Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2016

Sự khác biệt của thơ thu xưa và nay

Sự khác biệt của thơ thu xưa và nay
Trong bốn mùa của một năm thì có lẽ mùa thu là mùa đẹp nhất. Đó là khoảng thời gian kết thúc cái oi nồng của mùa hạ, chưa kèm theo mưa dầm gió bấc của mùa đông. Đó là mùa có gió thu se se lạnh, sương thu mờ ảo, “Trăng thu bạch, khói thu xây thành” (Tản Đà). Ta hiểu vì sao, tự cổ chí kim, mùa thu luôn là mùa của cảm xúc, của thương nhớ. Song tiếng thu ở mỗi người, trong mỗi thời đại lại mang những màu sắc khác nhau, tạo nên vô vàn những bức tranh thu mà trong đó cảnh thu, tình thu đều thật đẹp, thật độc đáo.
Trong làng thơ Việt Nam sau Nguyễn Khuyến, Tương Phố, Tản Đà, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu... đều có những bài thơ thu nổi tiếng. Tuy vậy giữa Tam nguyên Yên Đổ và các nhà thơ Mới đã có một khoảng cách. Thơ thu của Nguyễn Khuyến là thơ của làng cảnh Việt Nam đậm đà chân thực dù tác giả có gửi gắm vào thơ ít nhiều tâm sự. Thơ thu của các nhà thơ Mới từ Giọt lệ thu( Tương Phố), Tiếng thu (Lưu Trọng Lư) đến Đây mùa thu tới (Xuân Diệu) chỉ mượn cảnh thu, sắc thu, màu thu, tiếng thu để gửi gắm tâm trạng đượm buồn hay lưu luyến bâng khuâng trước cảnh đất trời đã chuyển sang thu. Đó là sự khác biệt của tiếng thu thuộc hai phạm trù văn học: phạm trù văn học trung đại và phạm trù văn học hiện đại. Chúng ta sẽ thấy rõ sự khác biệt này qua hai thi phẩm độc đáo nhất viết về đề tài mùa thu: Thu vịnh (Nguyễn Khuyến) của phạm trù văn học trung đại và Đây mùa thu tới (Xuân Diệu) của phạm trù văn học hiện đại.
1. Sự khác biệt về đặc trưng phạm trù văn học
Phạm trù văn học trung đại là sản phẩm của hình thái xã hội phong kiến, là hình thái văn hoá thuộc thời đại phong kiến vốn mang tính chất khu vực, chưa có tính chất toàn cầu, chịu sự chi phối của ý thức hệ phong kiến.
So với phạm trù văn học trung đại, phạm trù văn học hiện đại đã đổi mới khác hẳn dù vẫn có sự kế thừa tiếp nối phạm trù văn học trung đại. Nó là sản phẩm của hình thái xã hội mới: Xã hội thực dân nửa phong kiến trong đó quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dù mang tính chất thuộc địa nặng nề, vẫn chi phối đời sống xã hội nhất là ở các đô thị lúc này một cách rõ rệt, đã là môi trường tồn tại chủ yếu của văn học.
Là sản phẩm của hai phạm trù khác nhau, Thu vịnh (Nhuyễn Khuyến) và Đây mùa thu tới (Xuân Diệu) có những điểm khác biệt cơ bản sau:    
Nguyễn Khuyến là một nhà nho, chịu ảnh hưởng sâu sắc của ý thức hệ phong kiến và công chúng của ông chủ yếu cũng là nhà nho. Xuân Diệu là một trí thức Tây học ly khai với ý thức hệ phong kiến, chịu sự chi phối của ý thức hệ tư sản (Trước Cách mạng tháng Tám), công chúng chủ yếu của “Nhà thơ Mới nhất trong những nhà thơ Mới” ấy chủ yếu cũng là những trí thức tiểu tư sản. Nếu Nguyễn Khuyến gần với Khuất Nguyên, Lí Bạch, Đỗ Phủ, Vương Thực Phủ, Tào Tuyết Cần ... thì Xuân Diệu lại quen thuộc với Lamactin, Veclen, Bôđờle, Vichto Huygô ...
Thu vịnh của Nguyễn Khuyến được sáng tác bằng chữ Nôm - một trong hai thể loại văn tự được sử dụng ở nước ta thời phong kiến, được viết theo thể loại thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Đây mùa thu tới của Xuân Diệu được viết bằng chữ quốc ngữ, theo thể thơ tự do. Điều này khiến Thu Vịnh mang tính chất định hình nghiêm ngặt, chặt chẽ, gò bó của thơ niêm luật, còn Đây mùa thu tới tự nhiên, sinh động theo qui luật tự do trong sáng tạo của Thơ Mới.
Là sản phẩm của phạm trù văn học trung đại, Thu vịnh của Nguyễn Khuyến mang tính qui phạm, tính ước lệ, tượng trưng, bác học, sử dụng điển cố văn học cổ Trung Quốc; còn Đây mùa thu tới, hơi thở của văn học hiện đại đã mang lại cho tác phẩm một phong cách ngôn ngữ hiện đại.
Trên phương diện quan điểm nghệ thật, Thu vịnh giống như bao bài thơ khác của văn học trung đại chủ yếu thực hiện chức năng giáo huấn với quan điểm quen thuộc “Thi dĩ ngôn chí”, thế nên bài thơ ắt phải kết thúc bằng hai câu thơ có chiều sâu tư tưởng như thế này:
         Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
        Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
Đây mùa thu tới lại là thi phẩm chủ yếu thực hiện chức năng thẩm mỹ và chức năng nhận thức. Với Xuân Diệu mùa thu được cảm nhận với tất cả vẻ đẹp rực rỡ và u buồn nhất của nó như là một hiện tượng thẩm mỹ trong thế giới tự nhiên. Qua đôi mắt của một nhà thơ tình lãng mạn luôn khao khát yêu, khao khát sống và tận hưởng cuộc sống tươi đẹp nơi trần thế, thì Đây mùa thu tới còn là sự thể hiện quan niệm của thi nhân về cuộc sống, về thời gian hữu hạn của đời người...
Nếu Thu vịnh là kết quả của một cái tôi nhân bản chịu sự chi phối khắt khe của tư tưởng phi ngã trong văn học trung đại, thì Đây mùa thu tới là sự thể hiện của cái tôi cá thể giàu cảm xúc, một cái tôi trữ tình được giải phóng triệt để.
Những sự khác biệt trên đã mang lại cho chúng ta hai bức tranh thu đẹp tiêu biểu cho vẻ đẹp của mùa thu trong thơ ca trung đại và thơ ca hiện đại.
2. “Thu vịnh” là bức tranh thu đậm đà, chân thực
Cùng với Thu điếu và Thu ẩm, Thu vịnh đã tạo nên bức tranh thu ở làng quê Việt Nam đậm đà, chân thực dù tác giả có gửi gắm vào thơ ít nhiều tâm sự.
Trong chùm thơ “nức danh” về mùa thu của Tam nguyên Yên Đổ, bài Thu vịnh “Mang cái hồn của cảnh vật mùa thu hơn cả, cái thanh, cái trong, cái nhẹ, cái cao. Mang cái thần của cảnh mùa thu.” (Xuân Diệu)
Nếu Đây mùa thu tới bắt đầu bằng một cảm nhận mang tính chủ quan, thì Thu vịnhdường như được mở ra bằng một sự miêu tả tương đối khách quan:
                 Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
                 Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
Cảnh thu được cảm nhận từ cao xa đến gần rồi từ gần mở rộng đến cao xa. Từ bầu trời cao, tác giả quan sát cảnh vật thấp dần: cành trúc, mặt nước, chùm hoa trước dậu, bóng trăng qua khe cửa. Từ mặt đất, nhà thơ lại hướng tới bầu trời với tiếng ngỗng trên không. Bức tranh thu được miêu tả ở những thời điểm khác nhau: một buổi sáng, một buổi chiều, một đêm trăng. Không gian có tầng cao, tầng thấp, có mầu sắc, có âm thanh: trời thanh, nước biếc, trăng thưa... Tất cả đều đượm màu thu, mang cái hồn của cảnh vật, cái thần của mùa thu.
Không giống như Xuân Diệu trong Đây mùa thu tới đã đi vào miêu tả bức tranh thu trong sự chuyển mình vô cùng tinh tế của đất trời, ở Thu vịnh, thi nhân đã dùng vài nét chấm phá trong thơ cổ mà phác nên bức tranh rất đơn sơ mà vô cùng sinh động về mùa thu ở làng quê Việt Nam với trời, nước, trăng, hoa ...
              Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
Làm nền cho bức tranh thu là bầu trời “xanh ngắt”, một màu xanh không gợn, không pha tạp, thanh cao, trong sáng, thăm thẳm, huyền diệu. Nghệ thuật bồi thấn, nhấn thêm vào độ cao của trời “mấy tầng cao” càng đẩy bầu trời lên một tầm cao vời vợi, một tầm cao hút mắt.In trên nền trời thu bao la là dáng măng trúc uốn cong như chiếc cần câu, lá lưa thưa, phất phơ theo làn gió nhẹ:
             Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
Các từ “lơ phơ”, “hắt hiu” gợi cảm giác về những làn gió heo may của không khí chớm thu ở Bắc Bộ. Nhờ dáng măng trúc, bầu trời thu vì thế mà cao nhưng không xa, không gian thu chỉ đủ se lạnh chứ không lạnh lẽo, rợn ngợp.
Trên là trời thu, dưới là nước thu:
            Nước biếc trông như tầng khói phủ
Câu thơ gợi hình ảnh mặt nước mùa thu vào lúc sáng tinh mơ hay buổi chiều tà khi mặt trời đã khuất? Thật khó mà xác định được bởi ở hai thời điểm ấy “nước biếc” đều in nền trời xanh ngắt và trời se lạnh, nước bốc hơi tạo cảm giác trên mặt nước như có tầng khói phủ. Câu thơ với độ nhoè về thời gian đã tạo nên sự hư thực, huyền ảo của cảnh thu.
Trời thu và nước thu, đó là hai nét vẽ đã trở thành cổ điển của thơ xưa khi thể hiện cảnh thu. Thơ Đường đã có những câu bất hủ về trời thu, nước thu: Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc (Sông thu cùng với trời thu một màu). Truỵên Kiều cũng có những câu thơ tuyệt hay:Long lanh đáy nước in trời - Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng. Ở đây Nguyễn Khuyến đã tiếp thu truyền thống mỹ học của thơ ca cổ đồng thời có những sáng tạo riêng để viết nên những câu thơ đầy ấn tượng về nước trời mùa thu. Cách miêu tả cổ điển này ta sẽ không còn thấy nữa trong Đây mùa thu tới của Xuân Diệu.
Sau thu thiên, thu thuỷ là thu nguyệt. Xưa nay trăng vốn là bạn của thi nhân:
                  Song thưa để mặc bóng trăng vào
Câu thơ gợi cảm giác thanh, nhẹ. Nhà thơ viết “song thưa” mà ta cảm nhận bóng trăng dường như cũng thưa, mỏng, nhẹ nhàng, bảng lảng lan toả trong không gian. Với hai từ “để mặc” trăng thu như đã trở thành người khách quen thuộc của thi nhân. Hình ảnh ánh trăng ở đây không được nhân hoá trực tiếp nhưng cũng mang hồn người, thân quen, gắn bó với con người.
Trong bức tranh thu cổ cũng không thể thiếu được hoa thu. Chỉ có điều, tác giả không chi tiết như Xuân Diệu về cành cây, sắc mầu: Hơn một loài hoa đã rụng cành - Trong vườn sắc đỏ rũa mầu xanh, mà chỉ có gợi:
                Mấy chùm trước dậu hoa năm ngoái
Hoa trên dậu ấy là hoa nào, là hoa cúc chăng, vì trong bốn loại hoa quý (lan, sen, cúc, mai) thì hoa cúc chọn mùa thu để trổ hoa. “Hoa năm ngoái’ là mấy chùm hoa đã trổ từ năm ngoái, nay lại trổ bông? Hay tác giả dùng theo nghĩa “hoa năm ngoái” gợi về quá khứ, đồng nhất quá khứ và hiện tại như trong truyện Kiều: Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông? Dù hiểu như thế nào thì hình ảnh thơ cũng mang không khí cổ và có giọng hoài cổ. Điều này lại càng không hề thấy trong Đây mùa thu tới của Xuân Diệu.
Bức tranh thu có màu sắc, đường nét và một âm thanh rất đặc trưng:
                Một tiếng trên không ngỗng nước nào
Những con ngỗng bay về phương Nam tránh rét thường để rớt lại giữa đêm thu thanh vắng những tiếng kêu thảng thốt. Tiếng ngỗng vừa gợi sự cao rộng, thanh vắng của không gian, vừa gợi không khí lạnh của mùa thu. ở đây biên độ thời gian được mở rộng: cảnh đã ở vào thời điểm cuối thu.
ở những câu thơ trên ta gặp những động từ thể hiện những chuyển động rất khẽ, nhẹ của sự vật, giờ đây là một âm thanh. Nhưng âm thanh ấy không đủ sức để khấy động cái không gian quá ư yên tĩnh ấy. Nó cất lên thảng thốt trong sự lạc lõng rồi chìm vào trong thinh không. Nguyễn Khuyến đã mượn động để tả tĩnh giống như bao cổ nhân vậy.
Nếu câu thơ trên là sự bâng khuâng về thời gian, thì câu thơ này lại gợi sự bâng khuâng về không gian. Cảnh thu vì thế mà chứa chất tâm trạng của con người. Những câu thơ chợt đượm buồn, đầy tâm trạng song không phải là nỗi buồn nỗi buồn đìu hiu, nỗi buồn đau uất hận trong Đây mùa thu tới của Xuân Diệu.
Tình trong Thu vịnh mang một nỗi buồn thâm trầm, sâu lắng. Buồn đến thẫn thờ, ngơ ngẩn, mất cả ý niệm về không gian, thời gian: hoa nở năm nay mà ngỡ là hoa năm ngoái. Ngỗng kêu trên trời nước mình mà ngỡ ngỗng nước nào. Hai câu thơ cuối là một nỗi thẹn của một nhân cách lớn:
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
                   Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
Khác với Xuân Diệu tả cảnh thu là phản ánh tâm trạng của con người, ở Thu vịnh có tâm trạng, có nỗi buồn, nhưng cái đích vẫn là “thi dĩ ngôn chí”. Cách “thi dĩ ngôn chí” cũng rất cổ điển: sử dụng điển cố Đào Tiềm. Đào Bành Trạch năm xưa không vì năm đấu gạo mà uốn gối khom lưng, ông đã treo ấn từ quan từ hồi trẻ. Tam nguyên Yên Đổ thẹn với Đào Bành Trạch là thẹn về tài năng hay nhân cách ? Có lẽ vì nhân cách chăng ? Bởi Nguyến Khuyến cũng đã vứt miếng đỉnh chung về ở ẩn tại quê nhà nhưng có lẽ so với Đào Tiềm ông vẫn thấy mình từ quan hơi muộn chăng ? Đáng trân trọng thay nhân cách Tam nguyên Yên Đổ. Nỗi thẹn của ông không làm con người thấp bé đi mà trái lại làm cho con người thêm lớn lao, cao cả.
Ngôn ngữ trong Thu vịnh trong sáng, giản dị, tự nhiên mà điêu luyện, đối ngẫu rất chỉnh, gieo vần độc đáo, âm thanh tinh tế. Thi phẩm thể hiện những đặc điểm của nghệ thuật phương Đông cổ nhưng đã vượt lên trên khuôn sáo, ước lệ: vẫn với nét bút chấm phá của lối tả cảnh trong thơ cổ nhưng hình ảnh hiện lên lại rất chân thực sinh động, vừa gợi hình sắc trực tiếp vừa thể hiện cái hồn, cái thần của cảnh vật.
Nhìn chung Thu vịnh chủ yếu đã vẽ nên bức tranh mùa thu ở làng quê Việt nam dù tác giả có gửi gắm vào thơ ít nhiều tâm sự. Đó là bức tranh thu đẹp một cách trong sáng, yên tĩnh, thanh bình. Cái hồn của bức tranh chính là ở đó. Điều này khiến cho rất nhiều độc giả đọc bài thơ thường liên tưởng đến những bức tranh thuỷ mặc cổ vẽ làng quê Việt Nam trên các bình gốm sứ...
3. “Đây mùa thu tới” là bức tranh thu của một tâm hồn cô đơn, khát khao giao cảm với cuộc đời:
Bức tranh thu của Nguyễn Khuyến thanh thoát, nhẹ nhàng, trong sáng nhưng man mắc buồn, còn Đây mùa thu tới của Xuân Diệu là một khối sầu cô quạnh như bao phủ từ bầu trời đến mặt đất, như giăng mắc ở khắp chốn không gian. Buồn vì lá rụng hoa tàn. Buồn vì cái rét đã bắt đầu len lỏi thấm vào lòng người gợi nỗi cô đơn. Hay là nỗi buồn đìu hiu từ chính hồn người toả ra, thấm vào cảnh vật?
Điểm khác biệt cơ bản ở Xuân Diệu so với Tam nguyên Yên Đổ về bút pháp là cách hành văn rất “Tây”, cách dùng từ táo bạo, hình ảnh thơ được miêu tả trực tiếp chứ không còn là những ước lệ, tượng trưng nữa.
Khác với Nguyễn Khuyến sử dụng những nét phác rất cổ điển khi viết về thiên nhiên: trời, nước, trăng, hoa ..., lại càng khác các nhà thơ cổ đã sử dụng hình ảnh sen tàn, cúc nở hoa, lá ngô đồng rụng ..., Xuân Diệu nhìn thấy tín hiệu mùa thu trước hết ở những hàng liễu:
                       Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
                       Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Nếu trong Thu vịnhNguyễn Khuyến tả ít, chủ yếu là gợi, thì ở Xuân Diệu là sự miêu tả trực tiếp một cách chi tiết: Những cây liễu yểu điệu bên hồ qua con mắt của nhà thơ, có dáng đứng nghiêng mình buông suối tóc dài, có hoàn cảnh “chịu tang”, có tâm trạng “đìu hiu”, “buồn”. Xuân Diệu đã khai thác triệt để thủ pháp láy âm mà ông tiếp thu được của trường phái thơ tượng trưng của Pháp để gợi tả dáng liễu yểu điệu: đìu- hiu, buồn- buông- xuống, đang- ngàn- hàng). Nghệ thuật này đã tạo nên một nhạc điệu buồn, du dương đầy gợi cảm.                       
Thu vịnh của Nguyễn Khuyến cũng giống như bao bài thơ Đường luật khác tối kị việc lặp chữ, năm mươi sáu tiếng trong bài là năm mươi sáu tiếng khác nhau, không hề có sự lặp lại. Nhưng đó không phải là qui định trong Thơ Mới, vì thế ở Đây mùa thu tới nhận ra tín hiệu mùa thu trên những hàng liễu, nhà thơ như khẽ reo lên:   
                          Đây mùa thu tới – mùa thu tới
                          Với áo mơ phai dệt lá vàng
Những chữ “mùa thu tới” lặp lại hai lần, kể cả trong tiêu đề là ba lần, thể hiện sự ngạc nhiên, thích thú của nhà thơ. Đằng sau những tiếng reo thầm hồ hởi ấy ta có thể hình dung ra ánh mắt trẻ trung, ngơ ngác của nhà thơ sững sờ trước vẻ đẹp bất ngờ của thiên nhiên khi mùa thu tới. Những nàng liễu đứng chịu tang không gợi sự tàn tạ mà vẫn choàng tấm áo “mơ phai” dệt bằng lá vàng, vừa đẹp vừa thơ mộng, gợi cảm giác thanh nhẹ, tươi sáng rất phù hợp với mùa thu. ở đây lại tiếp tục có một sự khác biệt trong cách dùng từ của Xuân Diệu so với Nguyễn Khuyến. Trong Thu điếu Nguyễn Khuyến viết:  Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo, lá là lá vàng, còn trong thơ thu của Xuân Diệu cũng gọi là lá vàng nhưng chưa vàng hẳn đó là màu vàng mơ, hơn thế còn là màu mơ phai. Một sự miêu tả chi tiết, chính xác đến gần như tuyệt đối. Với cách miêu tả ấy, thi nhân đã diễn tả rất đúng cái không gian thơ mộng, cái thần thái của mùa thu: Buồn nhưng không ảm đạm, buồn mà vẫn đẹp, nên hoạ nên thơ.
                       Hơn một loài hoa đã rụng cành
                       Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
                      Những luồng run rẩy rung rinh lá
                      Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh
Xuân Diệu sử dụng cách nói rất “Tây”: hơn một loài hoa và cách dùng từ rất táo bạo “rũa”. Đây là cách diễn đạt lạ với người đương thời và càng xa lạ hơn đối với những con người của thế kỉ trước như Nguyễn Khuyến. Thực chất cách diễn đạt này là kết quả của một sự quan sát tỉ mỉ những biến đổi tinh vi của vạn vật ngay khi mùa thu vừa tới, ngay khi mới chỉ hơn một loài hoa đã rụng cành và khi màu đỏ trong vườn lấn dần màu xanh từng tí một. Thi nhân đã nhận ra để rồi cùng hoà mình vào với cái lạnh của gió thu, lá thu, cây thu: Những luồng run rấy rung rinh lá - Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh. Thủ pháp láy âm một lần nữa phát huy tác dụng . Xuân Diệu như đem đến cho cho cảnh thu cái giá lạnh của chính hồn mình.
Cái giá lạnh trong bức tranh thu này được Xuân Diệu diễn tả bằng một câu thơ mới mẻ, đặc sắc, đầy ấn tượng:
                    Đã nghe rét mướt luồn trong gió
                    Đã vắng người sang những chuyến đò
Đã nghe rét mướt cũng là một cách diễn đạt rất hiện đại nhờ nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Một chữ luồn khiến cho cái rét được cụ thể hoá, được vật chất hoá, diễn đạt tinh tế cái rét đầu còn chưa hiện nguyên hình mà còn đang ẩn thân dấu mặt, len lỏi vào trong gió. Như vậy là cái lạnh của hơi thu đã thấm dần vào cảnh vật và con người, tạo nên cảm giác cô đơn. Cô đơn nên trăng cũng bơ vơ, đành tự ngẩn ngơ. Cô đơn khi nhìn thấy những bến đò bắt đầu quạnh vắng (Chứ không phải là không có người ). Cô đơn vì thấy tất cả như nhuốm màu uất hận chia li: hoa thì đã lìa cành, lá thì đang run rẩy chờ bay theo gió, người thì vắng vẻ, chim chóc cũng bỏ đi...
Mùa thu vừa mới khởi sự mà thi nhân đã như nhìn thấy trước cái chung cục của nó. Đó là một cái nhìn rất Xuân Diệu, cũng như ông đã từng thấy đối với mùa xuân: Xuân đang đến nghĩa là xuân đương qua – Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già.Thời gian là nỗi ám ảnh kinh khủng nhất đối với Xuân Diệu. Một con người ham sống, ham yêu như Xuân Diệu luôn lo sợ cùng với sự trôi chảy của thời gian, mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu cũng trôi đi mất. Tâm hồn luôn khát khao giao cảm với cuộc đời ấy luôn vội vàng, cuống quýt trước tất cả, luôn mang nỗi buồn chia li ngay cả khi sự vật mới bắt đầu...
Bài thơ khép lại với hình ảnh những thiếu nữ buồn không nói và một câu hỏi tu từ: nghĩ ngợi gì ? Đó là một nỗi buồn có duyên cớ và một câu hỏi đầy ý nghĩa .Cách kết thúc này đã mở ra những chân trời liên tưởng, cảm nhận riêng của người đọc.
Tóm lại, nếu Thu vịnh là bức tranh thu tĩnh thì Đây mùa thu tới là bức tranh thu động. Nếu cảnh trong Thu vịnh đẹp một cách trong sáng, thanh nhẹ và man mác buồn thì cảnh thu ởĐây mùa thu tới bao phủ bởi một mối sầu cô quạnh, cảnh thu đẹp nhưng buồn và giá lạnh. Thu vịnh là bức tranh thu đậm đà, chân thực về làng cảnh Việt Nam mặc dù thi nhân có gửi vào thơ ít nhiều tâm sự còn trong Đây mùa thu tới Xuân Diệu chỉ mượn cảnh thu, sắc thu, màu thu, tiếng thu để gửi gắm nỗi buồn. Nguyễn Khuyến chịu sự qui định của tính qui phạm trong văn học trung đại, nên Thu vịnh có kết cấu chặt chẽ, có niêm luật, vận đối, ngôn ngữ mực thước, trong sáng, ý tại ngôn ngoại; Xuân Diệu chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học phương Tây, là đại diện tiêu biểu của phạm trù văn học hiện đại nên Đây mùa thu tới đã hoàn toàn thoát li tính qui phạm trong văn thơ cổ, kết cấu tự do, dòng thơ chảy theo mạch cảm xúc, phong cách ngôn ngữ hiện đại. Thu Vịnh là sản phẩm của tính phi ngã, Đây mùa thu tới lại là tiếng nói của một cái tôi đầy cảm xúc, một cái tôi được giải phóng triệt để và có nhu cầu khẳng định mình bằng một tiếng nói riêng, một cảm nhận riêng, một cái nhìn riêng.
Chính những sự khác biệt ấy đã làm nên hai cá tính sáng tạo độc đáo giúp các thi nhân để lại cho hậu thế ngàn đời hai bức tranh thu được xếp vào hàng kiệt tác. Song, chúng ta hiểu, có một điểm đồng nhất giữa hai tâm hồn của hai thế kỉ ấy, đó là một trái tim đỏ thắm, một tâm hồn xanh và một cây bút diệu kì ...
Đặng Thị Thu Hiền
Theo http://sogddt.vinhphuc.gov.vn/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Sợ cha mẹ nên trốn tình vào câu hát Lời hát giao duyên kể về nỗi niềm cô gái thương thầm chàng trai/ Sợ cha mẹ nên trốn tình vào câu hát...