Vào thập
niên 90 của thế kỷ trước, sau mốc Đổi mới kinh tế - xã hội Việt Nam năm 1986
khoảng một thập kỷ, đã bắt đầu xuất hiện một số nhận định, phỏng đoán một cách
hào hứng, có thể có một cuộc “cách mạng thi ca” vào đầu thế kỷ 21.
Như thơ Việt từng chứng kiến
cuộc bứt phá, thiết lập một thi đàn Thơ mới trước 1945, đó là những thay đổi
căn bản cho hành trình thơ hiện đại Việt Nam. Tất nhiên, cuộc cách mạng thơ vào
đầu thế kỷ 21 như một vài phỏng đoán đã không xảy ra mà còn có cơ “nguội” hơn… ở
thời điểm hiện tại sau 30 năm đổi mới, sau những bung phá ngôn từ, giọng điệu,
các phương cách tiếp cận, soi chiếu và biểu hiện mới mẻ khác nhau của cảm xúc,
hệ mỹ cảm… ở lớp nhà thơ sau 1975, so với chính họ những năm 90 và đầu những
năm 2000 háo hức, nhiệt huyết, tư duy thơ mới lạ, trường liên tưởng sâu rộng...
cả những tuyên bố khá ồn ào, to tát về cách tân thơ Việt, về việc khai tử thi
pháp cũ và “chôn” truyền thống. Nhưng nó cũng chứng tỏ, đã có một cuộc “bứt
phá” mới; sự chuyển động và chuyển hướng khá chủ động, mạnh mẽ, đa dạng, đa
thanh sắc trong thơ Việt từ chính nội lực, sự câu thúc bên trong dòng chảy văn
học và ngoại cảnh, vươn tới những không gian sáng tạo mới, đa tầng, khoáng đạt,
năng động và biến ảo hơn. Nói tóm lại, sự thay đổi và chuyển động quan trọng nhất,
không gì khác là đổi mới tư duy, nội dung, cảm thức, phương thức, tổng hợp lại
là thi pháp. Mà sự mới, sự vươn lên, bao giờ cũng thuộc các thế hệ trẻ kế tiếp.
Tất nhiên rồi, vì họ trẻ, là sức trẻ và được sống trong môi trường tính chất xã
hội khác, không gian sáng tạo khác đã mở ra khoáng đạt, cởi mở hơn.
Đổi mới văn học nói chung và
thơ Việt nói riêng, lấy mốc 30 năm từ 1986, đã có và có lẽ sẽ còn cần nhiều ý
kiến tiếp tục trao đổi, nghiên cứu đánh giá… để khẳng định cái thành của nền,
những gò, đỉnh và hiệu ứng của nó trong đời sống, cũng như những hạn chế hoặc
khuất lấp mà phải có thời gian mới sáng lộ, tôi chỉ góp vài ý kiến khái lược,
dưới góc quan sát và cảm nhận của một người sáng tác, trước hết cho chính mình.
Tất nhiên, nền tảng đổi mới
kinh tế - xã hội, tâm thức xã hội, sự vận động của thời đại mới, cánh cửa hội
nhập với thế giới mở ra, đặc biệt là sự giao thoa, hội nhập văn hóa... là những
nhân tố chủ đạo, quyết định và thúc đẩy sự đổi mới của tinh thần, tư tưởng nghệ
thuật nói chung, thơ ca nói riêng. Đổi mới cũng là yêu cầu tự nhiên, tự thân của
người sáng tác, mỗi chủ thể quyết định phương pháp sáng tác, sự tìm tòi của
riêng mình, đáp ứng với đòi hỏi tự thân và của xã hội. Đổi mới văn học không phải
cứ hô mà đổi ngay được, cũng không có lộ trình (có xu hướng) vì thơ là những
khoảnh khắc rung động của cảm xúc, lóe sáng của ý tưởng. Nói cách khác, thơ là
sản phẩm, là thi điệu của tâm hồn, được tích tụ từ trầm tích các tầng văn hóa
và thái độ ứng xử với văn hóa. Nó khác với việc thay đổi mẫu mã hàng hóa, công
nghệ nhanh nhạy, cần đáp ứng ngay của xã hội công nghiệp. Sự du nhập Tân hình
thức, hay Hậu hiện đại vào ta muộn hơn phương Tây nhiều thập kỷ chứng minh cho
điều ấy. Một dân tộc yêu thơ, say mê thơ ca nhưng hàng ngàn năm, do hoàn cảnh lịch
sử - địa lý chịu ảnh hưởng Nho giáo, nhiều thập niên phải dồn cho “cây lúa và
cây súng”, những thế phận lầm lũi dai dẳng của con người xã hội nông nghiệp:
“Ông lão dong trâu đi bừa/ Là con ông lão ngày xưa đi cày” (Trần Ngọc Thụ) … đã
chứng minh cho đổi mới là công cuộc không hề dễ dàng.
Tôi có một người thầy dạy học,
khi nghĩ về cách tân thơ, ông dẫn ra một câu ca dao:
“Đời cha cho chí đời con
Câu ca dao có giá trị như một
cách ngôn của ngàn năm Nông nghiệp và Nho giáo, đã trở thành định chế tư duy,
thành nếp nghĩ: Mọi thứ đều “có trước có sau, có trên có dưới, có trật tự”. Nó
cũng có những giá trị tích cực là biết “nhìn trước, trông sau” trong ứng xử văn
hóa; nhưng lối tư duy đã thành nếp với cái trật tự lạ lùng, đầy ý nhị răn bảo,
đẽo vuông nhưng lại phải vót tròn cho “phải nhẽ” cản trở tự do sáng tạo - Tự do
là điều kiện tiên quyết để thi ca cất cánh. Sự “phải nhẽ” còn ảnh hưởng, biến
thể đến tận ngày nay, ở câu nói dân gian hiện đại: “Hà Nội không vội được đâu”.
Vì thế, ở phạm vi hẹp, đổi mới thơ là việc không dễ, nó vô cùng gian nan, đã
nhiều trái tim rớm máu, trả giá đắt vì đẽo vuông (có thể coi là đổi mới) nhưng
chưa biết hoặc chưa chịu vót tròn, ở những thời điểm lịch sử khác nhau, trước mốc
đổi mới 1986. Bởi vậy, chúng ta có quyền nâng niu và trân trọng những thành quả
và giá trị của thơ trong những nỗ lực cộng hưởng làm thay đổi trật tự kìm hãm của
tư duy cũ, vươn tới những tư tưởng nghệ thuật mới mẻ, hiện đại, cởi mở, đa dạng…
như tự nhiên đã cấu thành và còn nhiều bí ẩn cho khám phá, sáng tạo.
Từ những đặc tính trên, ngay
cả khi xã hội Việt Nam đã “hậu hiện đại” rồi thì chưa chắc thơ Hậu hiện đại đã
kết duyên với người đọc Việt, bởi còn do sự khác nhau của những nền văn hóa, những
nét đặc thù văn hóa. Tính chất văn hóa quyết định thái độ tiếp nhận các trào
lưu, hoặc chối từ, hoặc biến cải nó thành cái của mình (như thơ Tây vào Việt
Nam), hoặc cam phận “nô dịch” (thơ Đường trong thời gian dài, cho đến bây giờ vẫn
còn nhiều câu lạc bộ thơ Đường ra đời). Trong thực tế, không phải đến năm 1986
mới có đổi mới thơ, mặc dù đổi mới xã hội, động giục xã hội quyết định cho sự
thay đổi tương thích tinh thần nghệ thuật, giá trị văn hóa nhưng nó không phải
là đồng nhất. Sự chuyển hóa tự thân ở ngay những nhà thơ thế hệ chống Pháp như
Nguyễn Đình Thi, Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Hoàng Cầm, Chính Hữu, Quang
Dũng…, hay những nhà thơ thế hệ chống Mỹ vượt qua “dàn đồng ca” thơ vì nghĩa lớn
của thế hệ mình trong sự vận động của thơ như các nhà thơ Thanh Thảo, Hữu Thỉnh,
Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Duy, Bằng Việt, Nguyễn Đức Mậu, Thi Hoàng, Nguyễn Trọng
Tạo, Vũ Quần Phương, Ý Nhi, Trần Nhuận Minh, Y Phương, Lê Văn Ngăn, Từ Quốc
Hoài, Hoàng Vũ Thuật, Lê Thành Nghị… đã tự làm mới mình từ sau 1975, trước cái
mốc 1986 cả chục năm, và là những năm sáng tác sung sức nhất, ấn tượng nhất của
số đông lớp nhà thơ này. Một số các nhà thơ trong số ấy vẫn tiếp tục có những
tác phẩm xuất sắc, đồng hành cùng thế hệ nhà thơ sau 1975: Hữu Thỉnh, Thanh Thảo,
Nguyễn Khoa Điềm…
Những tác phẩm thành danh của
lớp nhà thơ chống Mỹ như ta biết, hầu như đều được viết sau 1975, chiến tranh kết
thúc. Có thể nói, đó là những bước chuyển ban đầu của nền thơ chủ yếu là thơ
yêu nước và đánh giặc, cần cổ vũ, cần đồng tâm hiệp lực, cần cái chúng ta đồng
điệu, “nhịn” cái tôi, cuộc sống đời thường gần gũi và những khát vọng khác…
(cũng rất tự nhiên, do hoàn cảnh điều diễn) để dồn cho trách nhiệm công dân cao
cả nhất là giải phóng dân tộc. Khi đời sống xã hội “đặc thù” chiến tranh thay đổi
(đây là tác nhân quan trọng nhất), các nhà thơ có những “khoảng lặng” điềm tĩnh
nhìn lại, soi chiếu lại hệ hình mỹ cảm cũ, có điều kiện tiếp cận với thế giới
hơn, thơ Việt từ cái “phông” thơ thời chiến “cây lúa và cây súng”, cái tôi sử
thi hoành tráng và lãng mạn chuyển sang cái tôi trữ tình, cái tôi bản thể đa diện
và biên độ ngày càng mở ra sâu rộng, mới mẻ hơn mà vẫn giữ được tâm thế chủ đạo,
trách nhiệm nhà thơ với cái chung của cộng đồng xã hội.
Cũng bắt đầu từ đây, như một
cộng hưởng trên cái phông thơ đang chuyển động, làm khác trước ở của những nhà
thơ thế hệ chống Mỹ, đã xuất hiện lứa các nhà thơ sau 1975 (tạm quy ước), mà độ
tuổi của họ sinh từ nửa cuối những năm 50 đến thập niên 60, tiếp tục làn sóng đổi
mới với những cung bậc tình cảm, “tiết tấu” biểu hiện bạo và mới lạ hơn, đa dạng
hơn trong ngôn ngữ, thủ pháp, phương thức biểu cảm. Lứa các nhà thơ trẻ 7x, 8x
còn “bạo động” hơn về chữ, hình ảnh, liên tưởng khác lạ. Họ, sự chuyển động tiếp
biến từ số các nhà thơ chống Mỹ đổi mới, hoặc chuyển kênh khác biệt… mà nhà thơ
Hữu Thỉnh thường hay nói đến chữ “Lật cánh”, nghĩa là hướng bay hoàn toàn khác,
không còn ở những kinh độ bay cũ. Họ, trong bài tham luận của nhà thơ Trần Nhuận
Minh, ông đã gọi thơ của các nhà thơ thế hệ này là “Thơ mới thời kỳ thứ hai”
(sau Thơ mới 1932 - 1945) và cho rằng Nguyễn Quang Thiều là người mở đầu thời
thơ này và dẫn: “Có thể kể ra đây nhiều tên tuổi xuất hiện sau ông ít lâu (Nguyễn
Quang Thiều), như Trần Quang Quý, Nguyễn Việt Chiến, Nguyễn Linh Khiếu, Mai Văn
Phấn, Nguyễn Bình Phương, Đặng Huy Giang, Vi Thùy Linh, Lê Vĩnh Tài, Li
Hoàng Li, Nguyễn Thị Ánh Huỳnh, Đinh Thị Như Thúy… và nhiều nhà thơ khác nữa”.
Tất nhiên, còn nhiều cái tên khác: Dương Kiều Minh, Inrasara, Giáng Vân, Trần
Anh Thái, Trần Quang Đạo, Tuyết Nga, Trương Nam Hương, Phan Huyền Thư, Văn Cầm
Hải, Phan Hoàng… mới làm nên đội ngũ để có thể khẳng định một thế hệ nhà
thơ “Thời Thơ mới thứ hai”. Trong số các nhà thơ của thế hệ này, vì những lý do
nào đấy họ chỉ mới dừng lại ở hiện tượng, thậm chí có người lâu rồi không thấy
viết, hoặc viết không còn được sự tươi mới, ấn tượng như những công bố đầu
tiên, họ chưa thành tác giả.
Trần Nhuận Minh định danh
“Thơ Mới thời kì thứ hai” cho thơ và thế hệ các nhà thơ sau 1975 “là trân
trọng và muốn đánh giá đúng những đóng góp tích cực của nó. Và như thế, phải đặt
nó sau “Thơ Mới thời kì thứ nhất,” để tìm ra một lời giải cho cái nó đạt được
và còn chưa đạt được. Đây là lần thứ hai, thơ hiện đại Việt Nam được nạp
thêm một nguồn năng lượng mới” (trích tham luận TNM). Quan điểm của nhà
thơ Trần Nhuận Minh là mới, có lẽ ông là người đầu tiên đưa ra định danh cho
thơ thời kỳ Đổi mới này và có thể sẽ có nhiều tranh cãi quanh nó nhưng nó cũng
khẳng định về một trào lưu, thành quả mà thế hệ này đạt được.
Hội thảo Quốc gia “Thế hệ
nhà văn sau 1975” của Đại học Văn hóa Hà Nội cuối tháng 4/2016, nhiều tham luận
cũng đã khẳng định thế hệ thơ này là chủ lực/chủ thể của văn học Đổi mới. Chủ tịch
Hội Nhà văn Việt Nam, Nhà thơ Hữu Thỉnh phát biểu kết luận Hội nghị: “Đến bây
giờ tôi có thể nói, thế hệ các nhà thơ sau 1975 là chủ thể của Đổi mới. Tôi
tin, họ sẽ có những cây đại thụ của thế hệ mình”. Vì sao lại thế, vì lượng mà
thế hệ này tạo ra, lượng biến thành chất; nhưng quan trọng hơn vì tính chất, đặc
trưng chủ đạo, sự khác biệt của thơ Đổi mới mà thế hệ này tạo ra, so với trước
đây.
Tôi không có điều kiện trích
dẫn để minh chứng cho các ý kiến trong bài viết này (dành cho một dịp khác),
xin tóm lược những nét chung nhất về cái mà thế hệ các nhà thơ và thơ Đổi mới
quan tâm: Cái tôi trữ tình, cái tôi bản thể, cái tôi tính dục... được quan tâm
triệt để. Phương thức biểu hiện: Cả đổi mới trên cơ sở truyền thống, cả hiện thực
và lãng mạn, ấn tượng, tượng trưng, siêu thực… Vấn đề và thi cảnh quan tâm: Mọi
lĩnh vực đời sống; con người quá khứ, hiện tại và tương lai tiềm ẩn, con người
được là mình, con người trong thế giới siêu hình, tâm linh; đặc biệt, đây là
giai đoạn “đời thường” ở nhiều góc cạnh được soi chiếu, cởi thoát, kể cả đời sống
tính dục và hình ảnh miêu tả mà lâu nay kiêng kị để biểu cảm, chiêm nghiệm,
khái quát. Cấu trúc đa dạng: Thơ văn xuôi điệp câu, trùng phức miên man; thơ tự
do ngắn dài, ngắt câu, không viết hoa, không chấm phảy, ít tính từ, ít mượt mà,
nhiều động từ, đảo câu và các thủ pháp tu từ chủ động… Về loại hình: Từ lục bát
truyền thống đến thơ Tự do, thơ Ngữ âm, Tân hình thức, Hậu hiện đại, Trình diễn,
Sắp đặt... đều được “tung hoành” hoặc trình xuất thể nghiệm. Chưa bao giờ có sự
giao thoa, hội nhập đông đủ các hình thức thơ ta, thơ Tây đông đủ thế. Nhưng về
cơ bản, hình thức thơ không mới, đều là các mô thức thơ phương Tây đã trải qua
lâu và nhả bã ra rồi (xã hội nông nghiệp Việt Nam không có chủ thuyết, trường
phái). Nói như vậy để chúng ta bớt huyễn hoặc mình.
Có thể nói những năm 1990 và
2000 là giai đoạn “bung phá” ngôn ngữ, thơ sáng tạo nhiều ngữ nghĩa mới. Sự đổi
mới thơ phá vỡ nhiều khuôn mẫu hình thức, tất yếu dẫn đến sự “thống soái” của
thơ tự do với thủ pháp biểu hiện phong phú: Nói ngược, giấc mơ, đồng hiện, mờ
chồng, trần trụi, gợi, tính vần và nhạc điệu bên trong câu chữ, hoặc không vần,
huyền ảo... để biểu đạt cái đích mà bài thơ muốn hiển đạt.
Những đổi mới của thơ từ
1986 cũng chính là thành tựu của thơ Đổi mới, với việc phản ảnh cuộc sống phong
phú, đa diện, từ cái cao cả, thánh thiện đến cuộc sống đời thường ở nhiều hướng
soi chiếu; đặc biệt là đời thường bình dị, bé nhỏ nhưng được là chính nó, được
bình đẳng trong thế giới hiện hữu.
Có người cho rằng hạn chế của
thơ Đổi mới, thế hệ nhà thơ sau 1975 là tâm thức vụn vặt, mờ nhạt trách nhiệm
công dân. Theo tôi, điều này khó tránh khi các nhà thơ chủ động đi vào cuộc sống
đời thường đa phức, ngoại biên… những vấn đề mà thế hệ thơ chống Mỹ ít hoặc
không được đề cập. Cũng có người mượn cái mác đổi mới, che giấu sự trống rỗng
sau cái vỏ sủng soảng, hỗn độn, mù mờ câu chữ hoặc chui vào cái rọ “huyễn hoặc”,
bí hiểm của mình, quá vịn hình thức. Chúng ta tôn trọng mọi cách biểu cảm và thể
hiện, kể cả coi thơ mình là thơ chơi, thơ giải trí. Nhưng khi đã công bố tức là
anh hướng đến bạn đọc, dù số đông hay số ít bạn đọc, như W. Szymborska (nữ nhà
thơ Ba Lan, giải Nobel 1996), “Đêm tác giả” của bà cũng chỉ có 12 người nghe, một
nửa trong số đó là trú mưa, một nửa là thân quyến nhưng nhà thơ vẫn đọc thơ mê
say, nghĩa là nhà thơ có trách nhiệm với bạn đọc, dù chỉ vài người. Mà bạn đọc
thơ bây giờ đang ở thời đầy thách thức với văn hóa đọc và sự bùng nổ của công
nghệ giải trí, như công nghệ giải trí Hàn Quốc đang “xâm thực” thi trường, thị
hiếu Việt Nam bằng uy lực “sức mạnh mềm văn hóa” chẳng hạn.
“Tình trạng hờ hững với thơ
đương đại không chỉ diễn ra ở Việt Nam. Đặng Tiến, nhà phê bình hải ngoại, đã
viết về tình trạng đọc thơ ở Pháp: “Điều làm cho quảng đại quần chúng lơ là với
thơ mới, thơ đương đại là ngôn từ trúc trắc, bí hiểm, xa cách với lời ăn tiếng
nói ngày ngày của họ; và khi vượt qua ngôn ngữ ấy thì họ gặp phải một nội dung
riêng tư, lạ lẫm, không can hệ gì đến vận mệnh của họ. Thơ đương đại nói chung
xa rời những ưu tư thực tế, kinh tế, xã hội, chính trị của con người, do
đó, họ tìm đến những ca khúc - là nghệ thuật của quần chúng - không những vì
ngôn từ bình dị mà còn vì nội dung gần gũi”. Và ở Mỹ: “Alec Schachner, nghiên cứu
sinh tại Đại học Columbia (New York) cho biết những người Mỹ bình thường không
dành thời gian cho thơ, “họ thấy thơ ca, đặc biệt thơ hiện đại, là quá mịt mù,
quá khó khăn để đọc hiểu hoặc giải khuây”, do đó, thơ hiện đại Mỹ thường chỉ có
trên mạng hoặc xuất bản trên máy in cá nhân với số lượng hạn chế” (trích mạng).
Về văn hóa thơ, hồi tôi còn
làm báo Gia đình & Xã hội, trong một phỏng vấn nhà thơ Bằng Việt về
thơ trẻ Việt (thời điểm những năm 2000) đã bắt đầu xuất hiện khá nhiều: thèm chồng,
khỏa thân, kinh nguyệt, “miền phụ khoa ẩm ướt” và nhiều câu bạo hơn (ở nhóm tạm
gọi là Tân hình thức, Hậu hiện đại), vốn kiêng kỵ trước đó, theo ông thì sao?
Nhà thơ Bằng Việt trả lời: “Khỏa thân cũng không sao, hình thể là vẻ đẹp mà tạo
hóa ban cho phái đẹp. Nhưng nếu cởi ra mà nó... xấu quá thì nên “đạy lại”. Cái
“nên đạy lại” là văn hóa, nhiều khi là giới hạn rất mong manh mà nhà thơ có
trách nhiệm với con chữ của mình.
Thơ Đổi mới đã làm được nhiều việc đáng cổ vũ, như nhà thơ Trần Nhuận Minh đã đề
cập một phần ở trên. Cái quan trọng nhất vẫn là đổi mới tư duy nghệ thuật, thi
pháp thơ. Và dù thi pháp và hình thức biểu hiện nào thì muôn thuở của văn học
là cái đẹp và tính nhân văn. Còn cái đẹp, còn vì số phận con người, vì tính thiện
thì còn thơ. Nếu nói về hình thức, xin trích một câu ca dao từ thời Nguyễn (có
người cho rằng từ thời Minh Mạng) có cách đây gần 200 năm để nói về “hiện đại”:
“Tháng Giêng có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy người ta
hãi hùng
Không đi thì chợ không đông
Đi thì phải mượn quần chồng
sao đang”
Quần không đáy, như là váy của
phương Tây, và bây giờ người Việt lại quay lại “nở rộ” váy, chỉ có ngắn dài, rộng
hẹp khác nhau. Nói về tính dục, có ai bạo như Hồ Xuân Hương? Về thơ văn xuôi,
hãy đọc R. Targo…
Nhà thơ Hữu Thỉnh nhiều lần
nói, cái cuối cùng của thơ vẫn là “Hay”. Một nhà thơ thế hệ chống Mỹ, Nguyễn Đức
Mậu cũng nói: “Thơ chẳng cao siêu như người ta hoang tưởng/ Nhưng chẳng dễ
dàng khi chạm cõi tâm linh”.
Hà Nội, Tháng 5/2016
Trần Quang Quý
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét