiếc canô được neo lại bằng xích. Gianxen đút nòng súng lục vào vòng, cố
bẻ gẫy khóa. Phía trên, trên hàng hiên, cửa mở toang và một toán người vũ trang
xuất hiện. Gianxen vứt súng lục đi, nắm lấy đoạn gốc xích. Bắp thịt y nổi cuồn
cuộn, cổ phồng lên, móc cài trên cổ áo đứt phựt. Đột nhiên, động cơ đã mở được
kêu ròn rã. Đám người trên hàng hiên chạy theo bậc thang xuống dưới và vừa vung
vũ khí vừa hét to: "Dừng lại! Dừng lại!".
Bằng
một nỗ lực cuối cùng, Gianxen giật tung sợi xích, đẩy chiếc ca nô ra xa và bò
theo thành ca nô đến chỗ lái.
Sau khi
ngoặc một vòng gấp, chiếc ca nô lao vụt đi. Nhiều phát súng bắn đuổi theo.
- Thang
đâu? Đồ quỷ sứ! - Gianxen quát to trên chiếc ca nô đang bập bềnh bên dưới thành
du thuyền "Aridôna". - Thuyền phó đâu? Ngủ chắc? Ta sẽ treo cổ!
- Tôi
đây, thưa thuyền trưởng!
- Chặt
đứt dây cáp! Mở máy động cơ! Tắt đèn đi!
- Xin
tuân lệnh!
Dôia là
người đầu tiên bước lên chiếc "Aridôna". Khom người qua thành tàu, ả
thấy Gianxen cố đứng dậy rồi lại ngã xuống, mặt nhăn lại vì đau đớn.
-
Gianxen, ông làm sao thế?
- Tôi
bị thương.
Bốn
thủy thủ nhày xuống canô, dìu Gianxen lên. Y ngã ngất đi và được đưa vào buồng.
Chiếc
"Aridôna" rẽ sóng, phóng hết tốc lực rời khỏi đảo vàng. Viên thuyền
phó đảm nhận nhiệm vụ chỉ huy. Dôia đứng trên cầu chỉ huy, cạnh viên thuyền
phó, tay bíu chặt vào lan can. Nước chảy từ mặt ả xuống, chiếc áo bó chặt lấy
người ả. Ả nhìn ánh hồng mỗi lúc một rực rỡ (các doanh trại bốc cháy) và những
làn khói đen cuồn cuộn bốc lên che kín hòn đảo. Nhưng rồi, hình như ả nhận thấy
một chuyện gì đó, ả nắm lấy tay áo viên thuyền phó.
- Quay
về mạn Tây - Nam.
- Có đá
ngầm, thưa bà.
- Im
đi, không phải việc của ông!... Luôn luôn cho thuyền chạy ở mạn trái đảo.
Ả chạy
lên chiếc tháp nhỏ có đặt bộ máy phát tia.
Trên
đảo, mãi tít bên trên đám khói lửa, lấp lánh một ngôi sao chói lọi - đấy là bộ
máy phát tia chính đang săn lùng chiếc "Aridôna".
Dôia
quyết định chiến đấu, dù sao cũng không tài nào thoát khỏi tia sáng có khả năng
khống chế nhiều hải lý đang phát ra từ ngọn tháp kia. Tia sáng lúc đầu lồng lộn
trên các ngôi sao rồi chúc xuống đường chân trời, chỉ trong vài giây đã vẽ nên
một vòng tròn chu vi bốn cây số. Nhưng giờ đây, nó kiên nhẫn sục sạo khu vực
phía Tây đại dương, lướt trên các ngọn sóng, để lại dấu vết là những cột hơi
nước nghi ngút.
Chiếc
"Aridôna" chạy hết tốc lực dọc theo đảo Vàng. Nhưng một lần, khi nó
cưỡi lên một ngọn sóng thì trên đảo đã nhận thấy nó. Tia sáng trắng chói lóa
nhảy nhót quanh nó, lượn ngoằn ngoèo từ trên xuống dưới, xích lại gần, lúc thì
đằng sau, lúc thì đằng trước.
Dôia
cảm thấy ngôi sao chói lọi kia như chiếu thẳng vào mặt ả, và à cố hướng nòng bộ
máy phát tia vào ngôi sao trên ngọn tháp đằng xa. Động cơ chiếc
"Aridôna" gầm rít dữ dội, đuôi thuyền lộ ra, mũi chiếc thuyền bắt đầu
chúc xuống, trườn theo lưng sóng. Đúng lúc đó, tia sáng kia bắt được mục tiêu,
nó run rẩy như ướm thử rồi không do dự, chiếu thẳng vào thân chiếc du thuyền.
Dôia nhắm mắt lại. Chắc hẳn, tất cả những ai có mặt trên boong và chứng kiến
cuộc chiến đấu sống mái này, đều thấy tim mình như ngừng đập.
Khi
Dôia mở mắt ra, trước mặt ả là một bức tường nước, là vực thẳm mà chiếc
"Aridôna" trượt xuống. "Vẫn chưa chết", - ả thầm nghĩ. Ả
rời tay khỏi bộ máy phát tia và kiệt sức buông thõng tay xuống.
Khi
chiếc "Aridôna" lại cưỡi lên một đợt sóng, ả mới hiểu là tại sao ả
thoát chết. Những đám khói lớn, dày đặc, bao phủ cả hòn đảo và ngọn tháp - chắc
là các bể chứa dầu bị nổ tung. Sau màn khói như vậy, chiếc "Aridôna"
có thể bình tĩnh trốn thoát.
Chiếc
du thuyền tiến về hướng Tây - Bắc. Gió đã yếu đi, nhưng biển vẫn chưa yên hẳn.
Mỗi ngày, chiếc "Aridôna" phát đi nhiều lần những tín hiệu qui ước để
tìm cách bắt liên lạc với Garin, và hàng chục vạn đài phát thanh trên khắp thế
giới nghe thấy giọng nói của Dôia: "Phải làm gì, phải đi đâu bây giờ? Du
thuyền đang ở tọa độ như thế này... Chờ mệnh lệnh".
Những
con tàu xuyên đại dương khi bắt được tín hiệu ấy liền vội vã tránh xa địa điểm
khủng khiếp, nơi lại xuất hiện chiếc "Aridôna" - "mối đe dọa của
biển cả".
119
Những
đám khói dầu hỏa cháy ngùn ngụt bốc lên, phủ kín đảo Vàng. Sau cơn dông bão là
những giờ phút tĩnh mịch, và làn khói đen tỏa lên bầu trời trong trẻo, hắt
xuống mặt biển một bóng đen khổng lồ rộng vài cây số.
Hòn đảo
dường như hoang tàn, chỉ ở phía mỏ là những gầu xúc của các máy nâng vẫn không
ngừng kêu ken két như thường lệ.
Sau đó,
giữa không khí yên tĩnh bỗng vang lên tiếng nhạc: một điệu hành khúc chậm,
trang trọng. Qua màn khói, có thể nhìn thấy khoảng hai trăm người: họ ngẩng đầu
bước, nét mặt nghiêm nghị và quả quyết. Phía trước, bốn người khiêng một vật gì
đó phủ lá cờ đỏ. Họ trèo lên núi đá, nơi sừng sững ngọn tháp có đặt bộ máy phát
tia chính, và khi đến chân núi thì từ phía trên hạ xuống một bọc dài.
Đây là
thi hài chú Ivan. Em hy sinh hôm qua, trong lúc chiến đấu với chiếc
"Aridôna". Sau khi khéo léo trèo lên đỉnh tháp, em mở bộ máy phóng
tia chính và sục sạo tìm chiếc "Aridôna" giữa những đợt sóng lớn.
Sau một
hồi tìm kiếm, em bắt được mục tiêu. Em chiếu tia sáng hết đằng trước lại đằng
sau chiếc "Aridôna" để điều chỉnh cho chính xác. Đột nhiên, tia sáng
từ chiếc "Aridôna" biến thành ngôi sao chói lóa và lấp lánh, đâm vào
mắt em. Bị tia sáng xuyên qua người, em ngã vào bộ máy phát tia chính...
- Ivan
yêu quí, em đã hy sinh anh dũng, và em hãy yên giấc nhé, - Senga nói. Anh quỳ
xuống trước thi hài chú bé, lật mép lá cờ ra và hôn vào trán em.
Kèn
đồng nổi lên và hai trăm người cất tiếng hát bài "Quốc tế ca".
Ít lâu
sau, một chiếc máy bay bay vụt ra khỏi các cột khói. Nó tăng tốc rồi quay về
phía Tây...
120
- Thưa
ngài, tất cả mệnh lệnh của ngài đã được thực hiện...
Garin
khóa trái cửa ra vào, bước lại gần tủ sách và đưa tay sang bên phải tủ.
Viên
thư ký nhếch mép cười.
- Nút
ấn cửa bí mật ở bên trái kia, thưa ngài...
Garin
thoáng nhìn viên thư ký với vẻ lạ lùng và ấn nút. Chiếc tủ sách lặng lẽ dịch
sang bên, để lộ một lối đi hẹp dẫn đến khu phòng bí mật của lâu đài.
- Xin
mời ông, - Garin vừa nói vừa ra hiệu cho viên thư ký đi trước. Mặt viên thư ký
tái nhợt đi. Với vẻ lịch thiệp lạnh như băng, Garin giơ khẩu súng lục lên, chĩa
vào trán viên thư ký. - Thưa ông thư ký, phục tùng là khôn ngoan hơn...
[1] Chữ “P” Nga, tức là
chữ đầu tên của Piốt Garin - N.D.
121
Cửa
phòng thuyền trưởng mở toang. Gianxen nằm trên giường.
Mong
muốn của Gianxen đã được thực hiện - y lại ở giữa đại dương, lại một mình với
bà Lamôlơ. Y biết rằng y sắp chết. Suốt mấy ngày nay y vật lộn với cuộc sống -
một viên đạn xuyên qua bụng y - và nay, cuối cùng y đã dịu đi. Y nhìn những
ngôi sao qua chiếc cửa mở.
Bỗng
một bóng đen che mờ các ngôi sao và Dôia bước vào. Ả cúi xuống hỏi thăm sức
khỏe của Gianxen. Y nhấp nháy mí mắt đáp lại, và Dôia hiểu rằng y muốn nói:
"Anh rất hạnh phúc, em đang ở bên anh". Khi ngực y giần giật mấy lần
để hít không khí, ả ngồi cạnh giường y và ngồi im, không nhúc nhích. Chắc hẳn
những ý nghĩ buồn bã đang ám ảnh đầu óc ả.
- Anh
bạn thân mến, anh bạn duy nhất của tôi, - ả khẽ nói với vẻ tuyệt vọng âm thầm,
- anh là người duy nhất trên đời này yêu quí tôi. Anh sẽ chết mất... Ôi, lạnh quá...
Gianxen
không trả lời, chỉ có mí mắt động đậy, dường như muốn xác định rằng y đang cảm
thấy lạnh dần... Ả nhìn thấy mũi y nhọn lại và miệng y hé ra thành một nụ cười
yếu ớt. Khuôn mặt y mới đấy thôi còn hồng hào đầy sức sống thì nay đã tựa như
bằng sáp. Ả chờ đợi thêm nhiều phút nữa rồi chạm môi vào tay y. Nhưng y vẫn
chưa chết. Y chầm chậm hé mở mắt, mấp máy môi. Dôia cảm thấy như y nói:
"Tốt quá..."
Sau đó,
mặt y biến đổi hẳn. Ả quay đi và thận trọng kéo rèm cửa.
122
Viên
thư ký - con người thanh nhã nhất nước Mỹ - nằm sấp mặt, những ngón tay cứng đờ
bám vào thảm: hắn chết ngay tức khắc, không kịp kêu một tiếng. Garin vừa cắn
cắn đôi môi run rẩy vừa từ từ đút vào túi khẩu súng lục phát tia. Rồi y bước
đến cánh cửa thép thấp lè tè. Y quay trên chiếc đĩa đồng một tập hợp con số mà
chỉ riêng y biết - cửa lập tức mở toang. Y vào trong căn phòng kín mít, không
có cửa sổ, xây bằng bê tông cốt sắt.
Đấy là
một loại tủ sắt riêng của nhà độc tài. Nhưng ở đấy không có vàng, cũng không có
giấy tờ gì hết mà có một thứ quí giá hơn nhiều đối với Garin: một kẻ thứ ba
giống hệt y, được y đem theo từ Châu Âu, lúc đầu bí mật giấu ở đảo Vàng rồi ở
đây, trong căn phòng bí mật này của lâu đài. Kẻ thứ ba giống hệt y này là nam
tước Coócphơ, một dân lưu vong người Nga đã bán mình để lấy một món tiền lớn.
- Vậy
là rốt cuộc ông đã đến, - nam tước Coócphơ thốt lên và lười nhác quay về phía
Garin. - Quỷ tha ma bắt ông đi, ông biến đâu vậy?... Ông còn định giam hãm tôi
trong cái nhà mồ này bao lâu nữa? Thà tôi chết đói ở Pari còn hơn...
Garin
không đáp, y giật dải băng và quẳng đi bộ lễ phục cùng với mớ huân chương, huy
chương.
- Ông
cởi quần áo ra.
- Để
làm gì? - nam tước Coócphơ tò mò hỏi.
- Đưa
quần áo của ông cho tôi.
- Có
chuyện gì thế?
- Đưa
cả hộ chiếu và mọi giấy tờ nữa... Bộ đồ cạo râu của ông đâu?
Garin
ngồi vào chiếc bàn trang điểm. Y không sát xà phòng vào mặt, nhanh chóng cạo
râu ria, mặt nhăn lại vì đau đớn.
- Trong
phòng bên cạnh có một người đang nằm. Ông phải nhớ rằng đó là viên thư ký riêng
của ông. Nếu hắn bị bắt, ông có thể bảo rằng ông đã phái hắn đi làm một nhiệm
vụ bí mật... Ông hiểu chứ?
- Có
chuyện gì đấy ông? - nam tước Coócphơ vừa hỏi to vừa bắt lấy chiếc quần Garin
quăng đến.
- Từ
đây tôi sẽ theo lối bí mật vào công viên, đến chỗ chiếc xe của tôi. Ông sẽ giấu
viên thư ký vào lò sưởi và sang phòng làm việc của tôi. Sau đó ông lập tức gọi
điện cho Rôlinh. Tôi hy vọng là ông nhớ rõ toàn bộ cơ chế nền độc tài của tôi
chứ? Đầu tiên là tôi, rồi đến phó thứ nhất của tôi - giám đốc cảnh sát bí mật,
rồi đến viên phó thứ hai của tôi - trưởng ban tuyên truyền, rồi đến viên phó
thứ ba của tôi - trưởng ban khiêu khích. Rồi đến hội đồng bí mật ba trăm người,
đứng đầu là Rôlinh... Ông cởi quần mau lên chứ!... Ông hãy gọi điện cho Rôlinh
bảo rằng ông, tức là Piốt Garin, sẽ đứng đầu quân đội và cảnh sát. Ông sẽ phải
chiến đấu dữ dội đấy, ông bạn thân mến ạ... Còn tôi thì chuồn đây.
123
Khi
Garin ngồi một mình trên chiếc xe bịt kín và phóng như bay qua những đường phố
trung tâm thì y hiểu ngay rằng y đã bỏ chạy kịp thời. Tại các khu công nhân và
các vùng ngoại ô, hàng chục vạn người đổ ra đường... Đây đó đã tung bay những
lá cờ cách mạng. Trên các phố xá vội vã dựng lên những chiến lũy bằng ô tô bị
lật nhào, bằng đồ đạc ném qua cửa sổ, bằng cột đèn, bằng cánh cửa, bằng chấn
song...
Con mắt
giàu kinh nghiệm của Garin nhận thấy công nhân được vũ trang đầy đủ... Trên các
xe tải lướt qua các đám đông, chất đầy lựu đạn, và các loại súng... Rõ ràng đây
là bàn tay của Senga.
Giá như
trước đây mấy tiếng đồng hồ, hẳn Garin đã cương quyết ra lệnh tung quân đội đàn
áp những người khởi nghĩa. Nhưng lúc này y chỉ bực dọc đạp mạnh chân ga. Chiếc
xe lao vùn vụt giữa những tiếng hô và những lời nguyền rủa: "Đả đảo tên
độc tài! Đả đảo hội đồng ba trăm người!"
Máy
phát tia nằm trong tay Senga. Mọi người đều biết rõ điều đó, những người khởi
nghĩa đã tuyên bố ầm lên như vậy. Senga đang lãnh đạo cuộc cách mạng như một
người chỉ huy dàn nhạc đang điều khiển bản hợp xướng anh hùng.
Loa
phóng thanh đặt khắp mọi nơi theo lệnh của Garin trước đây, trong thời kỳ bán
vàng, nay chống lại chính y, đang loan báo cho toàn thế giới biết về cuộc tổng
khởi nghĩa.
Ngược
với mọi sự chờ đợi của Garin, nam tước Coócphơ, kẻ giống hệt Garin, bắt đầu
hành động một cách kiên quyết và thậm chí, còn có kết quả nữa. Những đội quân
tinh nhuệ của y tiến công các chiến lũy. Kỵ binh xéo chết nhiều người trên các
ngã tư. Những toán quân đặc biệt bẻ gãy các khóa cửa, xông vào nhà các công
nhân, thẳng tay bắn giết.
Nhưng
những người khởi nghĩa bền bỉ chiến đấu. Tại các thành phố khác, tại các trung
tâm công nghiệp lớn, họ kiên quyết chuyển sang tiến công. Đến trưa thì cả nước
đã vùng dậy khởi nghĩa...
Garin
cho xe chạy hết tốc lực, lao băng băng qua các thị trấn, đè chết lợn, gà,
chó... Thỉnh thoàng y chỉ dừng lại vài phút để lấy xăng, đổ nước lạnh vào bộ
chế hòa khí... Y chạy suốt đêm.
Vào năm
giờ sáng hôm sau, xe y bị nã súng...
Vào bảy
giờ sáng, khi lướt qua một thị trấn nào đó, y nhìn thấy những lá cờ cách mạng
và những đám người đang cất tiếng hát...
Y chạy
trốn suốt hôm sau về phía Tây, về phía bờ biển Thái Bình Dương. Lúc tảng sáng,
khi tiếp xăng, y nghe thấy giọng nói quen thuộc của Senga phát ra từ loa phóng
thanh.
- Thắng
lợi, thắng lợi rồi... Thưa các đồng chí, trong tay tôi là thứ vũ khí ghê gớm
của cách mạng - bộ máy phát tia khủng khiếp...
Garin
nghiến răng, không nghe hết, cho xe lao đi tiếp. Lúc mười giờ sáng, y thấy tấm
biểu ngữ đầu tiên ở vệ đường với những dòng chữ in đậm:
"... Các đồng
chí... Tên độc tài
đã bị bắt sống. Nhưng đó chỉ là kẻ giống hệt Garin... Garin đã
trốn mất. Y đang chạy sang phía tây... Các đồng chí, hãy cảnh giác,
hãy bắt giữ chiếc xe của tên độc tài... (Ghi rõ đặc điểm). Garin
không được phép thoát khỏi tòa án cách mạng...".
Đến
giữa trưa, Garin phát hiện thấy một chiếc mô tô đang đuổi theo. Y không nghe
thấy tiếng súng, nhưng cách đầu y mười phân, kính xe bị một viên đạn bắn thủng.
Y cảm thấy lạnh gáy. Y dận hết ga, phóng ra sau một quả đồi, ngoắt về phía
những ngọn núi rậm rạm cây cối. Một giờ sau, xe y lao vào khe núi. Động cơ bắt
đầu trục trặc và im bặt. Garin nhảy ra, vặn tay lái, đẩy xe lăn xuống vực, rồi
vất vả lê bước, leo theo triền dốc dựng đứng về phía rừng thông.
Từ trên
cao y nhìn thấy ba chiếc mô tô phóng vùn vụt trên đường cái. Chiếc cuối cùng
dừng lại. Một người cởi trần, đeo súng, nhảy khỏi mô tô và cúi người bên vực
thẳm, nơi chiếc xe vỡ tan của tên độc tài đang lăn xuống.
Đến
ngày thứ tư, y đã cuốc bộ đến một xóm hẻo lánh ven biển, gần Lốt Angơlét. Tại
đây, chiếc khí cầu riêng của y đã chờ sẵn.
Bình
minh bừng dậy trên bầu trời không một gợn mây. Làn hơi nước hồng hồng tỏa lan
khắp mặt biển. Garin cúi người qua cửa sổ khí cầu máy, nhìn qua ống nhòm và vất
vả lắm mới thấy mặt bên dưới là chiếc du thuyền "Aridôna" nhỏ như một
mảnh vỏ sò.
Chiếc
khí cầu máy bắt đầu hạ thấp. Toàn thân nó lấp lánh ánh nắng. Trên du thuyền đã
nhận thấy nó và kéo cờ lên. Khi khí cầu máy chạm vào mặt nước thì từ du thuyền
có một chiếc xuồng tách ra. Ngồi trên tay lái là Dôia. Garin vất vả mới nhận ra
ả - mặt ả hốc hác hẳn đi. Y nhảy xuống xuồng, vừa mỉm cười như không có chuyện
gì xảy ra vừa ngồi xuống cạnh Dôia và vỗ vào tay ả.
- Anh
rất mừng được gặp em. Đừng buồn, con mèo nhỏ của anh ạ. Thua keo này ta bày keo
khác chứ lo gì... Sao em lại có vẻ thất vọng thế?
Dôia
cau mày quay đi để khỏi nhìn thấy mặt y.
- Em
vừa chôn cất Gianxen xong. Em mệt lắm rồi. Bây giờ em chẳng thiết gì nữa.
Vầng
mặt trời to tướng hiện lên từ chân trời, và sương mù tan đi như một ảo ảnh.
Dải ánh
nắng rộng trải dài, lấp lánh, và trên đó hiện lên đen đen ba chiếc cột buồm
nghiêng và mấy ngọn tháp có chấn song bít kín của chiếc "Aridônna".
- Tắm
rửa, ăn sáng và đi ngủ đã - Garin nói.
Chiếc
"Aridônna" quay mũi về phía đảo Vàng. Garin quyết định giáng một đòn
vào tận trái tim những người khởi nghĩa, chiếm lấy bộ máy phát tia chính và
giếng mỏ. Y tự tin, kiên quyết và vui vẻ - tâm trạng sảng khoái đã trở lại với
y.
Sáng
hôm sau, viên thuyền phó chịu trách nhiệm chỉ huy con tàu sau khi Gianxen chết,
lo lắng chỉ những đám mây khí quyển. Chúng nhanh chóng kéo đến từ phía Tây, phủ
kín bầu trời tại một độ cao chừng mười cây số. Cơn dông và có lẽ là cơn bão
biển lớn tiến lại gần.
Đang
miên man suy nghĩ, tính toán, Garin đuổi viên thuyền trưởng đi.
- Bão
biển thì đã sao, chuyện vặt. Tăng tốc độ lên...
Từ cầu
chỉ huy, viên thuyền trưởng rầu rĩ nhìn bầu trời đang phủ đầy mây đen. Y ra
lệnh bịt kín các cửa mạn, neo chặt xuồng và tất cả những gì có thể bị cuốn đi.
Đại
dương tối sầm lại. Gió ào đến từng cơn, gầm rít, báo trước cho các thủy thủ về
tai họa sắp đến. Biển nổi sóng dữ dội.
Rồi từ
mạn Đông, một đám mây đen lớn, nặng nề, lan dần tới. Những cơn gió trở nên hung
dữ hơn, sóng tràn qua boong du thuyền. Sóng nổi lên cao ngất.
Viên
thuyền trưởng bảo Dôia và Garin:
- Ông
bà xuống dưới đi. Mười lăm phút nữa chúng ta sẽ ở trung tâm cơn bão. Các động
cơ không cứu nổi chúng ta đâu.
Cơn bão
ập xuống chiếc "Aridôna" với tất cả sự ghê gớm của cơn bão cấp mười
một. Chiếc du thuyền bị vùi lấp giữa các cột sóng, nghiêng hẳn đi, đáy lộ ra
đến tận sống đuôi, không thể điều khiển được nữa, bị cuốn băng băng theo những
vòng của một hình xoắn ốc ngày càng thu hẹp về phía trung tâm cơn bão hay
"mắt bão" như các thủy thủ thường gọi.
Những
đám mây đen chạm đến boong du thuyền. Trời tối đen như mực. Thành du thuyền kêu
răng rắc. Mọi người phải bám vào bất kỳ thứ gì vớ được để khỏi bị tan xương.
Chiếc
"Aridôna" bị hất tung lên đỉnh các ngọn sóng, lật nghiêng rồi ném
xuống vực thẳm. Đột nhiên mặt trời chói lòa hiện ra, trời im gió một thoáng
lát, và những đợt sóng trong xanh, lấp lánh như bằng thủy tinh lỏng, cao bằng
tòa nhà mười tầng, đập vào nhau, phát ra những tiếng ầm inh tai nhức óc, dường
như thần Hải Vương đang giận dữ vỗ tay...
Đó
chính là "mắt bão", nơi nguy hiểm nhất của cơn bão. Trên boong chiếc
"Aridôna", mọi thứ đều bị cuốn sạch: mấy chiếc xuồng, cả hai ngọn
tháp có đặt bộ máy phát tia, các ống khói và cầu chỉ huy cùng với viên thuyền
trưởng...
Động cơ
bị cháy hỏng, tay lái bị gãy.
- Em
không thể chịu nổi nữa, - Dôia rên rỉ.
- Rồi
sẽ kết thúc chứ... Chà, thật ma quỷ! - Garin khàn khàn trả lời.
Cả hai
bị tơi tả, bị đau đớn vì va đập liên tục vào tường, vào bàn ghế, giường tủ.
Trán Garin nứt toác. Dôia nằm trên sàn, bíu chặt vào chân chiếc giường bắt chặt
bằng vít. Lăn đi lăn lại trên sàn cùng với người là vali, các cuốn sách đổ ra
từ trong tủ, gối đệm, cam, bát đĩa vỡ...
-
Garin, em không thể chịu nổi nữa, quăng em xuống biển đi.
Một cú
giật khủng khiếp hất Dôia ra khỏi giường, lăn tròn đi. Garin ngã lộn nhào qua
người ả, đập vào cửa.
Vang
lên tiếng răng rắc dữ dội. Nước đổ ào ào xuống. Tiếng người la thét. Căn phòng
vỡ làm đôi. Một đợt sóng mạnh cuốn Garin và Dôia đi, ném xuống vực nước ngầu
bọt...
Khi
Garin mở mắt ra, cách mũi y mười phân là một con tôm nhỏ ẩn dật, náu một nửa
mình trong chiếc vỏ sò óng ánh, đang giương mắt nhìn và ngạc nhiên vẫy vẫy râu.
Garin cố gắng lắm mới hiểu: "Vậy là ta sống sót...". Nhưng y hồi lâu
vẫn chưa gượng dậy nổi. Y nằm nghiêng trên cát. Tay phải y bị thương. Nhăn mặt
vì đau đớn, y cố co chân lại, ngồi dậy.
Cách
không xa là một cây cọ đứng cong tấm thân mảnh dẻ, làn gió mát thổi xào xạc vẫy
lá... Garin đứng lên, lảo đảo bước đi. Khắp xung quanh, dù y có nhìn đâu chăng
nữa, vẫn chỉ thấy những làn sóng rực rỡ ánh nắng lan đến, ào ào đập vào dải bờ
thấp... Vài chục cây cọ tỏa những tàn lá rộng như hình nan quạt trước gió. Rải
rác đây đó trên cát là những mảnh gỗ, những thùng hòm, những mảnh vải và dây
cáp... Đó là tất cả những gì còn sót lại của chiếc "Aridôna" bị vỡ
tan cùng đoàn thủy thủ khi va vào những tảng đá ngầm của đảo san hô.
Garin
khập khiễng đi sâu vào đảo, nơi những chỗ cao hơn phủ đầy các bụi cây thấp và
cỏ xanh rờn. Dôia nằm ngửa ở đó, dang hai tay ra. Garin ngồi xuống bên cạnh,
không dám đụng vào người ả để khỏi cảm thấy hơi lạnh của cái chết. Nhưng Dôia
vẫn sống, mí mắt ả giật giật, đôi môi khô khốc mấp máp.
Trên
hòn đảo san hô này có một hồ nước mưa, tuy hơi mằn mặn nhưng vẫn uống được.
Trên các bãi bồi là sò, hến, thủy tức, tôm nhỏ, tóm lại là tất cả những gì mà
khi xưa đã dùng làm thức ăn cho người nguyên thủy, lá cọ có thể dùng làm quần
áo và vật che nắng ban trưa.
Hai kẻ
trần truồng bị ném lên mảnh đất trơ trụi vẫn có thể sống lay lắt qua ngày... Và
chúng bắt đầu sống trên hòn đảo heo hút giữa Thái Bình Dương này. Thậm chí,
cũng không hề có hy vọng là một con tàu nào đó chạy qua, nhận thấy chúng và đưa
lên tàu nữa.
Garin
chuyên bắt sò hến và dùng áo bắt cá trong hồ nước ngọt. Dôia tìm thấy trong một
chiếc hòm bị ném lên bờ từ chiếc "Aridôna" có năm mươi bản cuốn sách
in lòe loẹt các bản vẽ hệ thống lâu đài và những khu nhà giải trí trên đảo
Vàng. Ở đó cũng có những bản đạo luật và bản qui định nghi thức trong cung của
bà Lamôlơ, nữ chúa tể thế giới...
Suốt
ngày này sang ngày khác, dưới bóng lều dựng bằng lá cọ, Dôia lật giở từng trang
cuốn sách này, cuốn sách do trí tưởng tượng mãnh liệt của ả thêu dệt nên. Còn
lại bốn mươi chín bản đóng bìa cứng bằng da dê và mạ vàng thì Garin dùng làm
vách chắn gió.
Garin
và Dôia không trò chuyện gì với nhau hết. Chuyện trò để làm gì? Và về cái gì?
Chúng đã suốt đời cô độc và nay rốt cuộc, đã nhận được sự cô độc hoàn toàn.
Chúng
lẫn lộn ngày tháng, rồi không đếm ngày tháng nữa. Mỗi khi bão tố tràn qua đảo
thì chiếc hồ nhỏ lại tràn đầy nước mưa mới. Có nhiều tháng ròng rã trời nắng
chang chang như thiêu đốt, bầu trời không một gợn mây. Vào những lúc ấy, chúng
phải uống thứ nước hôi thối...
Chắc
hẳn là Garin và Dôia vẫn bắt thủy tức và sò hến trên hòn đảo này. Sau khi đã no
nê, Dôia lại ngồi giở cuốn sách có in những bản vẽ tuyệt đẹp các lâu đài, nơi
pho tượng đá hoa cương tuyệt trần tạc hình ả nổi cao lên giữa các hàng cột đá
và các bồn hoa, còn Garin thì chúi đầu vào cát, lấy chiếc áo vét tông cũ nát
đắp lên người, khe khẽ ngáy, có lẽ cũng đang mơ thấy những chuyến phiêu lưu kỳ
thú.
Dịch từ nguyên bản tiếng Nga: GIBERBOLOID INZHENKRA GARINA (Гиперболоид инженера Гарина)
Izdatelstvo METALLURGIJA, Moskva, 1985
Izdatelstvo METALLURGIJA, Moskva, 1985
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét