Một góc nhìn về nhạc phẩm
“Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn”
(ns.TCS): âm thanh của cái tên này quen thuộc đối với người Việt. Sự quen thuộc
sâu hay nông tùy vào con đường hạnh duyên của từng người với ông. Đa số người
biết ông nhờ đã vô tình hoặc hữu ý nghe nhạc Trịnh, nghe rồi có người “để gió
cuốn đi”, có người lẩm nhẩm hát theo hoặc học thuộc vài bài tủ … thường là thế!.
Cũng có những người vượt quá
hình thức hâm mộ trên, họ hướng lòng theo nhạc sỹ, thả trí theo gió sương, khắc
khoải – đòi đoạn cùng tác giả và mong muốn cùng ông Trịnh đạt đến một sự hòa điệu…
thế là, họ lôi các di cảo của Ngài Trịnh ra nghiên cứu.
Có tìm thì có thấy, có làm
thì có được. Vâng, đã có nhiều bài viết về ns.TCS: người thì để ý về tư tưởng –
triết lý của ông, người khác chú tâm về ca từ, có người tâm đắc về giai điệu –
tiết tấu bài hát, cũng có người mê chất thơ… kết quả là có nhiều phát hiện liên
quan đến TCS được đưa ra. Nhưng nhiều điều chưa phải là đủ! Vì “Duyên của hiền
nhân TCS” không chỉ có thế! Người viết cũng thuộc hàng ái mộ ns, nên đã suy tưởng
về ông và các nhạc phẩm. Vừa may, đọc được bài của tác giả Trương Hồng
Quang viết về ca từ của TCS trên nhipcautamgiao.net (1).
Nội dung bài viết quá súc
tích, có tính khoa học, có sử dụng nhiều ý kiến của các đấng bậc đáng kính… rất
tuyệt vời! Tuy nhiên, dù là hậu bối, người viết vẫn có những ý kiến riêng chưa
giống với tác giả về tác phẩm “Đóa Hoa Vô Thường”. Nay vì lòng ái mộ ngài Trịnh,
vì muốn thể hiện một chút tình cảm cá nhân với ông và vì nhận thấy điều sắp bày
tỏ chưa được đề cập kỹ ở các văn bài đã đăng… Người viết xin phép đọc lại tác
phẩm trên theo góc nhìn cá nhân. Kính mong quý vị rộng lượng. Xin cảm ơn.
*Tổng quan về ca từ của nhạc phẩm “Đóa
Hoa Vô Thường”
Ca từ của tác phẩm là một bài thơ gồm mười hai khổ thơ. Người
viết nhìn bài thơ này như lời kể, lời tâm sự của TCS về tình yêu – hôn nhân –
sinh ly tử biệt – đau khổ - giải pháp của ông trước những nghịch cảnh. Chúng ta
cùng nghe tâm sự của ông qua ca từ của bài.
1.
Mẫu người yêu lý tưởng và hành trình đi tìm người yêu của TCS:
Ở khổ thơ thứ 1: mẫu người yêu lý tưởng của TCS. Chúng ta cùng
ngâm thơ với ông:
“Tìm em tôi tìm
Mình hạc sương mai
Tìm trên non ngàn
Một cành hoa khôi
Nụ cười mong manh
Một hồn yếu đuối
Một bờ môi thơm
Một hồn giấy mới”.
Rõ ràng ông có chủ định đi “tìm em”, em là ai? Em như thế nào?
Ông chưa nhận diện được. Ông chưa biết cô gái này nhưng ông có tiêu chuẩn chọn
và tìm người yêu. Cụ thể là cô gái đó phải “mình
hạc sương mai” có nghĩa là cô phải có vóc dáng thân hình từ gầy đến
vừa, không thuộc tuýp “dư mỡ”. Kế đến, cô gái đó phải đẹp cỡ “hoa khôi hay hoa
hậu” vì “một cành hoa khôi”
là tiêu chuẩn thứ hai. Người đẹp này gia thế và bản thân không ở cấp bình dân,
vì hình ảnh “một cành” khiến ta liên tưởng đến câu “kim chi ngọc diệp”. Tiêu
chuẩn thứ tư là cô gái đó phải thật nhẹ nhàng, tế nhị sâu sắc, vén khéo, kín
đáo… cô phải có ít nhất những đức tính trên thì cô mới có được “nụ cười mong manh” (yểu
điệu thục nữ). Đó mới chỉ là hình thức bề ngoài.
Còn nội tâm của cô gái phải có các đức tính: có nội tâm sâu sắc,
sự tinh tế hiểu người, sự khiêm nhường,… những yêu cầu trên ông thể hiện ở câu
“một hồn yếu đuối”
(tâm hồn nhạy cảm). Chưa hết! TCS muốn là nếu có cô gái đã hội đủ những yếu tố
trên rồi thì cô ta không phải là “một vị thánh!” Vì vị thánh thì còn gì dành
cho ông! Ông muốn một tình yêu đôi lứa có tính dục, có “một bờ môi thơm” đàng
hoàng, đầy đủ. Có nghĩa là phải có được tình yêu trai gái giữa ông và cô ấy.
Tiêu chuẩn cuối cùng của ông về người yêu lý tưởng là “một hồn giấy mới”. Câu này
cho người viết hiểu là: đối với cô gái thì tình yêu dành cho ông chính là “mối
tình đầu của cô”, cô gái phải ngọc khiết băng trinh theo nghĩa ngây thơ, trong
sáng, chưa biết sự gì… Điểm qua khổ thơ thứ nhất, cho chúng ta thấy mẫu người
yêu lý tưởng của TCS. Kể ra thì tiêu chuẩn vượt sao! có phải không quý độc giả?
Vâng, quý vị khỏi cần cân nhắc chuyện đồng ý hay không đồng ý với người viết,
vì TCS đã thú nhận rằng: “đúng…”. Xin mời cùng xem lời than thở vất vả
của TCS ở khổ thơ thứ hai:
“Tìm em tôi tìm
Nhủ lòng tôi ơi
Tìm đêm chưa từng
Tìm ngày tinh khôi
Tìm chim trong đàn
Ngậm hạt sương bay
Tìm lại trên sông
Ông tự nhủ lòng phải đi tìm “cô ấy”. Cô ấy là ai? ông chưa biết,
chưa thấy thì phải đi tìm… tìm từ sáng… đến trưa… đến tối… chưa thấy! hết ngày
này sang ngày khác cứ đi tìm “nhủ
lòng tôi ơi”. Bỗng ông ngộ ra còn có những nơi chỗ mình chưa tìm,
đó là “tìm đêm chưa từng –
tìm ngày tinh khôi”. Xin quý độc giả thử đặt mình vào tâm trạng của
TCS xem. Ban ngày, trời sáng là lúc mọi người làm việc – hiện diện với nhau, đó
là cơ hội để TCS tìm người yêu tiêu chuẩn. Tìm hoài không thấy!!! Ông tự vấn và
phát hiện có những khoảnh khắc ông đã không để ý: “lúc mọi người đi ngủ - ông
cũng đi ngủ!” biết đâu lúc ông ngủ thì cô ấy xuất hiện!!! Vậy thì phải tìm cô
ấy cả trong đêm, cả trong đầu ngày. Vất vả thêm rồi đây!
Nhưng dường như ông đã mệt mỏi
tìm người yêu nơi phố chợ, nên trí tưởng của ông lại mượn triết lý “Bánh xe
luân hồi của Phật giáo” để nghĩ “Biết đâu em đang là cánh chim “ngậm hạt sương bay” trong
một đàn chim đang bay trên bầu trời mà ông ngẫu nhiên nhìn thấy. Rồi ông lại
mượn quan niệm của Đạo Lão với “Ngọc Hoàng – Tiên – Bụt” để hy vọng rằng: “biết
đâu em là nàng tiên trên trời đã xuống tắm ở một bãi sông… rồi đánh rơi chiếc
hài! “Tìm lại trên sông -
những dấu hài”.
Nói chung lại là ông Trịnh nhà minh đi tìm người yêu vất vả bằng
cả thân – trí – tâm và tròn vẹn thời gian.
Ở khổ thơ thứ ba, ông nói rõ hơn về những dặm trường của công
cuộc tìm kiếm: “tìm em xa
gần” là tìm ở mọi nơi. Tìm trong “đất trời rộn ràng” là tìm trong mùa xuân rộn
ràng, hay cũng có thể hiểu là tìm trong đất trời nổi cơn giông bão. “Tìm trong sương hồng” là
tìm trong giá rét ban đêm và mù sương lúc mặt trời thức giấc. Hoặc tìm em “trong chiều bạc mệnh” là
tìm cả trong nỗi đau thể lý, tâm lý của mình hay trong những cuộc sinh ly tử
biệt của kiếp người.
“Tìm em xa gần,
đất trời rộn ràng
Tìm trong sương hồng, trong chiều bạc mệnh
Trăng tàn nguyệt tận chưa từng tuyệt vọng đâu em”
Tìm trong sương hồng, trong chiều bạc mệnh
Trăng tàn nguyệt tận chưa từng tuyệt vọng đâu em”
Tìm em thâu đêm, từ lúc trăng lên đến lúc trăng tàn, tìm em từ
tháng nguyệt - Tết Nguyên Tiêu đến đêm ba mươi tết “nguyệt tận”… Quá vất vả cho
ông Trịnh.
Chúng ta không nghe ông nói đến bạn tri kỷ, bạn đường cùng đi
với ông, nên người viết ngồi nghĩ đến ông mà thấu cảm với những cố gắng kiên
trì của ông. Dĩ nhiên, “người độc hành” ấy có niềm tin thật vững vàng vì ông
“chưa từng tuyệt vọng - đâu em”. Bái phục – bái phục.
2. Tương phùng (khổ thơ 4 và 5)
“Tìm trong vô
thường” câu thơ đầu của khổ thơ 4, cho người đọc cảm nhận là: Ông
TCS chịu ảnh hưởng của triết lý Nhà Phật với khái niệm vô thường và thường
hằng. Những vật – những cảnh – những ý tưởng ta đang nhìn thấy, đang cảm, đang
niệm… thảy vô thường (luôn thay đổi, không trường cửu), Cõi Phật mới là cảnh
giới thường hằng. Ông Trịnh dùng câu thơ trên muốn mượn ý “vô thường” để giới
thiệu bối cảnh ông gặp được “cô ấy”, ý khác là câu mở đầu khổ thơ số 4 để dẫn
người nghe vào cuộc “tương phùng” của ông với nàng. Khung cảnh ông muốn nói tới
là “một ngôi chùa”. Mời quý độc giả đọc tiếp câu sau “có đôi dòng kinh”. Vâng,
ông muốn diễn tả rằng: trong chùa đang có người cầu kinh, số người đang cầu
kinh là từ hai người trở lên (có
đôi …) Đôi dòng kinh
cũng có thể hiểu là: tác giả và cô ấy cùng cầu kinh trong chùa, ngẫu
nhiên. Và Trời đã ra tay tạo duyên bằng cơn mưa dài và nặng hạt, câu “sấm bay rền vang” nói lên
điều đó. Người Trung Quốc có câu nói “vũ vô năng tỏa – năng lưu khách” (mưa không có sức kiềm chế - nhưng lại
có khả năng lưu khách ở lại) thật quả hợp với cảnh huống đầy duyên
nợ của hai người mà chúng ta đang đề cập đến.
Xin mời tiếp tục nghe lời tâm sự của tác giả.
"Bỗng
tôi thấy em – dưới chân cội nguồn”. Nếu chúng ta đã thấu cảm với
TCS về quá trình “đi tìm” của ông được nói tới ở ba khổ thơ đầu, thì chúng ta
mới có thể ước lượng được sức nặng của niềm vui vỡ òa trong ông khi reo lên câu
thơ đầy choáng ngợp “BỖNG TÔI THẤY EM”. Tìm trong mọi nơi, tìm trong mọi sự,
tìm trong mòn mỏi mà không tuyệt vọng… Nay “tôi thấy em”, người viết không đủ
từ ngữ để nói hết được tâm trạng của ông, nhưng hình dung được cảm giác căng
phồng - ngộp thở - thảng thốt trong niềm vui kín hồn của tác giả.
Con tim của nhạc sỹ từ nay đã có chủ và ông tự nguyện dâng tình
yêu nồng nàn nhất cho nàng dưới chân bàn thờ qua câu “dưới chân cội nguồn”. Có
thể độc giả nghĩ tôi khiên cưỡng trong lý luận này. Xin phép nói thêm vài lời:
hai người cùng cầu kinh, đây là hoạt động của niềm tin – cả hai là “tổng hòa
của những vô thường”, cầu kinh là cầu với các Đấng Thường Hằng ở trên bàn thờ.
Vậy hai người đang quỳ dưới đất kia không phải là đang ở “dưới chân cội nguồn” sao!
Đến đây, chúng ta xác định được: TCS đã “thấy” người yêu lý
tưởng rồi. Vấn để tiếp theo là: chinh phục nàng. Ông dùng bốn câu thơ cuối của
khổ thơ thứ năm để nói lên công phu chinh phục.
“Tôi mời em về
đêm gội mưa trong
Em ngồi bốn bề thơm ngát hương trầm
Trong vườn mưa tạnh, tiếng nhạc hân hoan
Trăng vàng khai hội một đóa hoa quỳnh”
Em ngồi bốn bề thơm ngát hương trầm
Trong vườn mưa tạnh, tiếng nhạc hân hoan
Trăng vàng khai hội một đóa hoa quỳnh”
Xin điểm sơ vài chiêu: ông bắt chuyện cầu thân – nhờ mưa dai nên chuyện
trò dài – tận dụng lợi thế thiên thời là bầu trời đêm sạch sẽ và mát mẻ se se
lạnh sau cơn mưa (đêm gội
mưa trong) –
mời nàng đến một nơi hết sức lãng mạn và ấm cúng “thơm ngát hương trầm” – rồi
ngâm thơ, dệt nhạc tặng nàng (tiếng nhạc hân hoan) – rồi nhờ dịp khai hội trăng vàng… Nói
chung là, để chinh phục được tình yêu tinh khôi của nàng. Ông phải tỏ thành ý
hết sức… những điều trên cho người viết suy nghĩ và ngộ được nhiều ý rất hay,
xin nêu một số cảm nhận: Ông yêu cô ấy, nhưng cũng cần thể hiện thế nào để cô
ấy cũng tự nguyện yêu ông. Đây là một tình yêu song phương cần có tình cảm từ
cả hai người. Tình yêu của họ càng có tính nhân văn ở chỗ là cả hai “tự nguyện
và tôn trọng nhau”, chứ không phải là tình chiếm đoạt. Kết quả: một mối tình
đẹp đã chớm nở và ông đặt tên cho mối tình này là “MỘT ĐÓA HOA QUỲNH”.
BVHH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét