Thứ Ba, 27 tháng 9, 2016

Tia chiếu khủng khiếp của kỹ sư Garin 1

Tia chiếu khủng khiếp của kỹ sư Garin 1
LỜI NÓI ĐẦU
Bạn đọc nước ta đã làm quen với nhà văn Xô viết Alếchxây Nhicôlaiêvich Tônxtôi qua hai bộ tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông: Con đường đau khổ và Pie đệ nhất. Chúng ta còn được thưởng thức Con đường đau khổ qua một bộ phim màn ảnh thường và một bộ phim màn ảnh nhỏ.
"Con đường đau khổ" mà các trí thức Nga Têlêghin, Rốtsin, Đasa, Cachia đã trải qua để đến với Cách mạng cũng chính là con đường tác giả đã phải đi qua với bao trăn trở nhọc nhằn. Vốn xuất thân từ một gia đình quý tộc nhỏ có truyền thống văn học, A.N.Tônxtôi ngay từ những năm đầu thế kỷ 20 đã là một trong những nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc. Khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ, ông ra mặt trận làm phóng viên, nhưng do hạn chế về tư tưởng, ông không nhận thức được thực chất của cuộc chiến tranh đế quốc. Ông đã hân hoan chào mừng Cách mạng tháng Hai năm 1917, nhưng khi Cách mạng tháng Mười bùng nổ, ông lại hoang mang dao động. Bị đám văn nghệ sĩ suy đồi lôi kéo, năm 1918, ông đã cùng với gia đình "di tản" qua Pháp, sống cuộc đời lưu vong đầy day dứt và dằn vặt. Trong suốt thời gian này, A.N.Tônxtôi vẫn tiếp tục viết những tác phẩm thấm đượm nỗi nhớ Tổ quốc da diết. Tập đầu Hai chị em của tiểu thuyết bộ ba Con đường đau khổ, truyện Thời thơ ấu của Nhikita, tiểu thuyết Aêlita đã ra đời trong những năm lưu vong ấy.
Đầu năm 1923, A.N.Tônxtôi trở về Tổ quốc, tình nguyện đứng vào hàng ngũ những người trí thức cống hiến mọi sức lực của mình cho công cuộc xây dựng đất nước. Từ đấy bắt đầu một thời kỳ sáng tác mới rất phong phú của nhà văn với nhiều tác phẩm có giá trị, trong đó có hai tập Năm 1918  Buổi sáng ảm đạm đã được viết xong để hoàn thành bộ tiểu thuyết sử thi đồ sộ Con đường đau khổPie Đệ nhất, bộ tiểu thuyết lịch sử xuất sắc trong văn học Xô viết, cũng là kết quả lao động sáng tạo lâu dài của A.N.Tônxtôi từ năm 1929 đến khi ông qua đời.
Trong những năm chiến tranh chống phát xít Đức, xuất phát từ lòng yêu nước sâu sắc, thiết tha và niềm tin mạnh mẽ vào sức mạnh vô địch của quân và dân Xô Viết, nhà văn đã viết nhiều bài chính luận có giá trị và tiêu biểu nhất là tác phẩm kịch Ivan Lôi đế.
A.N.Tônxtôi không chỉ là một nhà văn lớn mà còn là một nhà hoạt động văn hóa xã hội xuất sắc. Ông đã được bầu làm đại biểu Xô viết tối cao Liên Xô và là viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô. Với tư cách là đại biểu của nền văn học Xô viết, ông tham dự nhiều hội nghị quốc tế ở nước ngoài để đấu tranh bảo vệ hòa bình thế giới. Ông đã được Tổ quốc tặng thưởng nhiều huân chương cao quý. Năm 1945, nhà văn qua đời ở Mátxcơva, thọ 62 tuổi.
A.N.Tônxtôi viết tiểu thuyết Tia chiếu khủng khiếp của kỹ sư Garin năm 1926-1927. Đến năm 1937, tác giả sửa lại tiểu thuyết này và thêm một số chương mới.
Tia chiếu khủng khiếp của kỹ sư Garin được đánh giá là tác phẩm mở đầu cho thể loại truyện khoa học viễn tưởng Xô viết. Rất lâu trước khi tia lade ra đời, A.N.Tônxtôi đã nói đến một loại tia chiếu vừa là một phương tiện khoa học, lại vừa là một thứ vũ khí giết người và tàn phá khủng khiếp. Nhưng phải thấy rằng, tia chiếu viễn tưởng này chỉ được dùng để làm nổi bật cái hiện thực gần gũi, nóng bỏng lúc bấy giờ. Đó là cuộc tiến công trắng trợn, bẩn thỉu của đế quốc Mỹ vào châu Âu và phần thế giới còn lại, với mưu đồ làm bá chủ thế giới. Đó là thảm họa phát xít độc tài đang đe dọa hòa bình, chuẩn bị lôi kéo thế giới vào một cuộc chiến tranh mới còn ghê gớm hơn chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Đó là lực lượng cách mạng thế giới đang trỗi dậy mạnh mẽ với trụ cột là nước Nga Xô viết, Nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới. Đó là vấn đề bảo vệ "chất xám" để "chất xám" có thể phục vụ cho Tổ quốc, cho hoà bình, chứ không phải trở thành công cụ nguy hiểm của bọn tư bản cuồng chiến...
Cái hiện thực gần gũi, nóng bỏng trên đây đã được tác giả thể hiện tài tình, sinh động, lôi cuốn trên từng trang Tia chiếu khủng khiếp của kỹ sư Garin. Và lý thú thay, cho đến tận nay, hiện thực ấy vẫn không hề mất đi tính "gần gũi, nóng bỏng". Chính vì vậy, nhân dịp kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Mười thắng lợi, đi đôi với việc tái bản bộ tiểu thuyết lịch sử Pie Đệ nhất, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc tiểu thuyết mang tính chất khoa học viễn tưởng nhưng rất hiện thực: Tia chiếu khủng khiếp của kỹ sư Garin.
NHÀ XUẤT BẢN ĐÀ NẴNG
Izdatelstvo METALLURGIJA, Moskva, 1985
Vào mùa này, bữa sáng, giới doanh nghiệp Paris thường tụ tập ở khách sạn "Magiextích". Ở đây có thể gặp những mẫu người thuộc mọi dân tộc, trừ người Pháp. Họ vừa ăn uống vừa bàn bạc công việc và ký hợp đồng giữa tiếng nhạc, tiếng mở nút chai lốp bốp và tiếng phụ nữ líu lo.
Trong gian đại sảnh lộng lẫy trải toàn những loại thảm quí, cạnh chiếc cửa quay bằng kính, một người đàn ông cao lớn bệ vệ đi đi lại lại. Tóc ông ta đã bạc, khuôn mặt cạo nhẵn đầy cương nghị như gợi nhớ đến quá khứ anh dũng của nước Pháp. Ông ta mặc chiếc áo đuôi tôm rộng màu đen, đi tất lụa và đôi giày bóng lộn có khóa cài. Trên ngực ông vắt ngang một sợi móc xích bằng bạc. Đó là người quản trị tối cao, người đại diện tinh thần cho công ty cổ phần đứng ra kinh doanh khách sạn "Magiextích".
Chắp đôi tay mắc chứng thống phong ra sau lưng, thỉnh thoảng ông ta lại dừng bước trước lớp tường kính, nơi khách khứa đang dùng bữa, giữa những tàu lá cọ và những cây cối nở hoa trồng trong các thùng gỗ sơn xanh. Vào phút đó trông ông giống như một vị giáo sư đang quan sát đời sống thảo mộc và côn trùng qua lớp kính của thành bể nuôi cá.
Các bà các cô người nào cũng xinh đẹp. Các cô gái trẻ phơi phới tuổi xuân ánh mắt đầy quyến rũ, mắt xanh là các cô gái Ăngglôxắcxông, mắt đen sẫm như màn đêm là các cô gái Nam Mỹ, mắt tím nhạt là các cô gái Pháp. Những bà đứng tuổi thì dùng cách phục sức lòe loẹt để làm cho vẻ đẹp đã tàn úa của mình thêm hấp dẫn, chẳng khác gì gia giảm thêm món ăn bằng thứ nước chấm quá cay.
Đúng, về đám phụ nữ thì chẳng có gì đáng ngại. Nhưng người quản trị tối cao kia không thể nói như vậy được về cánh nam giới ngồi trong phòng ăn.
Từ đâu, từ đám cỏ dại nào mà sau chiến tranh lại xuất hiện lũ đê tiện béo phị kia với thân hình ngắn ngủn, với những ngón tay đầy lông lá đeo nhẫn, với những đôi má húp híp khiến lưỡi dao cạo phải vất vả lắm mới chinh phục nổi.
Chúng vội vã nốc lấy nốc để mọi thứ đồ uống suốt từ sáng này đến sáng khác. Những bàn tay lông lá của chúng hối hả vơ lấy vơ để tiền của như những thứ đó vốn có từ trong không khí... Số đông bọn chúng từ Mỹ, từ cái nơi đáng nguyền rủa, nơi người ta lội trong vàng đến tận đầu gối, luồn sang đây và định mua rẻ toàn bộ cái thế giới cũ tốt lành này.
2
Một chiếc rônxơ- rôixơ - kiểu xe dài có phần thân bằng gỗ hồng sắc - nhẹ nhàng lăn bánh đến thềm khách sạn. Người quản trị vội vàng chạy đến cửa quay, sợi móc xích trên ngực ông ta kêu lẻng xẻng.
Người đầu tiên từ xe bước vào khách sạn là một gã đàn ông tầm thước, da vàng bủng, bộ râu đen xén ngắn, mũi mập ú, hai lỗ mũi phồng lên. Y mặc chiếc áo măng tô dài, rộng thùng thình, và đội chiếc mũ nồi kéo sụp xuống tận lông mày.
Y dừng lại, cau có chờ đợi người phụ nữ cùng đi đang đứng nói chuyện với một thanh niên vừa từ sau chiếc cột ở cổng khách sạn nhảy bổ ra đón xe. Ả gật đầu với y rồi đi qua cánh cửa quay. Đấy là Dôia Mônrô nổi tiếng, một trong những phụ nữ đẹp nhấtParis - mắt xám, vóc người thon thả, cao, mặc bộ quần áo dạ màu trắng.
- Chúng ta sẽ ăn chứ, anh Rôlinh? - ả hỏi người đàn ông đội mũ nồi.
- Không, anh còn phải nói chuyện với hắn đã. Sau đó mới ăn được.
Dôia nhếch miệng mỉm cười như muốn tỏ ra khoan dung với cái giọng trả lời gay gắt ấy. Đúng lúc đó, người thanh niên đã nói chuyện với Dôia ban nãy ở cạnh xe nhảy phóc qua cửa. Hắn mặc chiếc áo măng tô cũ kỹ để phanh ra, tay cầm can và chiếc mũ mềm. Khuôn mặt kích động của hắn đầy tàn nhang. Bộ ria cứng lưa thưa như dán thêm vào. Rõ ràng hắn định bắt tay Rôlinh, nhưng y không rút tay khỏi túi áo khoác, nói bằng một giọng còn gay gắt hơn nữa:
- Anh đến chậm mười lăm phút đấy, anh Xêmiônốp ạ.
- Tôi bị giữ lại... Cũng vì công việc của chúng ta thôi... Xin ông tha lỗi cho... Mọi việc đã thu xếp xong... Họ đồng ý... Ngày mai họ đã có thể đi Vácsava rồi...
- Nếu anh còn gào lên cho cả khách sạn nghe thấy thì anh sẽ bị tống đi đấy. - Rôlinh nói và chằm chằm nhìn Xêmiônốp bằng cặp mắt đục ngầu không hứa hẹn chuyện gì tốt đẹp.
- Xin lỗi ông... Tôi sẽ nói thầm thôi... Ở Vácsava, mọi thứ đều đã chuẩn bị xong: hộ chiếu, quần áo, vũ khí và những thứ khác nữa. Đầu tháng tư, họ sẽ vượt qua biên giới...
- Bây giờ, tôi và bà Dôia sẽ đi ăn, - Rôlinh nói. - Ông hãy đến gặp các ông ấy và bảo là tôi muốn gặp họ hôm nay, vào lúc hơn bốn giờ. Anh báo trước cho họ biết là nếu họ tìm cách bịp tôi thì tôi sẽ trao họ cho cảnh sát.
Cuộc nói chuyện này diễn ra vào đầu tháng năm, năm 192...
3 
Ở Lêningrát, vào lúc rạng sáng, một chiếc thuyền hai mái chèo dừng lại cạnh dãy phao chắn của Trường huấn luyện chèo thuyền trên sông Crextôpen.
Có hai người bước ra khỏi thuyền và trao đổi vài lời ngắn ngủi với nhau ngay cạnh mặt nước - thật ra chỉ một người nói, giọng xẵng và như ra lệnh, còn người kia thì nhìn dòng nước mênh mông, tối sẫm, đang chảy êm đềm.
Sau đó, cả hai cúi xuống thuyền và ánh diêm đã chiếu sáng khuôn mặt họ. Họ lấy mấy gói bọc từ đáy thuyền lên; người hồi nãy im lặng cầm lấy mấy gói ấy và biến mất trong rừng, còn người kia nhảy xuống thuyền, đẩy thuyền khỏi bờ và vội vã khua cọc chèo kêu ken két. Hình bóng người đang chèo thuyền lướt qua dải nước ửng hồng rồi tan đi trong bóng tối ở bờ bên kia. Những đợt sóng nhỏ vỗ vào dãy phao chắn.
Đêm đó, Taraskin, hội viên câu lạc bộ "Xpáctác", tay chèo chuyên ngồi phía trước trên loại thuyền đua hai chỗ ngồi, làm nhiệm vụ trực ban ở câu lạc bộ. Vì tuổi còn trẻ và tiết trời lại đang là mùa xuân, nên Taraskin không chịu hoài phí những giờ phút trôi nhanh của cuộc đời vào việc ngủ: anh ngồi bó gối trên dãy phao chắn, bên làn nước như còn ngái ngủ.
Anh có đủ chuyện để suy nghĩ trong cảnh tĩnh mịch ban mai này. Đã hai năm liền, các tay chèo Matxcơva, những kẻ không biết đến cả mùi nước thật sự nữa, đã liên tiếp đánh gục cánh vận động viên thuộc Trường huấn luyện chèo thuyền trong các loại thuyền một người, bốn người và tám người. Thật bực mình!
Nhưng là một vận động viên, anh biết rằng phải nếm mùi thất bại rồi mới có thể đạt được thắng lợi. Đó là một. Ngoài ra, lại còn vẻ mỹ lệ của buổi bình minh mùa xuân thoang thoảng hương cỏ cay nồng và cây cối ẩm ướt này nữa. Có lẽ, những yếu tố đó đã giúp Taraskin giữ được sự bình tĩnh cần thiết để luyện tập trước khi tham gia những cuộc đua tài lớn vào tháng sáu.
Ngồi trên dãy phao chắn, anh nhìn thấy chiếc thuyền hai mái chèo neo lại rồi bơi đi. Taraskin vốn khá thản nhiên với những hiện tượng của cuộc sống. Nhưng trong chuyện này, anh cảm thấy có một chi tiết thật lạ lùng: hai người lúc nãy bước lên bờ giống nhau hệt như hai mái chèo vậy. Cùng một khổ người, cùng mặc loại măngtô rộng, cùng đội loại mũ mềm và kéo sụp xuống trán, cùng để một kiểu râu dê y như nhau.
Nhưng suy đến cùng thì Nhà nước có cấm lang thang vào ban đêm, trên bộ hoặc dưới nước, với kẻ giống hệt mình đâu cơ chứ! Chắc hẳn Taraskin đã quên bẵng đi ngay hai kẻ râu dê kia nếu như không có một biến cố lạ lùng xảy ra ngay buổi sáng hôm đó, gần Trường huấn luyện chèo thuyền, trong khu rừng bạch dương, tại một ngôi nhà nghỉ đổ nát với các ô cửa sổ bịt kín.
4
Khi mặt trời hiện lên từ ánh bình minh hồng rực bên trên những lùm cây rậm rạp của các hòn đảo thì Taraskin vươn tay vươn chân, khiến các khớp xương kêu lên răng rắc, rồi đi vào sân câu lạc bộ để thu dọn đám rẻo gỗ vụn. Lúc đó vào quãng hơn năm giờ sáng. Cánh cửa vườn bỗng kẹt mở, và Senga dắt xe đạp, theo con đường nhỏ ẩm ướt, bước lại gần.
Senga là một vận động viên dày công luyện tập, lực lưỡng và nhanh nhẹn, vóc người tầm thước, cổ rắn chắc, điệu bộ thoải mái, điềm tĩnh và thận trọng. Anh công tác ở Ban điều tra hình sự và chơi thể thao để tăng cường sức khỏe.
- Thế nào, tình hình ra sao, đồng chí Taraskin? Mọi chuyện đều ổn chứ? - anh vừa hỏi vừa dựng xe đạp cạnh bậc thềm - Tôi đến làm lụng một lát đây... Anh nhìn kìa, rác rưởi mới khiếp chứ.
Anh cởi áo va rơi, xắn tay áo sơ mi trên đôi tay gầy, gân guốc, rồi bắt đầu thu dọn khu sân câu lạc bộ còn ngổn ngang những vật liệu để lại sau khi sửa chữa hệ thống phao chắn.
- Hôm nay, anh em từ nhà máy sẽ đến đây và chỉ trong một đêm, chúng tôi sẽ sắp đặt ngăn nắp hết - Taraskin nói - Còn đồng chí thì sao, đồng chí Senga, đồng chí sẽ ghi tên vào đội đua thuyền sáu người chứ?
- Tôi chẳng biết tính toán ra sao nữa - Senga vừa đáp vừa lăn thùng hắc ín - Một mặt, phải đánh gục đội Mátxcơva, nhưng mặt khác, tôi sợ là không tập luyện đều đặn được... Chúng tôi đang vướng phải một vụ thật nực cười.
- Lại một bọn cướp nào đó chăng?
- Không, cao hơn nữa - một tên tội phạm cỡ quốc tế kia.
- Thật đáng tiếc, - Taraskin nói - anh mà tham gia thi đấu được thì tốt quá.
Bước lên dãy phao chắn và nhìn những vệt nắng lấp lánh suốt mặt sông, Senga gõ cán chổi một cái rồi thấp giọng gọi Taraskin:
- Anh có biết rõ những ai sống trong các nhà nghỉ quanh đây không?
- Có đám dân lang thang sống lẩn quất ở đâu đó.
- Thế có ai đến ở một trong các nhà nghỉ này vào khoảng giữa tháng ba không?
Taraskin liếc nhìn dòng sông rực rỡ ánh nắng và lấy hai bàn chân cọ vào nhau.
- Có đấy, trong khu rừng nhỏ kia kìa, - anh đáp, - Tôi nhớ là quãng bốn tuần trước đây có trông thấy khói bốc ra từ ống khói. Chúng tôi cho rằng đấy hoặc là bọn trẻ con bơ vơ, hoặc là bọn cướp.
- Anh có trông thấy một người nào đó trong nhà nghỉ ấy không?
- Gượm đã, anh Senga. Có lẽ đúng hôm nay tôi vừa trông thấy đấy.
Và Taraskin liền kể về hai người đã cập thuyền vào chỗ bờ sông lầy lội vào lúc rạng sáng.
Senga khẽ nói theo: "Thế đấy, thế đấy", cặp mắt sắc sảo của anh nheo lại.
- Ta đi thôi, anh hãy chỉ cho tôi ngôi nhà nghỉ đó, - Senga nói và chạm tay vào bao súng lục đeo ở thắt lưng, hơi lệch về phía sau.
5
Ngôi nhà nghỉ trong khu rừng bạch dương còi cọc hình như vô chủ - bậc thềm mục nát, các ô cửa sổ bị bịt chặt bằng những tấm gỗ đóng đè lên cánh cửa. Kính trên tầng nóc đã long ra, những góc nhà bên dưới các mảnh ống máng còn sót lại thì phủ đầy rêu; rau lê mọc rậm rạp dưới các bậu cửa sổ.
- Anh nói đúng, ở đây có người thật, - Senga nhận xét sau khi quan sát ngôi nhà nghỉ từ sau hàng cây, rồi anh thận trọng đi vòng quanh ngôi nhà. - Hôm nay đã có người đến đây... Nhưng chúng phải leo qua cửa sổ để làm cái quái gì nhỉ? Taraskin, anh hãy lại đây, chỗ này có chuyện gì đó không ổn.
Họ bước nhanh đến bậc thềm. Trên bậc thềm hiện rõ nhiều vết chân. Bên trái bậc thềm, một cánh cửa sổ treo nghiêng lơ lửng - rõ ràng là mới bị giật ra. Cửa sổ mở toang vào bên trong. Phía dưới cửa sổ, trên lớp cát ẩm ướt, lại hằn những vết chân người. Những vết chân đó hẳn là của một người nặng nề, còn những vết chân khác thì nhỏ hơn, hẹp, mũi giày chếch về phía trong.
- Trên bậc thềm có những vết giày khác, - Senga nói.
Anh ngó vào cửa sổ, huýt một tiếng rồi gọi:
- Này, bác ơi, cửa sổ nhà bác mở toang thì dễ bị cuỗm lắm đấy.
Không có tiếng đáp lại. Từ căn phòng lờ mờ tối tỏa ra một thứ mùi lờ lợ khó chịu.
Senga gọi to hơn rồi trèo lên bậu cửa sổ, rút súng lục ra và nhẹ nhàng nhảy vào phòng. Cả Taraskin cũng theo gót anh.
Căn phòng đầu tiên rỗng tuếch, ngổn ngang gạch vỡ, vôi vữa và những mảnh báo. Cánh cửa khép hờ dẫn sang nhà bếp. Tại đây, trên bệ đá có chụp sắt han gỉ, trên mấy chiếc bàn và ghế đẩu là mấy cái bếp dầu, lò nồi bằng sứ, bình cổ cong bằng thủy tinh và kim loại, hộp sắt tây và hòm kẽm. Một bếp dầu vẫn còn xèo xèo cháy nốt.
Senga lại gọi: "Này, bác ơi!" rồi lắc đầu, thận trọng mở hé chiếc cửa dẫn sang căn phòng tối lờ mờ bị những tia nắng lọt qua khe cửa cắt ngang.
- Ông ta kia kìa! - Senga nói.
Trên chiếc giường sắt ở cuối phòng có một người mặc quần áo đang nằm ngửa, tay vắt ra sau gáy và bị buộc chặt vào giát giường. Hai chân bị trói bằng dây thừng. Khoảng áo vét tông và sơ mi trên ngực bị rách nát. Đầu ngửa ra một cách thiếu tự nhiên, bộ râu thưa vểnh lên nhọn hoắt.
- Chà, bọn chúng ra tay mới khiếp chứ, - Senga vừa nói vừa xem xét con dao Phần Lan cắm ngập đến tận chuôi vào ngực người bị giết. - Anh nhìn này...
- Đồng chí Senga ạ, đây chính là kẻ đã đi thuyền đến đấy. Anh ta mới bị giết cách đây tiếng rưỡi đồng hồ là cùng.
- Anh hãy ở lại đây canh gác, không được động đến một thứ gì và không cho một ai vào hết. Anh hiểu chứ, Taraskin?
Vài phút sau, Senga gọi điện thoại từ câu lạc bộ:
- Cử ngay các đội công tác đặc biệt đến các nhà ga... Kiểm tra tất cả các hành khách... Cử các đội công tác đặc biệt đến khắp các khách sạn. Kiểm tra tất cả những ai trở về khoảng giữa sáu giờ rưỡi và tám giờ sáng. Cho một đồng chí đến trợ giúp tôi. Đem theo cả chó nữa.
6 
Trong khi chờ đợi con chó chuyên săn lùng, Senga bắt tay vào việc khám xét kỹ lưỡng ngôi nhà nghỉ, bắt đầu từ gian gác xép.
Đâu đâu cũng bề bộn rác rưởi, kính vỡ, những mảnh giấy dán tường và những hộp đồ hộp rỗng không đã han gỉ. Các cửa sổ chăng kín mạng nhện, trong các góc nhà mọc đầy nấm và rêu mốc. Chắc hẳn ngôi nhà đã bị bỏ hoang từ năm 1918. Chỉ riêng nhà bếp và căn phòng có kê chiếc giường sắt là có người ở. Không một chỗ nào có dấu vết gì của các tiện nghi hoặc thức ăn thừa, ngoài chiếc bánh mì trắng nướng theo kiểu Pháp và mẩu xúc xích tìm thấy trong túi kẻ bị giết.
Không có người sống thường xuyên ở đây, người ta chỉ tạm thời đến để làm một việc gì đó cần giấu giếm. Đó là kết luận đầu tiên của Senga sau khi lục soát. Việc khám xét nhà bếp chứng tỏ rằng ở đây người ta đang nghiên cứu những chế phẩm hóa học nào đó. Sau khi khảo sát những nhúm tro trên bếp lò, nơi rõ ràng là đã tiến hành những thí nghiệm hóa học, và sau khi xem qua mấy cuốn sách nhỏ đã quăn góc, anh đi dến một kết luận thứ hai: kẻ bị giết chỉ nghiên cứu kỹ thuật làm pháo bông bình thường mà thôi.
Kết luận đó làm Senga bối rối. Anh lại lục soát một lần nữa áo của kẻ bị giết, nhưng không phát hiện được điều gì mới. Anh bèn xem xét vấn đề từ hướng khác.
Những vết chân cạnh cửa sổ chứng tỏ rằng có hai kẻ giết người, chúng đánh liều lọt vào phòng qua cửa sổ, tuy biết rằng rất có thể gặp sự kháng cự, bởi vì người trong nhà không thể không nghe tiếng giật cửa răng rắc.
Như vậy có nghĩa là những tên sát nhân ấy phải bằng mọi giá lấy được một thứ gì đó hết sức quan trọng, hoặc phải hạ sát người trong nhà.
Hơn nữa, nếu giả dụ rằng chúng chỉ muốn hạ sát người đó thôi thì chúng có thể làm việc ấy đơn giản hơn, thí dụ như rình người đó tại một nơi nào đấy trên đường dẫn về ngôi nhà nghỉ. Và điểm thứ hai: tình trạng người bị giết ở trên giường chứng tỏ rằng người đó đã bị tra tấn một lúc rồi mới bị đâm chết. Bọn giết người cần người đó cho biết một điều gì đấy, nhưng người đó không chịu nói ra.
Chúng có thể khai thác gì ở người đó nhỉ? Tiền ư? Khó có thể cho rằng một người lần mò ban đêm đến ngôi nhà nghỉ bỏ hoang để nghiên cứu kỹ thuật làm pháo bông lại mang theo nhiều tiền. Đúng hơn là bọn giết người muốn biết một bí mật gì đấy có liên quan với những buổi làm việc ban đêm của kẻ bị giết.
Như vậy, dòng suy nghĩ của Senga đã khiến anh phải nghiên cứu gian nhà bếp một lần nữa. Anh đẩy đống hòm ra khỏi tường và phát hiện thấy một cửa sập hình vuông thông xuống hầm nhà mà trong các ngôi nhà nghỉ người ta thường bố trí ngay dưới sàn bếp. Taraskin thắp mẩu nến cháy dở và nằm sấp bụng, soi sáng khu hầm nhà ẩm ướt, còn Senga thì thận trọng leo xuống theo cầu thang trơn tuột, mốc meo.
- Anh hãy cầm nến xuống đây! - Senga gọi to từ trong bóng tối - Hắn có cả một phòng thí nghiệm thật sự ở dưới này.
Khoang hầm chiếm toàn bộ diện tích bên dưới ngôi nhà: cạnh những bức tường bằng gạch là mấy chiếc bàn gỗ đặt trên giá đỡ, một lô bình cầu đựng khí, một chiếc môtơ và máy phát điện nhỏ, vài chiếc hũ thủy tinh thường dùng để điện phân, nhiều dụng cụ nghề nguội, và trên mặt bàn có đầy những đống tro nhỏ...
- Thử xem hắn ta làm cái trò gì ở đây nào - Senga vừa nói với vẻ hơi phân vân, vừa quan sát những khúc gỗ lớn và những tấm sắt dựa vào tường hầm. Một số khúc gỗ và tấm sắt bị khoan thủng nhiều chỗ, một số khác thì bị cắt đôi, những chỗ cắt và khoan thủng ấy hình như bị đốt cháy và nung chảy.
Trên một tấm gỗ sồi dựng đứng, những lỗ thủng ấy có đường kính gần một milimét, dường như bị châm kim. Ở giữa tấm gỗ có đột một hàng chữ to "P. P. Garin". Senga lật tấm gỗ lại và thấy trên mặt sau cũng hàng chữ ấy nhưng đảo ngược: không hiểu bằng cách nào mà tấm gỗ dày đến bảy phân rưỡi lại bị mấy dòng chữ ấy đốt thủng như vậy.
- Chà, gớm thật, - Senga nói, - không, anh chàng P. P. Garin không nghiên cứu kỹ thuật làm pháo bông ở đây đâu.
- Anh Senga, còn đây là cái gì đây anh? - Taraskin vừa hỏi vừa giơ ra một khối chóp nhỏ, cao chừng bốn phân, đáy chừng hai phân, được ép lại bằng một chất gì đó màu xám.
- Anh tìm thấy ở đâu thế?
- Cả một hòm đầy kia kìa.
Senga lật đi lật lại, ngửi ngửi khối hình chóp rồi đặt lên mép bàn, bật diêm gí sát vào và lùi ra xa. Que diêm cháy hết, khối hình chóp bùng lên một thứ ánh sáng xanh nhạt chói lòa. Nó cháy khoảng hơn năm phút, không có muội than, gần như không có mùi.
- Tôi đề nghị lần sau không thực hiện những thí nghiệm như vậy nữa - Senga nói - biết đâu khối chóp nhỏ này lại là một loại nến hơi độc thì sao. Khi ấy chúng ta đừng hòng ra khỏi hầm nhà này. Tốt lắm, chúng ta đã biết được những gì nhỉ? Ta thử xác định xem nào: thứ nhất, vụ giết người này không nhằm mục đích trả thù hay cướp của. Thứ hai, chúng ta đã xác định được tên của người bị giết - P. P. Garin. Tạm thời chỉ có thế thôi. Taraskin, anh muốn phản đối là biết đâu, Garin chính là người đã chèo thuyền bỏ đi phải không? Tôi không nghĩ như vậy. Chính Garin đã tự viết tên mình lên tấm gỗ. Về mặt tâm lý thì rõ ràng là như vậy. Giả dụ tôi sáng chế được một vật nào đó tuyệt diệu như vậy thì tôi sẽ sung sướng viết tên mình lên chứ nhất định không viết tên anh rồi. Chúng ta biết rằng người bị giết đã làm việc trong phòng thí nghiệm, tức là người đó đã sáng chế ra vật này và vì vậy người đó là Garin.
Senga và Taraskin leo lên khỏi hầm nhà rồi châm thuốc hút, ngồi trên thềm chờ đợi người công an dẫn chó đến.
7
Tại nhà bưu điện trung tâm, một người nào đó thò bàn tay đỏ hồng, béo mập, vào ô cửa sổ có nhiệm vụ nhận điện gửi đi nước ngoài và để tay lơ lửng trong không khí với tờ giấy ghi điện tín rung rung.
Người nhân viên bưu điện nhìn bàn tay này mấy giây rồi chợt hiểu ra. "À, thiếu mất ngón tay út", và bắt đầu đọc tờ giấy ghi điện tín:
"Gửi Xêmiônốp, Vácsava, phố Mácsancốpxcaia. Nhiệm vụ thực hiện được một nửa, kỹ sư đã ra đi, không kiếm được giấy tờ, chờ chỉ thị. Xtaxi".
Anh gạch đỏ mấy chữ Vácsava rồi đứng dậy, che lấp ô cửa sổ, nhìn người đánh điện qua dãy chấn song. Đó là một người đàn ông to lớn, trung niên, mặt phì phị, nước da mai mái lộ vẻ ốm yếu, bộ ria vàng khè rũ xuống che lấp miệng. Đôi mắt y ẩn dưới hai mí mắt sùm sụp, đầu đội chiếc mũ lưỡi trai nhung màu nâu.
- Có chuyện gì thế? - y hỏi một cách thô bạo - Anh hãy nhận điện đi.
- Bức điện viết bằng mật mã, - người nhân viên bưu điện nói.
- Viết bằng mật mã nghĩa là thế nào? Anh đừng có nói vớ vẩn với tôi! Đây là một bức điện thương mại, anh có trách nhiệm phải đánh đi. Tôi sẽ cho anh xem chứng minh thư, tôi là nhân viên tòa lãnh sự Ba Lan, anh sẽ phải chịu trách nhiệm nếu xảy ra chậm trễ dù chỉ chút ít thôi đấy.
Gã Ba Lan bốn ngón nổi giận, hai má giật giật, phải nói là y sủa lên mới đúng, nhưng bàn tay y đặt trên bệ cửa sổ vẫn run run đầy lo lắng.
- Ông thấy đấy, - người nhân viên bưu điện bảo y, - tuy ông cam đoan là dường như bức điện của ông có tính chất thương mại, nhưng chúng tôi dám chắc rằng đó là một bức điện có nội dung chính trị và được viết bằng mật mã.
Anh nhếch mép cười. Gã Ba Lan giận dữ quát tháo, nhưng trong lúc đó, một cô gái đã kín đáo cầm bức điện đem lại chiếc bàn mà Senga đang ngồi xem toàn bộ các bức điện gửi đi trong ngày hôm đó.
Sau khi liếc nhìn thấy mấy chữ "Vácsava, phố Mácsancốpxcaia", anh bước ra ngoài, đứng lại sau lưng gã Ba Lan đang tức giận và ra hiệu cho người nhân viên bưu điện. Người này nhăn mặt, lầu bầu về chính sách của nước Ba Lan địa chủ rồi ngồi viết hóa đơn. Gã Ba Lan thở phì phì vì giận dữ, nóng nẩy giậm đôi giầy bóng loáng kêu kin kít. Senga chăm chú nhìn đôi chân to tướng của gã. Sau đó, anh bước về phía cửa ra, hất đầu về phía gã Ba Lan để ra hiệu cho người công an trực ban:
- Theo dõi ngay.
Cuộc tìm kiếm ngày hôm qua (có chó giúp sức) đã đưa Senga từ ngôi nhà nghỉ trong rừng bạch dương đến sông Crextốpca. Tại đây, dấu vết bị mất: hiển nhiên là bọn giết người đã xuống thuyền. Ngày hôm qua không đem lại được những tin tức gì mới. Chắc hẳn bọn hung thủ đã ẩn náu kỹ càng trong thành phố Lêningrát rồi. Cả việc nghiên cứu các bức điện cũng chẳng có kết quả gì. Chỉ có bức điện cuối cùng này - bức điện gửi Xêmiônốp ở Vácsava - là đáng chú ý ít nhiều.
Người nhân viên bưu điện đưa hóa đơn cho gã Ba Lan, gã thọc tay vào túi áo gi lê tìm tiền lẻ. Đúng lúc đó, một người đàn ông điển trai, mắt đen, râu dê, tay cầm tờ giấy ghi điện tín đã điền sẵn, nhanh nhẹn bước lại gần ô cửa sổ, và trong khi chờ đợi đến lượt mình, y thản nhiên nhìn chiếc bụng phệ của gã Ba Lan đang tức giận với vẻ chê trách.
Sau đó, Senga thấy người đàn ông râu dê ấy bỗng ưỡn thẳng người lên: y đã nhận thấy bàn tay bốn ngón và lập tức nhìn thẳng vào mặt gã Ba Lan.
Mắt hai bên gặp nhau. Hàm gã Ba Lan trễ xuống. Mi mắt sùm sụp của gã trợn tròn. Cặp mắt đùng đục của gã thoáng lộ vẻ kinh hoàng. Mặt gã biến sắc, trở nên xám ngoét.
Chỉ khi ấy, Senga mới hiểu - anh đã nhận ra người râu dê ấy đứng trước mặt gã Ba Lan: y giống như đúc kẻ bị giết tại ngôi nhà nghỉ trong khu rừng bạch dương trên đảo Crextốpxki...
Gã Ba Lan thét lên một tiếng khàn khàn và lao vụt về phía cửa. Người công an trực ban đã được lệnh chỉ theo dõi gã từ đằng xa nên để mặc gã chạy ra ngoài phố, rồi anh kín đáo theo gót gã.
Người giống hệt kẻ bị giết vẫn đứng lại bên ô cửa sổ nhỏ trong nhà bưu điện. Cặp mắt lạnh lùng thâm quầng của y không biểu lộ một chút gì ngoài vẻ sửng sốt. Y nhún vai, và khi gã Ba Lan đã biến mất thì y đưa tờ giấy ghi điện tín cho người nhân viên bưu điện:
"Thư lưu trạm, gửi đến số nhà 555, đại lộ Butinhông, Pari. Hãy bắt tay ngay vào việc phân tích, cần nâng cao chất lượng thêm năm mươi phần trăm, chờ bưu phẩm đầu tiên vào giữa tháng năm. P. P.".
- Bức điện này liên quan đến những công trình khoa học mà một người bạn tôi, được Viện Hóa học vô cơ phái đi công tác ở Pari, hiện đang nghiên cứu, - y bảo người nhân viên bưu điện. Sau đó, y ung dung lấy hộp thuốc lá trong túi ra, búng búng điếu thuốc rồi thận trọng châm lửa.
Senha lịch thiệp nói với y:
- Anh hãy cho phép tôi nói vài lời thôi.
Y liếc nhìn anh, cụp mi mắt xuống và hết sức nhã nhặn trả lời.
- Xin mời anh.
- Tôi là nhân viên Ban điều tra hình sự, - Senga vừa nói vừa hơi hé mở tấm thẻ. - Có lẽ, ta nên tìm một nơi thích hợp hơn để nói chuyện với nhau.
- Anh muốn bắt tôi chắc?
- Tôi không hề có ý định ấy. Tôi muốn báo trước cho anh biết là gã Ba Lan vừa chạy khỏi đây có ý định giết anh, hệt như hôm qua gã đã giết kỹ sư Garin ở đảo Crextốpxki.
Người râu dê ngẫm nghĩ một phút. Y vẫn tỏ ra lịch thiệp và bình tĩnh.
- Đồng ý, - y nói, - ta đi đi, tôi còn được rỗi rãi mươi lăm phút.
8
Tại đường phố gần nhà bưu điện trung tâm, người công an trực ban chạy đến gặp Senga mặt đỏ bừng, mồm lắp bắp:
- Đồng chí Senga, hắn trốn mất rồi.
- Tại sao anh lại để hắn chạy thoát?
- Ôtô đã đợi sẵn hắn, đồng chí Senga ạ.
- Thế môtô của anh đâu?
- Nó nằm kềnh ở kia kìa, - người công an vừa nói vừa chỉ chiếc môtô nằm cách cổng nhà bưu điện khoảng một trăm bước, - hắn nhảy vọt đến rồi dùng dao rạch thủng lốp. Tôi huýt còi. Hắn chui tọt vào ôtô và cho xe chạy thẳng.
- Anh có nhận ra số xe không?
- Không.
- Tôi sẽ đề nghị kỷ luật anh.
- Biển số bị cố ý lấy bùn xoa kín thì làm sao mà nhận được số xe!
- Được. Anh cứ về Ban điều tra hình sự đi, hai mươi phút nữa tôi sẽ có mặt ở đấy.
Senga đuổi kịp người đàn ông râu dê. Họ lặng lẽ đi một lát rồi rẽ sang đại lộ Công Đoàn.
- Anh giống kẻ bị giết đến mức lạ lùng, - Senga nói.
- Tôi đã nhiều lần phải nghe câu nói ấy, tên tôi là Plancốp Pítkêvích, - người đàn ông râu dê sởi lởi trả lời. - Trong số báo ra chiều qua, tôi có đọc về vụ giết Garin. Thật khủng khiếp. Tôi biết rõ anh ta. Đấy là một cán bộ thạo việc, một nhà hóa học tuyệt vời. Tôi vẫn thường đến phòng thí nghiệm của anh ta ở Crextốpxki. Anh ta chuẩn bị một phát minh lớn trong lĩnh vực hóa học quân sự. Anh có biết gì về một loại nến gọi là nến khói hay không?
Senga liếc nhìn Pítkêvích, anh không trả lời mà hỏi:
- Anh nghĩ sao, việc giết Garin có liên quan gì đến quyền lợi của Ba Lan hay không?
- Theo tôi thì không. Nguyên nhân vụ giết này sâu xa hơn nhiều. Những tin tức về công trình của Garin đã đến tay báo chí Mỹ. Ba Lan chỉ có thể là trạm trung gian thôi.
Ra đến đại lộ, Senga đề nghị ngồi một lát. Đường phố vắng vẻ. Anh lấy trong cặp ra những mảnh cắt trong các tờ báo Nga và nước ngoài rồi trải lên đầu gối.
- Anh vừa nói là Garin làm việc trong lĩnh vực hóa học và những tin tức về anh ta đã lọt qua báo chí nước ngoài. Trong những mảnh báo đấy có đôi điều trùng hợp với ý kiến của anh và có đôi điều tôi chưa hiểu rõ lắm. Anh hãy đọc đi.
"... Ở Mỹ, người ta quan tâm đến một tin từ Lêningrát nói về các công trình của một nhà sáng chế Nga. Người ta phỏng đoán rằng bộ máy của nhà sáng chế này có sức phá hủy ghê gớm nhất, hơn mọi bộ máy đã được biết từ trước đến nay".
Đọc xong, Pítkêvích mỉm cười, nói:
- Lạ thật, là tôi lại không biết... Tôi không nghe nói đến chuyện đó. Không, đó không phải là nói về Garin đâu.
Senga đưa ra mảnh báo cắt thứ hai:
"... Do những cuộc thao diễn lớn sắp tới của Hạm đội Mỹ ở Thái Bình Dương, Bộ Quốc phòng bị chất vấn là có hay biết gì không về bộ máy có sức phá hoại khủng khiếp đang được chế tạo ở Nga Xô".
Pítkêvích nhún vai: "Nhảm nhí", rổi lấy mảnh báo cắt thứ ba trong tay Senga:
"... Ông vua hóa học kiêm tỷ phú Rôlinh đã lên đường sang châu Âu. Chuyến đi của ông gắn liền với một tổ chức liên hiệp xí nghiệp chuyên chế những sản phẩm của hắc ín và muối ăn. Rôlinh đã trả lời phỏng vấn ở Pari và tỏ ý tin chắc rằng tổ hợp hóa học khủng khiếp của ông sẽ đem lại an toàn cho các nước Cựu thế giới hiện đang bị các lực lượng Cách mạng làm rung chuyển. Đặc biệt, Rôlinh tỏ ra hằn học khi nói đến Nga Xô, nơi mà theo lời đồn đại, đang tiến hành những công trình nghiên cứu bí ẩn, nhằm truyền nhiệt năng đi xa".
Pítkêvích chăm chú đọc. Ngẫm nghĩ. Rồi cau mày nói:
- Phải. Rất có thể vụ giết hại Garin có liên quan gì đó đến bài báo này.
- Anh là vận động viên phải không? - Senga đột nhiên hỏi rồi nắm tay Pítkêvích và ngửa bàn tay lên. - Tôi mê thể thao lắm.
- Đồng chí Senga, anh muốn xem tôi có chai tay không vì chèo thuyền chứ gì... Anh thấy đấy, chỉ có hai chỗ phồng rộp thôi. Điều đó chứng tỏ tôi chèo thuyền rất kém và hai ngày trước đây quả thật là tôi có chèo thuyền gần tiếng rưỡi liền để chở Garin đến đảo Crextốpxki... Anh hài lòng với những tin tức ấy chứ?
Senga buông tay Pítkêvích và cười vang:
- Anh cừ lắm, anh Pítkêvích ạ, giá mà được làm việc thật sự với anh thì hẳn là thú vị đấy.
- Tôi không bao giờ chối từ cuộc chiến đấu thật sự cả.
- Anh Pítkêvích này, trước đây anh có biết gã Ba Lan bốn ngón ấy không?
- Anh muốn biết là tại sao tôi lại sửng sốt khi trông thấy bàn tay bốn ngón của gã chứ gì? Anh có óc quan sát thật đấy, anh Senga ạ. Đúng, tôi quả có sửng sốt... hơn nữa, tôi hoảng sợ là đằng khác.
- Tại sao?
- Điều đó tôi sẽ không nói cho anh biết đâu.
Senga cắn môi, nhìn dọc theo đại lộ vắng vẻ.
Pítkêvích nói tiếp:
- Không chỉ tay gã bị thương tật đâu, trên người gã còn có một vết sẹo khủng khiếp chạy dài suốt ngực nữa kia. Đó là các vết thương do Garin gây ra vào năm 1919. Tên gã là Xtaxi Tưclinxki...
- Sao kia? - Senga hỏi, - Anh chàng Garin quá cố ấy đã làm gã bị thương tật bằng cái cách mà anh ta đã dùng để cắt đứt những tấm gỗ dày bảy phân hay sao?
Pítkêvích quay phắt đầu về phía Senga và họ nhìn một lát vào mắt nhau: một người thì thản nhiên và kín đáo, người kia thì vui vẻ và cởi mở.
- Dù sao anh vẫn định bắt tôi, phải không anh Senga?
- Không... Bắt anh thì lúc nào mà chẳng kịp.
- Anh nói đúng. Tôi biết nhiều chuyện. Nhưng dĩ nhiên, anh không thể dùng bất kỳ biện pháp cưỡng bức nào để buộc tôi phải tiết lộ những điều tôi không muốn nói. Chính anh cũng biết đấy, tôi không tham dự vào tội ác. Anh có muốn chơi bài ngửa không? Điều kiện giao đấu là sau mỗi một đòn đánh hay, chúng ta lại gặp nhau và chuyện trò thành thật với nhau. Sẽ như một ván cờ vậy. Tiện đây xin nói thêm là trong khi chúng ta trò chuyện với nhau, anh đã đứng trước mối nguy hiểm chết người đấy, tôi không đùa đâu, xin đoan chắc với anh như vậy. Nếu như Tưclinxki ngồi ở chỗ anh bây giờ thì tôi sẽ nhìn quanh - xung quanh thật vắng vẻ - và tôi sẽ ung dung đi đến quảng trường Xênátxki, còn gã thì người ta sẽ tìm thấy trên chiếc ghế này lúc đã hồn lìa khỏi xác rồi, với những vết gớm ghiếc trên thân thể. Nhưng tôi xin nhắc lại là tôi sẽ không áp dụng những thủ đoạn ấy với anh đâu. Anh muốn chơi bài ngửa với tôi chứ?
- Đồng ý, - Senga nói, hai mắt sáng long lanh. - Tôi sẽ tiến công trước, được không?
- Dĩ nhiên rồi. Nếu anh bắt tôi ở nhà bưu điện thì chắc chắn tôi sẽ không đề nghị như vậy đâu. Còn về phần gã Ba Lan bốn ngón thì tôi hứa sẽ giúp anh tìm ra gã. Dù tôi có gặp gã ở đâu đi chăng nữa, tôi sẽ thông báo cho anh qua điện thoại hay điện tín.
- Được. Còn bây giờ, Pítkêvích ạ, anh hãy cho tôi xem cái vật mà anh vừa đem ra dọa nạt đi.
Pítkêvích lắc đầu, nhếch mép cười: "Xin theo ý anh - chơi bài ngửa mà lại", và thận trọng rút trong túi ra một hộp nhỏ nhẵn nhụi. Trong hộp có một ống kim loại dày bằng một ngón tay.
- Có thế thôi, chỉ cần ấn một đầu là mảnh thủy tinh nhỏ bên trong sẽ kêu tách một tiếng. 
9
Đến gần Ban Điều tra hình sự, Senga bỗng đứng sững lại như vấp phải cột điện: "Chà! - Anh thốt lên, - chà - và anh giận dữ giậm mạnh chân: - chà, hắn láu cá thật, chà, hắn đóng kịch mới giỏi chứ!"
Senga quả thật bị lừa một vố đau. Anh đứng ngay cạnh tên giết người (bây giờ thì không còn nghi ngờ gì nữa), vậy mà đã không bắt y. Anh vừa trò chuyện với một kẻ chắc chắn biết mọi đầu mối của vụ giết người, vậy mà y khéo léo không nói điều gì thực chất cả. Cái gã Pítkêvích này phải nắm được một điều bí mật gì đó?.. Senga đột nhiên hiểu ra - đấy là một bí mật có ý nghĩa quốc gia, quốc tế nữa... Anh đã nắm được đuôi Pítkêvích, vậy mà "cái thằng khốn kiếp ấy đã tuồn khỏi tay, lẩn thoát mất!"
Senga chạy lên phòng làm việc của mình ở tầng ba. Trên bàn có một gói bọc giấy báo. Ngồi trong hốc tường sâu bên cửa sổ là một người đàn ông to béo, dáng điệu hiền lành, đi đôi ủng đen bóng. Áp chiếc mũ cát- két vào bụng, ông ta cúi chào Senga.
- Tôi là Babisép, - ông ta nói, phả hơi thở sặc sụa mùi rượu, - quản lý ngôi nhà số hai mươi bốn, phố Puscaxkaia thuộc Công ty nhà ở.
- Bác đã đem đến cái gói kia đấy à?
- Vâng. Tôi tìm được trong căn hộ số mười ba đấy... Căn hộ này không nằm trong tòa nhà chính đâu, mà trong dãy nhà phụ. Người ở trong căn hộ ấy đã biệt tăm hai ngày rồi. Hôm nay, chúng tôi đã mời cảnh sát đến, phá cửa ra và lập biên bản theo đúng pháp luật, - người quản lý nhà lấy tay che miệng, hai má ông ta đỏ bừng lên, đôi mắt ươn ướt hơi lồi ra, mùi rượu ngang tràn ngập căn phòng. - Tôi tìm được thêm cái gói này trong bếp lò.
- Tên của người thuê nhà đã bặt tăm là gì?
- Xavêliép Ivan Alếchxêêvích.
Senga mở gói ra. Bên trong có một tấm ảnh Pítkêvích, một chiếc lược, một chiếc kéo, một lọ nhỏ đựng thứ chất nước màu sẫm, thuốc nhuộm tóc.
- Xavêliép làm nghề gì?
- Ông ta làm việc bên khoa học. Khi ống dẫn ở chỗ chúng tôi bị vỡ, ban quản lý nhà có đến nhờ ông ta... Ông ta bảo: "Tôi sẽ rất sung sướng được giúp đỡ các đồng chí, nhưng tôi là nhà hóa học kia".
- Ông ta có thường vắng nhà ban đêm không?
- Vắng nhà vào ban đêm ấy ư? Không. Tôi không nhận thấy. - Viên quản lý nhà lại che miệng. - Cứ mờ sáng là ông ta ra đi, cái đó thì đúng. Nhưng ban đêm mà vắng nhà thì tôi không nhận thấy, cũng không có thấy ông ta say rượu bao giờ.
- Những người quen có đến thăm ông ta không?
- Tôi không thấy.
Senga gọi điện thoại hỏi phòng cảnh sát khu vực Pêtơrôgrátxcaia. Hóa ra ở dãy phụ ngôi nhà số hai mươi bốn phố Puscaxcaia quả có một người tên là Xavêliép, ba mươi sáu tuổi, kỹ sư hóa. Xavêliép dọn đến phố Puscaxcaia vào tháng hai với chứng minh thư do sở cảnh sát Tambốp cấp.
Senga đánh điện hỏi Tambốp và cùng người quản lý nhà đi xe đến Phôntanca, nơi xác kẻ bị giết ở đảo Crextôpxki đang nằm trong hòm lạnh tại Ban điều tra hình sự. Người quản lý nhà nhận ra ngay đấy chính là Xavêliép.
10
Cũng vào thời gian đó, người đàn ông tự xưng tên là Piancốp Pítkêvích đáp xe ngựa che mui kín đến một bãi đất hoang ở khu vực Pêtơrôgrátxcaia. Sau khi trả tiền, y đi trên hè phố dọc theo bãi hoang. Y mở cửa hàng giậu gỗ, bước qua sân, rồi theo cầu thang hẹp phía cổng hậu leo lên tầng năm. Y dùng hai chìa khóa để mở cửa, treo măngtô và mũ lên chiếc đinh duy nhất ở gian ngoài trống trải, sau đó y bước vào căn phòng mà bốn ô cửa sổ đều trát phấn đến nửa chừng, ngồi xuống chiếc đivăng rách nát và lấy hai tay ôm mặt.
Chỉ nơi đây, trong căn phòng biệt lập này (chất đầy các giá sách và các máy móc vật lý), rốt cuộc y mới có thể đắm mình trong nỗi lo sợ khủng khiếp, gần như tuyệt vọng, đã làm y rụng rời suốt từ ngày hôm qua.
Hai bàn tay ôm lấy mặt của y run rẩy. Y hiểu rằng mối nguy hiểm chết người chưa qua đi. Y đang bị bao vây. Chỉ có vài khả năng nhỏ nhoi là có lợi cho y: trong một trăm thì có chín mươi chín chống lại y. "Mình thật khinh suất quá, chà, thật khinh suất quá đi mất!".
Y phải cố gắng lắm mới chế ngự được nỗi lo sợ. Thọc nắm tay vào chiếc gối bẩn thỉu, y nằm ngửa ra và nhắm mắt lại.
Những ý nghĩ nặng trĩu nỗi căng thẳng ghê gớm nay được thư giãn. Một vài phút nằm bất động khiến y lại tươi tỉnh. Y vùng dậy, rót rượu mađe vào cốc rồi uống một hơi cạn. Khi làn sóng nóng bỏng dâng lên khắp cơ thể, y bắt đầu đi đi lại lại trong phòng, thong thả tìm kiếm một cách có phương pháp những khả năng thoát thân ít ỏi.
Y thận trọng uốn cong lớp giấy bồi cũ còn sót lại ở chân tường, rút từ đấy ra những bản vẽ và cuộn lại thành ống. Y lấy mấy cuốn sách trên giá, xếp chung với các bản vẽ và các bộ phận của các thiết bị vật lý vào va li. Y vừa luôn luôn lắng nghe động tĩnh, vừa xách va li xuống một hầm chứa củi tối tăm rồi giấu nó vào dưới đống rác. Sau đó y lại lên phòng mình, rút trong bàn viết ra một khẩu súng lục, xem xét cẩn thận và đút vào túi sau.
Đã năm giờ kém mười lăm. Y lại nằm xuống, hút hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác và ném đầu thuốc vào góc nhà. "Nhất định chúng không thể tìm ra được!" - y vừa nói như thét lên, vừa tung hai chân xuống sàn và lại rảo bước đi đi lại lại trong phòng.
Lúc sẩm tối, y xỏ ủng, khoác chiếc măng tô bằng vải thô rồi ra khỏi nhà.
11
Vào nửa đêm, tại đồn công an số mười sáu, người công an trực ban được gọi đến máy điện thoại. Anh nghe thấy một giọng nói vội vã:
- Cử ngay một đội công an đặc biệt đến ngôi nhà nghỉ trên đảo Crextốpxki, nơi hôm kia xảy ra vụ giết người...
Giọng nói ngừng bặt. Người công an trực ban rủa một hồi vào ống nói. Anh gọi trạm kiểm tra, hóa ra người gọi điện đến là từ Trường huấn luyện chèo thuyền. Anh liền gọi điện đến trường. Ở đây, máy điện thoại kêu tút tút một lúc lâu, và cuối cùng, một giọng ngái ngủ cất lên:
- Anh cần gì?
- Có người gọi điện từ chỗ ông phải không?
- Đúng đấy, - tiếng trả lời vang lên tiếp sau tiếng ngáp.
- Ai gọi đấy?... Ông có trông thấy người đó không?
- Không. Điện chỗ chúng tôi bị hỏng. Người đó bảo là gọi điện theo lệnh của đồng chí Senga.
Nửa giờ sau, bốn chiến sĩ công an nhảy xuống xe cạnh ngôi nhà nghỉ đóng kín trên đảo Crextốpxki. Sau hàng bạch dương, ánh hoàng hôn chưa tắt hẳn mờ mờ đỏ. Giữa cảnh yên tĩnh văng vẳng tiếng rên rỉ yếu ớt. Một người mặc áo lông nằm sấp, cạnh bậc thềm đen sẫm. Khi lật ngửa lên thì hóa ra đó là người canh gác. Nằm bên cạnh là một nắm bông thấm đẫm Clôrôphoóc.
Cửa mở toang - khóa bị giật đứt. Khi các chiến sĩ công an xộc vào trong nhà thì từ dưới hầm, một giọng nghèn nghẹn của một người nào đó thét to:
- Các đồng chí, lật cửa sập trong nhà bếp lên...
Nào bàn, nào hòm, nào những bao nặng chất thành đống cạnh tường trong bếp. Họ dỡ hết đi rồi lật nắp cửa sập.
Từ dưới hầm, Senga nhảy vọt lên, khắp người anh đầy mạng nhện và bụi bặm, mắt long lên dữ dội.
- Lại đây mau! - anh thét to và biến mất sau cửa ra vào. - Ánh sáng đâu, nhanh lên!
Trong phòng (có kê chiếc giường sắt), dưới ánh sáng những ngọn đèn bí mật, họ nhìn thấy trên sàn có hai khẩu súng lục đã bắn hết đạn, một chiếc mũ cát-két nhung màu nâu và những bãi nôn mửa gớm ghiếc, tởm lợm.
- Thận trọng đấy! - Senga thét, - Đừng thở, hãy ra khỏi đây ngay, nguy hiểm chết người đấy.
Vừa lùi lại vừa đẩy các chiến sĩ công an về phía cửa, Senga kinh hoàng và ghê tởm nhìn ống kim loại bằng ngón tay nằm lăn lóc trên sàn nhà.
12
Như tất cả các nhà doanh nghiệp tầm cỡ khác, ông vua hóa học Rôlinh tiếp khách đến bàn bạc công việc tại văn phòng của mình, một căn phòng được thuê riêng để làm việc đó, nơi mà viên thư ký của y chọn lọc khách đến thăm, xác định mức độ quan trọng của họ, đoán đọc những ý nghĩ của họ và hết sức lịch thiệp trả lời mọi câu hỏi của họ. Cô nhân viên tốc ký thì biến những tư tưởng của Rôlinh thành những từ ngữ cực kỳ cô đọng, những tư tưởng đó (nếu lấy giá trị trung bình kiểu số học của chúng trong một năm và nhân với giá trị tương đương bằng tiền) có giá trị gần đúng như sau: cứ mỗi mảnh tư tưởng của của ông vua hóa học vô cơ trôi qua trong một giây thì ngang bằng năm vạn đô la. Những chiếc móng tay thanh tú của bốn cô gái đánh máy liên tục lướt trên hàng phím của bốn chiếc máy chữ "unđécvít". Cậu bé sai vặt, ngay sau khi được gọi, lập tức xuất hiện trước mặt Rôlinh như hiện thân cho ý chí của y.
Văn phòng Rôlinh nằm trên đại lộ Manđéc là một căn phòng ảm đạm và khắc khổ. Tường bọc loại vải lụa nặng nề màu sẫm, trên sàn trải thảm dày màu nâu sẫm và bàn ghế cũng bọc loại da màu sẫm. Trên những chiếc bàn sẫm màu phủ kính là những tập sách quảng cáo, những cuốn sách tra cứu đóng bìa da nâu và những bản sơ đồ các nhà máy hóa chất. Một vài viên đạn hơi độc đã han gỉ, năm ba khẩu súng phóng bom từ các bãi chiến trường chở về được dùng làm vật trang trí đặt trên mặt lò sưởi.
Trong phòng làm việc, đằng sau dãy cửa cao bằng gỗ hồ đào màu sẫm, giữa những biểu đồ, những bản đồ và những bức ảnh là chỗ ngồi của ông vua hóa học Rôlinh. Những người khách đã được chọn lọc nhẹ nhàng bước trên thảm vào phòng đợi, ngồi xuống những chiếc ghế bọc da và hồi hộp nhìn vào cánh cửa bằng gỗ hồ đào. Ở đấy, sau cánh cửa, ngay cả bầu không khí trong phòng làm việc của vua hóa học cũng cực kỳ quý giá, bởi vì nó thấm đượm những tư tưởng giá năm vạn đô la trong một giây.
Liệu có người nào vẫn có thể bình tâm được nếu giữa không khí yên tĩnh tôn nghiêm trong phòng đợi, nắm đấm cửa bằng đồng, được đúc thành hình nắm tay giữ quả cầu, bỗng đột nhiên lay động và xuất hiện một con người nhỏ bé, mặc chiếc vét tông màu xám sẫm, có bộ râu nổi tiếng khắp thế giới che kín hai má, vẻ mặt khó đăm đăm đầy đau khổ, trông gần như một siêu nhân, khuôn mặt vàng bủng, bệnh hoạn, gợi nhớ đến nhãn hiệu sản phẩm mà toàn thế giới đều biết tiếng: một vòng tròn màu vàng với bốn sọc đen... Ông vua hóa học vừa hé mở cửa, vừa chằm chằm nhìn người khách và nói bằng giọng Mỹ đặc sệt: "Mời vào".
13
Viên thư ký (cực kỳ lịch thiệp) cặp chiếc bút chì mạ vàng giữa hai ngón tay và hỏi:
- Xin lỗi, ông cho biết quý danh.
- Tôi là tướng Xúpbôtin, người Nga... lưu vong.
Khách bực tức nhún vai và dùng chiếc khăn tay vò nhầu lau bộ ria màu xám.
Viên thư ký mỉm cười nhã nhặn, dường như câu chuyện đề cập đến những sự việc vô cùng dễ chịu, ngoáy bút chì trên cuốn sổ tay rồi hỏi với một vẻ hết sức thận trọng:
- Ông Xúpbôtin, xin ông cho biết mục đích cuộc trao đổi mà ông dự tính với ngài Rôlinh.
- Một mục đích rất đặc biệt, rất quan trọng...
- Có lẽ, tôi sẽ phải trình bày tóm tắt nó để thông báo cho ngài Rôlinh đấy.
- Mục đích của tôi có thể là rất đơn giản, một kế hoạch... Cả hai bên cùng có lợi.
- Kế hoạch của ông đề cập đến cuộc chiến đấu bằng vũ khí hóa học chống lại bọn Bôsêvích, tôi hiểu thế có đúng không? - viên thư ký hỏi.
- Đúng thế đấy... Tôi có ý định đề nghị kế hoạch đó với ngài Rôlinh.
- Tôi sợ rằng, - viên thư ký ngắt lời khách với vẻ lịch thiệp duyên dáng và khuôn mặt đáng mến của anh ta thậm chí còn biểu lộ nỗi đau khổ nữa, - tôi sợ rằng ngài Rôlinh đã phải bận tâm quá nhiều đến những kế hoạch như vậy rồi. Từ tuần trước, chỉ riêng về phía người Nga, chúng tôi đã nhận được một trăm hai mươi bốn đề nghị về cuộc chiến tranh hóa học chống lại bọn Bônsêvích. Trong cặp của chúng tôi hiện có một kế hoạch tuyệt vời nhằm dùng lực lượng không quân hóa học tiến công đồng thời vào Kháccốp, Mátxcơva và Pêtơrôgrát [1]. Tác giả bản kế hoạch đã triển khai lực lượng một cách hết sức thông minh tại các căn cứ bàn đạp trên các nước đệm - một kế hoạch lý thú, rất lý thú. Thậm chí tác giả còn đưa ra một dự toán chính xác nữa: sáu nghìn tám trăm năm mươi tấn hơi mù tạt để tiêu diệt toàn bộ dân chúng trong các thành phố đó.
Mặt đỏ bừng vì máu trào lên dữ dội, tướng Xúpbôtin ngắt lời:
- Vậy tại sao các ông không thực hiện ngay đi? Kế hoạch của tôi không thua kém gì, nhưng kế hoạch ấy cũng đã tuyệt diệu lắm rồi! Phải hành động mới được! Phải chuyển từ lời nói đến việc làm chứ... Vì lẽ gì mà các ông trì hoãn?
- Tướng quân thân mến ạ, chúng tôi trì hoãn bởi vì ngài Rôlinh chưa nhìn thấy giá trị tương đương với những chi phí của mình.
- Giá trị tương đương loại gì vậy?
- Đối với ngài Rôlinh thì việc dùng máy bay ném xuống sáu nghìn tám trăm năm mươi tấn mù tạt chẳng có gì khó khăn, nhưng việc đó đòi hỏi một vài phí tổn. Chiến tranh là phải tốn tiền, có đúng thế không? Trong những kế hoạch đang được đệ trình ngài Rôlinh, chỉ thấy phải chi phí thôi. Nhưng giá trị tương đương, tức là nguồn thu nhập do cuộc phá hoại chế độ Bônsêvích đem lại, thì thật đáng tiếc là không được nêu lên.
- Thật rõ như ban ngày vậy... những nguồn thu nhập... những nguồn thu nhập khổng lồ cho bất kỳ kẻ nào trả lại được cho nước Nga những người cầm quyền hợp pháp và một chế độ bình thường, hợp pháp - kẻ đó sẽ được hưởng hàng núi vàng chứ không ít đâu! - tướng Xúpbôtin quắc mắt nhìn chằm chằm vào viên thư ký - À ra thế, tức là cũng phải nêu lên giá trị tương đương phải không?
- Đúng thế, phải chứng minh bằng các con số mới được: bên trái là các khoản chi, bên phải là các khoản thu, sau đó tính hiệu số và hiệu số đó phải lớn thì ngài Rôlinh mới quan tâm.
- À ra thế! - Tướng Xúpbôtin thở phì phì, kéo sụp chiếc mũ phủ đầy bụi xuống rồi quả quyết bước về phía cửa.
14
Tướng Xúpbôtin chưa kịp ra khỏi thì ở cổng đã vang lên giọng phản đối của chú bé sai vặt, rồi một giọng khác tỏ ý mong muốn chú ta bị ma quỷ cuỗm đi cho xong đời, và trước mặt viên thư ký bỗng xuất hiện Xêmiônốp, áo măng tô không cài khuy, tay cầm mũ và can, góc miệng ngậm điếu xì gà đã nhai nát.
- Chào anh bạn, - gã vội vã nói với viên thư ký và quẳng can cùng mũ lên bàn, - hãy cho tôi gặp ngài Rôlinh ngay lập tức.
Chiếc bút chì mạ vàng của viên thư ký buông thõng trong không khí.
- Nhưng ngài Rôlinh hôm nay rất bận.
- Ồ, chuyện vớ vẩn, anh bạn ạ... Một người vừa từ Vácsava đến đang chờ trong xe của tôi. Anh hãy nói với ngài Rôlinh là chúng tôi đến về vụ Garin.
Viên thư ký vụt dướn lông mày lên và biến mất sau cánh cửa bằng gỗ hồ đào. Một phút sau, anh ta ló đầu ra. "Ông Xêmiônốp, mời ông vào!" - Anh ta dịu dàng nói khẽ và tự tay vặn nắm đấm cửa đúc hình bàn tay giữ quả địa cầu.
Xêmiônốp đứng trước mặt ông vua hóa học. Gã không tỏ vẻ gì hồi hộp đặc biệt, trước hết là vì tính gã vốn liều lĩnh, và thứ hai là vì vào lúc này, ông vua hóa học cần đến gã hơn là gã cần đến ông ta. Cặp mắt xanh lè của Rôlinh nhìn như xoáy vào gã, nhưng gã không hề bối rối, ngồi xuống phía bên kia bàn, đối diện với Rôlinh. Rôlinh lên tiếng:
- Thế nào?
- Công việc xong rồi.
- Các bản vẽ đâu?
- Ngài Rôlinh ạ, trong chuyện này có xảy ra đôi chút nhầm lẫn...
- Tôi hỏi là các bản vẽ đâu? Tôi không thấy những bản vẽ ấy? - Rôlinh giận dữ nói và đập nhẹ bàn tay xuống mặt bàn.
- Xin ngài hãy nghe đã, ngài Rôlinh ạ. Chúng ta quy định với nhau là tôi sẽ đem về cho ngài chẳng những các bản vẽ mà cả chính bộ máy nữa... Tôi đã làm một khối lượng công việc khổng lồ... Tôi đã mộ người... Đã phái họ đến Pêtơrôgrát. Họ đã lọt vào phòng thí nghiệm của Garin. Họ đã thấy bộ máy hoạt động... Nhưng rồi có quỷ mới biết chuyện gì đã xảy ra... Thứ nhất, hóa ra là có những hai Garin.
- Tôi đã dự đoán như vậy ngay từ đầu kia! - Rôlinh kinh tởm nói.
- Chúng tôi đã loại bỏ một trong hai tên ấy.
- Anh giết hắn ư?
- Nếu ngài muốn thì đại loại như vậy. Dù sao chăng nữa thì hắn cũng chết rồi. Ngài không cần lo lắng về chuyện ấy: việc thanh toán diễn ra ở Pêtơrôgrát, bản thân hắn là công dân Nga Xô - chẳng có gì đáng bận tâm... Nhưng sau đó xuất hiện một kẻ hệt như hắn... Và chúng tôi đã hết sức nỗ lực...
- Tóm lại, - Rôlinh ngắt lời, - kẻ giống hệt Garin hoặc chính Garin còn sống; và tuy tôi đã bỏ ra biết bao nhiêu tiền, nhưng anh vẫn không đem về được cho tôi cả các bản vẽ lẫn các bộ máy.
- Tưclinxki đang ngồi trong xe của tôi. Y đã tham gia mọi việc này. Nếu ngài muốn thì tôi sẽ gọi anh ta lên, anh ta sẽ kể tường tận cho ngài nghe.
- Tôi không muốn gặp mặt một gã Tưclinxki nào hết, tôi cần các bản vẽ và các bộ máy kia. - Tôi ngạc nhiên thấy anh táo tợn như vậy - dám đến đây với hai bàn tay trắng...
Mặc dù những lời lẽ này hết sức lạnh lùng, mặc dù sau khi nói xong Rôlinh quắc mắt nhìn Xêmiônốp, tin chắc rằng gã lưu vong người Nga này sẽ bị thiêu ra tro và biến mất không còn lại dấu vết gì, nhưng Xêmiônốp vẫn thản nhiên đút điếu xì gà đã nhai nát vào miệng và liến thoắng nói:
- Ngài không muốn gặp Tưclinxki thì cũng chẳng cần gặp làm gì - cũng chẳng thú vị gì lắm đâu. Nhưng có chuyện thế này: tôi cần tiền, ngài Rôlinh ạ, tôi cần khoảng hai vạn phơrăng. Ngài sẽ cấp séc hay trao tiền mặt?
Mặc dù rất giàu kinh nghiệm và am hiểu người đời, nhưng đây là lần đầu tiên Rôlinh gặp một kẻ xấc xược đến thế. Trên chiếc mũi to bự của Rôlinh thậm chí toát ra một chất gì tựa như mồ hôi, và y phải tự kiềm chế lắm mới không ném lọ mực vào bộ mặt đầy tàn nhang của Xêmiônốp... (lại còn mất đi bao nhiêu giây phút quý giá vào câu chuyện vớ vẩn này nữa chứ!). Sau khi tự chủ lại, y với tay về phía chiếc chuông.
Xêmiônốp vừa theo dõi bàn tay Rôlinh vừa nói:
- Ngài Rôlinh thân mến ạ, vấn đề là ở chỗ kỹ sư Garin hiện đang có mặt tại Pari.
15
Rôlinh chồm dậy, hai lỗ mũi mở rộng, đường gân giữa hai hàng lông mày hằn lên. Y chạy ra cửa khóa chặt lại rồi bước đến gần Xêmiônốp, một tay nắm lấy lưng ghế bành, tay kia bíu chặt mép bàn và cúi xuống mặt Xêmiônốp:
- Anh nói láo.
- Hóa ra tôi lại bắt đầu nói láo nữa kia đấy... Câu chuyện như thế này này: Tưclinxki gặp con người giống hệt Garin tại nhà bưu điện ở Pêtơrôgrát, khi hắn đang gửi điện đi, và anh ta đã đọc được địa chỉ: đại lộ Batinhông, Pari... Hôm qua anh ta từ Vácsava đến, chúng tôi lập tức chạy tới đại lộ Batinhông và chạm trán ở tiệm cà phê với Garin hoặc kẻ giống hệt hắn, có quỷ mới phân biệt nổi.
Rôling chầm chậm quan sát khuôn mặt đầy tàn nhang của Xêmiônốp. Sau đó y vươn thẳng người lên và từ lồng ngực y phả ra hơi thở nóng bỏng:
- Anh biết rất rõ là chúng ta đang ở Pari chứ không phải ở Nga Xô, nếu anh phạm tội ác thì tôi sẽ không cứu nổi anh thoát khỏi máy chém đâu. Nhưng nếu anh tìm cách lừa bịp tôi thì tôi sẽ đè bẹp anh đấy.
Y trở lại chỗ ngồi, mở cuốn séc ra với vẻ ghê tởm: "Tôi sẽ không cho anh hai vạn đâu, anh chỉ cần năm nghìn là đủ rồi..." Y viết séc rồi lấy ngón tay đẩy tấm séc trượt theo mặt bàn cho Xêmiônốp, sau đó y chống khuỷu tay lên bàn không quá một giây và đưa hai bàn tay ôm chặt lấy mặt.
Chú thích:
[1] Tên cũ của Lêningrat - N. D.
16
Không phải ngẫu nhiên mà nàng Dôia Mônrô xinh đẹp lại trở thành bạn gái của ông vua hóa học. Năm năm trước (vào năm mười chín), ả chạy từ Pêtơrôgrát sang Pari và tại đây ả nổi tiếng là người phụ nữ kiều diễm nhất và thông minh nhất trong giới nghệ sĩ quí tộc phóng đãng. Ả đóng phim, nhảy múa và ca hát trong các nhà hát bình dân và thản nhiên làm khuynh gia bại sản bọn người nước ngoài vào những năm đó đổ xô đến Pari với những túi tiền căng phồng vì kiếm bẫm trong thời gian chiến tranh và sau chiến tranh.
Dôia là một phụ nữ hiện đại. Giữa những cuộc chơi bời phóng túng, ả vẫn dành được thời giờ chăm chú theo dõi tình hình chính trị.
Khi được biết nhân vật Rôlinh lừng danh dự định sang châu Âu, ả lập tức lên đường đi Niu Yoóc. Tại đây, ả mua chuộc được một gã phóng viên của một tờ báo lớn, và trên các báo liền xuất hiện những bài ngắn về chuyến viếng thăm Niu Yoóc của người phụ nữ xinh đẹp nhất, thông minh nhất châu Âu, một phụ nữ biết kết hợp nghề nghiệp nữ diễn viên balê với niềm say mê ngành khoa học thời thượng nhất là hóa học. Thậm chí ả không dùng loại kim cương tầm thường mà đeo một chuỗi vòng cổ gồm những hạt pha lê chứa đầy khí sáng lấp lánh. Chuỗi hạt này đã tác động đến trí tưởng tượng của người Mỹ.
Khi Rôlinh đáp tàu biển đi châu Âu thì vào một buổi sáng tuyệt đẹp rực rỡ ánh nắng, tại sân quần vợt trên boong thượng, y nhìn thấy Dôia đang chơi với huấn luyện viên. Y cau mày, quan sát hồi lâu người phụ nữ mà tất cả các báo vừa làm rùm beng lên, và y thấy thích ả. Ngay tối hôm đó, sau bữa ăn, khi ngồi trong quán rượu, y đề nghị Dôia trở thành bạn gái của y. Vừa nhúng ống hút chất nước uống lạnh buốt, Dôia vừa trả lời:
- Xin cảm ơn ông. Tôi nhận lời đề nghị của ông. Ông sẽ không bị thất vọng đâu. Ông đã lựa chọn rất đạt đấy. Những chuyện vặt vãnh của phụ nữ ít làm tôi bận tâm lắm... Ông đừng quên rằng tôi đã trải qua những ngày cách mạng, đã bị sốt phát ban và đã chiến đấu chống lại bọn Đỏ... Tôi rất hiếu danh. Ông là một nhân vật tầm cỡ. Tôi tin vào ông. Ông phải chiến thắng mới được... Tôi muốn làm thư ký riêng của ông.
Rôlinh xoay xoay người trên chiếc ghế cao, miệng y hơi nhếch một nụ cười giễu cợt, chứng tỏ y đang hết sức vui vẻ.
- Bà điên rồi, - y nói. - Bốn cựu vương và vài đại công tước thuộc vương triều Nga đang cố xin vào làm thư ký riêng cho tôi đấy... Nhưng tôi lại thấy thích bà mới lạ chứ...
Thế là bắt đầu quan hệ thân thiết giữa hai bên, và Rôlinh đã không lầm trong việc chọn bạn gái.
Tại Pari, y bắt đầu tiến hành thương lượng về việc hợp nhất các nhà máy hóa chất thành một tờrớt. Nước Mỹ đầu tư những món tiền lớn vào nền công nghiệp của Cựu thế giới. Đám nhân viên của Rôlinh thận trọng mua trữ cổ phiếu. Ở Pari, người ta gọi y là "con trâu Mỹ". Thật vậy, y có vẻ như người khổng lồ giữa các nhà công nghiệp châu Âu. Y băng qua mọi trở ngại. Tầm mắt của y chật hẹp. Y chỉ nhìn thấy trước mắt một mục tiêu duy nhất: tập trung toàn bộ nền công nghiệp hóa học thế giới vào tay một người (người đó là y).
Dôia mau chóng nghiên cứu xong tính cách của y, những thủ đoạn tranh đấu của y. Ả hiểu chỗ mạnh chỗ yếu của y. Y không thông thạo về chính trị và đôi khi nói những điều ngu ngốc về cách mạng và về bọn Bônsêvích. Ả kín đáo sắp đặt những con người cần thiết và hữu ích chung quanh y. Ả làm cho y quen thuộc với giới báo chí và hướng dẫn những cuộc trao đổi. Ả mua chuộc những tay chuyên viết tin vặt mà y không chú ý đến, nhưng chính họ lại giúp y được nhiều hơn các nhà báo tầm cỡ, bởi vì họ len lỏi vào mọi ngõ ngách của cuộc sống như giống muỗi vậy.
Khi ả "thu xếp" được một bài diễn văn ngắn do một nghị sĩ cánh hữu đọc tại nghị viện "về sự cần thiết phải hợp tác chặt chẽ với nền công nghiệp Mỹ nhằm phòng thủ nước Pháp bằng vũ khí hóa học" thì Rôlinh lần đầu tiên bắt chặt tay ả và lắc lắc một cách thân ái, như giữa nam giới với nhau:
- Tốt lắm, tôi sẽ lấy em làm thư ký của tôi với tiền lương là hai mươi bảy đôla một tuần.
Rôlinh bắt đầu tin vào sự hữu ích của Dôia và bắt đầu đối xử thành thật với ả về mặt công việc, tức là thành thật đến cùng.
17
Dôia có quan hệ với một vài gã lưu vong người Nga. Trong số đó có Xêmiônốp là người được ả thường xuyên cấp lương. Gã là kỹ sư hóa học tốt nghiệp thời chiến, sau đó làm thiếu úy rồi trở thành sỹ quan bạch vệ, và trong thời gian sống lưu vong thì phụ trách những "ủy ban" linh tinh.
Gã điều khiển bọn phản gián của Dôia, đem đến cho ả những tờ báo và tạp chí Xô Viết, thông báo cho ả những tin tức, những chuyện ngồi lê đôi mách, những lời đồn đại. Gã cần mẫn, nhanh nhẹn và không từ một việc gì không làm.
Một lần, Dôia đưa cho Rôlinh xem một mảnh báo cắt nói về một bộ máy có sức phá hoại ghê gớm đang được chế tạo ở Pêtơrôgrát. Rôlinh phá lên cười:
- Nhảm nhí, chẳng ai hoảng sợ đâu... Trí tưởng tượng của chúng ta quá phong phú đấy. Bọn Bônsêvích không có khả năng chế tạo một thứ gì hết.
Dôia liền mời Xêmiônốp đến ăn sáng, và gã đã kể một chuyện lạ lùng về mẩu tin đó:
-... Vào năm mười chín, ở Pêtơrôgrát, trước khi tôi trốn ra nước ngoài ít lâu, tôi gặp ngoài phố một anh bạn người Ba Lan đã cùng tôi tốt nghiệp trường công nghệ. Tên anh ta là Tưclinxki. Bị khoác sau lưng, hai chân quấn chặt những mảnh thảm, trên áo măngtô có viết những chữ số bằng phấn - dấu hiệu của những lần xếp hàng. Tóm lại, mọi thứ đều đúng như thông lệ. Nhưng vẻ mặt anh ta đầy phấn chấn. Mắt nhấp nháy. Có chuyện gì thế nhỉ? "Tớ đã vớ được một việc hái ra vàng mà lại, - anh ta bảo, - phải bạc triệu chứ không ít! Phải hàng trăm triệu ấy chứ (dĩ nhiên là hàng trăm triệu tiền vàng rồi!)" Tất nhiên tôi bám lấy anh ta, nằng nặc đòi anh ta kể. Anh ta chỉ cười trừ. Rồi chúng tôi chia tay nhau. Khoảng hai tuần sau, tôi lang thang trên đảo Vaxiliépxki là nơi anh ta ở. Tôi chợt nhớ đến cái công việc hái ra vàng của anh ta. Tôi nghĩ: ta thử đến xin nhà triệu phú này vài lạng đường xem sao. Tôi liền tạt vào nhà anh ta. Tưclinxli đang nằm trong tình trạng gần đất xa trời - tay và ngực bị băng bó kín mít.
- Ai làm cậu đến nông nỗi này?
- Cứ đợi đấy, - anh ta trả lời, - Đức mẹ đồng trinh sẽ giúp tớ bình phục, và tớ sẽ giết chết hắn.
- Giết ai kia?
- Garin.
Và anh ta đã kể chuyện cho tôi nghe. Quả thật, anh ta kể rất rối rắm và mơ hồ vì không muốn cho tôi biết tỉ mỉ, nhưng đại để là như sau. Một người quen cũ của anh ta là kỹ sư Garin đề nghị anh ta chế tạo loại nến than cho một bộ máy nào đó có sức phá hoại khủng khiếp. Để làm Tưclinxki hứng thú, y hứa sẽ chia lời lãi với anh ta. Y dự tính là sau khi kết thúc thí nghiệm, sẽ đem bộ máy đó chạy sang Thụy Sĩ, lấy bằng phát minh ở đấy rồi tự mình đứng ra trông coi việc sử dụng.
Tưclinxki hăm hở bắt đầu nghiên cứu việc chế tạo những khối chóp nhỏ. Nhiệm vụ đặt ra là những khối chóp ấy càng nhỏ càng tốt nhưng lại phải tỏa ra được một lượng nhiệt cực đại. Cơ cấu của bộ máy thì Garin giữ bí mật, y bảo là nguyên tắc của nó hết sức đơn giản, bởi vậy chỉ cần nói bóng gió xa xôi là cũng đủ làm lộ bí mật rồi. Tưclinxki cung cấp cho y những khối chóp nhỏ, nhưng không lần nào thuyết phục nổi y cho xem bộ máy kia.
Thái độ nghi kỵ đó khiến Tưclinxki giận điên lên. Hai bên cãi nhau luôn. Một hôm, Tưclinxki theo dõi Garin đến tận nơi y tiến hành thí nghiệm - một ngôi nhà đổ nát trên một đường phố hẻo lánh mạn Pêtơrôgrátxcaia. Tưclinxki theo gót Garin lần tới đó và mò mẫm hồi lâu theo những cầu thang, những căn phòng trống rỗng đã long hết cửa sổ, và cuối cùng anh ta nghe thấy dưới hầm nhà có tiếng xèo xèo mạnh như từ luồng hơi nước phụt ra và ngửi thấy mùi quen thuộc của những khối chóp nhỏ đang cháy.
Anh ta thận trọng leo xuống hầm nhà, nhưng bỗng vấp phải đống gạch vỡ, anh ta ngã lăn ra, làm vang động lên, và nhìn thấy sau vòm cửa, cách anh ta khoảng ba chục bước, là khuôn mặt của Garin đang méo xệch dưới ánh đèn dầu. "Ai, ai đấy?" - Garin giận dữ hét to, và đúng lúc đó, một tia sáng chói lòa không to hơn kim đan bỗng phụt ra từ bức tường và cắt chéo qua ngực và tay của Tưclinxki.
Anh ta tỉnh dậy lúc mờ sáng, kêu cứu hồi lâu rồi bò ra khỏi hầm nhà, khắp người bê bết máu. Anh ta được những người qua đường vực lên rồi chở bằng xe tay về nhà. Khi anh ta bình phục thì nổ ra cuộc chiến tranh với Ba Lan, và anh ta phải trốn khỏi Pêtơrôgrát.
Câu chuyện này đã gây cho Dôia một ấn tượng hết sức mạnh mẽ. Rôlinh thì chỉ nghi hoặc nhếch mép cười: y chỉ tin vào sức mạnh của hơi ngạt. Thiết giáp hạm, pháo đài, đại bác, những đội quân cồng kềnh, theo ý kiến y, tất cả những thứ đó đều là tàn tích của thời đại dã man. Máy bay và hóa học - đó mới là những vũ khí duy nhất hùng mạnh của chiến tranh. Còn những bộ máy gì đó ở Pêtơrôgrát chỉ là chuyện nhảm nhí.
Nhưng Dôia không yên tâm. Ả phái Xêmiônốp đến Phần Lan để từ đó tìm kiếm những tin tức chính xác về Garin. Một viên sĩ quan bạch vệ được Xêmiônốp thuê mướn đã trượt tuyết vượt qua biên giới Nga, tìm thấy Garin ở Pêtơrôgát, nói chuyện với y và thậm chí còn đề nghị với y hợp tác làm việc. Garin tỏ ra rất thận trọng. Y nói về bộ máy của mình theo ý nghĩa là người nào làm chủ được nó sẽ có được một sức mạnh siêu phàm. Các cuộc thí nghiệm với bộ máy mẫu đã đem lại những kết quả rực rỡ. Y chỉ chờ lúc hoàn tất việc nghiên cứu các khối chóp mà thôi
18
Vào một tối chủ nhật mưa gió đầu xuân, ánh đèn trong các ô cửa sổ và vô số ánh đèn đường phản chiếu trên lớp nhựa bóng nhẫy của các phố xá Pari, trông chẳng khác gì những dòng kênh đen sẫm mà bên dưới là một vực thẳm ánh sáng.
Những chiếc xe ướt át phóng vùn vụt, những chiếc ô ướt đẫm lấp loáng, va vào nhau, xoay tròn. Bóng tối dầy đặc nước mưa như đặc sệt những hơi ẩm rữa nát của các đại lộ, mùi các quầy bán rau, mùi khí xả và mùi nước hoa.
Nước mưa chảy thành dòng trên các mái nhà bằng graphít, trên những dãy chấn song của các ban công, trên những tấm mái che kẻ sọc khổng lồ của các quán cà phê. Những biển quảng cáo đủ mọi loại vui chơi giải trí quay cuồng, sáng nhấp nháy, mờ mờ trong màn sương mù.
Những con người tầm thường, nhỏ bé - các tham tán, các quan lại thấp và viên chức - tùy theo khả năng mà giải trí vào ngày này. Những nhân vật quan trọng, những nhà doanh nghiệp thì ngồi bên lò sưởi tại nhà. Chủ nhật là ngày của dân đen, dành cho các dân đen xâu xé.
Dôia ngồi thu lu trên chiếc đi văng rộng, giữa một lô gối nhỏ. Ả hút thuốc và nhìn lửa trong lò sưởi. Rôlinh mặc áo đuôi tôm, thả mình trong chiếc ghế bành lớn, ghếch hai chân lên bục đặt thấp, cũng vừa hút thuốc vừa nhìn những cục than hồng.
Khuôn mặt được lò sưởi chiếu sáng của y dường như đỏ rực vì bị nung nóng - chiếc mũi to mập, đôi má rậm râu, cặp mắt hơi bừng bừng hé mở dưới hàng mi của một bậc chúa tể vũ trụ. Y chìm đắm trong nỗi buồn nhè nhẹ cần phải có mỗi tuần một lần để đầu óc và thần kinh được thanh thản.
Dôia giơ đôi tay kiều diễm để trần ra trước mặt và nói:
- Rôlinh ạ, từ bữa ăn đến giờ đã hai tiếng đồng hồ rồi đấy.
- Đúng thế, - Rôlinh đáp, - cũng như em, anh cho rằng quá trình tiêu hóa đã kết thúc rồi.
Cặp mắt trong veo và gần như mơ mộng của ả lướt trên mặt y. Ả khe khẽ gọi tên y bằng một giọng nghiêm trang. Y vẫn ngồi yên trong chiếc ghế bành ấm áp mà trả lời:
- Anh nghe em đây, con mèo nhỏ của anh ạ.
Vậy là đã được phép nói. Ả chuyển sang ngồi ở mép đi văng và ôm lấy đầu gối.
- Anh Rôlinh này, các nhà máy hóa chất dễ có nguy cơ bị nổ tung lắm phải không?
- Đúng đấy. Vật phẩm phụ thứ tư của than đá - tơrôtin là một chất nổ cực kỳ ghê gớm. Vật phẩm phụ thứ tám của than đá - axit picrin - được nhồi vào đạn xuyên thép của các pháo hạm. Nhưng còn có một chất nguy hiểm hơn nữa, đó là têtơrin.
- Chất ấy là gì vậy, anh Rôlinh?
- Cũng vẫn là than đá thôi. Benzen (CH6) khi hòa hợp với axit nitơrích (HNO3) ở tám mươi độ sẽ tạo nên nitơrô benzen. Công thức của nitơrô benzen là C6HNO2. Nếu chúng ta thay thế hai phần ôxy O2 trong đó bằng hai phần hyđrô H2, tức là nếu chúng ta bắt đầu từ từ trộn lẫn nitơrô benzen ở tám mươi độ với mùn gang, với một lượng nhỏ axít clohyđrích, thì chúng ta sẽ thu được anilin (C6H5NH2). Anilin trộn lẫn với rượu mêtylích dưới áp lực năm mươi átmốtphe sẽ tạo ra đimêtin- anilin. Sau đó, chúng ta đào một chiếc hồ lớn, đắp lũy đất bao quanh, dựng một nhà kho bên trong để thực hiện phản ứng giữa đimêtin- anilin và axít nitơrích. Trong thời gian diễn ra phản ứng này, chúng ta sẽ đứng từ xa theo dõi nhiệt kế qua kính viễn vọng. Phản ứng giữa đimêtin- anilin và axít nitơrích sẽ tạo ra chất têtơrin. Cái chất têtơrin này chính là một con quỷ thực sự, đôi khi, do những nguyên nhân không ai biết, nó nổ tung trong lúc phản ứng diễn ra và biến những nhà máy lớn thành tro bụi. Thật đáng tiếc là chúng ta phải tiếp xúc với nó: khi được xử lý bằng phốtgen, nó tạo nên những tinh thể màu xanh tím. Và chính cái thứ đó đem lại cho tôi khối tiền đấy em ạ. Em đã hỏi tôi một cách thật ngộ nghĩnh... Hừm... Tôi cứ tưởng em am hiểu hóa học hơn thế kia đấy. Để từ hắc ín chế tạo được viên piramiđông chẳng hạn, thứ thuốc giúp em khỏi bệnh đau đầu ấy, cần phải đi qua một loạt giai đoạn... Trên con đường từ than đá đến piramiđông, hoặc đến lọ nước hoa, hoặc đến chế phẩm thông thường dùng trong nghề ảnh, là những chất quỷ quái như tơrôtin và axít picrin, là những chất tuyệt diệu như brôm- benzin- xianua, clo- picrin, đi- phênin- clo- ácxin và nhiều chất khác nữa, tức là những hơi độc chiến đấu khiến người ta hắt hơi, chảy nước mắt, dứt bỏ mặt nạ bảo vệ, ngạt thở, thổ huyết, sưng tấy, thân thể thối rữa lúc còn sống...
Vì Rôlinh cảm thấy buồn bã vào buổi tối chủ nhật mưa gió này nên y sẵn lòng triền miên suy nghĩ về tương lai vĩ đại của hóa học.
- Tôi nghĩ rằng (y phẩy phẩy gần mũi điếu thuốc đã hút hết một nửa), tôi nghĩ rằng Đức Chúa Trời đã sáng tạo ra trời đất cùng mọi sinh vật khác từ hắc ín và muối ăn. Thánh Kinh không nói thẳng điều đó, nhưng có thể đoán ra được. Kẻ nào có trong tay than và muối thì kẻ đó sẽ thống trị thế giới. Người Đức gây ra cuộc chiến tranh năm mười bốn chỉ bởi vì chín phần mười các nhà máy hóa chất trên khắp thế giới là thuộc về nước Đức. Người Đức đã hiểu được bí mật của than và muối: họ là dân tộc có văn hóa duy nhất thời đó. Nhưng họ không ngờ rằng người Mỹ chúng ta lại có thể xây dựng xong công binh xưởng Étvút[1]trong vòng chín tháng. Người Đức đã mở mắt cho chúng ta, chúng ta đã hiểu là cần đầu tư vốn vào đâu, và bây giờ người thống trị thế giới sẽ là chúng ta, chứ không phải họ, bởi vì sau chiến tranh, tiềm lực trong tay chúng ta và hóa học cũng trong tay chúng ta. Trước hết chúng ta sẽ biến nước Đức, rồi sau đó sẽ biến cả các nước khác nữa, những nước nào biết cách làm việc (những nước không biết làm việc sẽ bị đào thải theo luật tự nhiên, chúng ta sẽ giúp họ trong việc này) thành một công xưởng hùng mạnh. Lá cờ Mỹ sẽ buộc ngang trái đất theo đường xích đạo và buộc dọc trái đất từ cực này đến cực kia như ta buộc hộp kẹo vậy...
- Anh Rôlinh ạ. - Dôia ngắt lời y, - tự anh sẽ chuốc lấy tai họa mất... Vì khi ấy chúng sẽ trở thành những tên cộng sản... Sẽ đến ngày chúng tuyên bố rằng chúng không cần đến anh nữa vàchúng muốn làm việc cho bản thân chúng... Ôi, em đã trải qua nỗi khủng khiếp đó rồi... Chúng sẽ không chịu trả cho anh hàng tỷ đô la của anh...
- Lúc đó, anh sẽ dìm cả châu Âu trong hơi mù tạt.
- Sẽ muộn mất, anh Rôlinh ạ. - Dôia lấy hai tay siết chặt đầu gối và nhô người ra phía trước. - Rôlinh, hãy tin em, em chưa bao giờ khuyên anh điều gì xấu cả... Em vừa hỏi anh: các nhà máy hóa chất có nguy cơ bị nổ tung hay không?... Trong tay bọn công nhân, bọn cách mạng, bọn cộng sản, trong tay những kẻ thù của chúng ta sẽ có thứ vũ khí có sức mạnh khủng khiếp... Chúng sẽ có thể từ xa làm nổ tung các nhà máy hóa chất và các hầm thuốc súng, có thể đốt cháy các phi đội máy bay, tiêu diệt các kho chứa hơi độc, tóm lại là tất cả những gì có thể nổ tung và bốc cháy.
Rôlinh bỏ hai chân khỏi chiếc bục đặt thấp, hấp háy mi mắt đỏ nhạt và chăm chú nhìn Dôia một lúc.
- Theo chỗ tôi hiểu thì em lại ám chỉ đến...
- Đúng đấy, anh Rôlinh ạ, em muốn ám chỉ đến bộ máy của kỹ sư Garin... Cho tới nay, anh vẫn bỏ ngoài tai mọi tin tức về bộ máy đó... Nhưng em thì em biết việc này quan trọng đến chừng nào... Xêmiônốp đã đem đến cho em một vật đáng sợ, từ Nga gởi cho anh ta.
Ả bấm chuông. Người hầu bước vào. Theo lệnh của ả, ông ta mang đến một chiếc hòm nhỏ bằng gỗ thông, bên trong có một mẩu thép dày chừng hơn một phân. Dôia lấy mẩu thép ra và đưa lại gần ánh sáng lò sưởi. Trên bề dày của mẩu thép có những vạch thẳng và đường vòng xuyên suốt qua bằng một dụng cụ sắc nhọn nào đấy và hằn rõ những chữ xiên nghiêng như viết tháu bằng ngòi bút: "Mẫu thử lực... mẫu thử... Garin". Những vụn kim loại bên trong một vài chữ rơi lả tả ra. Rôlinh xem xét hồi lâu mẩu thép.
- Trông cứ như "thử bút" vậy, - y khẽ nói, - dường như có người viết bằng kim lên bột nhão ấy.
- Đây là kết quả việc thử bộ máy của Garin ở một khoảng cách ba chục bước, - Dôia cho biết. - Xêmiônốp khẳng định rằng Garin hy vọng sẽ chế tạo được một bộ máy có thể cắt đôi một chiến hạm lớn dễ dàng như cắt bơ ở khoảng cách ba bốn cây số... Xin lỗi anh, Rôlinh ạ, nhưng em cầu khẩn anh phải chiếm bằng được bộ máy khủng khiếp này.
Rôlinh đã không uổng công trải qua trường đời ở Mỹ, cả con người y đã được rèn luyện để chiến đấu.
Ai cũng biết là việc luyện tập có tác dụng phân bố các nỗ lực một cách chính xác giữa các bắp thịt và khiến các bắp thịt huy động được tối đa khả năng của mình. Rôlinh cũng như vậy khi y bước vào cuộc chiến đấu: trước hết trí tưởng tượng bắt đầu hoạt động - nó xông vào những lĩnh vực hóc búa chưa ai đụng đến của các xí nghiệp và phát hiện ở đấy một hiện tượng gì đó đáng chú ý. Xtốp. Hoạt động của trí tưởng tượng kết thúc. Đến lượt lý trí làm việc - nó đánh giá, so sánh, cân nhắc, kết luận: hữu ích. Xtốp. Đến lượt óc thực tiễn - nó tính toán, dự tính, lập bảng cân đối: có lợi. Xtốp. Đến lượt ý chí rắn như thép môlipđen, ý chí mãnh liệt của Rôlinh, và y như con trâu mắt đỏ ngầu, lao tới mục đích và đạt bằng được nó, cho dù y và những người khác có phải trả giá thế nào chăng nữa.
Hôm nay cũng diễn ra một quá trình tương tự như vậy. Rôlinh đưa mắt nhìn bao quát lĩnh vực hóc búa bí ẩn này và lý trí bảo y: Dôia có lý. Óc thực tiễn tức khắc lập bảng cân đối: cái có lợi nhất là đánh cắp các bản vẽ và bộ máy, là thủ tiêu Garin. Chấm hết. Số phận của Garin đã được định đoạt, tín dụng đã mở, và ý chí bắt đầu hoạt động.
Rôlinh đứng dậy khỏi ghế bành, quay lưng về phía lửa lò sưởi và nói dằn từng tiếng:
- Ngày mai, tôi sẽ đợi Xêmiônốp ở đại lộ Mandéc. 
19
Bảy tuần lễ đã trôi qua sau buổi tối hôm đó. Kẻ giống hệt Garin bị giết trên đảo Crextốpxki. Xêmiônốp xuất hiện trên đại lộ Mandéc không có các bản vẽ và bộ máy. Rôlinh suýt ném lọ mực vào đầu gã. Hôm qua, người ta trông thấy Garin hoặc kẻ giống hệt y ở Pari.
Hôm sau, như thường lệ, Dôia đến đại lộ Mandéc vào lúc một giờ trưa. Rôlinh ngồi bên cạnh ả trong chiếc Limudin mui kín, chống cằm vào can và nói rít qua kẽ răng:
- Garin đang ở Pari.
Dôia ngửa người vào đệm ghế. Rôlinh cau có nhìn ả.
- Đáng lẽ phải đưa Xêmiônốp lên máy chém từ lâu rồi mới phải, hắn là một kẻ bừa bãi, một tên giết người rẻ tiền, vừa xấc láo lại vừa ngu ngốc, - Rôlinh nói. - Tôi đã tin cẩn hắn và kết quả là rơi vào tình thế lố bịch. Có thể thấy trước là hắn sẽ lôi kéo tôi vào một chuyện tồi tệ mất...
Rôlinh kể cho Dôia nghe toàn bộ câu chuyện giữa y với Xêmiônốp. Việc xuất hiện kẻ giống hệt Garin đã làm Rôlinh hết sức bối rối. Y hiểu rằng địch thủ của y rất khôn khéo. Garin hoặc đã biết về vụ mưu sát đang chuẩn bị, hoặc đã thấy trước là nhất định sẽ bị mưu sát, do đó làm lẫn lộn dấu vết bằng cách bí mật bố trí một kẻ giống hệt mình. Tất cả những chuyện đó đều rất mơ hồ. Nhưng điều khó hiểu nhất là Garin đến Pari để làm quái gì mới được chứ?
Chiếc limudin chạy giữa vô số xe cộ trên quảng trường Êlidê. Tiết trời ấm áp, oi ả. Trong màn khói lam nhạt nhẹ bay hiện rõ hình lũ ngựa có cánh và mái vòm bằng kính của tòa Đại Lâu, những lớp mái hình bán nguyệt của các tòa nhà cao, những rèm cửa sổ, những đám cây dẻ sum suê.
Ngồi trên các xe hơi - người thì dạng chân, người thì gác chân lên đầu gối, người thì gậm gậm đầu can - chủ yếu là những tay anh chị mới phất, người ngắn ngủn, đội mũ kiểu mùa xuân và đeo cà vạt sặc sỡ. Họ chở những cô gái kháu khỉnh đi ăn sáng ở rừng Bulônhơ, những cô gái mà Pari hào phóng ban cho họ để giải trí cho khách nước ngoài.
Đến quảng trường Ngôi sao, chiếc limudin của Dôia đuổi kịp một chiếc xe thuê, ngồi trong chiếc xe này là Xêmiônốp và một người đàn ông mặt húp híp, vàng khè, bộ ria đầy bụi. Cả hai nhô người về phía trước, vẻ kích động đến cực độ, theo dõi một chiếc xe nhỏ màu xanh đang lượn vòng trên quảng trường Ngôi sao để đi đến bến tàu điện ngầm.
Xêmiônốp chỉ chiếc xe đó cho người lái, nhưng khó mà lọt qua được dòng xe cộ chạy nườm nượp. Rốt cuộc, họ cũng lách lên được và cho xe chạy tắt ngang chiếc xe nhỏ màu xanh. Nhưng chiếc xe đó đã đỗ cạnh đường tàu điện ngầm. Nhảy từ trong xe ra là một người tầm thước, mặc chiếc măng tô dày rộng thùng thình, rồi y biến mất vào lối xuống tàu điện ngầm.
Toàn bộ cảnh tượng đó diễn ra chỉ trong vòng hai - ba phút, ngay trước mắt Rôlinh và Dôia. Ả hét to bảo người lái xe rẽ về phía bến tàu điện ngầm. Xe của ả dừng lại gần như cùng một lúc với xe của Xêmiônốp. Gã vừa huơ chiếc can vừa chạy đến chiếc limudin, mở cửa xe làm bằng pha lê và nói với vẻ hết sức kích động:
- Garin đấy! Hắn lẩn mất rồi. Nhưng không sao. Hôm nay, tôi sẽ đến phố Batinhông gặp hắn và sẽ đề nghị hòa giải. Ngài Rôlinh ạ, ta cần thỏa thuận với nhau một chuyện: ngài sẽ bỏ ra bao nhiêu tiền để có được bộ máy? Ngài có thể yên tâm được: tôi sẽ hành động trong khuôn khổ luật pháp. Tiện đây, xin cho phép giới thiệu với ngài ông Tưclinxki, một con người rất mực đứng đắn.
Không đợi được phép, gã gọi to Tưclinxki. Tưclinxki vội chạy đến bên chiếc limudin, bỏ mũ cúi chào rồi hôn tay tiểu thư Dôia.
Rôlinh không đưa tay cho cả Xêmiônốp lẫn Tưclinxki, mắt y sáng quắc trong xe như mắt sư tử trong chuồng. Xuất hiện trước mặt mọi người trên quảng trường là thiếu khôn ngoan.
Dôia đề nghị đi ăn trưa ở bờ bên trái, tại hiệu ăn "Lapêrudơ" thường vắng vẻ vào khoảng thời gian đó.
20
Tưclinxkin liên tục cúi chào, vuốt thẳng bộ ria trễ xuống, nhìn Dôia bằng cặp mắt ươn ướt và ăn với vẻ hau háu cố kìm lại. Rôlinh cau có ngồi quay lưng về phía cửa sổ, Xêmiônốp luôn miệng ba hoa một cách suồng sã. Dôia có vẻ bình tĩnh, ả mỉm cười mê hồn và thỉnh thoảng lại đưa mắt ra hiệu cho người hầu bàn rót rượu thường xuyên hơn cho khách. Khi rượu sâm banh được đưa lên, ả đề nghị Tưclinxki bắt đầu kể chuyện.
Gã cởi khăn ăn khỏi cổ.
- Đối với ngài Rôlinh, chúng tôi không tiếc gì hết, kể cả mạng sống của mình nữa. Chúng tôi đã vượt qua biên giới Nga ở vùng Xêxtơrôexcơ.
- Chúng tôi là những ai? - Rôlinh hỏi.
- Tôi và một trợ thủ của tôi, một người Nga quê ở Vácsava, một sĩ quan trong quân đội của Balakhêvích... Hắn ta cực kỳ tàn bạo... Cái gã sĩ quan chết tiệt ấy gây hại cho tôi nhiều hơn là giúp đỡ tôi. Nhiệm vụ của tôi lúc đó là theo dõi xem Garin tiến hành thí nghiệm ở đâu. Tôi đã đến tận ngôi nhà đổ nát - ngài và tiểu thư đây dĩ nhiên đã biết rằng tại ngôi nhà này, gã kỹ sư khốn kiếp ấy đã suýt cắt đôi tôi bằng cái bộ máy của gã. Tại đấy, tôi đã tìm thấy trong hầm nhà mẩu thép mà tôi đã gởi cho tiểu thư Dôia, và tiểu thư có thể thấy rõ sự cần mẫn của tôi. Garin liền thay đổi địa điểm thí nghiệm. Tôi đã ngày đêm không ngủ vì muốn đáp ứng lòng tin cậy của tiểu thư Dôia và ngài Rôlinh. Tôi đã liều bị viêm phổi trong những đầm lầy trên đảo Crextốpxki, và tôi đã đạt được mục đích. Tôi đã lần ra dấu vết Garin. Đêm hai mươi bảy tháng tư, tôi và người trợ thủ của tôi đã lọt vào ngôi nhà nghỉ của Garin, trói gã vào chiếc giường sắt và lục soát hết sức tỉ mỉ... Không thấy gì hết... Thật phát điên lên được... Không có một dấu vết nào của bộ máy hết... Nhưng tôi biết rằng gã giấu bộ máy ấy trong nhà. Khi ấy, viên trợ thủ của tôi đã xử sự hơi quá tay với Garin. Ngài và tiểu thư đây chắc sẽ hiểu được nỗi xúc động của chúng tôi... Tôi không nói là chúng tôi đã hành động theo chỉ thị của ngài Rôlinh... Không! Chẳng qua là viên trợ thủ của tôi quá nóng nảy...
Rôlinh nhìn đĩa thức ăn. Cánh tay dài của Dôia trước đây vẫn nằm yên trên khăn bàn, nay động đậy nhanh các ngón, làm lấp lánh những móng tay làm bóng, những chiếc nhẫn đính kim cương, ngọc bích, ngọc lam. Tưclinxki phấn chấn lên khi nhìn bàn tay vô giá này.
- Như ngài và tiểu thư đã biết, một ngày sau tôi gặp Garin ở bưu điện. Lạy Chúa, ai mà không hoảng sợ cho được khi chạm trán với một kẻ đã chết mà nay lại sống sờ sờ trước mắt! Đúng lúc đó bọn công an khốn kiếp còn lao theo săn tôi nữa. Chúng tôi đã trở thành nạn nhân của một trò lừa bịp: gã Garin khốn kiếp đã đánh tráo gã với một người khác. Tôi quyết định lại lục soát ngôi nhà nghỉ: nhất định ở đó phải có hầm ngầm. Ngay đêm ấy, tôi trở lại một mình, đánh thuốc mê thằng cha canh gác. Tôi bò vào qua cửa sổ... Mong ngài Rôlinh sẽ không hiểu sai tôi... Khi Tưclinxki hy sinh tính mạng thì đó là hy sinh vì lý tưởng... Đúng lúc đó, tôi nghe thấy trong nhà có tiếng lách cách và răng rắc khủng khiếp đến nỗi ai cũng phải dựng tóc gáy lên. Nhảy ngược lại ra ngoài cửa sổ đối với tôi là chuyện dễ như bỡn, nhưng tôi đã không làm thế... Đúng, ngài Rôlinh ạ, vào phút đó, tôi hiểu rằng, Chúa đã dẫn dắt ngài khi ngài cử tôi đi chiếm lấy trong tay bọn Nga thứ vũ khí ghê gớm mà chúng có thể dùng để chống lại toàn thế giới văn minh. Đó là giây phút lịch sử, tiểu thư Dôia ạ, tôi xin lấy danh dự một quý tộc ra mà thề với tiểu thư như vậy. Tôi nhảy bổ như thú dữ vào bếp là nơi phát ra tiếng động. Tôi nhìn thấy Garin - hắn đang chất bàn ghế, bao bì, hòm xiểng thành một đống ở cạnh tường. Thấy tôi, hắn vớ lấy chiếc va li da mà tôi đã quen thuộc từ lâu rồi, nơi hắn thường để bộ máy mẫu, rồi nhảy vọt sang phòng bên cạnh. Tôi rút phắt súng lục ra và lao theo hắn. Hắn đang mở cửa sổ, định nhảy ra đường. Tôi bắn một phát, hắn cứ một tay xách va li, một tay cầm súng, mà chạy đến cuối phòng, núp sau giường và bắn trả. Đó là một trận quyết đấu thật sự, tiểu thư Dôia ạ. Một viên đạn xuyên qua mũ tôi. Đột nhiên, hắn lấy một mảnh vải gì đó che kín mồm và mũi rồi chĩa một ống kim loại về phía tôi: một phát súng vang lên, không to hơn tiếng mở nút chai sâm banh, và đúng giây phút đó, tựa như có hàng nghìn vuốt sắc nhỏ xuyên vào mũi, vào cổ họng, vào ngực tôi, cào xé người tôi, hai mắt tôi ràn rụa nước mắt vì một nỗi đau đớn không thể chịu nổi, tôi bắt đầu ho, hắt hơi, ruột gan tôi đảo lộn hết, và xin lỗi tiểu thư, tôi nôn thốc nôn tháo đến mức phải ngã vật xuống.
- Đi- phênin- clo- ácxin trộn với phốtgen theo tỷ lệ mỗi thứ năm mươi phần trăm đấy mà - một chất rẻ như bèo ấy, chúng ta hiện đang trang bị cho cảnh sát loại lựu đạn này, - Rôlinh nói.
- Đúng thế... ngài Rôlinh nói đúng đấy - đó là loại lựu đạn hơi ngạt... May thay, cơn gió lùa vào đã mau chóng làm hơi ngạt tản đi. Tôi hơi tỉnh lại và dở sống dở chết lê về nhà. Tôi bị ngộ độc, khắp người đau như dần, bọn công an sục sạo khắp thành phố tìm tôi, tôi chỉ còn cách trốn khỏi Lêningrát và tôi đã trốn được tuy phải trải qua biết bao gian nan nguy hiểm.
Tưclinxki vung hai tay lên và cúi đầu xuống mong được khoan dung. Dôia hỏi:
- Anh tin chắc là Garin cũng đã trốn khỏi Nga chứ?
- Nhất định là thế. Sau khi xảy ra câu chuyện tôi vừa kể thì trước sau gì hắn cũng bị Ban điều tra hình sự hỏi tội.
- Nhưng tại sao hắn lại chọn Pari chứ không phải nơi nào khác?
- Hắn cần những khối chóp than. Nếu không thì bộ máy của hắn chẳng khác gì súng không nạp đạn. Garin là nhà vật lý. Hắn mù đặc về hóa học. Theo đơn đặt hàng của hắn, tôi đã nghiên cứu những khối chóp này và sau tôi là kẻ đã phải trả mạng mình cho việc này trên đảo Crextốpxki. Nhưng Garin còn có một đồng bọn nữa ở đây, ở Pari - chính hắn đã đánh điện đến đại lộ Batinhông cho người này. Garin đến đây để theo dõi việc nghiên cứu các khối chóp than.
- Anh đã thu thập được những tin tức gì về tên đồng bọn của Garin? - Rôlinh hỏi.
- Hắn ta sống tại một khách sạn xoàng xĩnh trên đại lộ Batinhông, hôm qua chúng tôi đã đến đấy và được người gác cổng kể cho biết một số chi tiết, - Xêmiônốp trả lời, - Hắn ta chỉ về ngủ đêm thôi. Khi ra khỏi nhà, hắn thường mặc áo khoác bằng vải thô là loại áo mà các thầy thuốc, các thí nghiệm viên và sinh viên hóa thường mặc. Chắc hẳn hắn làm việc ở một nơi nào đó không xa lắm.
- Diện mạo hắn ra sao? Quỷ tha ma bắt anh đi, tôi cần quái gì đến cái áo khoác bằng vải thô của hắn kia chứ! Lão gác cổng có tả cho anh diện mạo của hắn không?
Xêmiônốp và Tưclinxki liếc nhìn nhau. Tưclinxki áp tay lên ngực:
- Nếu ngài muốn thì ngay hôm nay chúng tôi sẽ đem về cho ngài những chi tiết về diện mạo hắn.
Rôlinh im lặng hồi lâu, lông mày nhíu lại:
- Các anh có cơ sở gì để khẳng định rằng người mà hôm qua các anh trông thấy trong tiệm cà phê trên đại lộ Batinhông và người đã mất hút trên quảng trường Ngôi Sao chỉ là một, và người đó chính là Garin? Các anh đã lầm lẫn một lần ở Lêningrát rồi. Thế nào?
Tưcclinxki và Xêmiônốp lại nhìn nhau. Tưclinxki mỉm cười cực kỳ nhã nhặn:
- Chắc ngài Rôlinh không muốn khẳng định rằng ở thành phố nào Garin cũng có những kẻ giống hệt hắn...
Rôlinh bướng bỉnh lắc đầu. Dôia ngồi yên, hai tay quấn kín trong lớp lông chồn và thờ ơ nhìn ra ngoài cửa sổ.
Xêmiônốp nói:
- Tưclinxkin biết Garin quá rõ nên không thể lầm được. Bây giờ, cần làm sáng tỏ một điều khác kia, ngài Rôlinh ạ. Ngài cho phép riêng chúng tôi được giải quyết công việc này - tức là một buổi sáng nào đó sẽ đem các bản vẽ và bộ máy đến đại lộ Mandéc - hay ngài sẽ làm việc cùng chúng tôi?
- Không đời nào! - Dôia đột nhiên lên tiếng, mắt vẫn nhìn ra ngoài cửa sổ. - Ngài Rôlinh rất quan tâm đến thí nghiệm của kỹ sư Garin, ngài Rôlinh rất muốn có quyền sở hữu đối với phát minh này, ngài Rôlinh bao giờ cũng làm việc trong khuôn khổ hoàn toàn hợp pháp. Nếu như ngài Rôlinh tin những lời Tưclinxki vừa kể, dù chỉ một lời thôi, thì tất nhiên ngài sẽ lập tức gọi điện cho giám đốc cảnh sát để trao cho chính quyền tên vô lại và tội phạm như vậy. Nhưng vì ngài Rôlinh biết rõ rằng Tưclinxki bịa đặt ra toàn bộ câu chuyện đó để xoay được càng nhiều tiền càng tốt, nên ngài rộng lượng cho phép giúp đỡ ông ít nhiều trong công việc sau này.
Lần đầu tiên trong suốt bữa ăn, Rôlinh mỉm cười, y rút trong túi áo gilê ra chiếc tăm bằng vàng và ngoáy sâu vào kẽ răng. Trên trán đỏ bừng của Tưclinxki mồ hôi vã ra, hai má sệ xuống. Rôlinh nói:
- Nhiệm vụ của các anh là thế này, cung cấp cho tôi những tin tức chính xác và tỉ mỉ theo những vấn đề mà các anh sẽ được thông báo vào ba giờ hôm nay ở đại lộ Mandéc. Các anh phải tiến hành dò xét cho thật cẩn thận - chỉ có thế thôi! Không có mệnh lệnh của tôi thì không được đi một bước nào, không được nói một lời nào.
Chú thích:
[1] Công binh xưởng Étvút là trung tâm công nghiệp hóa chất quân sự lớn nhất của Mỹ ở gần Étvút (Mỹ), được bọn đế quốc Mỹ xây dựng trong những năm 1917 - 1918. (Chú thích của nguyên bản).
21
Đoàn tàu điện ngầm màu trắng, lấp lánh như phalê, thuộc tuyến đường Bắc - Nam, nhẹ nhàng lướt nhanh theo các đường hầm tối tăm bên dưới Pari. Trong các đường hầm uốn lượn, vùn vụt lướt qua trước mắt là những đường dây điện chằng chịt, những hõm sâu ăn vào thành xi măng dày, nơi người công nhân đứng nép sát vào và được những ánh đèn chạy vụt qua rọi chiếu, cùng những dòng chữ vàng trên nền đen: "Đuybônê", "Đuybônê", "Đuybônê" - tên thứ đồ uống tởm lợm được các loại quảng cáo nhồi nhét vào đầu óc dân Pari.
Đoàn tàu dừng lại trong khoảnh khắc. Nhà ga tràn ngập ánh sáng ngầm dưới đất. Những biển quảng cáo sặc sỡ hình chữ nhật: "Xà phòng kỳ diệu""Dây đeo quần cực bền""Xi đánh giầy đầu sư tử""Xăm ô tô""Quỷ đỏ", lớp lót cao su cho đế giày, bán phá giá trong các hiệu bách hóa "Luvrơ""Cô gái bán hoa xinh đẹp""Phòng tranh Laphayét"...
Một đám đông ồn ào, cười nói - nào những phụ nữ xinh xắn làm nghề bán hàng trong các cửa hiệu bách hóa, nào là những chú bé chạy giấy, nào những người nước ngoài, nào những thanh niên mặc áo vét tông bó khít, nào những công nhân mặc áo sơ mi đẫm mồ hôi, nhét vào trong chiếc thắt lưng đỏ rực - cả cái đám đông nhộn nhạo ấy chen chúc nhau đổ về phía đoàn tàu. Những cánh cửa kính mở ra trong thoáng lát... "Ô ô ô" - tiếng thở dài loang đi và cả một cơn lốc những mũ, những cặp mắt mở to, những cái miệng há hốc, những khuôn mặt đỏ bừng, vui vẻ, tức giận, tràn vào trong. Những nhân viên kiểm soát vé mặc áo vét màu gạch, nắm chắc tay vịn, dùng bụng đẩy hành khách vào toa. Cửa đóng lại ken két, một tiếng còi ngắn vang lên. Đoàn tàu như một dải lửa lao vào đường hầm tối đen.
Xêmiônốp và Tưclinxki ngồi ở dãy ghế phía bên trong toa, lưng quay về phía cửa. Tưclinxki nổi nóng:
- Đề nghị ông nhớ cho là chỉ phép lịch sự mới giữ được tôi khỏi làm ầm ĩ lên... Tôi có thể nổi giận một trăm lần đấy... Tôi đâu có thèm bữa ăn của bọn tỷ phú! Tôi nhổ vào những bữa ăn ấy... Dám gọi tôi là đồ vô lại!
- Để ý làm quái gì, anh Tưclinxki. Họ cho chúng ta khá nhiều tiền mà suy cho cùng thì chẳng đòi hỏi chúng ta một cái gì hết. Công việc chẳng có gì nguy hiểm, thậm chí còn thú vị nữa; tha hồ lang thang các quán rượu và tiệm cà phê...
- Tôi đòi hỏi họ phải tôn trọng tôi!
- Thôi đi, anh Tưclinxki. Tôn trọng có được trả tiền đâu cơ chứ.
Cạnh cửa toa tàu, đằng sau chiếc ghế dài mà Tưclinxki và Xêmiônốp đang ngồi nói chuyện, một người đàn ông đứng tì khuỷu tay vào thanh ngang bằng đồng. Đó chính là người đã có lần, trên đại lộ Công Đoàn, trong cuộc chuyện trò với Senga, tự xưng tên là Pitkêvích. Cổ áo măng tô y dựng lên, che kín phần dưới khuôn mặt, mũ đội sụp xuống mắt. Vừa đứng với vẻ uể oải và tì miệng vào đầu chiếc can bằng xương, y vừa lắng nghe toàn bộ câu chuyện giữa Xêmiônốp và Tưclinxki, lịch thiệp tránh sang bên khi hai gã vụt đứng dậy và y đi hai ga nữa mới ra khỏi toa, lên đại lộ Môngmác. Tại trạm bưu điện gần đấy, y đánh đi bức điện.
"Gửi Senga, Ban điều tra hình sự. Lêningrát. Người bốn ngón tay ở đây. Nhiều biến cố nguy hiểm".
 22
Sau khi ra khỏi bưu điện, y rẽ vào một ngõ hẻm dẫn lên thị trấn Môngmác theo những hàng bậc mòn nhẵn, chăm chú nhìn khắp lượt xung quanh rồi tạt vào một quán rượu nhỏ tối tăm. Y hỏi mượn tờ báo, mua một ly rượu poóc- tô và bắt đầu đọc.
Vài phút sau, từ ngoài phố bước vào một người gầy gò, mặc áo khoác bằng vải thô, tóc màu hạt dẻ, không đội mũ.
- Chào Garin - gã nói với người đang đọc báo - Anh có thể chúc mừng tôi được đấy... Thành công rồi...
Garin siết chặt tay gã:
- Lơnoa...
- Đúng thế. Tôi vô cùng hài lòng... Tôi sẽ đòi bằng được để chúng ta nhận được bằng sáng chế.
- Không đời nào... ta đi đi.
Họ bước ra khỏi quán, đi ngược lên theo ngõ hẻm bậc thang, rẽ sang phải rồi đi hồi lâu qua những ngôi nhà bẩn thỉu ở ngoại ô, qua những bãi hoang rào dây thép gai, nơi những bộ quần áo rách nát bay phần phật trên các đoạn dây thừng, qua những xưởng thủ công và xưởng thợ.
Ngày sắp tàn. Phía trước là những toán công nhân mệt mỏi đi ngược chiều lại. Ở đây, trên núi này, dường như là nơi sinh sống của một loại người có những bộ mặt khác - rắn rỏi, gày gò, cương nghị. Dường như dân tộc Pháp, để tránh phát phì và thoái hóa, đã chuyển lên những điểm cao bên trên Pari và tại đây, bình thản và nghiêm nghị, chờ đợi giây phút có thể gột rửa thành phố dưới thấp kia khỏi xấu xa tội lỗi và lại đưa con tàu Luytexơ [1] ra đại dương rực nắng.
- Ta vào đây, - Lơnoa vừa nói vừa dùng chiếc chìa khóa Mỹ mở cửa một ngôi nhà kho thấp lè tè bằng đá.
23
Garin và Lơnoa bước lại gần một lò nhỏ xây bằng gạch có chụp che. Trên chiếc bàn gần đấy là những khối chóp nhỏ xếp thành hàng. Trên sườn lò là một vòng đồng dày với mười hai chén sứ nhỏ xếp theo chu vi của nó. Lơnoa thắp nến lên và mỉm cười bí ẩn, nhìn Garin.
- Anh Garin ạ, chúng ta quen nhau đã mười lăm năm rồi, có đúng thế không? Chúng ta đã nhiều phen sướng khổ bên nhau. Anh có thể tin chắc rằng tôi là người trung thực. Khi tôi chạy khỏi Nga Xô, anh đã giúp đỡ tôi... Do đó, tôi kết luận rằng, anh đối xử với tôi không đến nỗi nào. Vậy anh hãy nói xem, tại sao anh lại giấu tôi, không cho tôi biết gì về bộ máy? Tôi biết rằng nếu không có tôi, không có những khối tháp nhỏ này thì anh sẽ hoàn toàn bất lực. Vậy ta hãy thành thật với nhau đi...
Garin chăm chú xem xét chiếc vòng đồng với những chén sứ nhỏ, vừa hỏi:
- Anh muốn tôi tiết lộ bí mật phải không?
- Đúng.
- Anh muốn tham gia vào công việc chứ gì?
- Đúng thế.
- Nếu cần - mà tôi dự đoán rằng sau này thế nào cũng có lúc cần - anh sẽ phải liều mình để công việc thành công đấy...
Không rời mắt khỏi Garin, Lơnoa ngồi lên mép lò, khóe miệng gã run run.
- Được, - gã rắn rỏi đáp, - tôi đồng ý.
Garin im lặng, lấy móng tay dứt dứt bộ râu.
- Tôi sẽ lấy anh làm người tham gia công việc... Nhưng có một điều kiện... Và phải làm ngay...
- Được, tôi đồng ý bất kỳ điều kiện gì.
- Lơnoa ạ, anh biết tôi đến Pari với hộ chiếu giả. Mỗi đêm tôi lại thay đổi khách sạn. Hôm qua, tôi nhận thấy tôi đang bị theo dõi. Việc theo dõi được giao cho mấy gã bạch vệ Nga. Có lẽ chúng tưởng tôi là điệp viên của Bônsêvích. Tôi cần đánh lạc hướng bọn theo dõi tôi.
- Vậy tôi phải làm gì?
- Anh phải hóa trang thành người giống hệt tôi. Nếu anh bị bắt, anh hãy xuất trình giấy tờ của anh. Tôi muốn tự nhân đôi lên. Tôi với anh cùng khổ người. Anh hãy nhuộm tóc, gắn râu giả vào và chúng ta sẽ mặc quần áo giống nhau. Sau đó, ngay tối nay, anh hãy dọn từ khách sạn của anh đến khu khác trong thành phố, nơi không ai biết anh hết, chẳng hạn như khu Latinh. Ta thỏa thuận chứ?
Lơnoa nhảy từ mép lò xuống, siết chặt tay Garin. Rồi gã bắt đầu giải thích là gã đã làm thế nào để chế tạo được những khối chóp kia từ hỗn hợp nhôm và ôxýt sắt (técmít) với dầu ở thể rắn vàphốtpho vàng.
Sau khi đặt các khối chóp vào những chiếc chén sứ trên vòng đồng, gã đốt chúng bằng một sợi dây mảnh. Một cột lửa sáng lóe bốc lên bên trên lò. Ánh sáng và áp lực của sóng không khí mãnh liệt đến nỗi cả hai phải lùi sâu vào cuối nhà kho.
- Tuyệt lắm, - Garin nói, - Tôi hy vọng không hề có muội than gì chứ?
- Cháy hoàn toàn ở nhiệt độ khủng khiếp này. Vật liệu đã được tinh chế bằng phương pháp hóa học.
- Tốt lắm. Vài ngày nữa anh sẽ được chứng kiến phép lạ, - Garin nói. - Ta đi ăn trưa đi, rồi sẽ cử người về khách sạn lấy đồ đạc. Ta sẽ ngủ ở bờ bên trái. Còn ngày mai tại Pari sẽ có hai Garin... Anh có chìa khóa nữa để mở nhà kho này chứ?
24
Ở đây không có những dòng ô tô bóng lộn, không có những con người nhàn rỗi cứ ngoái cổ hết bên này sang bên kia đến phát đau lên để nhìn các cửa hàng, không có những phụ nữ đẹp mê hồn, cũng không có những ông vua công nghiệp.
Ở đây chỉ có những chồng gỗ tấm tươi, những đống sỏi cao như núi, và ở giữa phố là những bãi đất sét xanh sẫm cùng những khúc ống dẫn nước xếp bên cạnh hè phố, trông như một con sâu khổng lồ bị chặt khúc.
Taraskin, hội viên câu lạc bộ Xpáctác, ung dung đi đến câu lạc bộ ở ngoài đảo. Anh đang trong tâm trạng thanh thản nhất. Người ngoài thoạt nhìn thì có cảm giác anh đang sầu muộn, nhưng đó là vì Taraskin tính khí thâm trầm, điềm đạm, và tâm trạng vui vẻ của anh không hề bộc lộ ra ngoài, trừ tiếng huýt sáo nhè nhẹ và dáng đi thong thả.
Còn cách tàu điện khoảng trăm bước, anh bỗng nghe thấy tiếng ồn ào và la hét giữa các chồng gỗ. Đương nhiên, mọi chuyện xảy ra trong thành phố đều liên quan trực tiếp đến anh.
Anh ngó nhìn vào phía sau các chồng gỗ và thấy ba đứa trẻ mặc quần loe rộng và áo bludông dày; chúng vừa giận dữ thở phì phì vừa tới tấp nện một đứa trẻ thứ tư, thấp bé hơn chúng, chân không giày, đầu không mũ, và mặc chiếc áo bông rách tơi tả đến nỗi khiến ai cũng phải ngạc nhiên. Chú bé lặng lẽ chống cự. Khuôn mặt gày gò của chú sây sát hết, cái miệng nhỏ của chú mím chặt, đôi mắt nâu sẫm của chú như mắt sói con.
Taraskin lập tức tóm lấy hai đứa bé, xách cổ nâng bổng lên, còn đứa thứ ba thì anh cho một cú đá khiến nó kêu rống lên, nấp vào sau đống gỗ.
Hai đứa kia chới với trong không khí, chửi rủa thậm tệ, nhưng Taraskin lắc mạnh chúng hơn nữa làm chúng phải dịu đi.
- Cái kiểu bắt nạt trẻ con này tao đã trông thấy nhiều lần ngoài phố rối, - Taraskin vừa nói vừa nhìn thẳng vào hai cái miệng thở hổn hển. - Đừng để tao gặp thêm một lần nữa. Hiểu chứ?
Bị đẩy vào tình thế buộc phải đồng ý, hai đứa trẻ cau có đáp:
- Hiểu ạ.
Anh liền buông chúng ra, chúng vừa càu nhàu dọa sẽ cho biết tay vừa lảng đi, hai tay đút túi.
Chú bé vừa bị đánh tơi bời cũng định lẩn luôn nhưng rồi chú chỉ quanh quẩn một chỗ, khe khẽ rên rỉ và ngồi xuống, rúc đầu vào chiếc áo bông rách nát.
Taraskin cúi xuống chú. Chú khóc nức nở.
- Này cháu, - Taraskin gọi. - Nhà cháu ở đâu?
- Chẳng ở đâu cả, - chú bé đáp, vẫn rúc mặt vào áo.
- Chẳng ở đâu nghĩa là thế nào? Cháu có mẹ không?
- Không.
- Thế còn bố? Cũng không à? Vậy cháu là trẻ bơ vơ rồi.
Taraskin đứng một lát, nếp nhăn trên mũi giãn ra. Chú bé vẫn khóc.
- Cháu có đói không? - Taraskin bực tức hỏi.
- Có.
- Được, đến câu lạc bộ với chú đi.
Chú bé định đứng dậy, nhưng không đứng nổi. Taraskin liền bế chú lên - người chú nhẹ bỗng - và đưa đến tàu điện. Tàu chạy rất lâu. Trong lúc chuyển tàu, Taraskin mua một chiếc bánh mì và chú bé run rẩy ngoạm lấy ngoạm để. Sau đó, hai người đi bộ đến Trường huấn luyện chèo thuyền. Khi đẩy chú bé qua cửa hàng, Taraskin bảo.
- Cấm ăn cắp đấy.
- Không, cháu chỉ ăn cắp bánh mì thôi.
Chú đờ đẫn nhìn làn nước đang phản chiếu những vệt nắng nhấp nháy trên những con thuyền sơn bóng, nhìn cây liễu xanh ánh bạc rũ vẻ đẹp của mình xuống dòng sông, nhìn những tay đua rám nắng, cuồn cuộn bắp thịt; khuôn mặt hốc hác của chú lộ vẻ thản nhiên và mệt mỏi. Khi Taraskin quay đi, chú leo lên chiếc sàn gỗ nối liền chiếc cổng rộng của câu lạc bộ với dãy phao chắn và cuộn tròn lại, ngủ thiếp đi ngay lập tức.
Đến tối, Taraskin lôi chú bé ra từ dưới cầu tay vịn, ra lệnh cho chú rửa mặt và rửa tay chân dưới sông rồi dẫn chú đi ăn. Chú được xếp ngồi cùng bàn với các vận động viên bơi thuyền. Taraskin bảo các bạn:
- Có thể giữ lại chú bé này ở câu lạc bộ, chú ta không ăn báo cô đâu, rồi chúng ta sẽ luyện cho chú quen với sông nước. Chúng ta đang cần một chú bé nhanh nhẹn đấy.
Các bạn anh đồng ý để chú ở lại câu lạc bộ. Chú thản nhiên nghe họ trao đổi với nhau, khoan thai ăn uống. Ăn xong, chú lặng lẽ đứng dậy. Chẳng có gì làm chú ngạc nhiên nữa - chú đã trải qua quá nhiều cảnh đời rồi.
Taraskin dẫn chú lên dãy phao chắn, bảo chú ngồi rồi bắt đầu hỏi chuyện.
- Tên cháu là gì?
- Ivan.
- Cháu từ đâu đến?
- Từ Xibia. Từ thượng nguồn sông Amua.
- Cháu đến đây lâu chưa?
- Cháu đến hôm qua.
- Vậy cháu đi bằng cách nào?
- Lúc thì cháu cuốc bộ, lúc thì nằm trong hòm dưới toa tàu.
- Cháu đến Lêningrát làm gì?
- Đây là việc của cháu, - chú bé đáp rồi quay mặt đi. - Nếu đã đến thì tức là có việc cần phải đến.
- Cháu cứ kể đi, chú không làm gì cháu đâu.
Chú bé không trả lời và lại rúc đầu vào áo. Tối hôm đó, Taraskin không được chú bé cho biết gì hết
25
Chiếc thuyền đua hai chỗ ngồi đóng bằng gỗ hồng sắc trông mỹ lệ như chiếc vĩ cầm lướt nhẹ theo một dải hẹp trên mặt nước phẳng như gương. Cả hai cặp chèo lướt nằm trên dòng nước. Senga và Taraskin cởi trần, mặc quần đùi trắng, lưng và vai rộp lên vì nắng, ngồi bất động, hai đầu gối nhô lên.
Người thanh niên cầm lái, một chàng trai nghiêm trang, đội mũ thủy thủ và quấn kín khăn quanh cổ, nhìn đồng hồ bấm giây.
- Sắp có cơn dông đấy, - Senga nói.
Không khí trên sông nóng nực, không một chiếc lá nào lay động trên bờ sông cây cối xanh um quá mức. Bầu trời chói chang ánh nắng đến nỗi cái thế giới xanh biếc của nó dường như chất đầy những đống tinh thể. Mắt nhức nhối, thái dương đau nhói.
- Hạ mái chèo xuống nước! - anh thanh niên cầm lái ra lệnh.
Senga và Taraskin lập tức khom người xuống, đôi đầu gối dãn ra, nâng mái chèo lên rồi hạ chìm trong nước, ngửa người gần như nằm, hai chân duỗi thẳng, trượt đi trên ghế ngồi. - Hai - ba này!...
Mái chèo cong lên, chiếc thuyền lướt trên mặt sông như một mũi tên.
- Hai - ba này, hai - ba này, hai - ba này! - anh thanh niên cầm lái ra lệnh.
Đều đặn và gấp rút theo nhịp đập của trái tim, theo nhịp thở ra hít vào, thân thể của Senga và Taraskin hết co vào, lơ lửng phía trên đầu gối, lại giãn ra như sợi lò so. Đều đặn, theo nhịp chảy của máu trong huyết quản, các bắp thịt làm việc khẩn trương, ráo riết.
Con thuyền đua lướt như bay ngang qua đám thuyền dạo chơi, nơi những người nai nịt cẩn thận khua lung tung mái chèo một cách bất lực. Senga và Taraskin vừa chèo vừa nhìn thẳng trước mặt, nhìn vào sống mũi của anh thanh niên cầm lái, đồng thời dùng mắt để giữ cho thuyền thăng bằng. Từ đám thuyền đang dạo chơi, người ta chỉ kịp hét theo:
- Chà, đồ quỷ!... Làm đắm thuyền người ta bây giờ!...
Họ đã ra đến khoảng ven biển. Họ lại nằm một phút bất động trên mặt nước và lau mồ hôi trên mặt. Hai - ba! Họ lại cho thuyền chạy ngược lại, ngang qua câu lạc bộ thuyền buồm, nơi những cánh buồm to rộng trên các du thuyền của Công đoàn Lêningrát lơ lửng trong bầu không khí nóng nực, trong suốt, tựa như những tấm vải đã mất hết sinh khí. Tiếng nhạc rộn ràng trên hàng hiên của câu lạc bộ thuyền buồm. Những tấm huy hiệu và những lá cờ sặc sỡ, nhẹ nhàng, chăng dọc theo bờ, không hề lay động. Từ mấy chiếc xuồng, một toán người lạ da bánh mật nhảy xuống giữa sông, làm nước bắn tung tóe.
Sau khi lướt qua những người đang tắm, chiếc thuyền đua tiến lên theo sông Népca, lướt như bay dưới cây cầu, chạy song song vài giây bên một chiếc thuyền đua bốn chỗ ngồi thuộc câu lạc bộ "Mũi tên", rồi vượt nó (anh thanh niên cầm lái quay lại hỏi qua vai: "Có muốn bọn này kéo rơmoóc không?"), tiến vào con sông Crextốpca chật hẹp, hai bờ rậm rạp cây cối, nơi thấp thoáng dưới bóng râm xanh mát của đám liễu lấp lánh như bạc là những chiếc khăn đỏ và những cặp đầu gối để trần của nữ học viên chèo thuyền. Sau đó, chiếc thuyền của Senga và Taraskin dừng lại cạnh dãy phao chắn của Trường huấn luyện chèo thuyền.
Họ nhảy lên dãy phao chắn, thận trọng đặt những mái chèo dài xuống sàn gỗ, cúi xuống chiếc thuyền, và theo nhịp hô của anh thanh niên cầm lái, nâng bổng nó lên và đưa vào nhà kho qua chiếc cổng rộng, Rồi họ đi tắm vòi hương sen, chà xát người đến đỏ lên, và theo đúng thông lệ, uống mỗi người cốc nước trà pha chanh. Họ cảm thấy mình như vừa sinh ra trong thế giới tuyệt vời này, một thế giới đáng để họ bỏ công sức ra xây dựng cho nó tốt đẹp hơn.

25
Chiếc thuyền đua hai chỗ ngồi đóng bằng gỗ hồng sắc trông mỹ lệ như chiếc vĩ cầm lướt nhẹ theo một dải hẹp trên mặt nước phẳng như gương. Cả hai cặp chèo lướt nằm trên dòng nước. Senga và Taraskin cởi trần, mặc quần đùi trắng, lưng và vai rộp lên vì nắng, ngồi bất động, hai đầu gối nhô lên.
Người thanh niên cầm lái, một chàng trai nghiêm trang, đội mũ thủy thủ và quấn kín khăn quanh cổ, nhìn đồng hồ bấm giây.
- Sắp có cơn dông đấy, - Senga nói.
Không khí trên sông nóng nực, không một chiếc lá nào lay động trên bờ sông cây cối xanh um quá mức. Bầu trời chói chang ánh nắng đến nỗi cái thế giới xanh biếc của nó dường như chất đầy những đống tinh thể. Mắt nhức nhối, thái dương đau nhói.
- Hạ mái chèo xuống nước! - anh thanh niên cầm lái ra lệnh.
Senga và Taraskin lập tức khom người xuống, đôi đầu gối dãn ra, nâng mái chèo lên rồi hạ chìm trong nước, ngửa người gần như nằm, hai chân duỗi thẳng, trượt đi trên ghế ngồi. - Hai - ba này!...
Mái chèo cong lên, chiếc thuyền lướt trên mặt sông như một mũi tên.
- Hai - ba này, hai - ba này, hai - ba này! - anh thanh niên cầm lái ra lệnh.
Đều đặn và gấp rút theo nhịp đập của trái tim, theo nhịp thở ra hít vào, thân thể của Senga và Taraskin hết co vào, lơ lửng phía trên đầu gối, lại giãn ra như sợi lò so. Đều đặn, theo nhịp chảy của máu trong huyết quản, các bắp thịt làm việc khẩn trương, ráo riết.
Con thuyền đua lướt như bay ngang qua đám thuyền dạo chơi, nơi những người nai nịt cẩn thận khua lung tung mái chèo một cách bất lực. Senga và Taraskin vừa chèo vừa nhìn thẳng trước mặt, nhìn vào sống mũi của anh thanh niên cầm lái, đồng thời dùng mắt để giữ cho thuyền thăng bằng. Từ đám thuyền đang dạo chơi, người ta chỉ kịp hét theo:
- Chà, đồ quỷ!... Làm đắm thuyền người ta bây giờ!...
Họ đã ra đến khoảng ven biển. Họ lại nằm một phút bất động trên mặt nước và lau mồ hôi trên mặt. Hai - ba! Họ lại cho thuyền chạy ngược lại, ngang qua câu lạc bộ thuyền buồm, nơi những cánh buồm to rộng trên các du thuyền của Công đoàn Lêningrát lơ lửng trong bầu không khí nóng nực, trong suốt, tựa như những tấm vải đã mất hết sinh khí. Tiếng nhạc rộn ràng trên hàng hiên của câu lạc bộ thuyền buồm. Những tấm huy hiệu và những lá cờ sặc sỡ, nhẹ nhàng, chăng dọc theo bờ, không hề lay động. Từ mấy chiếc xuồng, một toán người lạ da bánh mật nhảy xuống giữa sông, làm nước bắn tung tóe.
Sau khi lướt qua những người đang tắm, chiếc thuyền đua tiến lên theo sông Népca, lướt như bay dưới cây cầu, chạy song song vài giây bên một chiếc thuyền đua bốn chỗ ngồi thuộc câu lạc bộ "Mũi tên", rồi vượt nó (anh thanh niên cầm lái quay lại hỏi qua vai: "Có muốn bọn này kéo rơmoóc không?"), tiến vào con sông Crextốpca chật hẹp, hai bờ rậm rạp cây cối, nơi thấp thoáng dưới bóng râm xanh mát của đám liễu lấp lánh như bạc là những chiếc khăn đỏ và những cặp đầu gối để trần của nữ học viên chèo thuyền. Sau đó, chiếc thuyền của Senga và Taraskin dừng lại cạnh dãy phao chắn của Trường huấn luyện chèo thuyền.
Họ nhảy lên dãy phao chắn, thận trọng đặt những mái chèo dài xuống sàn gỗ, cúi xuống chiếc thuyền, và theo nhịp hô của anh thanh niên cầm lái, nâng bổng nó lên và đưa vào nhà kho qua chiếc cổng rộng, Rồi họ đi tắm vòi hương sen, chà xát người đến đỏ lên, và theo đúng thông lệ, uống mỗi người cốc nước trà pha chanh. Họ cảm thấy mình như vừa sinh ra trong thế giới tuyệt vời này, một thế giới đáng để họ bỏ công sức ra xây dựng cho nó tốt đẹp hơn.
26
Trên hàng hiên ngoài trời ở tầng hai (nơi uống trà), Taraskin kể cho Senga nghe về chú bé hôm qua.
- Chú ta vừa nhanh nhẹn lại vừa thông minh, tuyệt lắm anh ạ. - Anh cúi người qua lan can, gọi to: - Ivan, lên đây!
Ngay tức khắc có tiếng chân chạy thoăn thoắt trên cầu thang rồi Ivan xuất hiện. Em đã cởi chiếc áo bông tã nát (vì lý do vệ sinh nên người ta đã đem đốt trong bếp) và mặc chiếc quần đùi kiểu vận động viên chèo thuyền, nhưng trên thân thể để trần của em vẫn là chiếc gilê bằng da, cũ kỹ quá thể, buộc dây chằng chịt.
- Đấy, - Taraskin vừa nói vừa chỉ chú bé, - tôi đã hết sức khuyên chú ta cởi áo gilê ra, nhưng chú ta dứt khoát không chịu. Vậy chú hỏi cháu là cháu sẽ tắm như thế nào đây? Nếu gilê còn tốt thì chẳng nói làm gì. Nhưng nó tã quá rồi.
- Cháu không thể tắm được, - Ivan đáp.
- Phải cho cháu vào buồng tắm thôi, trông cháu lem luốc quá đi mất.
- Cháu không thể tắm được. Cháu chỉ có thể rửa ráy đến đây thôi, - Ivan chỉ chiếc rốn nhỏ, ngập ngừng một lát rồi lùi dần ra phía cửa.
Taraskin vừa lấy móng tay khía vào bắp chân mà trên lớp da rám nắng còn hằn lại những vệt trắng, vừa bực bội kêu to:
- Anh muốn làm gì nó thì làm, anh Senga ạ.
- Cháu làm sao thế? - Senga hỏi. - Sợ nước à?
Chú bé nhìn anh, không mỉm cười:
- Không, cháu không sợ.
- Vậy sao cháu lại sợ tắm?
Chú bé cúi đầu xuống, bướng bỉnh bặm môi.
- Cháu không dám cởi áo gilê, cháu sợ người ta nẫng mất phải không? - Senga lại hỏi.
Chú bé nhún vai, cười khẩy,
- Thế này nhé, Ivan; cháu không muốn tắm thì thôi cũng được, đấy là việc của cháu, nhưng các chú không cho phép cháu mặc chiếc áo gilê kia đâu. Cởi ra, lấy áo gilê của chú mà mặc.
Senga bắt đầu cởi khuy áo của mình. Ivan lùi lại. Hai đồng tử của chú đảo đi đảo lại đầy lo ngại. Một lần, chú ngước nhìn Taraskin với vẻ cầu khẩn và vẫn nghiêng người tiến về phía chiếc cửa ra vào bằng kính dẫn xuống cầu thang tối tăm bên trong nhà.
- Kìa, chúng ta có thỏa thuận là chơi kiểu ấy đâu! - Senga đứng dậy, khóa cửa lại, rút chìa ra rồi ngồi ngay trước cửa. - Nào, cởi áo ra!
Chú bé nhìn quanh như một con thú nhỏ. Bây giờ chú đã đứng sát cửa, lưng quay về phía kính. Lông mày chú nhíu lại. Đột nhiên, chú quả quyết cởi chiếc áo rách tã rồi đưa cho Senga.
- Đây, chú đưa áo của chú cho cháu đi.
Nhưng Senga không nhìn chú bé nữa mà hết sức kinh ngạc nhìn qua vai chú vào lớp kính cửa.
- Nào..... - Ivan giận dữ nhắc lại, - sao chú lại cười? Chú có còn bé bỏng gì đâu.
- Dớ dẩn! - Senga phá lên cười. - Cháu quay lưng lại đây. (Chú bé đập gáy vào cửa kính như bị hích mạnh). Cháu quay lại đi, dù sao thì chú cũng đã thấy trên lưng cháu có chữ viết rồi.
Taraskin chồm dậy. Chú bé lao vút qua hàng hiên rồi nhanh nhẹn trườn qua lan can. Taraskin phải mau tay lắm mới kịp tóm được chú. Những chiếc răng sắc nhọn của chú cắm ngập vào tay anh.
- Tệ quá! Không được cắn!
Tarakin siết chặt chú bé vào người. Anh xoa mái đầu cạo trọc xám nhờ của chú.
- Thằng bé đâm man rợ mất rồi. Run rẩy như chuột ấy. Cháu cứ yên tâm, các chú không làm gì cháu đâu.
Chú bé dịu đi trong vòng tay anh, chỉ có tim vẫn đập mạnh. Đột nhiên, chú thầm thì tận tai anh:
- Chú bảo chú ấy không nên đọc những chữ trên lưng cháu. Không ai được phép đọc đâu. Họ sẽ giết cháu mất.
- Các chú sẽ không đọc đâu, có thú vị gì đâu mà đọc, - Taraskin vừa nhắc lại vừa cười đến chảy nước mắt.
Suốt trong thời gian đó, Senga đứng ở đầu hàng hiên bên kia, cắn móng tay, nheo mắt như một người đang tìm cách giải câu đố. Đột nhiên, anh lao đến gần và bất chấp sự kháng cự của Taraskin, quay lưng chú bé lại phía mình. Phía dưới xương bả vai, trên tấm lưng gầy guộc của chú bé có viết bằng bút mực những dòng chữ nhòa đi vì mồ hôi và đã mờ nhiều chỗ:
"... Gửi Gar... Kết quả... rất t.. đẹp... độ sâu của lớp Ôlivin áng chừng năm cây s..., đang t... tục tìm k... ếm. cần giúp đỡ... Đói...khẩn trươ... th. m dò..."
- Garin, Garin đấy! - Senga kêu to.
Đúng lúc đó, chiếc mô tô của Ban điều tra hình sự lao ầm ầm vào sân câu lạc bộ và giọng của người công an từ dưới vọng lên:
- Đồng chí Senga, đồng chí có điện khẩn...
Đó là bức điện của Garin đánh đi từ Pari.
27
Chiếc bút mạ chì mạ vàng chạm vào cuốn sổ tay.
- Ngài cho biết quí danh?
- Piancốp Pitkêvích.
- Mục đích việc ngài đến thăm?
- Ông hãy truyền đạt với ngài Rôlinh rằng, - Garin nói, - tôi được giao trách nhiệm tiến hành thương lượng về bộ máy của kỹ sư Garin mà ngài Rôlinh đã biết.
Viên thư ký lập tức biến mất. Một phút sau, Garin bước qua chiếc cửa đóng bằng gỗ hồ đào và vào phòng làm việc của ông vua hóa học, Rôlinh đang viết. Không ngước mặt lên, y mời khách ngồi. Sau đó, vẫn không ngước mắt lên, y nói:
- Những chuyện tiền nong vặt vãnh thì qua viên thư ký của tôi, - y đưa bàn tay yếu ớt cầm lấy chiếc bàn thấm và ép mạnh lên tờ giấy vừa viết, - Nhưng tôi sẵn sàng nghe anh. Tôi dành cho anh hai phút. Có gì mới về kỹ sư Garin?
Gác hai chân lên nhau và đặt đôi tay duỗi thẳng lên đầu gối, Garin nói:
- Kỹ sư Garin muốn biết là ngài có biết chính xác bộ máy của ông ta công dụng ra sao không?
- Có, - Rôlinh đáp, - đối với mục đích công nghiệp thì theo chỗ tôi được biết, bộ máy ấy ít nhiều đáng chú ý. Tôi đã nói chuyện với vài người trong ban quản trị côngxoócxiom chúng tôi, họ đồng ý mua bằng sáng chế.
- Bộ máy ấy không dùng vào mục đích công nghiệp,- Garin sẵng giọng nói, - đó là bộ máy để phá hủy. Quả thật, nó có thể dùng cho công nghiệp mỏ và công nghiệp luyện kim được. Nhưng hiện nay kỹ sư Garin có những ý đồ khác.
- Ý đồ chính trị chăng?
- Ồ... Chính trị ít làm kỹ sư Garin quan tâm lắm. Ông ta hy vọng thiết lập được một chế độ xã hội hợp khẩu vị của ông ta nhất.
- Thiết lập ở đâu?
- Đương nhiên là ở khắp nơi, trên tất cả năm châu.
- Ô hô! - Rôlinh thốt lên.
- Kỹ sư Garin không phải cộng sản đâu, ông cứ yên tâm. Nhưng ông ta không hoàn toàn cùng quan điểm với ngài. Tôi xin nhắc lại: ông ta có những ý đồ lớn lao. Bộ máy của kỹ sư Garin cho phép ông ta thực hiện được trí tưởng tượng ngông cuồng nhất của ông ta. Bộ máy đã chế tạo xong, có thể đưa ra giới thiệu ngay ngày hôm nay.
- Hừm! - Rôlinh nói.
- Kỹ sư Garin đã theo dõi hoạt động của ngài, ngài Rôlinh ạ, và ông ta thấy tầm cỡ của ngài không phải là xoàng, nhưng ngài thiếu một ý tưởng lớn. Nào là côngxoócxiom hóa học, nào là chiến tranh hóa học bằng không quân, nào là biến châu Âu thành thị trường của Mỹ. Tất cả những cái đó đều vụn vặt, không có một tư tưởng chủ đạo. Kỹ sư Garin đề nghị ngài cộng tác.
- Ông điên hay ông ta điên đấy? - Rôlinh hỏi.
Garin cười vang, lấy ngón tay day mạnh bên cánh mũi.
- Ngài thấy đấy, chỉ nội cái việc ngài nghe tôi nói không phải hai phút mà là chín phút rưỡi cũng đã tốt lắm rồi.
- Tôi sẵn sàng đề nghị kỹ sư Garin nhận năm vạn phơrăng để đổi lấy bằng sáng chế của ông ta, - Rôlinh nói và lại bắt đầu viết.
- Đề nghị ấy phải hiểu như thế này: ngài định dùng vũ lực hoặc mưu mẹo để đoạt lấy bộ máy, còn kỹ sư Garin thì sẽ bị thanh toán như người ta đã thanh toán viên trợ thủ của ông ta trên đảo Crextôpxki, có phải thế không?
Rôlinh đặt ngay bút xuống, chỉ hai vệt ửng đỏ trên gò má của y là để lộ sự hồi hộp. Y cầm điếu xì gà hút dở trên chiếc gạt tàn, ngửa người vào ghế bành và nhìn Garin bằng đôi mắt mờ đục, không thể hiện gì hết.
- Cứ cho là tôi có ý định xử sự với kỹ sư Garin theo kiểu đó đi thì sao nào?
- Thì tức là kỹ sư Garin chắc hẳn đã lầm.
- Lầm về chuyện gì?
- Về việc đã tưởng rằng ngài là một tên vô lại có tầm cỡ lớn hơn kia, - Garin vừa nhấn từng tiếng vừa vui vẻ và táo tợn nhìn Rôlinh.
Rôlinh chỉ nhả ra những làn khói xanh và thận trọng đưa đi đưa lại điếu xì gà gần mũi.
- Chia sẻ lời lãi với Garin khi tôi có thể chiếm được cả một trăm phần trăm thì thật ngu ngốc, - y nói, - Vậy thì để kết thúc câu chuyện, tôi đề nghị mười vạn phơrăng và không thêm một xu nào nữa.
- Ngài Rôlinh ạ, đúng là ngài cứ lầm lẫn hoài. Ngài chẳng việc gì phải liều hết. Hai điệp viên của ngài là Xêmiônốp và Tưclinxki đã dò ra nơi ở của Garin. Ngài chỉ cần báo cho cảnh sát thôi là ông ta sẽ bị bắt như một gián điệp Bônsêvích. Bộ máy và các bản vẽ cũng sẽ do hai điệp viên Xêmiônốp và Tưclinxki đánh cắp. Làm cách đó sẽ không tốn quá năm nghìn phơrăng đâu. Còn Garin thì để ông ta không tìm cách khôi phục các bản vẽ trong tương lai, lúc nào cũng có thể gửi ông ta theo từng chặng một về Nga qua con đường Ba Lan, nơi ông ta sẽ bị thanh toán ở vùng biên giới. Thật vừa rẻ vừa đơn giản. Cần gì đến mười vạn phơrăng kia chứ?
Rôlinh đứng dậy, liếc mắt nhìn Garin và bắt đầu đi đi lại lại, đôi giày bóng lộn ngập sâu vào lớp thảm lấp lánh ánh bạc. Đột nhiên, y rút tay khỏi túi và bật ngón tay đánh toách.
- Một trò chơi rẻ tiền, - y nói, - ông nói láo. Tôi đã suy nghĩ kỹ trước năm nước đi cho mọi thế cờ có thể có rồi. Chẳng có gì nguy hiểm hết. Ông chỉ là một gã bịp bợm rẻ tiền. Garin đã bị chiếu hết rồi [1]. Ông ta biết như vậy nên cử ông đến mặc cả với tôi. Tôi sẽ không cho đến hai đồng kẽm để đổi lấy bằng sáng chế của ông ta đâu. Garin đã bị lần ra dấu vết và bị tóm cổ rồi. (Y thoáng nhìn đồng hồ rồi đút nhanh đồng hồ vào túi áo gilê). Xéo đi ngay!
Đúng lúc đó, Garin cũng đứng dậy và đứng cạnh bàn, đầu cúi xuống. Khi Rôlinh tống cổ y đi, y đưa tay vuốt tóc và nói bằng giọng não nuột như một kẻ bất ngờ bị sa bẫy:
- Được, ngài Rôlinh ạ, tôi đồng ý mọi điều kiện của ngài. Ngài vừa nói đến con số mười vạn...
- Không một xu nào hết! - Rôlinh thét to. - Xéo đi, hoặc người ta sẽ tống cổ ông khỏi cửa!
Garin thò mấy ngón tay vào cổ áo, hai mắt y bắt đầu trợn ngược lên. Y lảo đảo. Rôlinh hét lớn:
- Đừng giở mánh khóe nữa! Cút ngay.
Garin thờ khò khè và ngã nghiêng người xuống bàn. Tay phải y đập vào mấy tờ giấy đầy chữ và hối hả nắm chặt lấy. Rôlinh nhảy bổ đến chuông điện. Viên thư ký tức khắc xuất hiện...
- Tống cổ thằng này ra!...
Viên thư ký ngồi ghé xuống như con báo, bộ ria tao nhã dựng đứng lên, những bắp thịt cứng như sắt cuồn cuộn nổi lên dưới lần áo véttông mỏng. Nhưng Garin đã bước ra xa khỏi bàn và vừa đi nghiêng người vừa cúi chào Rôlinh. Sau đó y chạy như bay xuống cầu thang bằng đá hoa, bước ra đại lộ Mandéc, nhảy lên chiếc xe thuê cao mui, cho biết địa chỉ, kéo cả hai ô cửa lên, hạ tấm rèm xanh xuống và bật cười cộc lốc, gay gắt.
Y rút trong túi véttông ra một mẩu giấy vò nát và cẩn thận vuốt thẳng ra trên đầu gối. Trên tờ giấy kêu sột soạt (xé từ cuốn sổ lớn), bằng nét chữ to, Rôlinh phác họa những công việc cho ngày hôm nay. Có lẽ vào giây phút Garin bước vào phòng làm việc, bàn tay của ông vua hóa học đầy cảnh giác đã vô tình viết lên trên giấy, để lộ những ý nghĩ thầm kín của mình. Một dòng chữ viết ba lần liền, lần này dưới lần kia:" Phố Gôbêlênốp, số sáu mươi ba, kỹ sư Garin". (Đấy là địa chỉ mới của Lơnoa mà Xêmiônốp vừa thông báo qua điện thoại... )
Tiếp đó là dòng chữ "Đưa năm nghìn phơrăng cho Xêmiônốp"...
- May quá đi mất! May quá đi mất! - Garin vừa thầm thì vừa vuốt thẳng tờ giấy trên đầu gối.
28
Chừng mười phút sau, Garin nhảy xuống xe trên đại lộ Xanh Misen. Những ô cửa sổ bằng kính tấm trong tiệm cà phê "Păngtêông" đã nâng lên. Ở cuối tiệm, Lơnoa đang ngồi trên bàn. Trông thấy Garin, gã giơ tay lên và bật ngón tay đánh toách.
Garin vội ngồi xuống bên cạnh, lưng quay về phía ánh sáng, có cảm giác như y ngồi đối diện với tấm gương. Lơnoa cũng để bộ râu dê như vậy, cũng đội mũ mềm như vậy, cũng thắt cà vạt kiểu con bướm như vậy, cũng mặc véttông kẻ sọc như vậy.
- Anh hãy chúc mừng tôi đi - thành công rồi! Thành công mỹ mãn là khác! - Garin vui vẻ nói. - Rôlinh sẵn sàng làm mọi việc. Cá nhân ông ta chịu một mình, mọi khoản chi phí sơ bộ. Khi nào bắt đầu sử dụng bộ máy thì năm mươi phần trăm thu nhập sẽ thuộc về ông ta, còn năm mươi phần trăm sẽ thuộc chúng ta.
- Anh đã ký hợp đồng rồi hay sao?
- Hai ba ngày nữa sẽ ký, việc đưa bộ máy ra giới thiệu sẽ phải hoãn lại. Rôlinh đặt điều kiện là sẽ chỉ ký hợp đống sau khi tận mắt thấy bộ máy làm việc.
- Ta đặt một chai sâm banh chứ?
- Hai, ba chai hoặc cả két cũng được.
- Dù sao cũng thật đáng tiếc là cái con cá mập ấy sẽ ngốn của chúng ta đến một nửa thu nhập, - Lơnoa vừa nói vừa gọi hầu bàn đến gần: - Một chai Irua, loại tinh chất nhất ấy.
- Không có tiền đầu tư thì chúng ta chẳng làm thế nào mà triển khai được. Lơnoa này, nếu công việc ở Camsátca của tôi mà thành công thì mười Rôlinh, chúng ta cũng cóc cần.
- Công việc gì ở Camsátca đấy?
Người hầu bàn đem rượu và ly lên, Garin châm thuốc hút, ngửa người trên chiếc ghế độn rơm, lắc lư, nheo mắt và bắt đầu kể:
- Anh nhớ nhà địa chất Manxép chứ? Năm mười lăm, ông ta tìm thấy tôi ở Pêtơrôgrát. Ông ta vừa từ Viễn Đông trở về, rất sợ bị động viên nên đề nghị tôi giúp để khỏi phải ra mặt trận.
- Manxép làm việc trong công ty vàng của Anh ấy phải không?
- Ông ta tiến hành thăm dò tại vùng sông Lêna, sông Anđan, rồi ở Côlưma. Ông ta kể những chuyện kỳ lạ. Họ thấy ngay dưới chân họ những cục kim loại tự sinh nặng đến mười tám kilôgam... Chính khi ấy tôi đã nẩy sinh một ý tưởng, một ý tưởng bao quát của đời tôi... Đấy là một việc rất táo bạo, thậm chí điên rồ nữa, nhưng tôi tin vào nó. Mà nếu tôi tin thì quỷ Xatăng cũng chẳng kìm nổi tôi. Anh bạn thân mến của tôi ạ, thứ duy nhất trên đời mà tôi khao khát mãnh liệt - đấy là quyền lực... Không phải quyền lực của vua chúa đâu - cái đó vụn vặt, tầm thường, chán ngán lắm. Không, phải là quyền lực tuyệt đối kia... Rồi sẽ có lúc tôi kể tỉ mỉ cho anh nghe về các kế hoạch của tôi. Để thống trị thì phải có vàng. Để thống trị như tôi muốn thì cần có một lượng vàng nhiều hơn toàn bộ số vàng của các ông vua kỹ nghệ, dịch vụ và các ông vua khác cộng lại...
- Kế hoạch của anh táo bạo thật đấy, - Lơnoa nói và vui vẻ cười vang.
- Nhưng tôi đang đi đúng đường. Toàn thế giới sẽ nằm trong tay tôi như thế này này, - Garin nắm chặt bàn tay nhỏ bé lại. - Những cột mốc trên con đường của tôi là Manxép thiên tài, rồi Rôlinh, nói đúng hơn là hàng tỷ đôla của ông ta, và thứ ba là chiếc máy phát tia của tôi...
- Vai trò của Manxép là thế nào?
- Hồi đó, vào năm mười lăm, tôi đã huy động toàn bộ số tiền còm của tôi, và bằng táo tợn nhiều hơn mua chuộc, đã giúp Manxép thoát khỏi chế độ quân dịch. Sau đó, tôi cử ông ta cùng một đoàn thăm dò nhỏ đi tới Camsátca, vào những nơi khỉ ho cò gáy... Cho tới năm mười bảy, ông ta vẫn viết cho tôi, công việc của ông ta hết sức khó khăn vất vả, điều kiện sinh hoạt hết sức tồi tệ... Từ năm mười tám thì ông ta mất hút - chính anh cũng hiểu tại sao rồi... Mọi việc đều phụ thuộc vào kết quả thăm dò của ông ta.
- Ông ta tìm gì ở đấy?
- Ông ta chẳng tìm gì hết... Nhiệm vụ của ông ta chỉ là xác nhận những dự đoán lý thuyết của tôi. Vùng duyên hải Thái Bình Dương - thuộc châu Á cũng như thuộc châu Mỹ - là những vùng của một lục địa cổ đã chìm sâu xuống đáy biển. Một khối nặng khổng lồ như vậy nhất định phải ảnh hưởng đến việc phân bố những lớp đất đá dưới sâu hiện trong trạng thái nóng chảy... Những dãy núi lửa đang hoạt động ở Nam Mỹ, vùng núi Anđét và Coócđilie, những núi lửa ở Nhật Bản và cuối cùng là ở Camsátca xác nhận rằng những lớp nham thạch nóng chảy thuộc Vòng đai Ôlivin - vàng, thủy ngân, Ôlivin và các chất khác - ở các vùng ven Thái Bình Dương nằm gần mặt đất hơn nhiều so với các nơi khác trên trái đất [2]... Anh hiểu chứ?
- Tôi không hiểu anh cần đến cái vòng đai Ôlivin ấy làm gì?
- Để thống trị thế giới, anh bạn ạ... Nào, ta cạn chén đi. Chúc thành công...
29
Dôia mặc váy ngắn và áo lụa đen (loại áo các cô gái bán hàng tại các cửa hàng bách hóa thường mặc), đội chiếc mũ nhỏ giản dị, ả nhảy xuống xe buýt, chạy qua đường phố ồn ào rồi đi vào tiệm cà phê "Địa cầu", một tiệm cà phê đồ sộ trông ra hai phố.
Ả tìm chiếc bàn chưa có người ngồi, châm thuốc hút, ra lệnh cho cậu bé hầu bàn đem đến một lít vang đỏ rồi ngồi trước ly rượu đã rót đầy, chống tay vào hai má.
- Cô bé ạ, bắt đầu nghiệp ngập thế không tốt đâu, - một diễn viên già đi ngang qua, vừa nói vừa vỗ lưng ả.
Ả đã hút hết ba điếu thuốc. Rốt cuộc, người mà ả chờ đợi thong thả bước lại gần. Đây là một người đàn ông cau có, rắn chắc, trán hẹp, đôi mắt lạnh lùng. Bộ ria của gã hơi vểnh lên, cổ áo sặc sỡ ôm chặt lấy chiếc cổ bò mộng. Gã ăn mặc rất sang trọng, lịch sự. Gã ngồi xuống, chào hỏi Dôia vài câu ngắn gọn. Gã nhìn xung quanh - một vài người cụp mắt xuống. Đó là Gaxtông Mỏ Vịt, trước kia chuyên ăn trộm rồi sau gia nhập băng cướp của Bônô khét tiếng. Trong chiến tranh, gã leo đến chức Hạ sĩ quan và sau khi giải ngũ thì chuyển sang công việc bình lặng của một kẻ môi giới về những công việc bí mật và mờ ám.
Đối với Dôia, gã tỏ ra hết sức kính trọng. Khi gặp nhau trong các tiệm ăn ban đêm, gã kính cẩn mời ả nhảy và hôn tay ả - đó là người phụ nữ duy nhất ở Pari mà gã hôn tay. Dôia giữ quan hệ bạn bè với gã, và thỉnh thoảng gã lại thực hiện những nhiệm vụ thuộc loại tế nhị nhất mà ả giao phó.
Vừa uống rượu vừa nhíu mắt và khói thuốc, Gaxtông rầu rĩ nghe Dôia nói. Nói xong, ả bẻ ngón tay kêu răng rắc. Gã lên tiếng:
- Nhưng việc này nguy hiểm lắm.
- Gaxtông ạ, nếu anh làm được thì anh sẽ chẳng phải lo gì về tiền nong cho đến mãn đời.
- Thưa bà, bây giờ tôi không vì tiền mà làm một việc gì hết, dù là việc mờ ám hay công khai cũng vậy: thời thế đã khác rồi. Giờ đây, bọn kẻ cướp thích phục vụ trong ngành cảnh sát hơn, còn bọn trộm cắp chuyên nghiệp thì ưa ra báo và làm chính trị. Nếu bà muốn thuê tôi thì tôi xin từ chối. Nhưng làm việc đó cho bà thì lại là chuyện khác. Vì bà, tôi có thể liều chịu mất đầu.
Dôia nhả khói thuốc từ khóe môi đỏ chót, ả dịu dàng mỉm cười và đặt bàn tay xinh đẹp lên tay áo Mỏ Vịt.
- Được, anh hãy làm việc đó vì tôi...
30
Xe của Rôlinh dừng lại ở Môngmác, trên một đường phố hẹp sáng rực ánh đèn tỏa ra từ mười ô cửa sổ của một hiệu ăn ban đêm.
Trong một căn phòng thấp, trần và tường lát gương, nóng nực, chật chội, mù mịt khói thuốc, giữa những dải giấy màu, bóng bay và côngphétti, là những đôi trai gái đang nhảy, người đung đưa, quấn vào nhau bằng những dải giấy sặc sỡ.
Tiếng dương cầm rền rĩ, tiếng vĩ cầm gào rú, và ba gã da đen ướt đẫm mồ hôi ra sức đập vào mấy cái chậu, hét ầm ỹ như tiếng còi ô tô, kéo lê mấy tấm gỗ kêu ken két, gõ chuông inh ỏi, đập đĩa chan chát, nện thình thình vào chiếc trống Thổ Nhĩ Kỳ.
- Dẹp ra, các bạn, nhường đường cho ông vua hóa học nào, - gã chủ hiệu rán hết sức gào thét, vất vả lắm mới tìm được chỗ sau chiếc bàn hẹp để mời Dôia và Rôlinh ngồi. Những bóng bay, côngphétti, dải giấy màu bay tới tấp về phía họ.
- Có người chú ý đến em đấy, - Rôlinh nói.
Dôia đang lim dim mắt, uống sâm banh.
Ả từ từ quay đầu lại, một cặp mắt đàn ông đen sẫm như hai hòn than đang nhìn ả với vẻ đắc chí âu sầu. Hắn là ai nhỉ? Không phải người Pháp, cũng không phải người Anh. Dường như ả đã nhìn thấy người này ở đâu rồi.
Người hầu lách qua đám người đang nhẩy, đưa cho ả mảnh giấy. Ả ngạc nhiên, ngả người vào lưng ghế, đưa mắt liếc nhìn Rôlinh đang hút xì gà và đọc:
"Bà Dôia, người dịu dàng nhìn bà là Garin đấy... Hôn tay bà. Xêmiônốp".
Chắc hẳn ả tái nhợt mặt đi ghê gớm quá nên đâu đấy một giọng của ai đó vọng đến qua tiếng ồn ào: "Kìa, bà kia sắp ngất kìa". Ả liền giơ chiếc ly đã uống hết và người hầu rót sâm banh vào.
Rôlinh hỏi:
- Xêmiônốp viết gì cho em thế?
- Em sẽ nói sau.
- Hắn ta viết một điều gì đấy về cái gã đang táo tợn nhìn em phải không? Hắn đến gặp anh hôm qua đấy. Anh đã tống cổ hắn đi.
- Rôlinh chẳng lẽ anh không nhận ra hắn sao?... Anh nhớ lại xem, trên quảng trường Ngôi Sao... Garin đấy.
Rôlinh chỉ "phì" một tiếng. Rồi rút điếu xì gà ra: "A ha". Đột nhiên, vẻ mặt y lại giống hệt như khi y chạy đi chạy lại trên tấm thảm lấp lánh ánh bạc mà ngẫm nghĩ trước năm nước đi cho mọi thế cờ có thể có. Y liền bật ngón tay đánh toách. Rồi y quay về phía Dôia, miệng méo xệch:
- Ta đi đi. Chúng ta cần trao đổi nghiêm chỉnh với nhau.
Ra đến cửa, Dôia quay lại. Qua khói thuốc mù mịt và những dải màu rối rắm, ả lại nhìn thấy đôi mắt cháy bỏng của Garin. Rồi ả choáng váng vì không hiêu chuyện gì đã xảy ra: khuôn mặt Garin nhân đôi lên: một người nào đó đang ngồi trước mặt y, lưng quay về đám người đang nhẩy, bỗng dịch lại gần y và cả hai nhìn Dôia. Hay đấy là ảo ảnh của các tấm gương?
Dôia thoáng nheo mắt, chạy theo tấm thảm đã mòn của tiệm rượu, xuống dưới, về phía xe. Rôlinh đang đợi ả. Đóng sập cửa xe lại, y chạm vào tay ả:
- Tôi chưa kể hết cho em nghe về cuộc gặp gỡ với gã Pitkêvích giả này... Có một điều tôi vẫn chưa hiểu: tại sao hắn lại phải bày cái trò loạn thần kinh ấy? Hắn không thể đoán được rằng tôi vẫn còn một chút thương hại... Toàn bộ cách cư xử của hắn đều đáng ngờ. Nhưng hắn đến gặp tôi để làm gì?... Hắn ngã vật xuống bàn để làm gì mới được chứ?
- Rôlinh, anh chưa kể cho em chi tiết đó...
- Đúng, đúng thế... Hắn làm đổ chiếc đồng hồ... làm nhàu nát giấy tờ của tôi...
- Hắn định đánh cắp giấy tờ của anh à?
- Sao? Đánh cắp ấy ư? - Rôlinh nín lặng một lát. - Không, không phải như vậy. Hắn bị mất thăng bằng và ngã đập tay vào bàn thấm... Ở đó có một vài mảnh giấy...
- Anh tin là không bị mất cái gì chứ?
- Đấy là những ghi chép chẳng có ý nghĩa gì đâu. Chúng bị nhàu nát, sau đó tôi đã vứt vào sọt rác rồi.
- Em van anh, hãy nhớ lại mọi chi tiết của câu chuyện giữa anh và hắn đi...
Chiếc limudin dừng lại trên phố Xenna. Rôlinh và Dôia đi vào buồng ngủ. Dôia mau chóng cởi áo ngoài rồi nằm lên chiếc giường rộng, đắp nổi, bốn chân hình chân chim ưng, diềm che bằng gấm - một trong những chiếc giường thật của hoàng đế Napôlêông Đệ Nhất. Rôlinh chầm chậm cởi quần áo mặc ngoài, đi đi lại lại trên thảm, và vừa để lại từng loại quần áo trên những chiếc ghế mạ vàng, trên những chiếc bàn nhỏ, trên giàn lò sưởi, vừa kể hết sức tỉ mỉ về cuộc viếng thăm hôm qua của Garin.
Dôia tì khuỷu tay, lắng nghe, Rôlinh bắt đầu kéo quần ra, nhẩy lò cò một chân. Vào phút đó, y giống hệt một ông vua. Rồi y nằm xuống và bảo:
"Hết rồi đấy, tất cả những gì đã xảy ra là như vậy đấy". Sau đó, y kéo chiếc chăn nhung lên đến tận mũi. Chiếc đèn đêm xanh nhạt hắt ánh sáng lên căn phòng ngủ lộng lẫy, lên những thứ quần áo vứt lung tung, lên những tượng thần ái tình bằng vàng trên các cột giường và lên chiếc mũi to tướng của Rôlinh đang rúc vào chăn. Đầu y lút vào gối, miệng hé mở, ông vua hóa học đã ngủ thiếp đi.
Chiếc mũi thở phì phì này làm Dôia đặc biệt khó chịu. Ả đặt tay lên mắt. Trước mắt ả, dai dẳng hiện lên khuôn mặt tái nhợt, liều lĩnh, tuấn tú và cương nghị của Garin. Ả lắc đầu để xua cái bóng ma đi, - không, nó vẫn nhìn ả chăm chú, qua những dải giấy đung đưa... "Chắc chắn là mất ngủ rồi", - ả thầm nghĩ, và đột nhiên một ý nghĩ sắc nhọn dường như đâm xuyên qua ả suốt từ đầu đến chân: "Gaxtông đang ở chỗ Garin...".
Dôia trườn ra khỏi chăn, vội vã xỏ tất. Rôlinh ậm ừ trong cơn mê, nhưng chỉ quay nghiêng người đi.
Dôia chạy vào buồng để quần áo. Ả mặc áo mưa, thắt đai lưng thật chặt, rồi trở lại buồng ngủ để lấy ví tiền...
- Rôlinh, - ả khẽ gọi, - Rôlinh... Chúng ta chết mất...
Nhưng y chỉ ậm ừ. Ả xuống gian ngoài và phải vất vả lắm mới mở được hai cánh cửa cao của lối ra. Phố Xenna không một bóng người. Trong khoảng sáng hẹp bên trên mái nhà, lơ lửng vầng trăng vàng nhợt. Dôia bỗng cảm thấy buồn bã. Ả nhìn lên vầng trăng tròn phía trên thành phố đang ngủ... "Trời, thật đáng sợ, thật ảm đạm biết bao... "Ả dùng cả hai tay ấn sâu chiếc mũ xuống rồi chạy về phía đường bờ sông.
[1] Trong cờ vua, bị “chiếu hết” (mat) có nghĩa là bị thua - N. D
[2] Có giả thuyết cho rằng giữa vỏ trái đất và lõi cùng của trái đất có một lớp kim loại nóng chảy gọi là Vòng đai Ôlivin (chú thích của tác giả).
31
Ngôi nhà ba tầng cũ kỹ số sáu mươi ba phố Gôbêlênốp có một bức tường hướng ra bãi đất trống. Từ mặt này, chỉ có những ô cửa sổ trên gác xép tầng ba. Một bức tường khác, chạy liền một mạch, tiếp giáp với công viên. Phía mặt trước nhà trông ra phố, ở tầng một, ngang với mặt đất, là một tiệm cà phê dành cho dân đánh xe và lái xe. Chiếm cả tầng hai là một khách sạn tối tân. Ở tầng ba, tầng sát nóc, là những căn phòng dành cho những người ở thuê lâu dài. Lên đó, phải đi qua cổng và một đường hầm dài.
Đã một giờ đêm. Trên phố Gôbêlênốp, không một ô cửa sổ nào còn sáng đèn. Tiệm cà phê đã đóng cửa, tất cả ghế ngồi đều đặt lên các bàn. Dôia dừng lại cạnh cổng, nhìn một phút lên số nhà sáu mươi ba. Ả cảm thấy ớn lạnh sau lưng. Ả quyết định giật chuông. Dây kêu sột soạt, cổng hé mở. Ả luồn vào khe cửa tối om. Từ xa vọng lại tiếng lão gác cổng càu nhàu: "Đêm phải ngủ chứ, trở về phải đúng giờ chứ". Nhưng lão không hỏi ai vào.
Dôia cảm thấy một nỗi lo ngại khủng khiếp. Trước mặt ả, một đường hầm thấp, tối tăm, kéo dài. Ngọn đèn rọi sáng lờ mờ những bức tường mấp mô, sơn màu sẫm. Chỉ dẫn của Xêmiônốp là như thế này: đến cuối đường hầm thì rẽ trái, theo cầu thang xoáy trôn ốc lên tầng ba, bên trái là căn phòng số mười một.
Đến giữa đường hầm, Dôia dừng lại. Ả cảm thấy như đằng xa, phía bên trái, có người thoáng ló đầu ra rồi biến mất. Có nên quay lại không? Ả lắng nghe - không một tiếng động nào. Ả chạy đến chỗ rẽ vào đầu cầu thang hôi hám. Tại đây bắt đầu chiếc cầu thang xoáy ốc, hẹp, được rọi sáng lờ mờ từ đâu đó phía trên. Ả nhón chân bước, sợ chạm phải tay vịn nhớp nháp.
Mọi người trong nhà đều đang ngủ. Trên đầu cầu thang tầng hai, một cửa vòm tróc lở dẫn vào dẫy cầu thang tối tăm. Ả vừa bước lên tiếp, vừa ngoái lại, ả cảm thấy như từ trong cửa vẫn có ai đó ló ra rồi biến mất... Chỉ có điều đấy không phải là Gaxtông Mỏ vịt... "Không, hắn chưa kịp đến đây, hắn không thể đến nhanh thế được...".
Đến đầu cầu thang tầng ba, Dôia lấy lại hơi thở. Nếu Garin không có ở nhà, ả sẽ đợi cho đến sáng. Nếu y có nhà, đang ngủ, ả sẽ không trở ra nếu không lấy được những tờ giấy y đã thủ trên bàn tại đại lộ Mandéc.
Dôia tháo găng, khẽ khàng sửa mái tóc dưới mũ rồi đi sang trái, theo dẫy hành lang gấp khúc. Trên cánh cửa thứ năm có con số "11" kẻ bằng sơn trắng. Dôia đẩy nắm đấm cửa, cửa nhẹ nhàng mở ra.
Ánh trăng lọt qua ô cửa sổ mở, chiếu vào căn phòng nhỏ. Trên sàn, một chiếc va li mở tung nằm vạ vật. Những tờ giấy trắng vương vãi khắp nơi. Cạnh tường, giữa bồn rửa mặt và tủ ngăn, là một người đang ngồi trên sàn, mặc độc chiếc sơ mi, hai đầu gối để trần hếch lên, hai bàn chân không giày không tất dường như quá lớn... Ánh trăng chiếu sáng nửa khuôn mặt, con mắt mở to lấp lánh, hàm răng trắng bóng - người đó đang mỉm cười. Dôia nín thở, miệng hé mở, nhìn khuôn mặt bất động đang mỉm cười, - đó là Garin.
Sáng nay, trong tiệm cà phê "Địa cầu", ả bảo Gaxtông Mỏ Vịt: "Hãy đánh cắp các bản vẽ và bộ máy của Garin, và nếu có thể thì giết hắn đi". Chiều nay, qua làn khói thuốc lá trên cốc sâm banh, ả nhìn thấy đôi mắt của Garin và cảm thấy, nếu con người ấy vẫy gọi ả thì ả sẽ vứt bỏ hết, sẽ quên hết và đi theo y. Đến đêm, hiểu rõ mối nguy hiểm và chạy bổ đi tìm Gaxtông để ngăn y lại, chính ả cũng chưa ý thức được rõ rệt cái gì đã khiến ả lo lắng như vậy, đã thúc giục ả lang thang giữa Pari ban đêm và cuối cùng, dẫn ả đến phố Gôbêlênốp này. Những tình cảm gì đã buộc người phụ nữ thông minh, lạnh lùng và tàn nhẫn đó mở cửa căn phòng của một kẻ bị ả đẩy tới chỗ chết?
Ả nhìn hàm răng và con mắt lồi ra của Garin. Ả khẽ thét lên khàn khàn, rồi bước lại gần, cúi người xuống thân hình y - Garin đã chết. Mặt xám ngoét. Trên cổ có những vết xước phồng lên. Đó chính là khuôn mặt ấy - hốc hác, hấp dẫn với cặp mắt đầy xúc động, với bộ râu mượt mà lẫn những vụn côngphétti sặc sỡ... Dôia nắm lấy thành đá hoa lạnh lẽo của bồn rửa mặt, gắng gượng đứng dậy. Ả quên bẵng mất mục đích đến nơi đây. Nước bọt đắng ngắt trào dâng trong miệng. "Mình đến ngã ngất đi mất". Bằng nỗ lực cuối cùng, ả giật đứt chiếc khuy trên cổ áo khiến ả nghẹt thở. Rồi ả tiến về phía cửa. Trên ngưỡng cửa là Garin.
Y giống hệt kẻ đang ngồi trên sàn - răng y trắng bóng, nụ cười ngưng đọng trên môi. Y giơ ngón tay lên, dọa dọa. Dôia hiểu, ả lấy tay bịt chặt miệng để khỏi bật ra tiếng kêu. Tim ả đập mạnh, dường như vừa từ dưới nước ngoi lên... "Sống, anh ấy còn sống...".
- Kẻ bị giết không phải là tôi đâu, - Garin thầm thì nói và vẫn tiếp tục đe dọa, - các người đã giết phụ tá của tôi là Lơnoa... Rôlinh sẽ bị treo cổ...
- Còn sống, vẫn còn sống - Dôia khàn khàn nhắc lại.
- Bà đến đây làm gì?
- Tôi tìm Gaxtông...
- Ai cơ?
- Người mà tôi đã ra lệnh giết ông...
- Tôi đã biết trước là như vậy, - Garin vừa nói vừa nhìn vào mắt ả.
Ả đáp lại như trong cơn mê:
- Nếu Gaxtông giết ông thì tôi sẽ tự tử mất...
- Tôi không hiểu...
Ả mê mẩn nhắc lại theo y bằng một giọng dịu dàng dằn khẽ:
- Chính tôi cũng không hiểu...
Cuộc chuyện trò này diễn ra ở ngưỡng cửa. Ngoài cửa sổ, trăng đang lặn thấp xuống sau mái nhà bằng graphít. Garin đưa mắt nhìn khắp căn phòng rồi hỏi khẽ:
- Bà đến để lấy lại tờ giấy có bút tích của Rôlinh phải không?
- Vâng. Xin ông hãy thương hại.
- Thương hại ai? Rôlinh ư?
- Không. Thương hại tôi. Xin ông hãy thương hại, - ả nhắc lại.
Đột nhiên Garin vươn thẳng người lên, lắng nghe. Rồi y lôi mạnh Dôia ra ngoài. Vừa tiếp tục nắm chặt tay ả phía trên khuỷu tay, y vừa ngước nhìn chiếc cửa vòm dẫn ra cầu thang.
- Ta đi đi. Tôi sẽ đưa bà qua đường công viên... Bà thật là một phụ nữ tuyệt diệu, - mắt y lóe lên một vẻ hài hước điên dại, - hai con đường của chúng ta đã gặp nhau... Bà cảm thấy như vậy chứ?...
Y cùng Dôia chạy xuống theo cầu thang xoáy ốc. Ả không cưỡng lại.
Đến đầu cầu thang dưới cùng, Garin rẽ vào đâu đó trong bóng tối, dừng lại, thắp nến lên, ráng sức mở chiếc khóa han gỉ trên chiếc cửa có lẽ đã nhiều năm nay không mở.
- Bà thấy đấy, mọi việc đều dự liệu trước cả rồi.
Sau đó, Garin và Dôia bước ra ngoài, đi dưới những hàng cây tối tăm, ẩm ướt của công viên. Đúng lúc đó, một toán cảnh sát từ ngoài phố đi vào cổng: mười lăm phút trước đây, Garin đã gọi điện yêu cầu cảnh sát tới.
32
Senga nhớ rõ "nước cờ hớ" tại ngôi nhà nghỉ trên đảo Crextốpxki. Khi ấy, (trên đại lộ Công Đoàn), anh hiểu rằng: Pítkêvích nhất định sẽ trở lại ngôi nhà nghỉ một lần nữa để lấy những thứ y cất giấu dưới hầm nhà. Lúc chập tối (cũng ngày hôm đó) anh lần đến nhà nghỉ, tránh chạm trán với người canh gác, thủ sẵn chiếc đèn pin bí mật, đi xuống hầm nhà. "Nước cờ" ấy bị thất bại ngay: cách cửa sập trong bếp khoảng hai bước chân là Garin. Một giây trước lúc Senga xuất hiện, y xách va li nhảy từ hầm nhà lên và đứng nép vào tường sau cánh cửa. Y đóng ầm cửa sập lại ngay trước mặt Senga rồi lấy những bao đựng than chất lên. Senga giơ cao đèn, nhếch miệng cười nhìn rác rưởi bụi bậm rơi lả tả qua các khe cửa sập. Anh định tiến hành thương lượng hòa bình với Garin. Nhưng đột nhiên, phía trên bỗng lặng tờ, vang lên tiếng chân người chạy rồi tiếng súng nổ và cuối cùng là tiếng thét man rợ. Đó là cuộc vật lộn với gã bốn ngón. Một giờ sau, các chiến sỹ công an xuất hiện.
Sau nước cờ đó, Senga đi được nước cờ hay. Từ ngôi nhà nghỉ, anh dùng ôtô công an phóng thẳng đến câu lạc bộ thuyền buồm, đánh thức người trực ban câu lạc bộ dậy (đó là một thủy thủ tóc rối bù, giọng khàn khàn) và hỏi thẳng:
- Gió nào?
Người thủy thủ dĩ nhiên là không nghĩ ngợi gì hết, trả lời ngay:
- Gió Đông Nam.
- Cấp mấy?
- Cấp năm.
- Anh bảo đảm là tất cả các thuyền buồm đều đậu tại chỗ chứ?
- Tôi bảo đảm.
- Ai đang bảo vệ các thuyền?
- Pếtca đang gác.
- Cho tôi xem xét dãy phao chắn.
- Được - người thủy thủ trả lời và vì ngái ngủ nên lúng túng mãi mới xỏ tay được vào chiếc áo thủy thủ.
- Pếtca! - anh ta vừa gọi to bằng một giọng sặc sụa hơi rượu vừa cùng Senga bước lên hàng hiên câu lạc bộ (không có ai trả lời) - Nhất định cậu ta lại rúc vào đâu mà ngủ rồi, phải kéo chân cậu ta dậy mới được, - người thủy thủ nói và dựng cổ áo lên để che gió.
Họ tìm thấy Pếtca trong bụi cây gần đấy - cậu ta đang ngáy ngon lành, trùm kín đầu bằng cổ áo khoác lông. Người thủy thủ trực ban quát mắng ầm ĩ. Pếtca càu nhàu đứng dậy. Cả hai lên dẫy phao chắn. Cả một rừng cột buồm lắc lư trên mặt nước màu xám sẫm. Sóng vỗ mạnh. Gió to thổi giật từng cơn.
- Anh tin chắc là tất cả thuyền đều đậu tại chỗ chứ? - Senga lại hỏi.
- Thiếu chiếc "Ôriôn", nó hiện đang ở Pitegốp... Và hai chiếc nữa đi Xtơrenna.
Senga bước theo những tấm ván làm nước bắn tung tóe, đi đến tận mép dẫy phao chắn và nâng đoạn dây buộc bến lên - một đầu dây buộc chặt vào vòng thép, còn đầu kia rõ ràng là bị cắt đứt. Người thủy thủ trực ban thong thả xem xét đoạn dây. Anh ta ấn mũ sụp xuống mũi và không nói gì hết. Sau đó, anh ta đi dọc theo dẫy phao chắn, dùng ngón tay đếm số thuyền. Rồi anh ta chém mạnh tay vào không khí và giận dữ thét to:
- Pếtca, cậu là đồ rẻ rách! Đem dìm chết cậu đi cũng đáng! Trông nom cái quái gì mà chiếc thuyền đua tốt nhất là "Bibigônđa" cũng để chúng cuỗm mất...
Pếtca ồ lên ngạc nhiên, lấy hai tay áo lông tự quất vào người. Ở đây chẳng có việc gì làm nữa. Senga đi ra bến.
Ít nhất là ba tiếng đồng hồ đã trôi qua, vậy mà ca nô tuần tra của đội bảo vệ - loại ca nô chạy nhanh - vẫn không ra được ngoài khơi. Sóng lớn nổi lên dữ dội. Chiếc ca nô hết dâng lên lại chìm xuống. Bụi nước làm mờ ống nhòm. Khi mặt trời mọc lên, - trong vịnh Phần Lan, cách ngọn hải đăng khá xa, - thì họ thấy cánh buồm hiện ra ở gần bờ. Đấy là chiếc "Bibigônđa" bất hạnh đang quay cuồng giữa những tảng đá ngầm. Trên thuyền không có một người nào. Chiếc ca nô bắn mấy phát lấy lệ rồi đành quay mũi trở về, không thu được kết quả gì. Vậy là vào đêm đó, Garin đi thêm được một nước cờ nữa và đã vượt qua biên giới. Về việc gã bốn ngón tham gia vào ván cờ này thì chỉ có y và Senga được biết. Vì lẽ đó, trên đường trở về bến, Senga tính toán như sau:
"Ở nước ngoài, Garin sẽ hoặc đem bán, hoặc được tự do sử dụng bộ máy bí ẩn kia. Đối với Liên Xô, sáng chế này tạm thời bị mất, và ai biết được là trong tương lai nó có nhất thiết đóng một vai trò tội lỗi gì không. Nhưng ở nước ngoài, Garin có một mối đe dọa - đó là gã bốn ngón. Cuộc chiến đấu với gã đó hiện chưa kết thúc. Garin sẽ không dám xuất hiện công khai với bộ máy của y. Nếu trong trận đấu này mà đứng về phía Garin thì có thể thu được kết quả. Dù sao chăng nữa thì điều ngu xuẩn nhất có thể nghĩ ra được (và có lợi nhất cho Garin) - đấy là bắt ngay gã bốn ngón ở Lêningrát". Kết luận rất đơn giản: Senga từ bến sông về thẳng nhà mình, thay quần áo khô, gọi điện đến Ban điều tra hình sự cho biết là "vụ án đã tự nó kết thúc", ngắt mạch máy điện thoại và đi ngủ, vừa nằm vừa mỉm cười giễu cợt khi hình dung thấy gã bốn ngón bị nhiễm độc, có lẽ còn bị thương nữa, hiện đang ba chân bốn cẳng chạy trốn khỏi Lênigrát. Đó là đòn phản công của Senga đối với "nước cờ hớ" kia.
Và đây là bức điện (từ Pari) "Người bốn ngón đang ở đây. Nhiều biến cố nguy hiểm". Đó là tiếng kêu xin giúp đỡ.
Senga càng suy nghĩ thì càng thấy rõ là phải bay đi Pari. Anh gọi điện thoại hỏi giờ máy bay chở khách cất cánh rồi quay lại hàng hiên, nơi Taraskin và chú bé Ivan đang ngồi trong bóng tối mờ mờ. Sau khi Senga đọc được hàng chữ trên lưng chú thì chú lặng thinh và không rời Taraskin.
Qua khoảng trống giữa các cành cây, từ mặt nước màu vàng cam vọng lên những giọng nói lao xao, tiếng mái chèo khua nước và tiếng cười của phụ nữ. Những việc cổ xưa như trái đất đang diễn ra dưới những khóm cây rừng đen sẫm trên đảo, nơi lũ chim chóc chưa ngủ xao xác gọi nhau. Toàn bộ sinh vật vừa bừng dậy khỏi những trận mưa và bão tuyết của mùa đông dài dằng dặc, nay hối hả sống, vui vẻ khao khát tận hưởng vẻ mỹ lệ ngây ngất của đêm nay. Taraskin một tay ôm lấy vai Ivan, một tay tì khuỷu lên lan can, ngồi yên không nhúc nhích, ngắm nhìn dòng nước qua những khoảng trống. Những con thuyền đang lướt nhẹ trên dòng sông.
- Ivan này, - Senga vừa nói vừa dịch ghế lại gần, cúi xuống khuôn mặt chú bé, - cháu thấy thích ở đâu hơn, ở đằng ấy hay ở đây? Có lẽ ở Viễn Đông cháu sống khổ lắm, lúc nào cũng đói meo, có phải không?
Ivan nhìn Senga không chớp mắt. Trong ánh hoàng hôn, mắt chú có vẻ buồn bã như mắt người già. Senga rút trong túi áo gilê ra một chiếc kẹo, gõ nhẹ chiếc kẹo vào răng chú cho tới khi hai hàm răng chú tách ra và chiếc kẹo chui tọt vào miệng. Anh nói:
- Cháu Ivan này, các chú đối xử với thiếu nhi rất tử tế. Các chú không bắt làm việc, không viết thư lên lưng, không bắt phải đi đâu xa tít bằng cách nằm dưới gầm toa. Cháu thấy đấy, trên đảo này thật thú vị biết bao, và cháu có biết tất cả những thứ này là của ai không? Các chú đã trao hẳn cho thiếu nhi tất cả những thứ này rồi, trao vĩnh viễn. Cả con sông, cả hòn đảo, cả những chiếc thuyền, cả bánh mì cặp chả mà cháu cứ việc ăn thỏa thích - tất cả đều là của cháu hết...
- Anh định đánh lạc hướng chú bé chứ gì? - Taraskin hỏi.
- Đánh lạc hướng sao được, chú ta thông minh lắm. Ivan, cháu từ đâu đến đây?
- Từ sông Amua, - chú bé miễn cưỡng trả lời, - Mẹ cháu đã chết, bố cháu bị giết trong chiến tranh.
- Vậy cháu sống như thế nào?
- Cháu đi làm thuê, làm việc...
- Bé tí mà cũng phải làm việc cơ à?
- Biết làm thế nào được... Cháu còn chăn ngựa nữa.
- Rồi sau đó thì sao?
- Sau đó người ta lấy cháu vào...
- Ai lấy?
- Một toán người. Họ cần một chú bé để sai trèo cây, hái quả, hái nấm, bắt sóc làm thức ăn, chạy đi làm việc này việc nọ...
- Tức là họ lấy cháu vào đoàn thăm dò chứ gì? (Ivan hấp háy mắt, yên lặng). Có xa không? Cháu trả lời đi, đừng sợ. Các chú không đem cháu đi nộp đâu. Bây giờ cháu là người thân của các chú rồi...
- Mọi người đi tàu thủy suốt tám ngày đêm, cứ tưởng không ai còn sống nổi nữa. Sau đó lại đi bộ thêm tám ngày nữa cho tới khi đến một ngọn núi thở ra lửa...
- À, ra thế đấy, - Senga nói, - Tức là đoàn thăm dò đã đến Camsátca.
- Đúng là Camsátca chú ạ... Ở đấy cả đoàn sống trong lều... Mãi lâu, không ai biết gì về cách mạng cả. Khi biết thì ba người đã bỏ đi, rồi thêm hai người nữa, thức ăn cạn hết. Chỉ còn ông ta và cháu...
- "Ông ta" là ai vậy? Tên ông ta là gì?
Ivan lại cau mày, Senga khích lệ chú hồi lâu, anh vuốt mái đầu cắt ngắn cúi thấp xuống của chú...
- Nếu cháu nói thì ông ta nhất định sẽ giết cháu. Ông ta cam đoan như vậy...
- Ai cơ?
- Manxep chứ còn ai nữa... Ông ta bảo: "Đây, bác viết thư lên lưng cháu rồi đấy, cháu không được tắm rửa, không được cởi áo ra, dù có một năm, hai năm chăng nữa. Cháu hãy đến bằng được Pêtơrôgrát, tìm kỹ sư Garin và cho ông ấy xem bức thư này, ông ấy sẽ thưởng cho cháu..."
- Vậy tại sao Manxep lại không đích thân đến Pêtơrôgrát nếu ông ta cần gặp Garin?
- Ông ta sợ những người Bônsêvích... Ông ta bảo: "Họ tệ hơn quỷ sứ. Họ sẽ giết bác. Họ đã tàn phá cả nước - tàu hỏa không chạy, bưu điện không hoạt động, chẳng có gì mà ăn, mọi người chạy hết ra khỏi thành phố..." Chẳng hiểu ông ta làm sao mà biết được - ông ta ngồi lì trong núi suốt sáu năm kia mà...
- Ông ta làm gì, tìm gì ở đấy?
- Đời nào ông ấy lại nói? Cháu chỉ biết là... (Mắt Ivan sáng lên một cách vui vẻ, ranh mãnh). Ông ta tìm vàng dưới đất...
- Tìm thấy rồi chứ?
- Ông ta ấy ư? Dĩ nhiên là tìm thấy rồi...
- Nếu cần thì cháu có thể chỉ đường đến chỗ ông ta không?
- Dĩ nhiên là được... Chỉ có điều các chú chớ để lộ ra đấy, ông ta hay nổi giận lắm...
Senga và Taraskin hết sức chăm chú lắng nghe câu chuyện chú bé kể. Senga xem xét cẩn thận một lần nữa những dòng chữ trên lưng chú. Sau đó anh chụp ảnh những dòng chữ đó.
- Bây giờ cháu xuống nhà chú đi, chú Taraskin sẽ dùng xà phòng tắm rửa sạch sẽ cho cháu rồi cháu sẽ đi ngủ, - Senga nói - Trước đây cháu chẳng có gì hết, không có bố, không có mẹ, chỉ có mỗi cái bụng đói thôi. Bây giờ cháu có tất cả, thứ gì cũng thừa thãi - cháu hãy sống, hãy học tập, hãy lớn lên cho khỏe mạnh. Chú Taraskin sẽ bảo ban cháu điều hay lẽ phải, cháu phải vâng lời chú ấy mới được. Tạm biệt cháu. Hai ngày nữa, khi gặp Garin, chú sẽ kể cho chú ấy biết được nội dung bức thư của cháu.
Senga cười vang và ít phút sau, ánh đèn xe đạp của anh đã nhẩy nhót, lấp loáng sau những bụi cây đen sẫm.
33
Đôi cánh nhôm lóe sáng cao tít trên sân bay xanh rờn, và chiếc máy bay chở khách sáu chỗ ngồi biến mất sau những đám mây trắng như tuyết. Nhóm người ra tiễn đứng một lát, ngẩng đầu về phía bầu trời xanh thẳm, nơi con diều hâu đang uể oải lượn tròn và đàn én đang lao vun vút, nhưng con chim bằng đuyra đã không thấy nữa.
Sáu hành khách ngồi trong những chiếc ghế đan kêu ken két, nhìn mặt đất màu xanh pha sắc tím đang thụt dần xuống. Những con đường uốn lượn, trông như những sợi chỉ. Những khối nhà, những gác chuông trông tựa những đồ chơi hơi nghiêng. Xa xa ở bên phải là vùng nước xanh mênh mông trải rộng.
Một bóng mây lướt qua, che đi những chi tiết của tấm bản đồ mặt đất. Còn chính đám mây thì xuất hiện ngay bên dưới.
Áp mình vào ô cửa sổ, tất cả sáu hành khách đều nở nụ cười hơi gượng gạo của những kẻ biết tự chủ. Việc đi lại bằng đường không lúc bấy giờ vẫn còn là điều mới mẻ. Mặc dù buồng máy bay đầy đủ tiện nghi, trên những chiếc bàn phụ ngổn ngang các tạp chí và catalô, và mọi vật đều toát ra vẻ an toàn, ấm cúng, nhưng các hành khách vẫn phải thường xuyên tự trấn an rằng, suy cho cùng thì việc giao thông bằng máy bay vẫn an toàn hơn nhiều so với việc đi bộ qua phố chẳng hạn. Huống hồ đây lại là trên trời. Mỗi khi gặp đám mây là lại như đang ngụp lặn, chỉ cần các kính cửa sổ trong buồng lái mờ hơi nước, mưa đá đập rào rào vào lớp đuyra hoặc máy bay rung lên như sa vào ổ gà là mọi người lại bíu chặt vào tay ghế, mắt trợn tròn, nhưng người bên cạnh đã nháy mắt, cười vang: ổ gà nông choẹt ấy mà! Mỗi khi ào đến cơn gió giật (loại gió có khả năng trong giây lát giật đứt cột buồm ngoài biển, bẻ gẫy bánh lái, cuốn thuyền bè và người vào những đợt sóng dữ dội) thì con chim sắt này lại tỏ ra chắc chắn và khéo léo - nó chao một bên cánh, gầm rít động cơ rồi vọt cao hàng nghìn mét bên trên trung tâm giông tố.
Tóm lại, trong vòng không đầy một giờ, các hành khách đã quen với khoảng trống rỗng dưới chân cũng như với sự chao đảo tròng trành. Tiếng ầm ầm của động cơ át đi tiếng nói. Vài người chụp lên đầu bộ ống nghe có mang micrô và cuộc trò chuyện bắt đầu. Ngồi đối diện với Senga là một người gầy gò, trạc ba mươi lăm tuổi, mặc chiếc măngtô đã sờn và đội chiếc mũ cát-két kẻ ô, chắc hẳn anh ta đã mua chiếc mũ này cho chuyến du lịch ra nước ngoài.
Khuôn mặt anh ta tai tái, da mặt mỏng, nhìn nghiêng thì có vẻ cau có, nhưng thông minh, thanh nhã, bộ râu hoe vàng, miệng bình thản và cương nghị. Anh ta ngồi lom khom, hai tay đặt trên đầu gối. Senga mỉm cười ra hiệu. Anh ta đội bộ ống nghe lên. Senga hỏi:
- Anh đã từng theo học ở Iarôxláp phải không? (Gật đầu). Anh là đồng hương của tôi, tôi nhớ rõ như vậy. Anh là Alếchxây Xêmiônôvích Khơlưnốp? (Gật đầu). Hiện giờ anh làm việc ở đâu?
- Tại phòng thí nghiệm vật lý trường bách khoa, - giọng yếu ớt của Khơlưnốp, vì bị tiếng động cơ át đi, vang lên trong ống nghe.
- Anh đi công tác?
- Tôi đến chỗ Râykhe ở Béclin.
- Bí mật?
- Không. Hồi tháng ba năm nay, chúng tôi được biết rằng tại phòng thí nghiệm của Râykhe đã thực hiện việc phân hủy nguyên tử thủy ngân.
Khơlưnốp quay cả khuôn mặt về phía Senga - mắt anh ta chằm chằm nhìn người đối thoại với vẻ xúc động nghiêm nghị. Senga nói:
- Tôi không hiểu, tôi không phải là nhà chuyên môn.
- Hiện nay, công việc vẫn còn tiến hành trong các phòng thí nghiệm. Còn lâu mới áp dụng được trong công nghiệp... Mặc dù, - Khơlưnốp nhìn những khối mây cuồn cuộn như tuyết phủ sát mặt đất dưới thấp, - từ phòng thí nghiệm đến nhà máy cũng chẳng lấy gì làm xa lắm. Nguyên tắc phân hủy cưỡng bức nguyên tử chắc chắn là rất đơn giản, cực kỳ đơn giản. Tất nhiên, anh biết nguyên tử là gì chứ?
- Một vật nhỏ tí tẹo thế này, - Senga dùng ngón tay ra hiệu.
- Nguyên tử so với hạt cát chẳng khác gì hạt cát so với trái đất. Vậy mà chúng tôi vẫn đo được kích thước nguyên tử, trọng lượng, khối lượng, điện tích của nguyên tử. Chúng tôi đang đi sâu vào lõi nguyên tử, vào hạt nhân nguyên tử. Nó chứa đựng toàn bộ bí mật của quyền lực với vật chất. Tương lai của nhân loại phụ thuộc vào việc chúng ta sẽ có thể chế ngự được hạt nhân nguyên tử hay không, tuy đó chỉ là một hạt nhỏ của năng lượng vật chất và có độ lớn chỉ bằng một phần trăm tỷ centimét.
Ở độ cao hai nghìn mét trên mặt đất, Senga được nghe những điều kỳ lạ, kỳ lạ hơn cả những truyện cổ tích của nàng Sêhêradát, nhưng đó không phải là truyện cổ tích. Trong lúc dân tộc này bị lôi kéo vào một cuộc chiến tranh hủy diệt, còn dân tộc khác đang vùng dậy khởi nghĩa, trong lúc các thành phố bốc cháy, và tro tàn cùng những đám mây hơi độc cuồn cuộn bốc lên trên các luống cày và vườn cây, trong lúc chính trái đất cũng rung chuyển vì tiếng gào thét man rợ của những kẻ bị tiêu diệt, và như xưa kia, kìm kẹp và bàn tra tấn của bọn đao phủ đã bắt đầu hoạt động trong các hầm ngục tăm tối, trong lúc cứ đêm đêm là cây cối ở các công viên lại sinh ra những thứ quái gở với những chiếc lưỡi lè ra, trong lúc những chiếc áo lễ duy tâm được trang điểm biết bao âu yếm đã tuột khỏi thân thể con người trong thập kỷ kỳ quái và khổng lồ ấy, những bộ óc kỳ diệu của các nhà bác học rực sáng lên như những ngọn đuốc đơn độc.
34
Máy bay hạ cánh thấp xuống trên bầu trời Cốpnô [1]. Cánh đồng xanh ướt đẫm nước mưa vun vút lao đến. Máy bay lăn bánh một quãng dài rồi đỗ lại. Người phi công nhảy xuống cỏ. Các hành khách ra ngoài duỗi chân tay. Họ châm thuốc hút. Senga lánh sang bên, nằm trên cỏ, chắp tay sau gáy và thích thú nhìn những đám mây xa xa, màu xanh nhạt. Anh vừa ở trên đó, vừa bay lượn giữa những ngọn núi nhẹ bồng bềnh và trắng như tuyết, bên trên những hố sâu màu thanh thiên.
Người bạn "nhà trời" của anh, Khơlưnốp, đang đứng hơi gù gù cạnh chiếc cánh của con chim sắt màu xám. Dù là bạn "nhà trời" thật nhưng anh ta cũng vẫn cứ là người, dù có đội chiếc mũ của công ty may mặc Lêningrát chăng nữa.
Senga cười vang:
- Được sống trên đời vẫn cứ tuyệt diệu như thường. Tuyệt diệu đến mức khó mà hiểu nổi!
Khi máy bay cất cánh từ sân bay Cốpnô, Senga đến ngồi cạnh Khơlưnốp và không nêu tên một ai hết, anh kể cho anh ta tất cả những điều mình biết về các thí nghiệm khác thường của Garin và về việc nước ngoài rõ ràng là rất quan tâm đến những thí nghiệm ấy.
Khơlưnốp hỏi xem Senga có trông thấy bộ máy của Garin hay không.
- Không. Chưa một ai trông thấy bộ máy ấy cả.
- Có lẽ tất cả những chuyện đó đều là những dự đoán và giả thuyết, lại được thêm thắt bằng trí tưởng tượng nữa chăng?
Senga liền kể về gian hầm trong ngôi nhà nghỉ đổ nát, về những mẩu sắt bị cắt đứt, về những hòm đựng các khối chóp than. Khơlưnốp gật đầu, phụ họa theo:
- À ra thế. Những khối chóp nhỏ chứ gì? Giờ thì tôi hiểu rồi. Nếu không cần giữ bí mật lắm thì anh đang kể về kỹ sư Garin phải không?
Senga yên lặng một phút, nhìn vào mắt Khơlưnốp.
- Đúng, - anh trả lời, - tôi đang nói về Garin đấy. Anh biết anh ta chứ?
- Một người rất có năng lực, - Khơlưnốp nhăn mặt như ăn phải của chua. - Một người khác thường. Nhưng xa lạ với khoa học. Một kẻ hiếu danh, hoàn toàn tách biệt. Một kẻ phiêu lưu, vô đạo đức, có những mầm mống của thiên tài. Một khí chất thái quá. Óc tưởng tượng ghê gớm. Nhưng trí tuệ tuyệt vời của anh ta luôn luôn bị kích thích bởi những khát vọng thấp hèn. Anh ta sẽ đạt được nhiều thứ, nhưng sẽ kết thúc bằng một cái gì đó tựa như tình trạng say khướt hoặc anh ta sẽ tìm cách "làm nhân loại phải khiếp đảm". Hơn ai hết, một thiên tài cần phải có kỷ luật hết sức nghiêm ngặt, Vì quá nhiều trách nhiệm.
Những vệt đỏ hồng lại xuất hiện trên mặt Khơlưnốp.
- Lý trí trong sáng, có kỷ luật, là vật thiêng liêng nhất, vĩ đại nhất, là điều kỳ diệu nhất. Trên trái đất - một hạt cát trong vũ trụ - con người chỉ là một phần tử vô cùng nhỏ. Nhưng các phần tử biết suy nghĩ và chỉ sống một thời gian trung bình là sáu mươi vòng quay của trái đất quanh mặt trời ấy lại có lý trí, một thứ lý trí bao trùm được cả vũ trụ... Để hiểu được điều đó, chúng ta phải chuyển sang ngôn ngữ của toán học cao cấp... Vậy thì anh sẽ nói sao nếu có người lấy đi chiếc kính hiển vi hết sức quý báu trong phòng thí nghiệm của anh rồi dùng nó để đóng đinh?... Chính Garin đang xử sự với thiên tài của mình theo kiểu đó đấy... Tôi biết là anh ta đã thực hiện được một phát minh lớn trong lĩnh vực truyền các tia hồng ngoại đi xa. Tất nhiên, chắc anh đã nghe nói đến những tia giết người của Grinđen Matiuđơ[2] chứ? Những tia giết người ấy hóa ra chỉ là chuyện hoàn toàn nhảm nhí. Nhưng nguyên tắc thì đúng. Những tia nhiệt nóng hàng nghìn độ được phóng đi song song là một vũ khí khủng khiếp để phá hủy và phòng thủ trong quân sự. Toàn bộ bí mật là ở chỗ làm thế nào phóng đi được loại tia không bị tán xạ. Cho đến nay vẫn chưa thực hiện được việc đó. Theo lời kể của anh thì có lẽ Garin đã chế tạo được bộ máy như vậy. Nếu thế thì đó là một phát minh rất quan trọng.
- Từ lâu tôi đã cảm thấy rằng xung quanh phát minh này đã sặc mùi chính trị trên quy mô lớn rồi - Senga nói.
Khơlưnốp yên lặng một lát, rồi tai anh ta cũng đỏ bừng lên.
- Anh hãy tìm bằng được Garin, nắm lấy cổ anh ta và đưa anh ta cùng bộ máy kia về Liên Xô. Không được để bộ máy ấy lọt vào tay kẻ thù của chúng ta. Anh hãy hỏi Garin xem anh ta có nhận thức được nghĩa vụ của mình không? Hay anh ta quả thật là một kẻ hèn hạ?... Trong trường hợp như vậy thì anh hãy cho anh ta thật nhiều tiền, anh ta muốn bao nhiêu cứ cho anh ta ngần ấy... Hoặc giết anh ta đi...
Senga dướn mày lên. Khơlưnốp đặt ống nghe lên bàn, ngửa người ra, nhắm mắt lại.
Chiếc máy bay bay trên những cánh đồng xanh vuông vắn, trên những con đường thẳng như kẻ chỉ. Từ xa tít trên cao thấy hiện lên thành phố Béclin màu nâu giữa những hồ nước xanh xanh. Tất cả nhỏ bé như trên bản vẽ.
35
Lúc bảy rưỡi sáng, Rôlinh thức giấc như thường lệ ở phố Xenna, trong chiếc giường của hoàng đế Napôlêông. Mắt vẫn nhắm, y lấy chiếc khăn tay ở dưới gối và hỉ mũi.
Quả thật Rôlinh chưa hoàn toàn tỉnh táo nhưng đã làm chủ được các suy nghĩ và ý chí của mình, y ném chiếc khăn xuống thảm, ngồi dậy giữa đống gối lụa và nhìn quanh. Chiếc giường trống trải, trong phòng cũng trống trải.
Rôlinh ấn chuông, cô hầu phòng của Dôia xuất hiện. Không nhìn vào mặt cô ta, Rôlinh hỏi:
- Bà đâu?
Cô hầu phòng nhún vai, quay đầu hết phía này đến phía khác như con cú. Rồi cô ta nhón chân đi vào buồng vệ sinh, từ đó vội vã chạy sang phòng để quần áo, đóng sập cửa buồng tắm lại và lại xuất hiện trong phòng ngủ. Những ngón tay cô ta đặt hai bên chiếc tạp dề đăng ten run rẩy:
- Con không thấy bà ở đâu cả.
- Dọn cà phê lên, - Rôlinh ra lệnh.
Y tự mình xả nước đầy bồn tắm, tự mình mặc quần áo, tự mình rót cà phê. Trong lúc đó, khắp nhà lặng lẽ đầy kinh hoàng - ai cũng nhón chân, nói năng thầm thì. Khi ra khỏi khách sạn, y lấy khuỷu tay hích người gác cổng đang hốt hoảng lao đến mở cửa. Y đến văn phòng chậm mất hai mươi phút.
Sáng hôm đó, ở đại lộ Mandéc như tỏa mùi thuốc súng. Trên mặt viên thư ký hiện rõ vẻ nhẫn nhục. Từ chiếc cửa gỗ hồ đào bước ra, người khách nào cũng nhăn nhó mặt mày. Họ thì thầm cho biết: "Ngài Rôlinh hôm nay không được vui". Đúng một giờ, Rôlinh nhìn đồng hồ treo tường và bẻ gẫy chiếc bút chì. Rõ ràng là Dôia không đến đón y đi ăn trưa. Y chùng chình cho đến một giờ mười lăm. Trong vòng mười lăm phút khủng khiếp này, trên mái tóc chải bóng lộn của viên thư ký xuất hiện hai sợi bạc. Rôlinh đành một mình đi ăn, y đến hiệu "Griphông" như thường lệ.
Chủ hiệu ăn - ông Griphông - là một người đàn ông cao lớn, béo tốt, trước đây là đầu bếp và mở một quán bia nhỏ, nay là cố vấn về Đại Nghệ thuật Khẩu vị và Tiêu hóa. Ông ta đón Rôlinh bằng một cái vung tay hùng dũng. Áo đuôi tôm màu xám sẫm, bộ râu kiểu Átxiri chải mượt, vầng trán đầy vẻ cao quí, ông ta đứng giữa căn phòng nhỏ của hiệu ăn, tì một tay vào chiếc bệ bằng bạc, có cấu tạo đặc biệt, trông tựa như bàn thờ, bên dưới cái nắp vồng lên của nó là món ăn nóng hổi đang sủi sùng sục - đó là món thịt hông cừu hầm đỗ.
Ngồi trên những chiếc đi văng bằng da đỏ kê dọc theo bốn bức tường, sau những chiếc bàn hẹp liền khối, là đám khách thường xuyên thuộc thế giới doanh nghiệp của các Siêu Đại lộ, phụ nữ chỉ chiếm một số nhỏ. Khoảng giữa phòng để không, trừ các khối bằng bạc trông tựa bàn thờ kia. Ông chủ hiệu luôn luôn quay đầu để có thể nhìn thấy quá trình cảm nhận bằng vị giác của từng thực khách. Một cái nhăn mặt bực bội nhỏ nhất cũng không thoát khỏi mắt ông ta. Hơn thế nữa, ông ta còn thấy trước được nhiều thứ: những quá trình bí ẩn tiết các chất dịch, hoạt động xoáy ốc của dạ dày và toàn bộ tâm lý ăn uống dựa trên hồi ức về một món gì đó đã từng ăn, trên những linh cảm và sự tiếp máu đến các bộ phận khác nhau của thân thể - tất cả những cái đó đối với ông ta là một cuốn sách mở.
Ông ta thường bước lại gần với vẻ mặt nghiêm nghị và đồng thời lại rất ân cần, chu đáo, vừa nói bằng một giọng âu yếm bộc trực đến mê hồn: "Thưa ngài, khí sắc ngài hôm nay cần một ly rượu ngọt made và thứ pui thật tinh khiết. Ngài có thể đưa tôi lên giá treo cổ cũng được, nhưng tôi sẽ không cho ngài một giọt rượu vang nào đâu. Sò này, một ít cá chim hoa ninh dừ này, cánh gà tơ này và vài lát măng tây nữa - thực đơn ấy sẽ đem lại sức khỏe cho ngài". Trong trường hợp ấy thì chỉ có gã Patagôn [3] chuyên ăn chuột nước mới có thể khăng khăng phản đối thôi.
Trái hẳn dự đoán của nhiều người, ông Griphông không chạy đến chỗ ông vua hóa học với vẻ vội vã quỵ lụy. Không, ở đây, tại Viện hàn lâm Tiêu hóa này, bậc tỷ phú và viên kế toán quèn, người dúi chiếc ô ướt sũng cho viên gác cổng cũng như người vừa thở phì phì vừa ra khỏi chiếc Rônxơ Rôixơ sực nức mùi xì gà La Habana - tất cả đều trả cùng một giá. Ông Griphông là một người cộng hòa và là một nhà triết học. Ông ta mỉm cười độ lượng đưa cho Rôlinh tờ thực đơn và khuyên nên lấy dưa bở cho món thứ nhất, tôm hùm trộn nấm cho món thứ hai và thịt hông cừu. Rượu thì ngài Rôlinh không uống về ban ngày, cái đó ai cũng biết.
- Một ly uýtxki pha xôđa và một chai sâm banh ướp lạnh - Rôlinh rít răng nói.
Ông Griphông lùi lại, mắt thoáng lộ vẻ sửng sốt, sợ hãi và khinh bỉ: người khách này bắt đầu bằng rượu trắng là thứ rượu làm tê liệt những chấm vị giác trên lưỡi và rồi lại tiếp tục bằng sâm banh là thứ rượu làm dạ dày phồng lên. Nhưng mắt ông Griphông lập tức dịu đi, ông ta kính cẩn cúi đầu: khách hôm nay không được tươi tỉnh, ta đành dung hòa vậy.
Sau cốc uýtxki thứ ba, Rôlinh bắt đầu vò nát tấm khăn ăn. Với một tâm trạng như vậy thì kẻ nào đứng ở bậc thang xã hội dưới cùng, chẳng hạn như Gaxtông Mỏ Vịt, chắc chắn sẽ tìm bằng được Dôia trước lúc chập tối hôm nay để cho ả một lưỡi dao vào hông. Nhưng Rôlinh thích hợp với những biện pháp khác. Trong óc Rôlinh, trong làn hơi uýtxki vàng vàng, những ý nghĩ trả thù hết sức tinh tế, bệnh hoạn, nẩy sinh ra, đan chéo nhau và uốn lượn. Mãi tới lúc này, y mới hiểu Dôia có giá trị như thế nào đối với y. Y đau khổ, bấm móng tay vào tấm khăn ăn.
Người hầu dọn đi đĩa thức ăn còn nguyên rồi rót sâm banh. Rôlinh vồ lấy ly rượu rồi uống ừng ực - mấy chiếc răng vàng của y chạm lanh canh vào thành ly. Đúng lúc đó, Xêmiônốp từ ngoài phố chạy nhanh vào hiệu ăn và trông ngay thấy Rôlinh. Gã bỏ mũ, cúi người qua bàn, thầm thì:
- Ngài đọc báo rồi chứ?... Tôi vừa ở chỗ nhà xác... Đúng là hắn... Chúng tôi không có liên quan gì hết... Tôi xin thề như vậy... Người ta xác định là vụ giết người xảy ra trong khoảng từ ba đến bốn giờ sáng... đó là báo chí nói như vậy...
Trước mắt Rôlinh nhảy nhót một khuôn mặt xám xịt, méo xệch đi. Những người ngồi bên cạnh quay đầu lại. Người hầu đem ghế đến cho Xêmiônốp.
- Cút đi cho rảnh mắt, - Rôlinh nói qua làn hơi uýtxki - Anh làm tôi ăn mất ngon...
- Xin lỗi ngài... Tôi sẽ đợi ngài trong xe ở góc phố...
[1] Cốpnô (nay là Caunat) là một thành phố ở Lítva. (Chú thích của nguyên bản).
[2] Grinđen Matiuđơ: một nhà sáng chế đã làm náo động dư luận giữa những năm 20 của thế kỷ XX xung quanh những “tia giết người” của ông ta. (Chú thích của nguyên bản).
[3] Patagôn - thổ dân còn trong tình trạng man rợ vùng Patagônnhia (Nam Mỹ). - (Chú thích của nguyên bản)
36
Vào những ngày đó, báo chí Pari lặng lẽ như mặt nước hồ trong rừng. Các nhà tư sản vừa ngáp dài vừa đọc những bài xã thuyết về văn học, những bài châm biếm về các vở diễn ở nhà hát, những tin vặt về cuộc đời giới nghệ sĩ.
Bằng vẻ bình lặng thờ ơ đó, báo chí chuẩn bị cho cuộc tiến công dữ dội vào ví tiền của giới tư sản bậc trung. Côngxoócxiom hóa chất của Rôlinh, sau khi tổ chức xong và tiêu diệt xong các đối thủ nhỏ bé, đang chuẩn bị một chiến dịch lớn nhằm nâng giá. Báo chí bị mua chuộc, các nhà báo được trang bị những hiểu biết cần thiết về công nghiệp hóa học. Những tài liệu chấn động được chuẩn bị sẵn cho các chính trị gia khoái xông lên hàng đầu. Hai ba cái bạt tai, hai ba trận quyết đấu đã loại bỏ những kẻ ngốc nghếch định bép xép những điều không phù hợp với kế hoạch chung của Côngxoócxiom.
Ở Pari đã đến thời kỳ sóng yên gió lặng. Số lượng báo phát hành hơi giảm sút. Bởi vậy, vụ giết người ở số nhà sáu mươi ba phố Gôbêlênốp quả là một của quý.
Sáng hôm sau, toàn bộ bảy mươi lăm tờ nhật báo đều đăng những hàng tít lớn về "vụ giết người bí ẩn và khủng khiếp". Không xác định được người bị giết là ai - giấy tờ đều bị đánh cắp - và tên đăng ký ở khách sạn rõ ràng là tên giả. Hình như vụ giết người không phải nhằm mục đích cướp bóc, vì tiền bạc và tư trang bằng vàng vẫn còn nguyên trong người kẻ bị giết. Cũng khó dự đoán một sự trả thù - căn phòng số mười một có dấu vết của một cuộc lục soát kỹ lưỡng. Bí mật, tất cả đều nằm trong màn bí mật.
Những tờ báo ra lúc hai giờ chiều thông báo một chi tiết làm chấn động dư luận: trong căn phòng bất hạnh kia, người ta tìm thấy một chiếc trâm cài đầu của phụ nữ bằng mai rùa có đính năm hạt kim cương lớn. Ngoài ra, trên sàn đầy bụi còn phát hiện thấy dấu giày phụ nữ. Chiếc trâm cài đầu này khiến cả Pari đều rùng mình. Kẻ sát nhân hóa ra là một phụ nữ giàu sang. Một mệnh phụ quí tộc ư? Hay là một bà tư sản? Bí mật... Toàn là bí mật...
Những tờ báo ra bốn giờ chiều dành các trang báo của mình cho các cuộc phỏng vấn những phụ nữ nổi tiếng nhất Pari.
Tóm lại, trong khắp Pari, chỉ có một mình Rôlinh đang ngồi ở hiệu ăn Gripphông là không hay biết gì về biến cố ở phố Gôbêlênốp. Y đang rất bực tức và cố tình bắt Xêmiônốp phải đợi trong tắcxi. Cuối cùng, y xuất hiện ở góc phố, lặng lẽ chui vào xe và ra lệnh đưa y đến nhà xác. Dọc đường, Xêmiônốp vừa vung tay, vừa kể cho y nghe nội dung các tờ báo.
Khi nhắc đến chiếc trâm đính năm hạt kim cương, ngón tay Rôlinh run run trên đầu can. Đến gần nhà xác, y bỗng rướn mình về phía người lái xe, định ra lệnh quay xe lại, nhưng y kìm được, chỉ thở phì phì một cách dữ dội.
Tại cửa nhà xác, cả một đám đông đang chen lấn nhau. Những phụ nữ mặc loại áo lông đắt tiền, những nữ nhân viên bán hàng mũi hếch, những kẻ đáng ngờ từ ngoại ô kéo vào, những bà quản gia tò mò choàng áo len ngắn, những phóng viên săn tin vịt, mũi đẫm mồ hôi và cổ áo nhàu nát, - tất cả đều ra sức len vào nhìn kẻ bị giết mặc chiếc áo sơ mi rách nát, chân không giày không tất, nằm trên tấm đá thoai thoải, đầu quay về phía cửa sổ tầng hầm.
Đặc biệt khủng khiếp là hai bàn chân không giày không tất của tử thi - to lớn, tim tím, móng chân để dài. Bộ mặt vàng bủng "bị nhăn nhúm vì kinh hoàng". Bộ râu vểnh lên.
Xêmiônốp mở đường cho Rôlinh. Gã len lỏi như con rắn qua đám đông để lại gần tử thi. Rôlinh nhìn chằm chằm vào mặt kẻ bị giết, quan sát chừng một giây. Mắt y nhíu lại, chiếc mũi to tướng hằn những nếp nhăn, mấy chiếc răng vàng lấp lánh.
- Thưa ngài, thế nào ạ? Có đúng hắn không? - Xêmiônốp thầm thì hỏi.
Lần này thì Rôlinh trả lời gã:
- Lại kẻ giống hệt hắn.
Rôlinh vừa nói xong câu này thì từ sau vai y, một chiếc đầu có bộ tóc vàng nhạt bỗng xuất hiện, nhìn vào mặt y như chụp ảnh rồi biến mất trong đám đông.
Đó là Senga.
37
Bỏ Xêmiônốp lại nhà xác, Rôlinh đáp xe đến phố Xenna. Mọi thứ ở đây vẫn như cũ, vẫn là không khí lặng lẽ đầy kinh hoàng.
Rôlinh giam mình trong phòng ngủ, vừa đi đi lại lại trên thảm vừa quan sát mũi giày. Y dừng lại bên cạnh chiếc giường y thường nằm ngủ. Y xoa trán, nhắm mắt. Và y chợt nhớ ra điều đã dằn vặt y suốt ngày...
"... Rôlinh, Rôlinh... Chúng ta chết mất..."
Đó chính là giọng Dôia nói bằng một giọng khẽ, tuyệt vọng. Đêm qua, giữa chừng câu chuyện thì y đột nhiên ngủ thiếp đi. Giọng Dôia không đánh thức y, không đi đến tiềm thức y. Giờ đây, những lời tuyệt vọng ấy vang lên rành rọt trong tai y.
Rôlinh nhảy bật lên như lò xo... Y lần lượt nhớ lại: cơn ngất lạ lùng của Garin tại đại lộ Mandéc, nỗi xúc động của Dôia trong quán "Bữa ăn của Vua", những câu hỏi dai dẳng của Dôia, những giấy tờ gì của Rôlinh có thể bị Garin đánh cắp trong phòng làm việc? Rồi đến câu: "... Rôlinh, Rôlinh... Chúng ta chết mất..." Sau đó là việc ả biệt tăm. Rồi xác kẻ giống hệt Garin trong nhà xác. Rồi chuyện chiếc trâm đính kim cương. Đúng là hôm qua - y nhớ rõ - trên mái tóc dày của Dôia lấp lánh năm hạt đá quí.
Trong cả chuỗi biến cố ấy, có một điều rõ ràng. Garin lại dùng đến phương pháp đã được thử thách là bố trí một kẻ giống hệt mình để tránh đòn. Y đánh cắp mảnh giấy có bút tích Rôlinh để ném vào chỗ xảy ra án mạng và đưa cảnh sát đến đại lộ Mandéc.
Mặc dù rất điềm tĩnh, Rôlinh vẫn cảm thấy lạnh sống lưng... "... Rôlinh, Rôlinh... Chúng ta chết mất..." Tức là Dôia đã dự đoán, đã biết về vụ giết người. Vụ giết người xảy ra trong khoảng giữa ba giờ và bốn giờ sáng. (Cảnh sát ập đến lúc bốn rưỡi). Hôm qua, lúc sắp ngủ thiếp đi, Rôlinh nghe thấy đồng hồ điểm một giờ bốn lăm. Đấy là lần cuối cùng y nghe được những tiếng động bên ngoài. Sau đó Dôia biến mất. Rõ ràng Dôia vội vã chạy đến phố Gôbêlênốp để thủ tiêu những dấu vết có bút tích của y.
Làm sao Dôia lại biết được chính xác như vậy về vụ giết người sắp xảy ra? Chỉ có một khả năng là chính ả đã đích thân chuẩn bị cho vụ giết người đó. Rôlinh bước lại lò sưởi, chống khuỷu tay lên lớp đá hoa và lấy hai tay ôm mặt. Nhưng tại sao khi đó Dôia lại hết sức hoảng hốt thầm thì với y: "... Rôlinh, Rôlinh... Chúng ta chết mất...". Một chuyện gì đó xảy ra ngày hôm qua đã làm đảo lộn các kế hoạch của ả. Song đó là chuyện gì? Và xảy ra vào phút nào?
Có thể giả thiết là ả cần sửa chữa một sai lầm nào đó. Ả có làm được hay không? Garin vẫn sống, bút tích của Rôlinh tạm thời chưa bị phát hiện, kẻ giống hệt Rôlinh bị giết. Những sự việc ấy có lợi hay có hại? Ai là kẻ giết người - kẻ tòng phạm của Dôia hay chính Garin?
Và tại sao, tại sao Dôia lại biến mất? Trong khi lục lọi trong trí nhớ cái giây phút này - giây phút khủng hoảng trong tâm trạng của Dôia, Rôlinh ra sức huy động trí tưởng tượng vốn quen với một công việc hoàn toàn khác. Đầu óc y như muốn vỡ toang ra. Y cố nhớ lại từng cử chỉ, từng lời lẽ của Dôia, cố nhớ lại toàn bộ thái độ của Dôia ngày hôm qua.
Y cảm thấy là nếu giờ đây, bên cạnh lò sưởi này, mà y không hiểu được toàn bộ câu chuyện đã xảy ra tới tận các chi tiết tỉ mỉ nhất thì đó là thất bại, là thua cuộc, là sụp đổ hết. Chỉ ba ngày nữa là đến cuộc tiến công lớn vào thị trường chứng khoán, chỉ cần tên y bị ràng buộc một cách bóng gió với vụ giết người là nhất định sẽ xảy ra một vụ tai tiếng ầm ĩ và không thể cứu vãn được tình thế nữa... Đòn giáng vào Rôlinh sẽ là đòn giáng vào hàng tỷ đô la đang duy trì hoạt động của hàng nghìn xí nghiệp ở châu Mỹ, ở Trung Quốc, ở Ấn Độ, ở châu Âu và các thuộc địa châu Phi... Những tuyến đường sắt, những tuyến đường biển, những hầm mỏ, những nhà máy, nhà băng, hàng chục vạn viên chức, hàng triệu công nhân, hàng chục triệu người nắm giữ của cải - tất cả sẽ sững lại, sẽ kêu ken két, sẽ giãy giụa trong cơn kinh hoàng...
Rôlinh rơi vào tình thế của một người không biết dao kề từ phía nào. Mối nguy hiểm ấy quả là mối nguy hiểm chết người. Trí tưởng tượng của y hoạt động dữ dội, dường như mỗi đoạn ý nghĩ trôi qua trong một giây đáng giá tới một triệu đô la.
Cái trạng thái thật sự lạ lùng này của ông vua hóa học bị cắt đứt bởi tiếng hai đế giày chạm vào thảm. (Cửa sổ trông ra công viên của phòng ngủ - ở tầng một - vẫn mở toang). Rôlinh giật nẩy mình. Trong tấm gương trên lò sưởi xuất hiện bóng một người vạm vỡ, ria rậm, trán nhăn lại. Gã cúi đầu và chằm chằm nhìn Rôlinh.
38
- Anh cần gì? - Rôlinh rít lên, không thò tay nổi vào túi quần sau là nơi để khẩu súng braoninh.
Gã vạm vỡ rõ ràng là chỉ chờ như vậy, gã liền nhảy vào sau bức màn cửa và từ đó lại thò đầu ra nhìn Rôlinh.
- Ngài cứ yên tâm. Và đừng có hét lên. Tôi không định giết người hay cướp của đâu, - gã giơ hai tay lên, - tôi đến vì công việc.
- Có công việc gì ở đây được? Nếu có công việc anh hãy đến đại lộ Mandéc, số bốn mươi tám "bê" từ mười một giờ đến một giờ... Anh trèo qua cửa sổ như một gã ăn trộm bất lương ấy.
- Xin lỗi ngài, - gã lạ mặt lịch thiệp đáp. - Tên tôi là Gaxtông. Tôi có huân chương quân đội và cấp bậc tôi là trung sĩ. Tôi không bao giờ làm những chuyện vặt vãnh và chưa bao giờ đi ăn trộm. Tôi khuyên ngài nên xin lỗi tôi ngay lập tức, ngài Rôlinh ạ, nếu không chúng ta sẽ không thể tiếp tục nói chuyện được đâu.
- Cút ngay! - Rôlinh nói, giọng đã bình tĩnh hơn.
- Nếu tôi theo lệnh ngài thì bà Dôia mà chắc hẳn ngài rất quan tâm đến sẽ nguy hiểm đến tính mạng.
Hai má Rôlinh giật giật. Y lập tức bước lại gần Gaxtông. Gã nói tiếp, giọng kính cẩn như phép tắc đòi hỏi khi tiếp xúc với một nhà tỷ phú, nhưng đồng thời lại có phần thân mật suồng sã như khi nói năng với người chồng của tình nhân mình.
- Vây thưa ngài, ngài xin lỗi tôi chứ?
- Anh có biết bà Dôia biến đâu mất không?
- Thưa ngài, để tiếp tục câu chuyện của chúng ta, tôi khuyên ngài hãy xin lỗi tôi đã.
- Tôi xin lỗi, - Rôlinh gào lên.
- Tôi tiếp nhận lời xin lỗi của ngài, - Gaxtông rời khỏi cửa sổ, sửa lại bộ ria bằng một cử chỉ quen thuộc, đằng hắng rồi nói. - Bà Dôia hiện trong tay tên sát nhân mà cả Pari đang làm rùm beng lên.
- Tức là ở đâu? (môi Rôlinh run rẩy).
- Ở Vinlơ Đavrê, gần công viên Xanh Cla, trong khách sạn dành cho khách vãng lai, ngay sát viện bảo tàng Gămbétta. Đêm qua, tôi đã ngồi xe hơi theo dõi họ đến tận Vinlơ Đavrê, và hôm nay tôi đã xác định được chính xác địa chỉ.
- Bà ấy tự nguyện chạy trốn cùng hắn ta à?
- Chính đó là điều tôi muốn biết hơn cả, - Gaxtông trả lời với một vẻ dữ dội đến nỗi Rôlinh phải sửng sốt nhìn gã.
- Xin lỗi, ông Gaxtông ạ, tôi không hiểu rõ lắm là tại sao ông lại tham gia vào tất cả những chuyện này? Ông có liên quan gì đến bà Dôia? Tại sao ban đêm ông lại theo dõi bà ấy và xác định nơi ở của bà ấy?
- Đủ rồi! - Gaxtông lịch thiệp giơ tay ra trước mặt. - Tôi hiểu ngài. Thế nào ngài cũng phải hỏi tôi câu ấy. Tôi xin trả lời ngài: tôi yêu bà ấy và tôi ghen...
- À ra thế, - Rôlinh nói.
- Ngài cần các chi tiết ư? Thì đây. Đêm qua khi ra khỏi tiệm cà phê là nơi tôi tạt vào uống một ly rượu rum, tôi nhìn thấy bà Dôia ngồi trong một chiếc xe thuê. Xe phóng như bay. Nét mặt bà ấy thật khủng khiếp. Tôi lập tức nhảy lên tắc xi và rượt theo. Bà ấy đỗ xe lại trên phố Gôbêlênốp và bước vào ngôi nhà số sáu mươi ba. (Rôlinh nháy mắt một cái như bị dao đâm). Tôi giận điên lên vì ghen tức, tôi đi đi lại lại trên hè phố trước ngôi nhà ấy. Đúng bốn giờ mười lăm phút, bà Dôia bước ra, nhưng không ra theo lối cổng như tôi chờ đợi mà lại theo lối ra ở tường khu công viên kế cận với ngôi nhà sáu mươi ba ấy. Dìu hai bên vai bà ấy là một người đàn ông râu đen, mặc áo khoác, đội mũ màu xám. Những chuyện gì xảy ra sau đó thì ngài biết rồi.
Rôlinh buông mình xuống chiếc ghế tựa (của thời kỳ các cuộc thập tự chinh) và im lặng hồi lâu, bíu chặt tay vào tay ghế khắc nổi... Những chi tiết mà y chưa biết là như vậy đấy... Hung thủ là Garin, Dôia là tòng phạm... Kế hoạch tội ác thật quá rõ ràng. Chúng giết kẻ giống hệt Garin trên phố Gôbêlênốp để lôi kéo y, Rôlinh vào câu chuyện bẩn thỉu này, và sau đó dùng cách đe dọa để moi tiền cho việc chế tạo bộ máy. Gaxtông, viên trung sĩ trung thực và một kẻ ngu ngốc điển hình, đã ngẫu nhiên phát hiện ra tội ác. Tất cả đều rõ ràng. Phải hành động quyết liệt và tàn nhẫn.
Mắt Rôlinh lóe lên ánh giận dữ. Y đứng dậy, đá phăng chiếc ghế đi.
- Tôi sẽ gọi điện cho cảnh sát. Ông sẽ đi cùng tôi đến Vinlơ Đavrê.
Gaxtông nhếch miệng cười, bộ ria rậm của gã lệch hẳn đi.
- Ngài Rôlinh ạ, tôi cảm thấy không nên để cảnh sát can thiệp vào chuyện này. Chúng ta sẽ giải quyết bằng sức lực của chúng ta thôi.
- Tôi muốn bắt tên sát nhân và mụ tòng phạm của hắn để trao hai kẻ khốn kiếp ấy cho pháp luật, - Rôlinh vươn thẳng người, giọng y vang lên sang sảng.
Gaxtông phác một cử chỉ mơ hồ.
- Phải xem sao đã... Nhưng trong tay tôi có sáu gã trai từng trải, đáng tin cậy... Sau một giờ nữa, tôi có thể chở họ trên hai xe đến Vinlơ Đavrê... Còn cảnh sát thì tôi khuyên ngài không nên giây với họ.
Đáp lại. Rôlinh chỉ thở phì phì và cầm lấy máy điện thoại trên lò sưởi. Gaxtông nhanh hơn, gã nắm chặt lấy tay Rôlinh.
- Chớ gọi cảnh sát!
- Tại sao?
- Bởi vì đó là một chuyện ngu ngốc nhất... (Rôlinh lại với tay về phía máy điện thoại). Ngài Rôlinh ạ, ngài là một người hết sức thông minh, chẳng lẽ ngài không hiểu rằng có những vấn đề không thể nói thẳng ra được ư?... Tôi van ngài chớ gọi điện cho cảnh sát... Bởi vì sau khi ngài gọi điện, cả hai chúng ta đều sẽ lên máy chém hết... (Rôlinh giận điên lên, đẩy vào ngực gã và giằng lấy máy điện thoại). Gaxtông hối hả nhìn quanh và thì thầm vào tận tai Rôlinh. - Theo lệnh ngài, bà Dôia đã giao cho tôi nhiệm vụ thủ tiêu nhanh chóng một viên kỹ sư Nga ở số nhà sáu mươi ba phố Gôbêlênốp. Đêm qua nhiệm vụ đó đã được thực hiện. Giờ đây, tôi cần một vạn phơrăng để ứng trước cho bọn tay chân của tôi. Ngài có sẵn số tiền trong người chớ?
Mười lăm phút sau, một chiếc xe mui kín chạy đến phố Xenna. Rôlinh lập tức nhảy vào xe. Trong khi chiếc xe tìm cách quay đầu lại trên đường phố hẹp này, Senga từ sau một ngôi nhà bước ra và bám vào phía sau xe.
Chiếc xe chạy theo con đường ven sông. Trên quảng trường Mácxơ, tại đúng chỗ mà khi xưa Rôbexpie cầm mấy bông lúa trong tay, thề trước bàn thờ Đấng Tối Cao là sẽ buộc nhân loại phải ký bản hòa ước vĩ đại nhằm thiết lập nền hòa bình và công lý vĩnh cửu, thì nay sừng sững ngọn tháp Épphen cao vút. Hai triệu rưỡi ngọn đèn điện sáng nhấp nháy trên bộ khung thép của ngọn tháp, chạy tứ tung thành những mũi tên, hiện thành những hình vẽ, và suốt đêm viết lên trên bầu trời Pari dòng chữ: "Hãy mua loại ôtô tiện lợi và rẻ tiền của ông Xitơrôen..."
39
Đêm ẩm ướt và ấm áp. Bên ngoài ô cửa sổ để mở - suốt từ lớp trần thấp cho đến tận sàn nhà - những chiếc lá vô hình hết rì rào lại khẽ dần đi. Căn phòng ở tầng một khách sạn "Sáo đen" tối tăm và yên tĩnh. Hương thơm ẩm ướt của công viên hòa lẫn với mùi nước hoa.
Cửa phòng kẹt mở, nghe thấy tiếng chân bước trên thảm. Một bóng người lờ mờ dừng lại giữa phòng. Y nói khẽ (bằng tiếng Nga):
- Phải quyết định đi thôi. Chỉ ba bốn mươi phút nữa là xe sẽ đến. Bà trả lời đi: đồng ý hay không nào?
Người nằm trên giường động đậy, nhưng không đáp. Y bước lại gần hơn:
- Dôia, bà phải khôn ngoan hơn mới được.
Garin cúi đầu nhìn một cách chăm chú khuôn mặt Dôia rồi ngồi xuống cuối giường.
- Hôm nay, tôi cứ suy nghĩ mãi: hóa ra tôi cần đến tiền bạc, quyền lực, danh vọng chính là để chiếm được bà. Tôi không muốn chia tay với bà và nhất định tôi sẽ không chia tay với bà đâu.
- Ồ! - Dôia nói.
- Tiếng "ồ" chẳng thể hiện được gì hết. Tôi hiểu: một phụ nữ thông minh và kiêu kỳ như bà chắc hẳn rất phẫn nộ khi bị ép buộc. Nhưng biết làm thế nào được! Nếu bà bỏ đi với Rôlinh thì tôi sẽ không chịu ngồi yên. Tôi sẽ đưa lên máy chém cả Rôlinh, cả bà và cả tôi nữa.
- Vậy ông đề nghị gì với tôi để thay cho Rôlinh? Tôi là một phụ nữ cao giá đấy.
- Tôi sẽ tặng bà vòng đai Ôlivin.
- Gì kia?
- Vòng đai Ôlivin. Hừm! Giải thích cho bà hiểu không phải đơn giản đâu. Cần phải có một buổi tối rỗi rãi và có nhiều sách chuyên môn trong tay mới được. Mà hai mươi phút nữa chúng ta phải đi rồi. Vòng đai Ôlivin - đó là khả năng thống trị thế giới. Tôi sẽ thuê gã Rôlinh của bà làm chân gác cổng - Vòng đai Ôlivin là như vậy đó. Hai năm nữa nó sẽ nằm trong tay tôi. Bà chẳng những sẽ trở thành một phụ nữ giàu có, mà phải nói là bà sẽ trở thành người phụ nữ giàu có nhất thế giới mới đúng. Cái đó thật chán ngán. Nhưng quyền lực? Bà sẽ được hưởng một quyền lực chưa từng có trên trái đất. Những phương tiện của chúng ta để đạt được quyền lực như vậy còn hoàn hảo hơn cả những phương tiện của Thành Cát Tư Hãn nữa. Bà có muốn những nghi thức tôn sùng như của Chúa Trời không? Tôi sẽ ra lệnh xây cho bà những đền đài trên khắp năm châu và trang hoàng ảnh bà bằng những chùm dây nho.
- Thật tầm thường quá!...
- Tôi không nói đùa lúc này đâu. Nếu bà muốn thì bà sẽ trở thành kẻ kế vị Chúa Trời hoặc quỷ sứ - tùy thuộc vào sở thích của bà. Bà muốn tiêu diệt bất kỳ ai cũng được, vì bà sẽ thống trị cả nhân loại kia mà. Bà Dôia ạ, một phụ nữ như bà sẽ biết cách sử dụng những kho báu huy hoàng của vòng đai Ôlivin. Tôi sẽ đề nghị một ván bài có lợi đấy. Chỉ hai năm phấn đấu nữa là tôi sẽ đặt chân được đến vòng đai Ôlivin. Bà không tin ư?...
Dôia thở một hơi ngắn. Ả ngồi dậy, giơ hai tay sửa lại mái tóc (đó là một dấu hiệu tốt).
- Trong tương lai sẽ là vòng đai Ôlivin. Còn bây giờ ông có cái gì? - Ả hỏi, miệng ngậm chiếc trâm cài đầu.
- Bây giờ là bộ máy của tôi và những khối chóp than. Bà đứng dậy đi. Ta sang phòng tôi, tôi sẽ cho bà xem bộ máy ấy.
- Hơi ít. Được, tôi sẽ sang xem. Ta đi đi.
40
Trong phòng Garin, cửa sổ có chấn song bị bịt kín và che rèm. Cạnh tường là hai chiếc vali. (Y sống ở khách sạn "Sáo đen" này đã hơn tuần lễ). Garin khóa cửa lại. Dôia ngồi chống tay, che mặt để tránh ánh sáng ngọn đèn trần. Chiếc măngtô lụa màu cỏ của ả đã nhàu nát, mái tóc chải cẩu thả, mặt lộ vẻ mệt mỏi - trông ả lại càng hấp dẫn hơn. Garin vừa mở vali vừa nhìn ả bằng cặp mắt long lanh, thâm quầng:
- Bộ máy của tôi đây - y nói và đặt lên bàn hai chiếc hòm kim loại: một chiếc hẹp, trông tựa như đoạn ống, chiếc kia bẹt, mười hai mặt, đường kính rộng gấp ba.
Y đặt hai chiếc hòm gần nhau, dùng bulông siết chặt. Y hướng miệng ống về phía lò sưởi và tháo cái nắp hình cầu ở chiếc bao mười hai mặt. Bên trong bao là một vòng đồng có lắp mười hai chiếc chén sứ.
- Đây là máy mẫu, - y vừa nói vừa lấy hòm đựng các khối chóp than ra khỏi chiếc vali thứ hai, - nó không làm việc nổi quá một tiếng đồng hồ. Cần chế tạo bộ máy bằng những vật liệu cực rắn, bền chắc gấp mười lần thế này. Nhưng nhất định là nó sẽ quá nặng, mà tôi lại phải luôn luôn di chuyển. (Y đặt các chóp than vào mười hai chén sứ trên vòng đồng). Nhìn ngoài thì bà sẽ chẳng thấy gì và chẳng hiểu gì đâu. Đây là bản vẽ, là mặt cắt theo chiều dọc bộ máy. - Y cúi người xuống chiếc ghế bành của Dôia, hít mùi hương tóc của ả, trải rộng tấm bản vẽ chỉ nhỏ bằng nửa tờ giấy viết. - Dôia ạ, bà muốn tôi cũng phải liều hy sinh hết trong ván bài của chúng ta đấy... Bà hãy nhìn vào đây... Đây là sơ đồ chính.
Thật đơn giản như hai với hai là bốn vậy. Nếu cho đến nay vẫn chưa ai chế tạo ra bộ máy này thì đó chỉ là việc thuần túy ngẫu nhiên mà thôi. Toàn bộ bí mật là ở tấm gương hình hypécbôn (A) mà hình dạng tựa như tấm gương của chiếc đèn chiếu thông thường, và ở mẩu samônít (B) cũng được làm thành hình cầu hypécbôn. Qui tắc hoạt động của các tấm gương hypécbôn như sau:
Tất cả các tia sáng rơi vào mặt trong của gương hypécbôn đều hội tụ vào một điểm, vào tâm điểm của hình hypécbôn... Cái đó thì ai cũng biết rồi. Còn bây giờ là những điều còn chưa ai biết: tôi đặt vào tâm điểm của tấm gương hình hypécbôn một hình hypécbôn thứ hai (được vẽ lộn ngược lại) - đó là một mặt hypécbôn quay, được tiện bằng samônít, một khoáng chất khó nóng chảy, nhẵn bóng đến mức lý tưởng (B) và có trữ lượng vô tận ở miền Bắc nước Nga. Vậy tình hình các tia sẽ ra sao?
Những tia sáng hội tụ ở tâm điểm gương (A) sẽ rơi vào bề mặt của hình hypécbôn (B) và hắt nó lại theo chiều song song, - nói một cách khác, hình hypécbôn (B) hội tụ tất cả các tia thành một tia duy nhất, hoặc thành một "sợi tia" có độ dày bất kỳ.
Khi xoay vặn gương hypécbôn (B) bằng vít đo vi lượng, tôi có thể tùy ý làm tăng hay giảm độ dày của "sợi tia". Việc hao tốn năng lượng của "sợi tia" khi nó đi qua không khí có thể coi là không đáng kể. Đồng thời, tôi có thể đưa "sợi tia" (thực tế là như vậy) mảnh tới mức bằng độ dày của chiếc kim.
Nghe đến đấy, Dôia đứng dậy, bẻ ngón tay răng rắc rồi lại ngồi xuống, hai tay ôm đầu gối.
- Trong những lần thí nghiệm đầu tiên, tôi lấy nguồn sáng là một vài ngọn bạch lạp thông thường. Bằng cách chỉnh gương hypécbôn (B), tôi đưa sợi tia đến độ dày của chiếc que kim đan và dễ dàng cắt đứt một tấm gỗ dày hai phân rưỡi. Tôi hiểu ngay rằng toàn bộ nhiệm vụ là tìm ra được những nguồn tia dày đặc và hết sức mạnh. Kết quả của ba năm làm việc - một công việc đã phải trả giá bằng sinh mệnh của hai người trợ thủ của tôi - là đã chế tạo ra khối chóp than này đây. Năng lượng của các khối chóp than lớn đến nỗi khi được đặt vào máy, - như bà thấy đấy - và được đốt cháy (chúng cháy chừng năm phút), thì chúng phát ra một "sợi tia" có khả năng cắt đứt một chiếc cầu sắt trong vài giây... Bà có hình dung nổi những khả năng đang mở ra trước mắt chúng ta hay không? Trong thiên nhiên, không có một thứ gì chống lại nổi sức mạnh của "sợi tia" cả... Nhà cửa, pháo đài, chiến hạm, máy bay, đất đá, vỏ trái đất - tất cả đều bị cái tia của tôi xuyên thủng, phá hủy, cắt đứt...
Garin bỗng ngừng bặt và ngẩng đầu lên, lắng nghe. Bên ngoài cửa sổ có tiếng sỏi kêu lạo xạo, ken két, và tiếng động cơ lặng dần. Y nhảy đến cửa sổ và trườn ra ngoài rèm. Dôia nhìn thấy đằng sau lớp rèm nhung đỏ sẫm đầy bụi là hình bóng bất động của Garin, rồi hình bóng đó bỗng giật bắn lên. Y lại từ ngoài rèm chui vào.
- Ba ôtô và tám người, - y thì thào, - họ đến bắt chúng ta đấy. Ôtô hình như của Rôlinh thì phải. Trong nhà trọ chỉ có chúng ta và mụ gác cổng thôi. (Y nhanh nhẹn lấy khẩu súng lục trong ngăn bàn con đặt ở đầu giường và nhét vào túi áo véttông). Tôi thì đừng hòng được chúng cho sống sót mà thoát khỏi nơi đây... - Y bỗng vui vẻ gãi gãi cánh mũi. - Nào, Dôia, bà quyết định đi, đồng ý hay không nào? Không thể có một giây phút khác như thế này đâu.
- Ông phát điên rồi, - mặt Dôia đỏ bừng lên, trông trẻ hẳn ra, - ông hãy trốn đi!...
Garin chỉ hất bộ râu lên.
- Tám người, thật là chuyện vặt, chuyện vặt, - Y nhấc bộ máy và hướng nòng về phía cửa ra vào. Rồi y vỗ vào túi mình. Khuôn mặt y bỗng hốc hác đi.
- Diêm, - y thì thào, - không có diêm...
Có lẽ y cố tình nói câu đó để thử thách Dôia. Mà cũng có lẽ trong túi y quả không có diêm thật. - việc đó quyết định đời y vào lúc này. Y nhìn Dôia như một con vật đợi chết. Ả thẫn thờ như trong cơn mê, lấy chiếc túi trên ghế bành và rút ra bao diêm. Ả chậm chạp, khó nhọc đưa cho y. Y cầm bao diêm và cảm thấy bàn tay nhỏ nhắn lạnh giá của ả.
Bên dưới, vọng đến tiếng cọt kẹt thận trọng của nhiều bước chân đang leo lên theo cầu thang xoắn ốc.
41
Một vài người dừng lại bên ngoài cửa. Nghe rõ hơi thở của họ. Garin hỏi to bằng tiếng Pháp:
- Ai đấy?
- Có điện tín, - một giọng thô bạo đáp, - mở cửa ra!...
Dôia im lặng nắm hai vai Garin, lắc đầu. Y kéo ả vào góc phòng, bắt ngồi xuống thảm. Rồi y lập tức quay đến chỗ đặt bộ máy và nói to:
- Cứ nhét bức điện vào dưới khe cửa ấy.
- Nếu đã bảo là phải mở cửa thì mở ra, - vẫn cái giọng lúc nãy gầm lên.
Một giọng khác thận trọng hỏi:
- Có một phụ nữ trong ấy không?
- Có.
- Hãy trao bà ta cho chúng tôi, chúng tôi sẽ để anh được yên.
- Ta xin báo trước, - Garin dữ tợn nói, - nếu các anh không cút khỏi đây ngay thì một phút nữa các anh sẽ mất mạng hết đấy.
- Ô la la!... Ô hô hô!... Hứ hứ!... - nhiều giọng nói gào lên, hí lên, cánh cửa bị thúc mạnh, nắm đấm cửa bằng sứ bị xoay tròn, mấy mảnh vữa rơi xuống từ khung cửa. Dôia không rời mắt khỏi khuôn mặt Garin. Y tái nhợt đi, cử động của y nhanh nhẹn và tự tin. Ngồi xổm xuống, y vặn chiếc vít đo vi lượng trong máy. Y rút vài que diêm đặt lên bàn cạnh chiếc hộp. Y cầm lấy khẩu súng lục và vươn thẳng người lên, chờ đợi. Cửa ra vào kêu răng rắc. Đột nhiên, một cú nện mạnh làm kính cửa sổ vỡ tan, rơi xuống, tấm màn che rung rinh. Garin lập tức bắn một phát về phía cửa sổ. Y ngồi thụp xuống, bật diêm, đưa vào máy rồi đóng sập nắp hình cầu lại.
Sau phát súng của y, không khí yên tĩnh chỉ kéo dài chừng một giây. Ngay lập tức, cả cửa sổ lẫn cửa ra vào đều bị tiến công cùng một lúc. Cửa ra vào bị một vật nặng gì đó thúc mạnh, vụn gỗ bay lả tả. Rèm cửa sổ xoắn lại và rơi xuống cùng gờ tường.
- Gaxtông! - Dôia rú lên.
Mỏ Vịt mồm ngậm dao, đang leo qua dãy chắn song sắt ở cửa sổ. Cửa ra vào vẫn còn đứng vững. Garin mặt trắng bệch, vặn chiếc vít đo vi lượng, tay trái run rẩy cầm khẩu súng lục. Trong máy, ngọn lửa phần phật, kêu xèo xèo. Vòng ánh sáng nhỏ trên tường (đối diện với nòng súng) thu lần lại, giấy bồi tường bốc khói. Gaxtông liếc nhìn khẩu súng lục, di chuyển dọc theo tường, cả người thu lại, chuẩn bị chồm lên. Gã cầm dao trong tay, lưỡi dao quay về phía mình, theo kiểu Tây Ban Nha. Những khuôn mặt đầy râu ria cũng nhô vào qua những khe vỡ của cửa ra vào. Vòm ánh sáng nhỏ đã trở thành một chấm sáng chói mắt. - Garin ôm bộ máy bằng cả hai tay và chĩa nòng về phía Mỏ Vịt...
Dôia thấy Gaxtông bỗng há miệng ra không phải để kêu mà cũng không phải để hớp lấy không khí. Một dải khói chạy ngang qua ngực gã, hai tay gã định giơ lên nhưng buông ngay xuống - gã lăn kềnh xuống thảm. Đầu gã cùng hai vai đứt khỏi phần thân dưới như một khúc bánh mì.
Garin quay bộ máy về phía cửa ra vào. Tìm đường đi, "sợi tia" cắt đứt các đường dây điện, bóng đèn trên trần tắt phụt. Tia sáng lóa mắt, mảnh và thẳng như chiếc kim, từ nòng bộ máy chiếu ra, chạm vào phần trên cửa - những mảnh gỗ rơi lả tả. Nó trườn xuống thấp hơn. Một tiếng gào rú ngắn vang lên như khi con mèo bị đè bẹp. Trong bóng tối, một người nào đó nghiêng đi rồi nhẹ nhàng đổ sụp xuống sàn. Tia sáng nhảy nhót ở độ cao chừng sáu mươi phân. Mùi thịt cháy bốc lên nồng nặc. Đột nhiên, mọi vật lặng như tờ, chỉ nghe thấy tiếng lửa reo khe khẽ trong máy.
Garin húng hắng ho rồi nói bằng một giọng gượng gạo, khàn khàn:
- Thế là xong.
Bên ngoài ô cửa sổ vỡ tung, một ngọn gió nhẹ lướt đến hàng cây đoạn vô hình, chúng xào xạc như ngái ngủ. Từ trong bóng tối ở phía dưới, nơi mấy chiếc xe lặng lẽ đỗ, có tiếng người hét vang lên bằng tiếng Nga: - Garin, anh còn sống chứ? - Garin xuất hiện ở cửa sổ. - Anh hãy thận trọng, tôi là Senga đây. Anh nhớ giao ước của chúng ta chứ? Tôi đang giữ chiếc xe của Rôlinh. Phải chạy trốn ngay. Hãy cứu lấy bộ máy. Tôi đợi anh...
42
Buổi tối, như lệ thường vào những ngày chủ nhật, giáo sư Râykhe chơi cờ tại nhà mình, trên dãy bao lơn nhỏ không có mái che ở tầng bốn. Ông chơi với Henrích Vônphơ, người học trò yêu của ông. Họ vừa hút thuốc vừa chăm chú theo dõi ván cờ. Ánh hoàng hôn đã tắt từ lâu ở cuối dãy phố dài. Bầu không khí đen sẫm thật ngột ngạt. Cành dây trường xuân không hề động đậy, quảng trường trải nhựa đường nằm im ắng, vắng vẻ.
Giáo sư khó nhọc tìm nước đi. Ông giơ bàn tay rắn rỏi với móng tay vàng vàng lên, nhưng không động đến quân cờ. Ông rút điếu xì gà hút dở khỏi miệng.
- Đúng, phải suy nghĩ đã.
- Giáo sư cứ nghĩ đi, - Henrích nói.
Khuôn mặt đẹp của anh với vầng trán rộng, chiếc cằm hằn nét và cái mũi ngắn, thẳng, toát ra vẻ bình lặng của một bộ máy hùng mạnh. Giáo sư sôi nổi hơn (ông thuộc thế hệ cũ) - bộ râu ánh màu thép của ông rối bù, trên vầng trán nhăn nheo của ông hiện lên những vệt đỏ.
Chiếc đèn cao dưới chụp đèn rộng, sặc sỡ, soi sáng khuôn mặt họ. Vài con bướm đêm còi cọc, xanh xanh, bay nhộn nhạo quanh đèn, đậu lên tấm khăn bàn mới là, giương râu lên, chăm chú nhìn bằng đôi mắt nhỏ như hai chấm, và chắc chắn không hiểu được rằng chúng đang có vinh dự chứng kiến hai ông thần giải trí bằng trò chơi của những kẻ trần tục. Đồng hồ trong phòng điểm mười giờ.
Cụ bà Râykhe, mẹ của giáo sư, một cụ già gọn gàng, sạch sẽ, ngồi bất động. Cụ không còn đọc sách hay đan áo được nữa dưới ánh sáng nhân tạo. Xa xa, nơi những ô cửa sổ của một tòa nhà cao sáng rực trong đêm đen, có thể cảm thấy những khoảng không rộng lớn của thành phố Béclin xây bằng đá. Nếu như không có con trai ngồi bên bàn cờ vua, nếu không có ánh sáng êm ả của chiếc chụp đèn, nếu không có lũ bướm đêm xanh xanh trên tấm khăn trải bàn thì nỗi khủng khiếp đã lắng sâu từ lâu trong tâm hồn cụ chắc hẳn đã trào lên như đã từng trào lên nhiều lần trong những năm qua, và làm khô héo đi khuôn mặt nhợt nhạt của cụ. Đấy là nỗi kinh hoàng trước hàng triệu kẻ đang tràn đến thành phố này. Tên chúng không phải là Phơrít, Giôhan, Henrích, Ốttô, và chúng đông vô kể. Đứa nào cũng hệt như nhau - râu ria lởm chởm, đeo yếm giấy phủ bụi sắt và chì, - cứ tối tối là chúng lại kéo ra nườm nượp các phố xá. Chúng ham muốn nhiều thứ, hàm bạnh ra.
Cụ nhớ lại thời kỳ hạnh phúc, khi chồng chưa cưới của cụ là Ốttô Râykhe từ Xêđăng [1] trở về trong đội quân chiến thắng hoàng đế Pháp. Ốttô khắp người thấm đẫm mùi lính, râu ria xồm xoàm, giọng nói oang oang. Cô gái Râykhe ra đón người yêu ở ngoại ô thành phố. Cô mặc chiếc áo dài màu xanh, thắt nơ, cài hoa. Nước Đức đang bay đến các chiến thắng, bay đến hạnh phúc cùng Ốttô vui tươi với niềm kiêu hãnh và hy vọng. Chẳng mấy chốc cả thế giới đã bị chinh phục...
Cuộc đời cụ đã qua rồi... Cuộc chiến tranh thứ hai cũng đã đến và cũng đã qua đi rồi. Họ phải chật vật lắm mới rút được chân khỏi bãi bùn lầy, nơi hàng triệu xác người đang thối rữa. Và rồi, lũ người kia nườm nượp kéo đến. Cứ nhìn vào mắt bất cứ tên nào dưới chiếc mũ cát-két mà xem. Đấy không phải là cặp mắt Đức. Ánh mắt chúng gan lì, buồn bã, khó hiểu, xa lạ. Cụ Râykhe cảm thấy kinh hoàng.
Ngoài hàng hiên xuất hiện Khơlưnốp. Anh diện bộ comlê màu xám sạch sẽ thường mặc trong ngày chủ nhật.
Khơlưnốp nghiêng mình chào cụ Râykhe, chúc cụ một buổi tối tốt lành, rồi ngồi xuống cạnh giáo sư. Giáo sư hiền hậu nhíu mày và giễu cợt nháy mắt về phía bàn cờ. Trên bàn có những tạp chí và nhiều báo nước ngoài. Cũng như bất kỳ người trí thức nào ở Đức, giáo sư chẳng lấy gì làm giàu có. Ông chỉ có thể tỏ lòng hiếu khách bằng ánh sáng dịu mát của chiếc đèn trên tấm khăn trải bàn mới là, bằng điếu xì gà giá hai hào và cuộc chuyện trò có lẽ còn giá trị hơn bữa ăn sang trọng có rượu sâm banh.
Vào những ngày làm việc, suốt từ bảy giờ sáng đến bảy giờ tối, giáo sư thường lặng lẽ, bận bịu và nghiêm nghị. Nhưng vào ngày chủ nhật, ông "sẵn lòng cùng bè bạn đi đến vương quốc của trí tưởng tượng". Ông thích nói "từ đầu này đến đầu kia điếu xì gà".
- Đứng, phải nghĩ kỹ đã, - ông lại nói và nhả khói mù mịt.
- Giáo sư cứ nghĩ đi, - Henrích khô khan và lịch thiệp trả lời.
Khơlưnốp mở rộng tờ báo Không khoan nhượng xuất bản ở Pari và trên trang nhất, dưới đầu đề "Tội ác bí hiểm ở Vinlơ Đavrê", anh nhìn thấy bức ảnh chụp bảy người bị cắt nhỏ ra. "Đúng là cắt nhỏ ra thật", - anh thầm nghĩ. Nhưng những gì anh đọc thấy đã buộc anh phải ngẫm nghĩ:
"... Có thể phỏng đoán rằng kẻ gây ra tội ác này đã dùng một vũ khí nào đấy mà cho tới nay vẫn chưa ai biết, hoặc là một sợi kim loại nóng đỏ, hoặc là một tia nhiệt có cường độ cực lớn. Chúng tôi đã xác định được quốc tịch và hình dáng bề ngoài của hung thủ: Chắc chắn là một người Nga (tiếp theo là đoạn mô tả hình dáng bên ngoài theo lời của bà chủ nhà trọ). Vào đêm đó, ngoài y ra còn có một phụ nữ trong phòng y. Nhưng diễn biến về sau thì hoàn toàn bí ẩn. Có lẽ, bức màn bí mật sẽ được vén lên chút ít nhờ một biến cố đẫm máu khác phát hiện thấy trong khu rừng Phôngtenơblô. Tại đấy, cách đường cái chừng ba chục mét, đã tìm ra một người lạ mặt nằm bất tỉnh. Trên thân thẻ người này có bốn vết thương do hỏa khí gây nên. Giấy tờ và tất cả những gì có thể giúp cho việc xác định người này đều bị đánh cắp hết. Chắc chắn là nạn nhân đã bị quăng từ ô tô xuống. Cho tới nay vẫn chưa làm nạn nhân hồi tỉnh được..."
43
- Chiếu! - giáo sư thốt lên, vung quân mã vừa ăn được - Chiếu và chiếu hết! Henrích, anh đã bị đánh bại, đã bị chiếm đóng, đã phải quì gối rồi. Anh sẽ phải trả chiến phí trong sáu mươi sáu năm. Luật của chính sách đế quốc chủ nghĩa cao cả là như vậy đó.
- Phục thù chứ, thưa giáo sư? - Henrích hỏi.
- Ồ không, chúng tôi sẽ tận hưởng mọi ưu thế của kẻ chiến thắng đã.
Giáo sư vỗ vào đầu gối Khơlưnốp:
- Anh đọc được tin gì trong báo thế, anh thiếu niên Bônsêvích không bao giờ chịu dung hòa của tôi? Bảy người Pháp bị cắt nhỏ chứ gì? Biết làm thế nào được - những kẻ chiến thắng bao giờ cũng thích làm những chuyện thái quá. Lịch sử luôn luôn có khuynh hướng tiến tới sự cân bằng. Bi quan - đấy là thứ mà những kẻ chiến thắng thường lôi về nhà mình cùng những của cải cướp bóc được... Chúng bắt đầu ăn quá nhiều chất mỡ. Dạ dày chúng không kham nổi mỡ và làm máu bị đầu độc bằng những chất độc ghê tởm. Chúng cắt nhỏ người ra, chúng treo cổ lên bằng dây đeo quần, chúng nhảy từ trên cầu xuống. Chúng mất dần tình yêu cuộc sống. Lạc quan - đấy là thứ còn lại ở kẻ chiến bại thay cho những của cải bị cướp đoạt. Tính chất tuyệt vời của ý chí con người là tin rằng mọi thứ đều sẽ tốt đẹp hơn trong cái thế giới tốt đẹp nhất trong các thế giới này. Phải nhổ tận rễ sự bi quan mới được. Tôi có đọc Lênin của anh, anh bạn thân mến ạ... Đấy là một người lạc quan vĩ đại. Tôi kính trọng Lênin của anh.
- Hôm nay giáo sư quả phấn chấn đấy, - Henrích rầu rĩ nói.
- Anh có biết tại sao không? - Giáo sư ngả người trong chiếc ghế bành đan, cằm ông đầy những nếp nhăn, mắt ông nhìn vui vẻ, trẻ trung dưới hàng lông mày. - Tôi đã thực hiện được một phát minh hết sức lý thú... Tôi đã nhận được vài bản tin, đã đối chiếu một vài số liệu và bất ngờ đi đến kết luận kỳ lạ... Nếu như chính phủ Đức không phải là một kẻ phiêu lưu, nếu như tôi tin rằng phát minh của tôi không rơi vào tay bọn bịp bợm và kẻ cướp thì có lẽ tôi sẽ công bố phát minh ấy... Nhưng không, cứ yên lặng là hơn...
- Tôi hy vọng là với chúng tôi thì giáo sư có thể chia sẻ ý kiến được, - Henrích nói.
Giáo sư ranh mãnh nháy mắt với anh:
- Chẳng hạn như anh, anh sẽ nói gì nếu như tôi giao cho chính phủ Đức lương thiện... Anh nghe thấy tôi nhấn mạnh chữ "lương thiện" chứ, tôi đặt vào đấy một ý nghĩa đặc biệt... - nếu như tôi giao cho họ một trữ lượng vàng vô tận?
- Vàng ấy từ đâu, thưa giáo sư? - Henrích hỏi.
- Tất nhiên là từ đất rồi...
- Đất ở đâu ạ?
- Cái đó không quan trọng. Một điểm bất kỳ nào trên trái đất... Mặc dù vàng sẽ làm cho anh, tôi, tất cả người Đức đều đâm giàu có... Nhưng rất có thể chúng ta sẽ trở nên nghèo hơn nữa... Chỉ có một người thôi, - ông quay mái đầu bạc như bờm sư tử về phía Khơlưnốp, - một người đồng bào của anh đã đề nghị sử dụng số vàng đó một cách thật sự... Anh hiểu chứ?
Khơlưnốp mỉm cười, gật đầu.
- Thưa giáo sư, tôi đã quen nghe giáo sư một cách nghiêm chỉnh rồi, - Henrích nói.
- Tôi sẽ cố nghiêm chỉnh. Ở thành phố Mátxcơva bên họ, mùa đông giá lạnh đến ba mươi độ âm, nước té từ tầng ba khi rời đến hè phố thì đã thành những hạt băng rồi. Trái đất bay trong khoảng không giữa các hành tinh đã được mười, mười lăm tỷ năm. Trong khoảng thời gian dài như vậy, nó dứt khoát phải nguội đi, có đúng thế không? Tôi khẳng định là trái đất đã nguội đi từ lâu lắm rồi, bằng cách bức xạ nó đã trao toàn bộ nhiệt của mình cho khoảng không giữa các hành tinh rồi. Chắc các anh sẽ hỏi: thế còn núi lửa, dung nham nóng chảy, những suối nóng phun thì sao? Giữa vỏ trái đất rắn, được mặt trời sưởi ấm yếu ớt, và toàn bộ khối bên trong trái đất có một vòng đai kim loại nóng chảy được gọi là vòng đai olivin. Nó xuất hiện do sự phân rã nguyên tử liên tục của khối chất trong lòng trái đất. Khối chất này là một quả cầu có nhiệt độ bằng khoảng không giữa các hành tinh, tức là hai trăm bảy mươi ba độ âm. Sản phẩm của sự phân rã này - vòng đai Ôlivin, chính là lớp đá Ôlivin, thủy ngân và vàng nằm trong trạng thái lỏng. Theo nhiều tài liệu thì lớp này ở không sâu lắm, chỉ cách mặt đất từ một nghìn năm trăm đến ba nghìn mét. Có thể khoan một lỗ ở trung tâm Béclin, và vàng hóa lỏng sẽ tự phun lên như dầu hỏa từ lòng vòng đai ôvilin...
- Rất lôgích, rất hấp dẫn, nhưng khó mà tin nổi, - Henrích im lặng một lát rồi nói. - Với những công cụ hiện nay mà khoan sâu tới mức như vậy thì thật không thể làm nổi...
44
Khơlưnốp đặt tay lên trang báo mở rộng của Không khoan nhượng.
- Thưa giáo sư, bức ảnh này làm tôi nhớ lại một câu chuyện trên máy bay, khi tôi bay đến Béclin... Nhiệm vụ thâm nhập đến những nguyên tố đang phân hủy của lòng trái đất không đến nỗi huyễn hoặc như vậy đâu.
- Cái đó có liên quan gì đến những người Pháp bị cắt nhỏ này? - giáo sư hỏi và lại hít một hơi xì gà.
- Vụ giết người ở Vinlơ Đavrê thực hiện bằng tia nhiệt.
Nghe thấy câu ấy, Henrích xích lại gần bàn, khuôn mặt lạnh lùng của anh lộ vẻ cảnh giác.
- Chả, lại những tia này! - giáo sư nhăn mặt như nếm phải của chua. - Một chuyện nhảm nhí, bịp bợm, một tin vịt do bộ chiến tranh Anh tung ra.
- Bộ máy ấy do một người Nga chế tạo ra, tôi có biết người này, - Khơlưnốp trả lời. - Đó là một nhà sáng chế tài năng và một tên tội phạm cỡ lớn.
Khơlưnốp kể lại tất cả những gì anh biết về Garin: về những công việc của y tại trường đại học Bách khoa, về những tội ác của y trên đảo Crextốpxki, về những vật lạ lùng tìm thấy trong tầng hầm ngôi nhà nghỉ ngoại ô, về bức điện kêu gọi Senga đến Pari, về cuộc săn đuổi bộ máy của Garin mà hiện nay chắc chắn đang diễn ra ráo riết.
- Bằng chứng đây, - Khơlưnốp chỉ bức ảnh. - Đây là tác phẩm của Garin.
Henrích cau có xem kỹ bức ảnh. Giáo sư bối rối nói:
- Anh cho rằng có thể dùng các tia nhiệt để khoan trái đất ư? Tuy rằng... ở nhiệt độ ba nghìn độ thì cả đất sét lẫn đá granit đều sẽ hóa lỏng hết. Rất đáng chú ý, rất đáng chú ý đấy... Liệu có thể đánh điện đến nơi nào đó cho Garin được không?... Hừm! Nếu kết hợp việc khoan với sự làm mát nhân tạo và lắp những máy xúc chạy bằng điện để múc đất đá lên thì có thể khoan sâu được... Anh bạn thân mến, anh làm tôi hết sức quan tâm đấy...
Trái với thường lệ, giáo sư đi đi lại lại ngoài hiên cho tới hai giờ đêm. Ông hút thuốc liên miên và phát triển nhiều kế hoạch, kế hoạch sau kỳ lạ hơn kế hoạch trước.
45
Thường thường, khi ra khỏi nhà giáo sư, Henrích chia tay với Khơlưnốp trên quảng trường. Nhưng lần này anh đi tiếp cùng Khơlưnốp, tay gõ gõ chiếc can, khuôn mặt cau lại, cúi xuống.
- Theo anh thì kỹ sư Garin đã trốn mất cùng bộ máy sau câu chuyện ở Vinlơ Đavrê phải không? - Henrích hỏi.
- Đúng thế.
- Còn người lạ mặt máu me bê bết nằm bất tỉnh ở rừng Phôngtenơblô không thể là Garin chứ?
- Anh muốn nói rằng Senga đã chiếm đoạt được bộ máy?...
- Chính thế...
- Tôi cũng đã nghĩ đến khả năng ấy... Đúng, nếu được như vậy thì tốt quá...
- Để xem xem đã, - Henrích ngẩng đầu lên, nói với vẻ giễu cợt.
Khơlưnốp đưa mắt nhìn nhanh anh ta: cả hai dừng lại. Từ xa, ngọn đèn đường chiếu sáng khuôn mặt Henrích: nụ cười nhếch mép độc ác, cặp mắt lạnh lùng, cái cằm bướng bỉnh. Khơlưnốp nói:
- Dù sao thì tất cả những chuyện đó mới là phỏng đoán thôi, chúng ta tranh cãi bây giờ chẳng để làm gì cả.
- Tôi hiểu, tôi hiểu.
- Anh Henrích ạ, tôi không định lắt léo với anh, nhưng tôi khẳng định rằng bộ máy ấy cần ở trong tay Liên Xô. Chỉ riêng mong muốn ấy thôi đã làm anh thành kẻ thù của tôi rồi. Xin nói thật, anh Henrích thân mến ạ, anh hiểu rất mơ hồ về những gì có lợi hay có hại cho tổ quốc anh.
- Anh cố xúc phạm tôi chắc?
- Vớ vẩn! Tuy rằng đúng như thế đấy, - Khơlưnốp nói. - Sau khi hai nước chúng ta đã giết hại của nhau chừng bảy triệu người [2], chẳng lẽ lại còn có thể mếch lòng vì những lời lẽ nữa hay sao?... Anh là người Đức từ đầu đến chân, là bộ binh bọc thép, là kẻ sản xuất máy móc, theo tôi thì dây thần kinh của anh cũng có thành phần khác chúng tôi. Anh nghe đây, anh Henrích ạ, nếu bộ máy của Garin rơi vào tay những kẻ như anh thì không biết anh sẽ làm những chuyện bậy bạ gì?...
- Nước Đức sẽ không bao giờ cam chịu nhục nhã nữa.
Họ đã đến gần ngôi nhà có căn phòng Khơlưnốp thuê ở tầng một. Hai bên lặng lẽ chia tay nhau. Khơlưnốp đi vào cổng. Henrích đứng yên, chậm rãi nhai điếu xì gà đã tắt. Đột nhiên, cửa sổ ở tầng một mở toang và Khơlưnốp xúc động thò đầu ra:
- A, anh vẫn còn ở đấy ư?... May quá. Henrích ạ, tôi vừa nhận được bức điện từ Pari, của Senga... Anh nghe nhé: "Hung thủ đã trốn thoát. Tôi bị thương, còn lâu mới dậy được. Mối nguy hiểm ghê ghớm, chưa từng có, đang đe dọa thế giới. Cần anh đến ngay"
- Tôi sẽ đi với anh, - Henrích nói.
[1] Xêđăng là một thành phố trên sông Mơdơ, ở miền Đông - Bắc nước Pháp… Gần thành phố này, vào những ngày 1 và 2-9-1870 đã diễn ra trận giao chiến giữa quân đội Pháp và quân đội Đức bao vây xung quanh. Đội quân Pháp đầu hàng theo lệnh của Napôlêông III có mặt trong đội quân này. Thất bại Xêđăng đã dẫn đến việc sụp đổ nền Đế chính thứ hai và việc tuyên bố thành lập nền cộng hòa ở Pháp. (Chú thích của nguyên bản).
[2] Đây là trong đại chiến thế giới lần thứ nhất, (1914 - 1918) Đức và Nga tham chiến ở hai phe đối địch nhau. Kết quả cuộc chiến tranh là người Đức bại trận, phải đầu hàng một cách nhục nhã - N. D
46
Trên tấm rèm trắng lay động, những bóng lá cây chạy đi chạy lại. Bên ngoài rèm, vang lên không dứt tiếng nước róc rách. Đấy là tiếng nước phun ra khắp phía từ những đường ống di chuyển được đặt trên bãi cỏ xanh của vườn cây trong bệnh viện và tiếng nhỏ giọt xuống từ đám lá cây ngô đồng ngay trước cửa sổ.
Senga thiu thiu ngủ trong căn phòng cao, quét vôi trắng, được ánh sáng chiếu qua tấm rèm.
Từ xa vọng lại tiếng ồn ào của Pari. Còn gần đều là tiếng lá cây xào xạc, tiếng chim hót và tiếng nước róc rách đơn điệu.
Thỉnh thoảng, ngay bên cạnh lại vang lên tiếng ô tô gầm rú hoặc tiếng bước chân trong hành lang - Senga lập tức mở mắt ra nhìn chằm chằm đầy lo lắng về phía cửa. Anh không thể nhúc nhích nổi. Cả hai tay anh bị bó chặt thạch cao, ngực và đầu quấn dây băng. Để tự vệ, anh chỉ còn đôi mắt. Và những âm thanh êm dịu từ ngoài vườn vọng vào lại ru anh trong giấc ngủ.
Người nữ y tá thuộc dòng tu Cácmêlita mặc toàn đồ trắng đánh thức anh dậy, đôi tay đầy đặn của cô thận trọng đưa tách nước trà bằng sứ lên môi anh. Khi cô ta bước ra, còn vương lại mùi tinh dầu lavanda. [1]
Lại một ngày trôi qua chập chờn giữa giấc ngủ và nỗi lo lắng. Đấy là ngày thứ bảy sau khi người ta tìm thấy Senga nằm bất tỉnh và máu me bê bết trong khu rừng Phôngtenơblô. Anh đã hai lần bị viên dự thẩm lấy lời khai. Anh đã khai như sau:
- Lúc mười hai giờ đêm, tôi bị hai người tiến công. Tôi chống trả bằng gậy và bằng nắm đấm. Tôi bị bắn bốn phát đạn và không nhớ gì nữa.
- Anh có nhìn rõ mặt những kẻ tiến công anh không?
- Chúng bịt mặt che kín nửa khuôn mặt phía dưới.
- Anh cũng tự vệ bằng gậy chứ?
- Đó chỉ là cành khô tôi nhặt được trong rừng.
- Anh đi vào rừng Phôngtenơblô muộn như vậy để làm gì?
- Tôi đi dạo ngắm nhìn lâu đài, lúc trở về theo đường rừng thì bị lạc.
- Anh giải thích thế nào việc tìm thấy những vết xe còn mới gần chỗ anh bị mưu sát.
- Thế có nghĩa là hung thủ đã đi xe đến chỗ ấy.
- Để cướp bóc anh? Hay để giết anh?
- Theo tôi thì chúng không định cướp bóc tôi mà cũng chẳng định giết tôi. Không một ai ở Pari biết tôi hết. Tôi không làm việc trong sứ quán. Tôi chẳng thực hiện một sứ mệnh chính trị nào cả. Tôi đem theo rất ít tiền.
- Có lẽ người mà hung thủ chờ đợi không phải là anh chăng? Có lẽ khi chúng đứng đợi cạnh cây sồi kép trên quãng rừng thưa, một tên hút thuốc, còn tên kia thì đánh rơi cái khuy cài măng sét có đính viên ngọc quí chăng?
Chắc hẳn, đó là những thanh niên thượng lưu bị vét nhẵn túi trong trường đua hoặc trong sòng bạc. Họ tìm cơ hội cứu vãn tình thế. Ở Phôngtenơblô rất có thể gặp những người trong túi chặt căng những tờ nghìn phơrăng.
Trong cuộc lấy lời khai thứ hai, khi viên dự thẩm đưa ra bản sao bức điện gửi đến Béclin cho Khơlưnốp (do cô y tá thuộc dòng tu Cácmêlita chuyển cho ông ta), Senga trả lời:
- Đó là mật mã. Nó có liên quan đến việc truy lùng một tên tội phạm nguy hiểm đã trốn khỏi nước Nga.
- Anh có thể nói rõ hơn với tôi được không?
- Không. Đấy không phải là bí mật của tôi.
Senga trả lời các câu hỏi một cách chính xác, rành mạch, anh nhìn thẳng vào mắt viên dự thẩm với vẻ thành thật và thậm chí còn có vẻ hơi đần nữa. Viên dự thẩm chỉ còn cách tin vào sự chân thành của anh.
Nhưng mối nguy hiểm vẫn chưa qua. Mối nguy hiểm tiềm tàng trong những cột báo đầy ắp các chi tiết về "biến cố khủng khiếp trong khu rừng Phôngtenơblô", mối nguy hiểm lẩn quất bên kia cửa, bên kia tấm rèm trắng bị gió thổi rung rinh, và trong cái tách trà bằng sứ được đôi tay đầy đặn của cô y tá dòng tu Cácmêlita đưa đến tận môi Senga.
Chỉ có một lối thoát: làm sao cởi bỏ được thạch cao và bông băng càng sớm càng tốt. Và Senga liền nằm im, bất động, trong trạng thái nửa mơ nửa tỉnh.
47
Trong lúc nửa mơ nửa tỉnh, anh nhớ lại câu chuyện đã xảy ra với anh.
Đèn pha tắt. Xe chạy chậm lại... Garin thò đầu ra khỏi xe và thì thào:
- Senga, quành đi. Sắp đến quãng rừng thưa rồi. Ở đấy...
Chiếc xe nặng nề lắc lư trên con đường nhỏ trong rừng, len lỏi giữa các hàng cây, rẽ ngoặt rồi đỗ lại.
Quãng rừng thưa uốn lượn dưới ánh sao. Những khối đá nhấp nhô lờ mờ dưới bóng cây.
Xe tắt máy. Mùi cỏ bốc lên hăng hắc. Con suối mơ màng róc rách chảy, bên trên là màn sương mù như một tấm vải mờ trôi lượn lờ vào sâu trong quãng rừng thưa.
Garin nhảy xuống lớp cỏ ẩm ướt và đưa tay ra. Dôia, mũ chụp sâu vào đầu, bước ra khỏi xe, ngước nhìn các ngôi sao rồi nhún vai.
- Nào, xuống xe đi, - Garin sẵng giọng nói.
Khi ấy, Rôlinh nhô đầu ra trước, bước xuống. Dưới bóng chiếc mũ, hàm răng vàng của y sáng lóe lên.
Nước róc rách giữa các tảng đá. Rôlinh rút tay ra khỏi túi (tay y rõ ràng đã nắm chặt lại từ lâu) và khàn khàn lên tiếng:
- Nếu ở đây sắp sửa thi hành án tử hình thì tôi phản kháng. Tôi phản kháng nhân danh pháp luật. Nhân danh lòng nhân đạo... Tôi phản kháng với tư cách một người Mỹ... một tín đồ Thiên Chúa giáo... Tôi đề nghị bất kỳ một món tiền chuộc nào...
Dôia đứng quay lưng về phía y. Garin ghê tởm nói:
- Nếu định giết ông thì tôi đã có thể làm ngay lúc nãy rồi...
- Ông đồng ý nhận tiền chuộc chứ? - Rôlinh hỏi nhanh.
- Không.
- Hay ông đòi tôi phải tham gia vào... - hai má Rôlinh giật giật, -... vào những công việc lạ lùng của ông?
- Đúng vậy. Ông phải nhớ chứ... Trên đại lộ Mandéc... Tôi đã nói với ông rồi...
- Được, Rôlinh trả lời, - sáng mai tôi sẽ tiếp ông.. Tôi phải suy nghĩ lần nữa về những đề nghị của ông...
Dôia khẽ nói:
- Rôlinh, ông đừng nói những câu ngu ngốc nữa.
- Thưa bà!... - Rôlinh chồm dậy, chiếc mũ chụp xuống tận mũi y, - Thưa bà... Bà càn rỡ quá lắm. Bà là quân phản bội... là tòng phạm những vụ giết người...
Dôia đáp, vẫn khẽ như trước:
- Quỷ tha ma bắt ông đi. Ông hãy nói chuyện với ông Garin ấy.
Rôlinh và Garin liền đi đến cây sồi kép. Đèn pin bật sáng lên ở đấy. Hai cái đầu cúi xuống. Trong vài giây chỉ nghe tiếng suối chảy róc rách giữa các tảng đá.
- Nhưng chúng ta đâu chỉ có ba người mà có bốn người kia... Ở đây có người chứng kiến, - giọng gay gắt của Rôlinh vang đến tai Senga.
- Ai ở đây? - Senga rùng mình nói trong cơn mê. Hai mắt anh mở to ra.
Trước mặt anh, Khơlưnốp đang ngồi trên chiếc ghế màu trắng, mũ đặt trên đầu gối.
48
- Tôi không thể dự đoán được diễn biến sự việc... Chẳng có lúc nào mà nghĩ nữa, - Senga kể cho Khơlưnốp. - Tôi đã xử sự thật ngu ngốc.
- Sai lầm của anh là ở chỗ anh đã đưa Rôlinh lên xe, - Khơlưnốp nhận xét.
- Tôi có đưa hắn lên đâu... Khi trong nhà trọ người ta bắt đầu bắn giết nhau thì Rôlinh ngồi thu lu trong xe, giữ chặt hai khẩucôn... Mà tôi thì không có vũ khí. Tôi trèo lên bao lơn và chứng kiến cảnh Garin tiêu diệt lũ cướp kia... Tôi báo cho Rôlinh biết chuyện ấy... Y phát hoảng, rên hừ hừ và dứt khoát không chịu ra khỏi xe... Sau đó, y định bắn Dôia. Nhưng tôi với Garin đã bẻ quặt hai tay y lại... Không còn thì giờ đâu mà trùng trình nữa, tôi nhảy lên xe, nắm lấy tay lái và cho xe chạy luôn...
- Khi anh đã đến quãng rừng thưa và chúng thương lượng với nhau cạnh cây sồi, chẳng lẽ anh không hiểu ư?
- Tôi hiểu là tôi lâm vào thế bí rồi. Nhưng biết làm thế nào được? Chạy trốn ư? Anh biết đấy, tôi là nhà thể thao kia mà... Trong kế hoạch của tôi đã đâu vào đó cả... Trong túi tôi là tấm hộ chiếu giả cho Garin với chín dấu thị thực... Bộ máy của hắn lại trong tầm tay, ngay trong xe... Trong hoàn cảnh như vậy, liệu tôi có quyền nghĩ nhiều đến tính mạng của mình không?
- Thôi được... Chúng đã cấu kết với nhau.
- Rolinh ký một tờ giấy gì đó dưới gốc cây - tôi thấy rõ như vậy. Sau đó, tôi nghe thấy hắn nói về nhân chứng thứ tư, tức là về tôi. Tôi liền khẽ bảo Dôia: "Bà Dôia ạ, vừa rồi, khi xe chúng ta chạy trước mặt viên cảnh sát, y đã nhận ra được số xe. Nếu bây giờ tôi bị giết thì đến sáng các người sẽ bị cùm tay hết". Anh có biết mụ ta trả lời tôi thế nào không? Mụ ta gớm thật đấy. Mụ ta không nhìn tôi, nói qua vai "Được, tôi sẽ lưu ý đến việc đó". Thế đấy. Rồi Garin và Rôlinh trở lại xe. Tôi thản nhiên như không có gì xảy ra hết. Người đầu tiên bước lên xe là Dôia. Mụ ta thò đầu ra, nói một câu gì đó bằng tiếng Anh. Garin bảo tôi: "Đồng chí Senga, bây giờ đồng chí hãy cho xe phóng hết tốc lực theo đường cái về phía Tây". Tôi ngồi xuống trước bộ tản nhiệt... Sai lầm của tôi là ở đây. Chúng chỉ đợi có giây phút này. Nếu xe đang chạy thì chắc chắn chúng sẽ không dám làm gì tôi, sẽ e ngại... Được, tôi cho xe nổ máy... Đột nhiên tôi bị giáng vào đầu, vào giữa đỉnh đầu - tôi cảm thấy dường như cả một ngôi nhà đổ sụp xuống đầu tôi, xương kêu răng rắc, người như bốc cháy, tôi ngã sấp mặt xuống... Tôi chỉ nhìn thấy một thứ, đó là bộ mặt méo xệch đi của Rôlinh chợt thoáng qua. Đồ khốn kiếp! Hắn nã bốn viên đạn vào đầu tôi... Sau đó, khi tôi mở mắt ra thì thấy căn phòng này.
Senga mệt mỏi vì kể chuyện. Họ im lặng hồi lâu. Khơlưnốp hỏi:
- Hiện nay Rôlinh có thể ở đâu được?
- Còn ở đâu được nữa. Dĩ nhiên là ở Pari rồi. Hắn đang thao túng báo chí. Hắn đang mở cuộc tiến công lớn trên mặt trận hóa học. Tiền chảy như suối vào túi hắn. Tôi rất lo ngại vì bất cứ lúc nào cũng có thể nhận một phát đạn từ cửa sổ bắn vào hoặc uống phải chất độc trong tách nước trà. Nhất định hắn sẽ tìm cách thủ tiêu tôi.
- Vậy tại sao anh lại im lặng?... Phải báo ngay cho giám đốc cảnh sát chứ.
- Anh Khơlưnốp thân mến, anh điên rồi! Sở dĩ tôi còn sống sót cho tới nay chính là vì tôi im lặng đấy.
49
- Senga, vậy là anh tận mắt trông thấy hoạt động của bộ máy phải không?
- Đúng thế, và bây giờ tôi hiểu rằng đại bác, hơi độc, máy bay đều chỉ là trò chơi của trẻ con. Anh đừng quên rằng trong chuyện này chỉ có một mình Garin... Garin và Rôlinh. Một bộ máy gieo chết chóc và hàng tỷ đôla. Cái gì cũng có thể xảy ra hết.
Khơlưnốp nâng rèm lên, đứng hồi lâu bên cửa sổ, nhìn cây cối xanh tươi, nhìn người làm công già đang vất vả kéo những ống dẫn nước bằng kim loại vào mé vườn rợp bóng mát, nhìn lũ sáo đen đang bận bịu nhảy nhót dưới bụi mã tiên thảo để kiếm giun đất. Bầu trời xanh thẫm tuyệt đẹp, toát ra vẻ thanh bình vĩnh viễn trên khu vườn.
- Nếu để cho Rôlinh và Garin mặc sức hành động thì kết cục chẳng mấy chốc sẽ đến - Khơlưnốp nói. - Thế giới này sẽ không tránh khỏi diệt vong... Ở đây chỉ có lũ sáo kia là sống khôn ngoan mà thôi. - Khơlưnốp quay người, rời khỏi cửa sổ. - Con người thuộc thế kỷ đồ đá hiển nhiên là đáng giá hơn... Họ vẽ đầy các hang không phải vì tiền mà chỉ do nhu cầu nội tâm, họ ngồi bên đống lửa suy nghĩ về những con ma mút, về những cơn dông tố, về sự xoay vần lạ lùng của cái sống và cái chết, về bản thân họ. Chà, tất cả những cái đó mới đáng kính làm sao!... Óc còn nhỏ, xương sọ còn dày, nhưng nghị lực tinh thần tỏa ra như ánh chớp từ đầu họ... Còn những con người kia, những con người ngày nay thì thật không hiểu họ cần đến máy bay làm quái gì? Nếu như nhốt một gã công tử bột rong chơi ngoài phố vào hang, đặt gã ngồi trước mặt một người thuộc đời đồ đá cũ thì chắc hẳn các ông bác lông lá kia sẽ hỏi gã: "Anh hãy kể xem anh đã nghĩ được điều gì trong suốt mười vạn năm qua?" - Chà, thưa cụ (hay thưa kỵ gì đấy), - gã sẽ loay hoay cựa quậy, - cháu chẳng nghĩ ngợi gì nhiều, mà chủ yếu là hưởng thụ những thành quả của nền văn minh. Nếu như không có nguy cơ về việc bọn dân đen nổi lên làm cách mạng thì thế giới của chúng cháu sẽ thật sự tuyệt vời. Nhưng khổ một nỗi là các cuộc khủng hoảng và các cuộc cách mạng cứ thường xuyên nổ ra, thật mệt mỏi quá..." - "À ra thế, - con người tiền sử kia chắc hẳn sẽ vừa đáp lại vừa nhìn xoáy cặp mắt nóng bỏng vào gã công tử bột, - Còn ta, ta lại ưa suy nghĩ kia, đấy, ta hiện đang ngồi suy nghĩ đây và kính trọng bộ óc thiên tài của ta... Ta muốn dùng nó để xuyên thấu vũ trụ..."
Khơlưnốp yên lặng. Anh vừa nhếch miệng cười vừa như nhìn sâu vào bóng tối của hang động thời tiền sử. Rồi anh lắc đầu:
- Garin và Rôlinh tìm cách đạt được cái gì? Sự buồn nhột. Dù chúng có gọi cảm giác buồn nhột ấy là quyền lực đối với thế giới thì đó vẫn chỉ là sự buồn nhột cứ không hơn. Trong cuộc chiến tranh vừa qua[2], có ba mươi triệu người bị chết. Chúng sẽ cố tìm cách giết được ba trăm triệu. Nghị lực tinh thần đang trong trạng thái mê man. Giáo sư Râykhe chỉ ăn bữa trưa vào các ngày chủ nhật, còn vào các ngày khác thì ông ăn hai khoanh bánh mì phết mứt cho bữa sáng và khoai tây ninh muối cho bữa trưa. Tiền công trả cho lao động trí óc là như vậy đó... Và sẽ còn như thế cho tới khi chúng ta phá tan toàn bộ nền "văn minh" của chúng, nhốt Garin vào nhà thương điên và đưa Rôlinh đi làm trưởng phòng quản trị hành chính tại một nơi nào đó trên đảo Vranghen... Anh nói đúng, cần phải chiến đấu... Tôi đã sẵn sàng rồi. Bộ máy của Garin phải nằm trong tay Liên Xô.
- Bộ máy ấy sẽ thuộc về chúng ta, - Senga nhắm mắt, lên tiếng.
- Bắt đầu công việc từ đâu đấy?
- Từ công tác trinh sát, theo đúng lệ thường.
- Nhắm hướng nào?
- Hiện nay chắc chắn là Garin đang ráo riết chế tạo bộ máy. Ở Vinlơ Đavrê, y chỉ có máy mẫu thôi. Nếu y kịp chế tạo một bộ máy thật sự thì khó mà chiếm đoạt nổi. Việc đầu tiên là phải tìm hiểu xem y chế tạo bộ máy ở đâu.
- Sẽ cần có tiền đấy.
- Ngay hôm nay, anh sẽ đến phố Grơnen, trao đổi với đại sứ nước ta, tôi đã thông báo cho đồng chí ấy ít nhiều rồi. Chúng ta sẽ có tiền. Việc thứ hai là phải tìm ra được Dôia. Điều này rất quan trọng. Đó là một mụ phụ nữ thông minh, nguy hiểm, giàu trí tưởng tượng. Chính mụ ta đã gắn liền Garin và Rôlinh lại cho đến chết. Mụ ta là kẻ chủ đạo trong mưu mô của chúng.
- Xin lỗi anh, nhưng tôi không ưa chiến đấu với phụ nữ.
- Anh Khơlưnốp ạ, mụ ta mạnh hơn tôi với anh... Mụ ta sẽ còn làm đổ nhiều máu nữa.


Dôia mặc áo cắt theo kiểu lính thủy, màu trắng, đính cúc vàng và mặc váy trắng, bước lên boong trên, nơi bữa ăn sáng đã dọn sẵn trên chiếc bàn thấp đan bằng mây, đặt trong bóng râm.
Ả ngồi vào bàn, bẻ một mẩu bánh mì rồi ngắm nhìn quang cảnh xung quanh. Chiếc du thuyền gắn máy, thân hẹp, trắng toát, đang lướt trên mặt nước phẳng như gương; biển xanh dịu, sẫm hơn một chút so với bầu trời không gợn mây. Boong thuyền cọ rửa sạch sẽ tỏa lên làn hơi mát mẻ. Làn gió ấm nhè nhẹ thổi mơn man đôi má.
Trên boong thuyền hơi uốn cong, ghép bằng những ván gỗ hẹp như bọc da hươu, có kê một dãy ghế bành mây dọc theo hai mạn thuyền, ở giữa là một tấm thảm óng ánh bạc với những chiếc gối gấm vứt rải rác. Một lớp mái che bằng lụa xanh, viền riềm và tua ngù, kéo căng từ cầu chỉ huy đến mũi thuyền.
Dôia thở dài rồi bắt đầu ăn sáng.
Thuyền trưởng Gianxen, người Na Uy, vừa mỉm cười vừa nhẹ nhàng bước lại gần. Ông ta cạo râu nhẵn nhụi, mặt đỏ hồng, trông giống như một đứa bé cao lớn. Ông ta ung dung đưa hai ngón tay lên vành chiếc mũ đội lệch hẳn về một phía.
- Chào bà Lamôlơ, chúc bà một buổi sáng tốt lành. (Ả lấy tên là Lamôlơ trong khi lênh đênh trên chiếc du thuyền treo cờ Pháp).
Viên thuyền trưởng mặc bộ đồ trắng tinh được là cẩn thận; trông ông phong nhã một cách vụng về, theo kiểu thủy thủ. Dôia nhìn khắp người ông ta, từ mấy chiếc lá sồi thêu bằng chỉ vàng trên lưỡi trai mũ cho đến đôi giày trắng có đế bằng dây bện. Ả hài lòng:
- Chào ông Gianxen.
- Tôi được hân hạnh báo cáo với bà là du thuyền chúng ta đang đi theo hướng Tây - Tây Bắc, kinh độ và vĩ độ (ông ta nêu những số liệu cụ thể), và ở chân trời là ngọn núi lửa Vêduyvơ[3]đang tỏa khói. Khoảng gần một giờ nữa sẽ trông thấy thành phố Naplơ[4]
- Mời ông ngồi, ông Gianxen.
Ả đưa tay ra hiệu mời Gianxen cùng ăn sáng. Ông ta ngồi xuống, chiếc ghế mây kêu ken két lên dưới thân hình lực lưỡng. Ông ta từ chối lời mời vì đã ăn sáng vào lúc chín giờ rồi. Nhưng ông ta vẫn lịch sự cầm tách cà phê.
Dôia chăm chú nhìn khuôn mặt rám nắng với hai hàng mi nhạt màu của ông ta. Ông ta hơi đỏ mặt lên, tuy chưa uống hết nhưng vẫn đặt tách cà phê xuống bàn.
- Phải thay nước lã và lấy xăng cho động cơ, - Ông ta nói, không ngước mắt lên.
- Sao kia, phải rẽ vào Naplơ à? Thật chán quá đi mất! Nếu ông cần nước và xăng đến như vậy thì ta cho thuyền đậu ở vũng ngoài.
- Xin tuân lệnh, - Gianxen khẽ đáp.
- Ông Gianxen này, tổ tiên ông là cướp biển phải không?
- Thưa bà, vâng.
- Làm cướp biển mới thú làm sao! Nào những chuyến phiêu lưu, nào những cơn nguy hiểm, nào những bữa chè chén say sưa, nào những vụ bắt cóc các phụ nữ xinh đẹp... Ông có lấy làm tiếc vì ông không phải cướp biển không?
Gianxen im lặng. Hàng mi nhạt màu của ông ta hấp háy. Trán nhăn lại.
- Thế nào?
- Thưa bà, tôi được giáo dục tử tế.
- Tôi tin là như vậy.
- Chẳng lẽ trong con người tôi có một nét gì đó khiến bà nghĩ rằng tôi có thể làm những hành động phạm pháp và vô lễ hay sao?
- Chán cho ông quá, - Dôia nói, - Một người khỏe mạnh, can đảm, tài giỏi, con cháu của dân cướp biển, vậy mà lại chịu lái thuyền cho một mụ đàn bà bẳn tính trong cái vũng nước ấm chán ngán này sao?
- Nhưng thưa bà...
- Ông hãy bày một trò ngu ngốc gì đi, Gianxen. Tôi chán lắm rồi...
- Xin tuân lệnh.
- Khi nào có một trận bão khủng khiếp, ông hãy đưa du thuyền lao vào một tảng đá đi.
- Xin tuân lệnh.
- Ông có thực sự định làm việc đó không?
- Nếu bà ra lệnh...
Gianxen nhìn Dôia. Cặp mắt ông ta lộ vẻ bực bội và nỗi khâm phục cố nén lại. Dôia vươn người, đặt tay lên tay áo trắng tinh của Gianxen:
- Tôi không nói đùa với ông đâu. Tuy tôi biết ông có ba tuần lễ, nhưng tôi cảm thấy ông thuộc loại người có thể trung thành với tôi (hàm Gianxen nghiến chặt). Tôi cảm thấy ông có khả năng làm những hành động vượt ra ngoài khuôn khổ pháp luật nếu như những hành động ấy tạo ra chất men say cuộc sống...
Đúng lúc ấy, trên cầu thang bóng loáng ánh đồng từ cầu chỉ huy dẫn xuống, xuất hiện hai chân của một người đang chạy xuống. Gianxen vội nói:
- Đã đến giờ, thưa bà...
Người thuyền phó đã xuống đến nơi, giơ tay chào:
- Thưa bà Lamôlơ, đã mười hai giờ kém ba phút. Sắp đến giờ liên lạc vô tuyến.
[1] Một loại cây ở vùng Địa Trung Hải, thuộc họ hoa môi, từ xưa người ta đã trồng để lấy tinh dầu - N. D
[2] Chiến tranh thế giới lần thứ nhất - N. D.
[3] Xem chú thích kế
[4] Núi lửa Vêduyvơ ở gần thành phố Naplơ (Ý) là núi lửa duy nhất còn hoạt động ở châu Âu. Đây là nơi thu hút nhiều khách du lịch. – ND.
51
Gió thổi căng chiếc váy trắng. Dôia lên boong thượng, đi về phía buồng vô tuyến điện báo. Ả nheo mắt hít thở bầu không khí mằn mặn. Bên trên, đứng từ cầu chỉ huy mà nhìn, ánh nắng tưởng như vô tận tỏa xuống mặt biển lóng lánh tựa pha lê.
Dôia bám vào tay vịn, ngắm nhìn mãi không chán mắt. Chiếc du thuyền thân hẹp lao băng băng giữa cảnh gió nước mênh mông.
Tất cả quá khứ đen tối và u ám của Dôia như bị đẩy lùi lại, như tan đi trong làn ánh nắng này.
"Ta tươi trẻ, ta trẻ trung, - Ả cảm thấy như vậy lúc đứng trên boong thượng tràn ngập ánh nắng, - Ta xinh đẹp, ta tốt bụng biết bao".
Gió vuốt ve cổ ả, mặt ả. Ả hân hoan mong được hưởng hạnh phúc. Tuy chưa đủ sức rời khỏi ánh sáng, bầu trời, biển cả, ả vẫn xoay nắm đắm cửa lạnh lẽo, đi vào cái buồng con lắp kính trong suốt, nơi rèm che được buông xuống ở phía ánh nắng chiếu vào. Ả cầm lấy ống nghe, chống khuỷu tay lên bàn, lấy bàn tay che mắt.
Chuông đồng hồ lanh canh điểm 12 tiếng. Mới có ba phút kể từ khi ả đứng dậy khỏi chiếc ghế bành dưới lớp mái che.
Ả đặt tay lên cần gạt, đẩy sang bên trái, vặn máy theo làn sóng ba mươi bảy mét rưỡi. Từ khoảng trống đen sẫm của ống nghe bỗng vang lên giọng nói sẵng và chầm chậm của Rôlinh:
- Bà Lamôlơ, bà Lamôlơ, bà Lamôlơ... Hãy chú ý lắng nghe, hãy chú ý lắng nghe...
- Vâng, tôi nghe đây, cứ yên tâm, - Dôia thầm thì.
- Tình hình chỗ bà tốt đẹp cả chứ? Có bị giông bão gì không? Có thiếu thốn gì không? Hôm nay, cũng vào giờ như thường lệ, tôi sẽ rất sung sướng được nghe thấy giọng nói của bà... Bà hãy sử dụng làn sóng như mọi khi... Bà Lamôlơ, bà đừng đi xa quá khu vực mười một độ kinh Đông và bốn mươi độ vĩ Bắc. Không loại trừ khả năng gặp gỡ trong thời gian sắp tới. Mọi việc của chúng tôi đều ổn. Công việc rất tốt đẹp. Con người cần im lặng vẫn im lặng. Cứ yên tâm và hãy sống hạnh phúc, mọi chuyện đều thuận lợi...
Dôia gỡ ống nghe ra. Một nếp nhăn hằn ngang trán ả. Ả nhìn kim đồng hồ và rít răng nói: "Ớn lắm rồi!" Những lời tỏ tình hàng ngày qua làn sóng điện này khiến ả hết sức bực tức. Rôlinh không thể, không muốn để ả được yên.... Y sẵn sàng phạm bất kỳ tội ác nào, miễn là ả cho phép y hàng ngày rên rỉ vào micrô: "... Cứ yên tâm và hãy sống hạnh phúc, mọi chuyện đều thuận lợi".
52
Sau những vụ giết người ở Vinlơ Đavrê và Phôngtenơblô và sau chuyến đi hối hả cùng Garin trên những con đường cái vắng vẻ ngập ánh trăng để tới Havrơ [1], Dôia và Rôlinh không gặp nhau nữa. Y đã bắn về phía ả vào đêm đó, đã toan lăng nhục ả, nhưng rồi y im lặng. Hình như lúc ấy y còn cúi gục trong xe mà thầm khóc nữa.
Đến Havrơ, ả lên chiếc du thuyền "Aridôna" của Rôlinh và lúc rạng đông thì ra đến ngoài vịnh Bixcai. Ở Lixbon [2], ả nhận được giấy tờ mang tên bà Lamôlơ và trở thành chủ nhân của một trong những chiếc du thuyền lộng lẫy nhất phương Tây. Từ Lixbon, ả đi đến Địa Trung Hải và tại đây, chiếc "Aridôna" lênh đênh ven bờ biển nước Ý, luôn luôn ở trong khu vực mười một độ kinh Đông và bốn mươi độ vĩ Bắc.
Mối liên lạc được thiết lập ngay giữa du thuyền và đài phát sóng riêng của Rôlinh ở Mêđông, ngoại ô Pari. Thuyền trưởng Gianxen thường xuyên báo cáo cho Rôlinh về mọi chi tiết của chuyến viễn du. Rôlinh hàng ngày liên lạc với Dôia. Tối nào ả cũng thông báo cho y về "tâm trạng" của ả. Đã mười ngày trôi qua trong cảnh đơn điệu như vậy và giờ đây, thiết bị vô tuyến trên chiếc "Aridôna", sau khi sục sạo trong không gian, đã bắt được những làn sóng ngắn của một thứ tiếng khó hiểu. Người ta báo cho Dôia biết, và ả nghe thấy một tiếng nói khiến tim ả lặng đi.
- Dôia, Dôia, Dôia, Dôia...
Giọng Garin vang lên trong ống nghe như một con ruồi lớn đập cánh vào cửa kính. Y nhắc đi nhắc lại tên ả và cứ cách quãng lại nói:
- Hãy trả lời trong khoảng từ một đến ba giờ đêm.
Rồi lại:
-... Dôia, Dôia, Dôia... Hãy thận trọng, hãy thận trọng...
Ngay đêm đó, những làn sóng điện bay lướt trên mặt biển tối sẫm, lướt trên châu Âu đang ngủ và những đống tro tàn cổ kính của Tiểu Á, lướt trên những bình nguyên châu Phi đầy cây cối khô héo để mang đi một giọng phụ nữ:
... Gửi đến người yêu cầu trả lời trong khoảng từ một đến ba giờ đêm...
Dôia nhắc đi nhắc lại lời nhắn gọi này nhiều lần. Rồi ả nói tiếp:
-... Em muốn gặp anh. Dù đó là một việc phi lý chăng nữa. Hãy hẹn đến bất kỳ một cảng nào của Ý. Không cần gọi đúng tên em, em sẽ nhận ra giọng nói của anh...
Ngay đêm đó, ngay phút đó, khi Dôia kiên nhẫn nhắc đi nhắc lại lời nhắn gọi, hy vọng rằng ở một nơi nào đó tại châu Âu, châu Á, châu Phi, Garin cũng đang dò tìm những làn sóng điện của chiếc "Aridôna" thì cách đấy hai nghìn cây số, ở Pari, trên cái bàn con kê cạnh chiếc giường mà Rôlinh đang nằm, kéo chăn đến tận mũi và sắp sửa ngủ, chuông điện thoại bỗng reo vang. Rôlinh chồm dậy cầm lấy ống nghe. Giọng Xêmiônốp vội vã báo:
- Ngài Rôlinh, bà ấy đang nói chuyện.
- Nói chuyện với ai?
- Tôi không nghe rõ lắm, không thấy nêu tên.
- Được, ông cứ nghe tiếp đi. Ngày mai báo cáo cho tôi biết.
Rôlinh treo ống nghe lên, lại nằm xuống, nhưng không thể ngủ được nữa.
Nhiệm vụ thật khó khăn: giữa những tiếng nhạc phốcxtơrốt, giữa những lời quảng cáo ầm ĩ, giữa những bài thánh ca nhà thờ, giữa những bản báo cáo về nền chính trị quốc tế, giữa những vở nhạc kịch, giao hưởng, tin tức về thị trường chứng khoán và những câu đùa cợt của các nghệ sĩ hài hước nổi tiếng, giữa tất cả những âm thanh lan tràn khắp châu Âu như một trận cuồng phong ấy, phải bắt cho được giọng nói yếu ớt của Dôia.
Để làm việc đó, Xêmiônốp suốt ngày đêm ngồi ở Mêđông. Gã đã thu được vài câu nói của Dôia. Nhưng chỉ như vậy thôi cũng đã đủ khơi dậy trí tưởng tượng ghen tuông của Rôlinh.
Y cảm thấy mình thật đáng khinh bỉ sau cái đêm ở Phôngtenơblô. Senga sống sót, mối nguy hiểm đáng sợ lơ lửng trên đầu y. Y phải ký thỏa ước với Garin, một kẻ mà y sẽ sung sướng được treo cổ lên cành cây như treo cổ một gã da đen. Có lẽ, Rôlinh sẽ tỏ ra bướng bỉnh vào lúc ấy - thà chết, thà lên máy chém còn hơn liên minh với một kẻ như thế, nhưng ý chí của y đã bị Dôia làm suy sụp. Bằng cách thỏa thuận với Garin, y đã tranh thủ được thời gian, và biết đâu, mụ đàn bà điên rồ kia sẽ nghĩ lại, sẽ hối hận, sẽ trở về với y... Y đặt một trong những điều kiện của bản thỏa ước là Dôia sẽ lên du thuyền đi du lịch một thời gian dài (Điều đó cần thiết để xóa sạch dấu vết). Y hy vọng sẽ thuyết phục, cảnh tỉnh, lôi kéo được ả bằng những cuộc trò chuyện hàng ngày qua đài phát sóng. Có lẽ, niềm hy vọng đó là chuyện ngu ngốc tệ hại nhất trong đời Rôlinh.
Theo thỏa thuận với Garin, Rôlinh lập tức bắt đầu "cuộc tổng tiến công trên mặt trận hóa học". Ngay hôm Dôia lên chiếc du thuyền ở Havrơ, Rôlinh đáp tàu hỏa trở về Pari. Y báo cho cảnh sát là y đã đến Havrơ và ban đêm, trên đường trở về, y bị một toán cướp tiến công (ba tên bịt kín mặt). Chúng cướp tiền và ô tô của y. (Trong lúc ấy, theo ước định với nhau, Garin phóng xe từ phía Tây sang phía Đông nước Pháp, vượt qua biên giới ở Lúcxămbua và dìm chiếc xe của Rôlinh xuống ngay con kênh đào đầu tiên mà y gặp).
"Cuộc tiến công trên mặt trận hóa học" mở màn. Báo chí Pari bắt đầu một chiến dịch gây náo động chưa từng thấy. "Tấn bi kịch bí ẩn ở Vinlơ Đavrê", "Cuộc tiến công bí hiểm vào một người Nga trong công viên Phôngtenơblô", "Vụ ăn cướp trắng trợn của ông vua hóa học", "Hàng tỷ đô la Mỹ ở châu Âu", "Sự diệt vong của nền kỹ nghệ quốc gia Đức", "Rôlinh hoặc Mátxcơva". Tất cả những chuyện ấy được làm rối tung lên một cách thông minh và khéo léo thành một mớ bòng bong mắc nghẽn ở cổ họng bọn người hủ lậu vốn là những kẻ cầm giữ các giá trị. Thị trường chứng khoán rung chuyển tận gốc. Giữa những hàng cột xám xịt của nó, cạnh các tấm bảng đen, nơi những bàn tay mắc chứng kinh giật đã dùng phấn viết viết xóa xóa các con số của những tờ chứng khoán đang mất giá, là những con người đã phát rồ đang lồng lộn, gào thét, mắt chực nổ tung, miệng sủi bọt màu nâu.
Nhưng những kẻ đó chỉ là lũ tép riu, và tất cả những chuyện đó chẳng có ý nghĩa lắm. Những nhà công nghiệp kếch sù và chủ ngân hàng lớn nghiến chặt răng giữ lấy những tập cổ phiếu. Không dễ gì mà đè bẹp họ dù có bằng đôi sừng của Rôlinh chăng nữa.
Đòn giáng từ phía Garin đang được chuẩn bị chính là để thực hiện chiến dịch quan trọng nhất này.
Đúng như Senga dự đoán, Garin đang ráo riết chế tạo ở Đức một bộ máy theo mẫu của y. Y đi hết thành phố này đến thành phố khác để đặt các nhà máy sản xuất các bộ phận khác nhau. Để liên lạc với Pari, y sử dụng mục tin riêng trong tờ báo xuất bản tại Côlônhơ. Về phần mình, Rôlinh thỉnh thoảng lại đăng trong một tờ báo lá cải ở Pari vài ba dòng chữ: "Hãy lập tức chú ý vào chất analin, "Mỗi ngày đều đáng giá, đừng tiếc tiền...", v. v...
Garin trả lời: "Tôi sẽ hoàn thành sớm hơn dự định...", "Đã tìm được địa điểm...", "Tôi đang bắt tay vào việc...", "Một chuyện mắc míu không lường trước..."
Rôlinh: "Tôi rất lo lắng, hãy định ngày đi..."
Garin trả lời: "Hãy đếm đến ba mươi lăm kể từ ngày ký thỏa thuận".
Áng chừng vào quãng thời gian ấy, Rôlinh nhận được tin báo bằng điện thoại của Xêmiônốp vào ban đêm. Y giận điên lên - người ta dám xỏ mũi y. Những mối liên lạc bí mật với chiếc "Aridôna", ngoài mọi hậu quả khác, còn nguy hiểm nữa. Nhưng y không để lộ ý đồ của mình, dù chỉ là một lời, khi nói chuyện với bà Lamôlơ ngày hôm sau.
Giờ đây, trong lúc mất ngủ, y bắt đầu "ngẫm nghĩ" một lần nữa "ván cờ" của mình với kẻ thù hết sức nguy hiểm kia. Y thấy mình sai lầm. Hóa ra Garin không được "bảo vệ" chu đáo lắm. Sai lầm của y là ở chỗ đã đồng ý cho Dôia đi du lịch - kết cục ván cờ đã được quyết định trước đối với y rồi. Nước "chiếu hết" sẽ thực hiện trên chiếc "Aridôna".
53
Nhưng trên chiếc "Aridôna", tình hình diễn ra không hoàn toàn như Rôlinh nghĩ. Y nhớ Dôia là một phụ nữ thông minh, bình tĩnh, tính toán, lạnh lùng và trung thành. Y biết ả rất khinh bỉ đối với những nhược điểm của nữ giới. Y không thể cho phép kéo dài việc ả mê đắm cái gã lang thang không một xu dính túi kia, cái tên kẻ cướp Garin kia. Một cuộc du ngoạn thoải mái trên Địa Trung hải nhất định sẽ làm đầu óc ả tỉnh táo ra.
Dôia quả thật như trong cơn mê khi ả bước lên du thuyền ở Havrơ. Vài ngày cô độc giữa biển cả đã làm ả bình tĩnh lại. Ả thức dậy, nói năng, ăn uống và ngủ thiếp đi dưới bầu trời trong xanh, giữa cảnh mây nước rực rỡ và trong tiếng sóng êm đềm vỗ bất tận. Ả rùng mình vì ghê tởm khi nhớ lại căn phòng bẩn thỉu và xác Lơnoa nhe răng ra, mắt trắng dã, nhớ lại dải khói ngùn ngụt chạy ngang ngực Mỏ Vịt, quãng rừng thưa ẩm ướt ở Phôngtenơblô và mấy phát súng bất ngờ của Rôlinh, dường như y giết một con chó dại.
Nhưng đầu óc ả không tỉnh táo ra như Rôlinh hi vọng. Cả lúc tỉnh lẫn lúc mơ, ả như nhìn thấy những hòn đảo tuyệt đẹp nào đấy cùng những lâu đài bằng đá hoa có các bậc thang chạy dài xuống biển. Ả như nhìn thấy những đám người xinh đẹp, nghe thấy tiếng nhạc du dương, trông thấy những lá cờ bay phần phật... Và ả là chúa tể của cái thế giới kỳ ảo này...
Những giấc mơ và những hình ảnh tưởng tượng của ả khi ả ngồi trong chiếc ghế bành dưới lớp mái che màu xanh ấy là sự tiếp nối cuộc trò chuyện với Garin ở Vinlơ Đavrê (một giờ trước khi xảy ra vụ tàn sát). Lúc này, Garin là người duy nhất trên thế giới có thể hiểu được ả. Nhưng gắn liền với y lại là cặp mắt trắng dã của Lơnoa và cái mồm há hốc khủng khiếp của Gaxtông Mỏ Vịt.
Chính vì thế mà tim Dôia như lặng đi khi ả bất ngờ nghe thấy giọng Garin trên làn sóng điện... Từ khi ấy, ngày nào ả cũng kêu gọi y, van xin y, đe dọa y. Ả vừa muốn gặp y lại vừa sợ gặp y. Ả mơ thấy y là một vệt đen ngòm trên nền trời biển xanh thẳm... Ả cần kể cho y nghe về những cảnh mơ mơ thực thực ấy. Ả cần hỏi y xem vòng đai Ôlivin của y ở đâu? Ả lồng lộn đi lại trên du thuyền, làm thuyền trưởng Gianxen và viên thuyền phó khiếp đảm.
Garin trả lời:
- Em hãy đợi một chút. Tất cả những gì em muốn rồi em sẽ có. Chỉ có điều là hãy biết ham muốn. Em cứ mong muốn đi, cứ phát điên đi - như vậy càng tốt. Anh cần em là một phụ nữ như vậy. Không có em, trái tim anh sẽ mất hết sức sống.
Đó là buổi liên lạc mới nhất của y qua làn sóng điện mà Rôlinh đã bắt được. Hôm nay, Dôia đợi Garin trả lời cho câu hỏi của ả là phải đợi y trên du thuyền đích xác là vào ngày nào. Ả bước lên boong và tì khuỷu tay vào lan can, những làn hơi của dải đất chưa nhìn thấy bốc lên mờ mờ và cột khói xám xám như bất động bên trên ngọn núi lửa Vêduyvơ.
Trên cầu chỉ huy, thuyền trưởng Gianxen buông bàn tay cầm chiếc ống nhòm xuống, và Dôia cảm thấy ông ta đang mê mẩn nhìn ả. Làm sao ông ta không nhìn ả cho được khi tất cả những cảnh trời nước tuyệt đẹp kia được tạo ra chỉ để bà Lamôlơ đứng bên lan can, trên vực thẳm xanh thẳm, ngắm nghía chúng.
- Ông lại gần đây, ông Gianxen.
Gianxen sải bước trên boong thuyền nóng hầm hập, nhẹ nhàng tiến lại gần.
- Ông Gianxen, ông không nghĩ rằng tôi là kẻ điên rồ chứ?
- Tôi không nghĩ thế, bà Lamôlơ ạ, và tôi sẽ không nghĩ như vậy, dù bà có ra lệnh gì cho tôi chăng nữa.
- Cảm ơn ông, tôi phong ông làm đội trưởng đội vệ binh danh dự của nữ thần Dôia.
Gianxen hấp háy hàng mi nhạt màu, đưa tay lên mũ chào. Rồi bỏ tay xuống, lại hấp háy hàng mi lần nữa. Dôia bật cười, và đôi môi của Gianxen cũng nở một nụ cười.
- Ông Gianxen, hiện nay có khả năng thực hiện những mong muốn ngông cuồng nhất... Có khả năng thực hiện tất cả những gì mà một người phụ nữ có thể nghĩ ra vào một trưa nóng nực như thế này... Nhưng sẽ phải chiến đấu đấy...
- Xin tuân lệnh, - Gianxen trả lời ngắn gọn.
- Tốc độ của chiếc "Aridôna" là bao nhiêu?
- Gần bốn mươi hải lý một giờ.
- Những loại tàu nào có thể đuổi kịp nó ở ngoài khơi?
- Rất ít tàu có thể đuổi kịp được...
- Có lẽ chúng ta sẽ phải chịu một cuộc đuổi bắt lâu đấy.
- Bà ra lệnh dự trữ thật đầy đủ nhiên liệu lỏng?
- Đúng thế. Và cả nước ngọt, đồ hộp, rượu sâm banh nữa. Ông Gianxen ạ, chúng ta sẽ làm một công việc rất nguy hiểm.
- Xin tuân lệnh.
- Nhưng Gianxen ạ, tôi tin vào thắng lợi.
Đồng hồ điểm mười hai giờ rưỡi... Dôia bước vào buồng vô tuyến điện báo, ngồi xuống bên máy. Ả chạm tay vào cần máy thu. Từ đâu đó vang lên vài nhịp phốcxtơrốt.
Ả nhíu mày nhìn đồng hồ. Garin vẫn im lặng. Ả lại đẩy cần máy, cố giữ cho các ngón tay khỏi run rẩy.
... Một giọng xa lạ, chậm rãi, nói bằng tiếng Nga vào tận tại.
"... Nếu bà yêu quí cuộc sống... hãy lên bờ ở Naplơ vào thứ sáu... hãy đợi tin tức ở khách sạn "Xplenđiđơ" cho tới trưa thứ bảy".
Đấy là đoạn cuối của một câu gì đó được phát đi trên làn sóng bốn trăm hai mươi mốt mét, loại làn sóng mà Garin thường xuyên sử dụng suốt thời gian đó.
54
Trong căn phòng Senga nằm, suốt ba đêm liền, người ta quên đóng cửa chớp. Lần nào anh cũng nhắc cô y tá thuộc dòng tu Cácmêlita về việc đó. Anh chăm chú theo dõi để chiếc chốt nối hai cánh cửa chớp phải cài chặt lại.
Trong ba tuần qua, anh đã bình phục nhiều. Anh đã có thể trở dậy và tới ngồi bên cửa sổ, gần những cành ngô đồng rậm rạp hơn, gần lũ sáo đen hơn, gần đám bụi nước lấp lánh như cầu vồng giữa bãi cỏ hơn.
Từ đây, anh nhìn thấy toàn bộ khu vườn nhỏ bé của bệnh viện có dãy tường đá bao quanh. Vào thế kỷ mười tám, nơi này thuộc một tu viện đã bị cách mạng phá hủy. Các tu sĩ không ưa những con mắt tò mò. Tường cao, và trên thành tường lởm chởm những mảnh thủy tinh sáng lấp lánh.
Chỉ có thể trèo qua bức tường này bằng cách dùng thang. Những phố nhỏ giáp với bệnh viện thì tĩnh mịch và vắng vẻ, nhưng đèn đường lại quá sáng, vả lại rất hay nghe thấy tiếng chân cảnh sát vang lên bên kia tường, giữa không khí tĩnh mịch, do đó vấn đề dùng thang bị loại bỏ.
Dĩ nhiên, nếu không có những mảnh kính vỡ gắn trên bờ tường thì một người lanh lẹn có thể không cần thang vẫn leo qua được. Sáng nào Senga cũng từ sau cửa sổ quan sát toàn bộ bức tường cho đến từng viên đá nhỏ. Mối nguy hiểm chỉ đe dọa từ phía này mà thôi. Kẻ được Rôlinh phái đến chắc gì đã dám mạo hiểm xuất hiện từ bên trong bệnh viện. Nhưng anh không một chút nghi ngờ về việc kẻ âm mưu hãm hại anh trước sau cũng xuất hiện.
Giờ đây, anh đang chờ bác sĩ đến khám để xin ra viện. Anh biết trước như vậy. Bác sĩ thường đến mỗi tuần năm lần. Lần này hóa ra là ông bị ốm. Senga được báo cho biết là nếu bác sĩ trưởng chưa khám lại thì anh không thể được phép ra viện. Anh chẳng buồn phản kháng nữa. Anh thông báo cho sứ quán Liên Xô biết để họ mang thức ăn đến cho anh. Súp bệnh viện thì anh đổ vào bồn rửa, còn bánh mì bệnh viện thì anh vứt cho lũ sáo.
Anh biết rằng Rôlinh nhất định sẽ thủ tiêu nhân chứng duy nhất. Giờ đây, anh gần như không ngủ vì quá lo lắng, kích động. Cô y tá thường xuyên đem báo đến cho anh - suốt ngày anh sử dụng chiếc kéo và nghiên cứu các mảnh báo cắt ấy. Anh đã cấm Khơlưnốp không được đến bệnh viện. (Henrích đang ở Đức, trên bờ sông Ranh, nơi anh ta thu thập tin tức về cuộc đấu của Rôlinh với công ty anilin của Đức).
Buổi sáng, như thường lệ, sau khi lại gần cửa sổ, Senga nhìn bao quát khắp khu vườn rồi lập tức lẩn ra sau rèm. Anh thậm chí còn cảm thấy vui vẻ nữa. Thế là rốt cuộc, thời cơ đã đến rồi! Trong vườn, ở mạn Bắc, chiếc thang của người làm vườn thấp thoáng sau cây đoạn, dựa vào tường, đầu thang nhô cao chừng ba chục phân bên trên những mảnh thủy tinh.
Senga nói:
- Thật khéo quá!
Chỉ còn phải chờ đợi thôi. Mọi việc đã dự tính hết. Tay phải anh tuy đã không phải băng bó nữa, nhưng vẫn còn yếu. Tay trái vẫn bị nẹp và bó thạch cao, vẫn bị quấn băng chặt vào ngực. Bên tay bị bó thạch cao phải nặng ít nhất là dăm sáu cân. Đấy là thứ vũ khí duy nhất mà anh có thể dùng để tự vệ.
Đến đêm thứ tư, cô y tá lại quên đóng cửa chớp. Lần này, Senga không phản kháng và từ chín giờ anh giả vờ ngủ. Anh nghe thấy tiếng cửa chớp đóng mạnh ở cả hai tầng. Cửa sổ buồng anh lại vẫn để mở toang. Khi đèn tắt, anh nhảy xuống giường và dùng răng cùng bàn tay yếu ớt cởi cuộn băng giữ tay phải.
Anh dừng lại, nín thở lắng nghe. Cuối cùng, cánh tay đã đong đưa tự do. Anh có thể gập lại đến tận khuỷu. Anh nhìn ra khu vườn sáng ánh đèn ngoài phố - chiếc thang vẫn dựng ở chỗ cũ, sau cây đoạn. Anh cuộn tròn chăn, nhét xuống dưới vải trải giường: trong bóng tối lờ mờ, ngỡ như vẫn có người nằm trên giường.
Bên ngoài yên tĩnh, chỉ nghe thấy tiếng nước nhỏ giọt. Ánh hồng tim tím run rẩy trong những đám mây đen trên bầu trời Pari. Không nghe thấy tiếng ồn ào từ các đại lộ vọng đến đây. Cành ngô đồng đen sẫm lơ lửng bất động.
Đâu đó có tiếng ô tô xình xịch. Senga dỏng tai nghe - hình như anh nghe thấy tiếng tim đập thình thịch trong lồng ngực con chim đang ngủ trên cành ngô đồng. Chắc hẳn nhiều thời gian đã trôi qua. Trong vườn bắt đầu vang lên tiếng kẽo kẹt và xào xạc, hệt như có người chà sát gỗ vào vôi.
Senga bước sát vào tường sau bức rèm. Anh thả bàn tay bó thạch cao xuống. "Ai? Không phải. Ai nhỉ? - anh thầm nghĩ, - Chẳng lẽ lại là chính Rôlinh chăng?"
Lá cây bắt đầu sột soạt, lũ sáo nháo nhác. Senga nhìn khoảng sàn gỗ sáng mờ mờ bên cửa sổ, nơi nhất định phải xuất hiện bóng người.
"Hắn sẽ không bắn đâu, - anh thầm nghĩ - phải đợi một thứ gì đó như phốtgen [3] chẳng hạn..." Trên khoảng sân gỗ, bóng một đầu người đội chiếc mũ chụp sâu xuống bắt đầu nhô lên. Senga đưa rộng tay ra để cú đánh được mạnh hơn. Bóng người nhô lên đến vai rồi giơ lên những ngón tay doãng ra...
- Senga, đồng chí Senga, - bóng đó thầm thì bằng tiếng Nga. - Tôi đây, đừng sợ...
Senga chờ đợi mọi chuyện, trừ những lời lẽ này, trừ cái giọng nói này. Anh bất giác bật kêu lên một tiếng, để lộ mình. Người kia liền lập tức nhảy qua cửa sổ và đưa cả hai tay ra để tự vệ. Đó là Garin.
- Tôi nghĩ là anh đang đề phòng bị tiến công, - y vội vã nói, - đêm nay người ta nhất định sẽ giết anh. Đối với tôi, điều đó không có lợi. Tôi quyết định mạo hiểm để cứu anh bằng được. Ta đi đi, tôi có xe đây.
Senga rời khỏi bức tường.
Garin vui vẻ nhe răng cười khi thấy cánh tay bó thạch cao vẫn còn giơ lên để chuẩn bị đánh.
- Senga ạ, thề có Chúa là tôi không có lỗi gì hết. Anh còn nhớ giao ước của chúng ta ở Lêningrat chứ? Tôi xử sự trung thực. Câu chuyện khó chịu trong rừng Phôngtenơblô hoàn toàn là do gã Rôlinh khốn kiếp gây ra cho anh. Anh có thể tin tôi được. Ta đi đi, từng giây bây giờ đều là quí giá...
- Cứ cho là anh sẽ đưa tôi đi, nhưng sao đó thì sao?
- Tôi sẽ che giấu anh... Chỉ một thời gian ngắn thôi, anh đừng sợ. Cho tới khi tôi nhận được "một nửa của Rôlinh"... [4] Anh vẫn đọc báo đấy chứ? Rôlinh bị xúi quẩy luôn, nhưng y không thể xử sự một cách trung thực được. Anh cần bao nhiêu, anh Senga? Anh cứ nói thoải mái đi. Mười triệu, hai chục triệu hay năm chục triệu? Tôi sẽ đưa giấy biên nhận cho anh...
Garin nói khẽ, vội vã như trong cơn mê sảng, - mắt y giật giật:
- Đừng làm bộ ngốc nghếch nữa, Senga ạ. Anh là người giữ nguyên tắc chứ gì?... Tôi đề nghị anh cùng làm việc chống Rôlinh... Nào, ta đi đi...
Senga bướng bỉnh lắc đầu:
- Tôi không muốn, tôi sẽ không đi đâu.
- Nhất định anh sẽ bị giết chết.
- Để xem xem đã.
- Đám hộ lý, đám gác cổng và ban quản trị - tất cả đều đã bị Rôlinh mua chuộc rồi. Anh sẽ bị bóp cổ... Tôi biết... Anh sẽ không sống qua nổi đêm nay đâu... Anh đã báo trước cho sứ quán của anh rồi chứ gì? Được được... Đại sứ của anh sẽ đòi hỏi phải giải thích. Chính phủ Pháp cùng lắm thì xin lỗi là hết... Nhưng anh không vì thế mà dễ dàng hơn đâu. Rôlinh cần loại bỏ nhân chứng... Y sẽ không thể để anh bước qua ngưỡng cửa của sứ quán Liên Xô...
- Tôi đã nói là tôi không đi kia mà... Tôi không muốn...
Garin lấy lại hơi thở. Y nhìn ra ngoài cửa sổ:
- Được, nếu thế thì tôi đành cưỡng bức anh phải đi vậy. - Y lùi lại một bước, đút tay vào túi áo măng tô.
- Cưỡng bức tôi nghĩa là thế nào?
- Là thế này đây...
Garin rút phắt trong túi ra chiếc mặt nạ phòng hơi ngạt và vội vã áp lên miệng. Senga không kịp kêu lên - một dòng chất lỏng nhờn nhờn phun mạnh vào mặt anh. Chỉ thoáng thấy bàn tay Garin bóp bóp bầu cao su... Senga sặc sụa trong hơi thuốc mê ngọt ngào, thơm ngát...
55
- Có tin tức gì không?
- Có. Chào anh Henrích.
- Tôi từ nhà ga đến thẳng đây. Đói lả đi như vào năm mười tám ấy.
- Nhưng trông anh vui vẻ lắm, Henrích ạ. Biết được nhiều chuyện phải không?
- Cũng biết được chút ít... Ta sẽ nói chuyện ở đây chứ?
- Được, chỉ có điều là nhanh nhanh lên.
Henrích ngồi xuống cạnh Khơlưnốp trên chiếc ghế dài bằng đá hoa đặt bên chân tượng đài Hăngri IV [5] cưỡi ngựa, quay lưng về phía những ngọn tháp màu đen của Côngxécgiơri [6]. Bên dưới, nơi đảo Xitê nhô mũi nhọn hoắt ra, có một cây lệ liễu nghiêng mình xuống mặt nước. Ngày xưa, đây là nơi những hiệp sĩ thuộc dòng tu Tamplie [7] đã quằn quại trên ngọn lửa. Xa xa, bên kia hàng chục chiếc cầu soi mình xuống dòng nước, mặt trời đang lặn trong ánh mờ mờ vàng rực. Ngồi trên các hàng bậc ven sông và trên sà lan bằng sắt chở cát là những tay câu cá người Pháp, những kẻ bị phá sản vì lạm phát, vì Rôlinh và vì chiến tranh thế giới.
Ở tả ngạn, trên bờ ngắn bằng đá hoa, mãi xa cho tới tận trụ sở Bộ Ngoại giao, những người bán sách cũ đang buồn bã ngồi dưới ánh nắng ban chiều, bên những cuốn sách chẳng ai cần đến nữa trong thành phố này.
Tại đây, Pari cũ đang tàn tạ dần. Cạnh những quán sách cũ ven bờ sông, cạnh những lồng chim và những người câu cá buồn bã, vẫn còn thấy những người đứng tuổi đang dạo bước. Mắt họ đờ đẫn, ria họ che kín miệng, họ mặc quần áo rộng thùng thình và đội mũ rơm cũ kỹ... Khi xưa, đây là thành phố của họ... Ở nơi kia, trong tòa nhà Côngxécgiơri kia, Đăngtông đã từng gào thét như con bò bị lôi đến lò sát sinh. Còn ở kia, ở bên phải, đằng sau những mái nhà lợp graphít của điện Luvrơ, nơi những khu vườn của điện Tuylơri chìm trong màn sương mù, đã từng xảy ra những biến cố nóng bỏng, khi tiếng đạn của đội quân tướng Galiphê [8] rú rít dọc theo phố Rivôli. Trời, nước Pháp hồi đó chói lọi vàng son biết bao! Mỗi viên đá ở đây - nếu chúng biết nghe - đều sẽ kể về quá khứ vĩ đại. Vậy mà bây giờ - chính quỷ sứ cũng không thể hiểu nổi - kẻ làm chủ thành phố này lại là con quái vật Rôlinh từ bên kia đại dương đến, và những người tư sản lương thiện chỉ còn cách ngồi ủ rũ mà quăng cần câu... Ô hô hô!
Sau khi chêm tẩu thuốc nặng, Henrích nói:
- Tình hình như thế này. Công ty anilin của Đức là công ty duy nhất không thỏa hiệp chút gì với bọn Mỹ. Công ty đã được nhà nước trợ cấp hai mươi tám triệu mác. Giờ đây, mọi nỗ lực của Rôlinh đều hướng vào việc bẻ gãy công ty này.
- Y bán phá giá chăng?
- Vào ngày hai mươi tám tháng này, y sẽ bán một số lượng khổng lồ các cổ phiếu trong lĩnh vực anilin.
- Đó là những tin tức rất quan trọng đấy, anh Henrích ạ.
- Đúng thế, chúng tôi đã lần được dấu vết. Rõ ràng Rôlinh tin rằng y thắng cuộc, mặc dù giá cổ phiếu không hạ một xu nào... mà hôm nay đã là hai mươi rồi... Anh có hiểu thứ duy nhất mà y trông cậy vào là gì không?
- Có lẽ chúng đã chuẩn bị xong xuôi hết chăng?
- Tôi nghĩ rằng bộ máy của Garin đã được bố trí rồi.
- Những nhà máy của Công ty anilin nằm ở đâu?
- Nằm bên sông Ranh, gần N. Nếu Rôlinh đánh gục được công ty này thì y sẽ làm chủ toàn bộ nền công nghiệp châu Âu. Chúng ta không được để xảy ra tai họa ấy. Nghĩa vụ chúng ta là cứu thoát ngành anilin của Đức. (Khơlưnốp nhún vai, nhưng yên lặng). Tôi hiểu: cái gì tất yếu thì nhất định sẽ xảy ra. Tôi với anh không thể ngăn chặn được sức ép của Mỹ. Nhưng ai mà biết được, lịch sử đôi khi gây ra những chuyện khó hiểu, bất ngờ.
- Giống như các cuộc cách mạng chứ gì?
- Cứ cho là như vậy đi.
Khơlưnốp đưa mắt nhìn Henrích, vẻ hơi ngạc nhiên. Mắt anh ta tròn, vàng, độc địa.
- Anh Henrích ạ, giai cấp tư sản sẽ không cứu châu Âu đâu.
- Tôi biết.
- Thế ư?
- Trong chuyến đi vừa rồi, tôi đã quan sát kỹ... Bọn tư sản - Pháp, Anh, Đức, Ý - đang bán đứng thế giới cũ một cách tội lỗi, mù quáng, trắng trợn. Nền văn hóa đã kết thúc bằng cảnh bán đấu giá... Như vậy đó!
Henrích đỏ bừng mặt lên:
- Tôi đã tới gặp các nhà cầm quyền, đã nói bóng gió đến mối nguy hiểm, đã yêu cầu họ giúp đỡ trong việc truy lùng Garin... Tôi đã nói với họ những lời lẽ khủng khiếp... Họ cười vào mũi tôi. Thật đáng giận! Tôi không phải loại người chịu lùi bước.
- Vậy anh đã biết được gì ở vùng sông Ranh?
- Tôi đã biết được một vài tin tức... Công ty anilin đã nhận được những đơn đặt hàng quân sự lớn của chính phủ Đức. Quá trình sản xuất trong các nhà máy của công ty này hiện đang ở giai đoạn nguy hiểm nhất. Họ đang sử dụng tới gần năm trăm tấn tétơrit.
Khơlưnốp đứng phắt dậy. Chiếc can mà anh dựa vào cong hẳn đi. Anh lại ngồi xuống.
- Trên báo chí đã loáng thoáng xuất hiện những bài báo về sự cần thiết phải di tản các khu công nhân càng xa càng tốt khỏi những nhà máy đáng sợ này. Trong công ty anilin có đến hơn năm vạn người làm việc. Tờ báo đăng tin đó đã bị phạt tiền... Bàn tay của Rôlinh...
- Henrích này, chúng ta không thể để mất một ngày nào nữa.
- Tôi đã đặt vé chuyến tàu mười một giờ hôm nay rồi.
- Chúng ta sẽ đi N.?
- Tôi nghĩ rằng chỉ đến đấy mới có thể lần ra dấu vết Garin.
- Bây giờ thì anh hãy xem xem những gì tôi đã làm được nhé, - Khơlưnốp lấy trong túi ra một tập mảnh báo cắt. - Cách đây ba hôm, tôi ở chỗ Senga. Anh ấy đã cho tôi biết những suy nghĩ của anh ấy. Theo anh ấy, Rôlinh và Garin nhất định phải liên lạc với nhau...
- Dĩ nhiên rồi. Liên lạc hằng ngày ấy chứ!
- Bằng bưu điện? Hay bằng điện báo? Anh nghĩ sao, Henrích?
- Không đời nào. Không thể có một chút dấu vết gì bằng chữ viết hết.
- Vậy thì bằng vô tuyến điện?
- Để khắp châu Âu nghe thấy ư?... Không...
- Hay là qua một nhân vật thứ ba?
- Cũng không phải... - Henrích nói. - Tôi hiểu, anh chàng Senga của anh là một tay cừ lắm. Anh cho tôi xem các mảnh báo cắt nào...
Anh tự xếp tất cả lên trên đầu gối rồi chăm chú đọc những đoạn gạch đỏ:
"Hãy tập trung chú ý vào chất anilin", "Tôi đang bắt tay vào việc", "Đã tìm được địa điểm".
"Đã tìm được địa điểm" - Henrích thầm thì nhắc lại, - đây là tờ báo xuất bản ở E... một thị trấn gần N... "Tôi rất lo lắng, hãy định ngày đi". - "Hãy đếm đến ba mươi lăm, kể từ ngày ký thỏa thuận". Đúng, chỉ có thể là chúng thôi. Đêm ký thỏa thuận ở Phôngtenơblô là hai mươi ba tháng trước. Thêm ba mươi lăm nữa sẽ là ngày hai mươi tám - đúng thời hạn báo cáo cổ phiếu trong lĩnh vực anilin...
- Anh đọc tiếp đi, đọc tiếp đi, Henrích... "Ông đã thi hành những biện pháp gì?" Đó là Garin hỏi từ K. Hôm sau, trên tờ báo ở Pari đăng câu trả lời của Rôlinh: "Du thuyền đã sẵn sàng. Hai ngày nữa sẽ cập bến. Sẽ báo tin qua làn sóng điện". Còn đây, bốn ngày trước, Rôlinh hỏi: "Sẽ nhìn thấy ánh sáng chứ?" Garin trả lời: "Xung quanh rất trống trải. Khoảng cách năm cây số".
- Nói cách khác, bộ máy được bố trí trên núi: phát tia từ khoảng cách năm cây số thì chỉ có thể từ một nơi cao mà thôi. Anh Khơlưnốp ạ, chúng ta còn ít thời gian lắm. Nếu lấy tâm là các nhà máy mà quay một bán kính năm cây số thì chúng ta sẽ phải lục lọi một vùng có chu vi ít nhất là ba mươi lăm cây số. Còn có tin tức gì nữa không?
- Không. Tôi đang định gọi điện cho Senga. Nhất định anh ấy phải có những mảnh cắt trong báo hôm qua và hôm nay.
Henrích đứng dậy. Trông thấy rõ những bắp thịt của anh ta phồng lên dưới lớp quần áo. Khơlưnốp đề nghị gọi điện cho Senga từ tiệm cà phê gần nhất ở bờ sông bên phải. Henrích đi qua cầu nhanh vùn vụt, khiến một ông già nhỏ bé, cổ ngẳng, đội chiếc mũ đầy bụi, mặc chiếc véttông lem luốc và có lẽ thấm đẫm những giọt nước mắt cô độc vì than khóc những kẻ bị chiến tranh cướp đi, phải lắc đầu và đưa mắt nhìn theo mấy người ngoại quốc đang chạy:
- Chà, các vị khách nước ngoài này... Khi tiền rủng rỉnh trong túi thì tha hồ chạy và xô đẩy cứ như đang ở nhà mình ấy... Thật man rợ!
Tại tiệm cà phê, Henrích đứng uống nước xô đa cạnh quầy hàng bằng kẽm. Qua lớp kính buồng điện thoại, anh ta nhìn thấy lưng Khơlưnốp. Khơlưnốp đang nói chuyện. Anh nhún vai, tì cả người vào máy, rồi anh vươn thẳng dậy, bước ra khỏi buồng: mặt anh bình thản nhưng trắng bệch như mặt nạ.
- Bệnh viện trả lời là đêm qua Senga đã biến mất. Họ đã thi hành mọi biện pháp tìm kiếm... Theo tôi thì anh ấy đã bị giết chết.
[1] Một hải cảng lớn ở miền bắc nước Pháp - ND
[2] Thủ đô Bồ Đào Nha - ND
[3] Một loại hơi độc - ND.
[4] Tức là Dôia - ND.
[5] Hăngri IV (1589 - 1610): vua Pháp trong những năm 1594-1610, người sáng lập triều đại Buốcbông bị lật đổ năm 1789. Năm 1598, đã ban tự do tín ngưỡng cho giáo phái Canvanh (chú thích của nguyên bản).
[6] Một trong những nhà tù lớn nhất của Pari (chú thích của nguyên bản).
[7] Một trong những dòng tu thánh chiến được thành lập trong thời gian diễn ra các cuộc thập tự chinh. Về sau dòng tu này không những trở thành một lực lượng vũ trang hùng mạnh, mà còn là những nhà tài phiệt lớn nữa. Năm 1307, tất cả thành viên dòng tu này có mặt trên lãnh thổ nước Pháp đều bị bắt, bị tra tấn rồi bị lửa thiêu, tài sản lớn của họ bị nhà vua tịch thu (Chú thích của nguyên bản)
[8] Galiphê (1830 - 1909): một trong những tên đao phủ chính đã đàn áp Công xã Pari năm 1871. (Chú thích của nguyên bản).
56
Củi khô kêu lách tách trong chiếc lò sưởi đã ám khói suốt hai thế kỷ, với những chiếc móc lớn hoen gỉ để treo xúc xích và giăm bông, và hai bên là hai tượng thần bằng đá. Trên một bức tượng là chiếc mũ màu sáng của Garin, trên bức tượng kia là chiếc mũ sĩ quan loang lổ dầu mỡ. Có bốn người ngồi quanh chiếc bàn chỉ được ánh lửa lò sưởi chiếu sáng. Trước mặt họ là một chai to và những chiếc ly đầy rượu.
Hai người đàn ông ăn mặc theo kiểu thành phố - một người cằm bạnh, rắn chắc, tóc lởm chởm cắt ngắn, người kia mặt dài, vẻ độc ác. Người thứ ba là tướng Xúpbôtin, chủ trang trại, nơi đang diễn ra cuộc họp trong nhà bếp, thì mặc chiếc sơmi may bằng vải thô, hai tay áo xắn lên... Làn da trên đầu ông ta giật giật, khuôn mặt béo phị với bộ ria vểnh lên đỏ bừng vì rượu.
Người thứ tư là Garin. Y mặc bộ quần áo du lịch, và vừa uể oải đưa ngón tay xoay quanh mép ly vừa nói:
- Mọi chuyện như vậy là rất tốt đẹp... Nhưng tôi khẩn thiết đề nghị là tuy người tù của tôi là một tên Bônsêvích thật, nhưng anh ta phải được đối xử tử tế. Phải được cho ăn một ngày ba lần, có rượu, có rau, có hoa quả... Một tuần nữa tôi sẽ đến đón anh ta ở chỗ các ngài... Biên giới Bỉ phải không?...
- Chỉ cần đi ô tô bốn lăm phút thôi, - người có bộ mặt dài vội vã nhô người ra phía trước và nói.
- Mọi việc sẽ hoàn toàn bí mật... Thưa tướng quân và các ngài sĩ quan (Garin nhếch mép cười), tôi hiểu rằng các ngài là những nhà quí tộc, những người trung thành vô hạn với kỷ niệm về đức hoàng đế đã chịu bao đau khổ, nên giờ đây các ngài hành động chỉ vì những động cơ cao quí, hoàn toàn có tính chất lý tưởng... Nếu không thì tôi đã chẳng dám nhờ cậy các ngài giúp đỡ...
- Tất cả chúng ta ở đây đều cùng hội cùng thuyền, việc gì ông phải nói như vậy? - viên tướng khàn khàn đáp, lớp da trên đầu lại giật giật.
- Tôi xin nhắc lại, điều kiện là như thế này: tôi trả cho các ngài một nghìn phơrăng một ngày cho việc chăm nom người tù của tôi... Các ngài đồng ý chứ?
Viên tướng đưa cặp mắt đỏ mọng nhìn về phía các đồng sự của mình. Gã cằm bạnh nhe hàm răng trắng ra, còn gã mặt dài cụp mắt xuống.
- Ồ, hóa ra là thế, - Garin nói. - Tôi có lỗi, thưa các ngài. Tiền đặt trước đây!
Y rút trong túi để súng lục ra một tập giấy bạc một nghìn phơrăng và quẳng vào chỗ rượu lênh láng trên bàn.
- Xin các ngài nhận cho.
Viên tướng e hèm, đẩy tập giấy bạc về phía mình, xem kỹ, chùi vào bụng rồi bắt đầu đếm, hai lỗ mũi đầy lông thở khụt khịt. Hai gã sĩ quan cũng nhích lại gần, mắt long lanh.
Garin đứng dậy, nói:
- Cho dẫn người bị bắt vào.
57
Mắt Senga bị bịt kín, vai khoác áo măngtô da. Anh cảm thấy hơi ấm từ lò sưởi tỏa ra, hai cánh mũi anh phập phồng. Garin đẩy chiếc ghế đẩu lại gần. Senga lập tức ngồi xuống, buông bên tay bó thạch cao lên đầu gối.
Tướng Xubôtin và hai viên sĩ quan hằm hằm nhìn anh như chỉ cần có người ra hiệu hoặc nháy mắt một cái là Senga sẽ đi tiêu... Nhưng Garin không ra hiệu gì hết. Y vỗ vào đầu gối Senga rồi vui vẻ nói:
- Ở đây anh sẽ không phải thiếu thốn một thứ gì. Những người trông nom anh là những người lương thiện và họ đã được trả công hậu hĩnh. Vài ngày nữa, tôi sẽ giải phóng cho anh. Anh Senga ạ, anh hãy hứa với tôi đi, anh hãy hứa là sẽ không tìm cách chạy trốn, gây huyên náo hoặc thu hút sự chú ý của cảnh sát.
Senga lắc đầu từ chối, Garin cúi xuống anh:
- Nếu không, sẽ khó mà bảo đảm cho sự yên ổn của anh ở đây đấy... Thế nào, anh hứa chứ?
Senga chậm rãi nói khẽ:
- Tôi hứa lời hứa của một người cộng sản... (Nghe như thế, lớp da nhẵn bóng trên đầu tướng Xubôtin lập tức co rúm lại, còn hai viên sĩ quan thì thoáng nhìn nhau, khó chịu nhếch mép cười). Tôi hứa lời hứa của người cộng sản là sẽ giết chết anh ngay khi nào có dịp làm được việc đó, anh Garin ạ... Tôi hứa là sẽ đoạt được bộ máy của anh và đưa nó về Mátxcơva... Tôi hứa là đến ngày hai mươi tám này...
Garin liền nắm lấy cổ anh, không cho anh nói nữa...
- Im đi... Đồ ngốc!... Đồ điên!...
Rồi y quay lại, hách dịch nói:
- Các ngài sĩ quan ạ, tôi báo trước cho các ngài biết là con người này rất nguy hiểm, đầu óc luôn luôn bị ám ảnh bởi một tư tưởng...
- Theo tôi thì tốt nhất là giam giữ hắn trong hầm rượu, - tướng Xubôtin nói giọng trầm. - Dẫn hắn đi!
Garin hất bộ râu dê lên. Hai viên sĩ quan xốc nách Senga, đẩy qua cửa bên và lôi xuống hầm rượu. Garin bắt đầu đeo đôi găng lái xe.
- Đêm hai tám rạng ngày hai chín, tôi sẽ đến đây. Và tướng quân ạ, từ ngày ba mươi trở đi, ngài có thể ngừng việc thử nghiệm nhân giống thỏ, có thể mua cho mình một căn buồng hạng nhất trên con tàu xuyên Đại Tây Dương và sống như một ông hoàng, dù là trên đại lộ Năm ở Niu Yoóc chăng nữa.
- Ông phải để lại một thứ giấy tờ gì đó cho cái tên khốn kiếp kia chứ? - viên tướng đề nghị.
- Đây, ngài chọn lấy hộ chiếu nào cũng được.
Garin rút trong túi ra một bó giấy buộc kỹ. Đấy là những giấy tờ y đánh cắp của Senga tại khu rừng Phôngtenơblô. Y chưa có lúc nào xem lại vì quá bận bịu.
- Chắc hẳn đây là những tấm hộ chiếu chuẩn bị sẵn cho tôi đây. Lo xa thật... Ngài nhận lấy này...
Garin quẳng lên bàn cuốn hộ chiếu và tiếp tục lục lọi trong chiếc ví. Y thấy một thứ gì đó đáng chú ý, liền đưa lại gần đèn. Lông mày y nhíu lại.
- Thật quỷ quái! - Và y lao đến cửa bên, nơi Senga vừa bị lôi đi.
58
Senga nằm trên tấm đệm trải trên sàn đá. Ngọn đèn dầu soi sáng căn hầm có mái vòm, soi sáng những chiếc thùng rỗng và những mạng nhện chằng chịt. Garin đưa mắt tìm Senga một lát. Y đứng trước anh, cắn cắn môi:
- Vừa rồi tôi nóng quá, anh Senga ạ, anh đừng giận nhé. Tôi nghĩ rằng chúng ta nhất định sẽ tìm được tiếng nói chung. Chúng ta sẽ thỏa thuận được với nhau. Anh có muốn như thế không?
- Anh cứ nói thử đi.
Giọng Garin ngọt ngào, khác hẳn mười phút trước đây. Senga cảnh giác. Nhưng nỗi lo lắng anh trải qua đêm qua, chất hơi gây mê còn sót lại vẫn làm người anh bải hoải và cái tay đau đã làm yếu đi sự chú ý của anh, Garin ngồi ghé lên tấm đệm. Nom mặt y có vẻ trầm ngâm, cả người y toát ra cái vẻ phong nhã, thiện ý.
"Cái thằng đê tiện này muốn gì? Hắn muốn gì đây? "- Senga thầm nghĩ, nhăn mặt lại vì đau đầu.
Garin ôm đầu gối, châm thuốc hút, ngước mắt nhìn mái vòm căn hầm.
- Senga ạ, trước hết, anh cần biết rõ rằng tôi không bao giờ nói dối. Có lẽ do tôi khinh bỉ mọi người, nhưng điều đó không quan trọng. Sự thật là như thế này. Rôlinh với hàng tỷ đô la của hắn chỉ cần cho tôi đến một lúc nào đó thôi... Tuy hắn ngốc nghếch thật, nhưng hình như hắn cũng hiểu như thế thì phải... Rôlinh đến đây để biến châu Âu thành thuộc địa. Nếu không làm được việc đó thì hắn sẽ bị phá sản ở Mỹ với cái gia tài hàng tỷ đô la của hắn. Hắn là một con vật, toàn bộ nhiệm vụ của hắn là lao về phía trước mà húc, mà giẫm đạp. Hắn không có một chút trí tưởng tượng nào. Bức tường duy nhất khiến hắn có thể bị vỡ đầu là nước Nga Xô Viết. Hắn hiểu như vậy, do đó toàn bộ nỗi cuồng nộ của hắn đều nhắm vào tổ chức yêu quí của anh... Tôi không coi tôi là người Nga (y vội vã nói thêm) tôi là một kẻ theo chủ nghĩa thế giới... [1]
- Dĩ nhiên rồi, - Senga nhếch mép cười khinh bỉ, nói.
- Mối quan hệ giữa chúng ta là như thế này: chúng ta sẽ làm việc cùng nhau đến một lúc nào đây.
- Đến ngày hai mươi tám...
Cặp mắt long lanh của Garin nhìn Senga với vẻ giễu cợt:
- Anh đã tính như vậy à? Theo báo chắc?
- Có lẽ thế...
- Được... Cứ cho là đến ngày hai mươi tám đi. Sau đó, chúng ta nhất định sẽ cắn xé nhau... Nếu Rôlinh thành công thì nước Nga Xô Viết sẽ lâm vào tình thế nguy hiểm gấp đôi, bộ máy của tôi sẽ rơi vào tay hắn và khi đó các anh sẽ phải đương đầu với hắn cực kỳ khó khăn... Do đó, anh Senga ạ, anh cứ ở đây với lũ nhện chừng một tuần lễ, bằng cách đó anh sẽ làm tăng thêm rất nhiều khả năng thắng lợi của tôi.
Senga nhắm mắt lại. Garin ngồi phía dưới chân anh và rít những hơi thuốc ngắn. Senga nói:
- Anh có cần quái gì đến sự đồng ý của tôi đâu. Chẳng cần tôi đồng ý, anh cũng sẽ giam giữ tôi ở đây bao lâu tùy ý anh kia mà. Anh cần gì thì cứ nói đại đi...
- Đáng lẽ phải như vậy từ lâu rồi... Nhất là anh là một đảng viên cộng sản nữa. Lạy Chúa, bao lâu nay anh đã gây ra cho tôi biết bao long đong, chìm nổi... giờ đây hình như anh đã bắt đầu hiểu ra được vấn đề. Tôi với anh là kẻ thù của nhau, quả đúng như thế thật... Nhưng chúng ta phải làm việc cùng nhau... Xét trên quan điểm của anh thì tôi là đồ quái thai, một kẻ cá nhân chủ nghĩa tột độ... Tôi, Garin, nhờ ân huệ của những thế lực đã tạo ra tôi, với bộ óc của tôi, - xin anh đừng cười, anh Senga ạ, - với bộ óc thiên tài của tôi, đúng, đúng như vậy đấy, với những khát vọng cháy bỏng khiến chính tôi cũng cảm thấy nặng nề và khiếp sợ, với tính tham lam và tính vô nguyên tắc của tôi, tôi đối lập bản thân tôi, đúng thế đấy, tôi đối lập bản thân tôi với loài người.
- Gớm nhỉ! - Senga nói - Đúng là đồ súc sinh...
- Anh nhận xét rất đúng, anh hiểu tôi đấy, anh Senga ạ. Tôi là một kẻ ưa hưởng lạc, tôi cố gắng dành từng giây từng phút của đời tôi cho sự hưởng lạc. Tôi vội vã, tôi hối hả tiêu diệt Rôlinh, bởi vì tôi đang bị mất đi những giây phút quý báu đó. Ở nước Nga xa xôi kia, những loại người như anh đại diện cho tư tưởng duy vật chiến đấu. Tôi không có một tư tưởng gì hết, tôi căm thù một cách có ý thức, một cách cuồng tín bất cứ tư tưởng nào. Tôi đặt cho mình một mục đích là tạo ra một hoàn cảnh như thế nào đấy (tôi sẽ không kể tỉ mỉ, làm anh mệt), bao quanh mình một sự xa hoa như thế nào đấy để những khu vườn thượng uyển và những cảnh huy hoàng lộng lẫy khác ở phương Đông sẽ chỉ là trò trẻ con so với thiên đường của tôi. Tôi sẽ huy động toàn bộ khoa học, toàn bộ kỹ nghệ, toàn bộ nghệ thuật phục vụ cho tôi. Senga ạ, anh hiểu rõ rằng đối với anh, tôi là một mối nguy hiểm xa xôi, hết sức huyễn hoặc, còn Rôlinh mới là mối nguy hiểm cụ thể, gần cận, đáng sợ. Bởi vậy, tôi với anh phải cùng đi với nhau đến một điểm nhất định, cho đến khi Rôlinh bị đè bẹp. Tôi chỉ yêu cầu có thế thôi.
- Vậy anh muốn tôi giúp đỡ như thế nào? - Senga hỏi với vẻ khinh bỉ.
- Tôi cần anh ngao du một thời gian ngắn trên biển.
- Nói cách khác, anh muốn tiếp tục giữ tôi chứ gì?
- Đúng thế.
- Anh sẽ đánh đổi cái gì để tôi không kêu cứu viên cảnh sát đầu tiên mà tôi gặp khi anh chở tôi đi ra biển?
- Anh muốn lấy bao nhiêu tiền cũng được.
- Tôi không muốn lấy tiền.
- Anh khôn lắm - Garin nói và cựa quậy trên tấm đệm, - Thế anh có đồng ý đổi lấy bộ máy mẫu của tôi không? (Senga thở phì phì). Anh không tin chứ gì? Anh cho rằng tôi sẽ đánh lừa, sẽ không trao cho anh chứ gì? Được, anh cứ suy nghĩ đi, cứ suy nghĩ xem tôi có đánh lừa hay không đi, (Senga nhún vai). Vấn đề là thế này... Ý tưởng sáng tạo bộ máy cực kỳ đơn giản... Tôi không tài nào có thể giữ bí mật được lâu. Số phận các sáng chế thiên tài là như vậy. Sau ngày hai mươi tám, tất cả các báo sẽ miêu tả hoạt động của các tia hồng ngoại, và chỉ nửa năm nữa là người Đức chứ không phải ai khác sẽ chế tạo được bộ máy hệt như vậy. Tôi không liều lĩnh gì hết. Anh cứ giữ lấy mô hình mà đưa về nước Nga Xô Viết. À, tôi vẫn giữ hộ chiếu và giấy tờ của anh đây. Anh cầm lấy, tôi không cần đến nữa... Xin lỗi anh vì tôi đã lục lọi mớ giấy tờ của anh. Tôi tò mò quá mà... Em bé xăm mình trong tấm ảnh mà anh có ấy là em bé nào vậy?
- Một em bé không nhà cửa chứ có gì đâu. - Senga đáp lại ngay lập tức, vì tuy đau đầu nhưng anh vẫn hiểu được rằng Garin đang lần mò đến vấn đề chính, vấn đề đã thúc giục y xuống hầm rượu.
- Ở mặt trái tấm ảnh có ghi ngày hai mươi tháng trước, tức là anh chụp em bé trước hôm ra đi phải không? Ở Leningrát, anh chưa cho ai xem tấm ảnh này chứ?
- Chưa, - Senga khinh khỉnh đáp.
- Thế anh giấu em bé đó ở đâu? Chà, thế này mà lúc nãy tôi không nhận ra: Anh chụp trên gác sân của câu lạc bộ đua thuyền phải không? Tôi nhận ra ngay, địa điểm quen thuộc quá... Em bé đã kể những gì cho anh nghe? Manxép còn sống chứ?
- Vẫn còn sống.
- Ông ta có tìm được những thứ mà người ta đi tìm ở đấy không?
- Hình như đã tìm được thì phải.
- Anh thấy chưa, tôi bao giờ cũng tin vào Manxép.
Garin tính đúng. Y đã chuẩn bị trước cho Senga để anh tin rằng y không thể nói dối được - do chỗ y khinh bỉ người đời và còn do chỗ y coi chuyện dối trá là phương pháp rẻ tiền trong cuộc chơi và trong chiến đấu. Một phút sau, Garin đã biết được toàn bộ câu chuyện về việc em bé Ivan xuất hiện tại câu lạc bộ đua thuyền và tất cả những gì em kể lại về công việc của Manxép.
- Như vậy là - Garin đứng dậy, vui vẻ xoa tay - nếu đêm hai mươi chín mà chúng ta lên xe ra đi thì bộ máy mẫu sẽ ở bên chúng ta, anh muốn tạm thời giấu bộ máy ở bất cứ nơi nào cũng được. Bảo đảm như vậy đối với anh đã đủ chưa? Anh đồng ý chứ?
- Đồng ý.
- Anh sẽ không tìm cách giết tôi nữa?
- Trước mắt thì không.
- Tôi sẽ ra lệnh đưa anh lên trên, ở đây quá ẩm thấp. Anh sẽ ăn uống thỏa thích và sẽ được bình phục.
Garin nháy mắt và bước ra
59
- Họ và tên ngài là gì?
- Tôi là Alếchxanđrơ Ivanôvích Vônsin, đại úy trung đoàn Cunnépxki, - viên sĩ quan cằm bạnh ưỡn thẳng người trước mặt Garin, trả lời.
- Ngài sống bằng cách nào?
- Tôi làm công nhật cho tướng Xubôtin. Tôi chăm sóc thỏ, lương hai mươi xu một ngày, không kể thức ăn. Trước đây tôi làm nghề lái xe, tiền kiếm được cũng kha khá nhưng rồi bọn bạn cùng trung đoàn thuyết phục tôi làm đại biểu đi dự đại hội quân chủ. Ngay trong phiên họp đầu tiên, tôi đã tát tai đại tá Séctôbitốp trong lúc nổi nóng. Tôi bị tước quyền và bị mất việc.
- Tôi đề nghị với ngài một công việc nguy hiểm, nhưng được trả công rất hậu. Ngài đồng ý không?
- Vâng.
- Ngài sẽ đi Pari. Ngài sẽ nhận giới thiệu. Ngài sẽ được nhận việc. Ngài sẽ đem theo giấy tờ và thư ủy nhiệm về Lêningrát... Ở đấy, ngài sẽ căn cứ tấm ảnh này mà tìm kiếm một thằng bé...
60
Năm ngày trôi qua. Không có một biến cố gì phá vỡ cảnh thanh bình của thị trấn K. trên bờ sông Ranh, trong một thung lũng xanh tươi và ẩm ướt cạnh những nhà máy nổi tiếng của Công ty hóa chất anilin.
Trên những đường phố ngoằn ngoèo và hè phố hẹp, suốt từ sáng rộn rã tiếng guốc dép của các em học sinh, tiếng bước chân nặng nề của các công nhân, và nhiều phụ nữ đẩy xe nôi về phía sông trong bóng râm của rặng cây đoạn... Từ trong hiệu cắt tóc, người thợ cạo mặc chiếc gilê bằng vải thô bước ra phố, đặt chiếc thang xếp lên hè. Người thợ phụ trèo lên thang, lau sạch tấm biển hàng vốn đã bóng loáng, vẽ hình chiếc thau đồng và bộ đuôi ngựa màu trắng. Trong tiệm cà phê, người ta cũng đang lau chùi các tấm kính. Chiếc xe tải bánh to tướng, chở những thùng bia rỗng, lăn ầm ầm trên mặt đường.
Thật lạ lùng. Trong vòng bốn thế kỷ, có trời mới biết nước Đức đã giàu có lên bằng cách nào, những đứa con của nó đã biết đến vinh quang như thế nào và những cặp mắt xanh lơ của người dân Đức đã rạng rỡ những niềm hy vọng nào...
Vậy mà giờ đây, tất cả đều hóa thành vô ích. Trong những căn bếp nhỏ xíu là những túm hành đặt trên bàn lát gạch men, và trong ánh mắt thiếu đói của các phụ nữ lại lộ rõ nỗi buồn bã xưa cũ.
Henrích và Khơlưnốp, giày lấm đầy bụi, áo vét tông vắt tay, trán ướt đẫm mồ hôi, đi qua chiếc cầu vồng lên rồi tiến theo con đường cái mát bóng cây, về phía thị trấn K.
Mặt trời đang khuất sau rặng núi thấp. Trong ánh chiều vàng óng, khói vẫn cuồn cuộn bốc ra từ những ống khói của Công ty hóa chất anilin. Những tòa nhà, những ống khói, những tuyến đường sắt, những mái lợp ngói của nóc nhà kho - tất cả cứ nhấp nhô theo dọc hai bên các ngọn đồi mà tiến sát tới thị trấn.
- Tôi tin là ở chỗ kia kìa - Henrích nói và chỉ tay về phía những ngọn núi đá hồng lên trong ráng chiều, - Nếu chọn địa điểm thích hợp nhất cho việc bắn phá các nhà máy thì tôi sẽ chọn nơi đó.
- Đồng ý thôi, nhưng ta chỉ còn ba ngày nữa. Henrích ạ...
- Mạn Nam thì không có gì nguy hiểm cả vì quá xa. Các khu vực phía Bắc và phía Đông thì ta đã lục lọi đến viên đá cuối cùng rồi. Chúng ta chỉ cần ba ngày là đủ.
Khơlưnốp quay về phía những ngọn đồi rậm rạp cây cối đã ngả sang màu tím ở mạn Bắc. Suốt năm ngày đêm qua, anh và Henrích đã tìm kiếm từng lòng chảo, nơi có thể ẩn giấu một cơ ngơi gì đó - một tòa biệt thự hoặc một túp lều - có cửa sổ hướng về các nhà máy.
Suốt năm ngày đêm họ không thay quần áo, và khi trời đã khuya thì bạ đâu ngủ đấy. Thậm chí, họ không còn cảm thấy đau chân nữa. Họ đi theo các con đường đá và các con đường hẻm, họ băng qua các khe núi và các bờ giậu, họ ngang dọc các ngọn núi xung quanh thành phố, họ đã vượt qua phải đến cả trăm cây số. Nhưng không một nơi đâu họ thấy dấu vết Garin. Họ gặp nhiều nông dân, nhiều chủ trại, nhiều người làm công tại các nhà nghỉ, nhiều người thợ kiểm lâm và gác rừng, nhưng ai cũng vung tay ngạc nhiên.
- Khắp vùng này không có một ai từ nơi khác đến, còn những người ở đây thì chúng tôi đều biết hết.
[1] Cosmopolit (Tiếng Hy lạp “Công dân thế giới”: người phủ nhận khái niệm Tổ quốc và dân tộc, nhận mình là công dân của cả thế giới. (chú thích của nguyên bản).
Dịch từ nguyên bản tiếng Nga: GIBERBOLOID INZHENKRA GARINA (Гиперболоид инженера Гарина)
Izdatelstvo METALLURGIJA, Moskva, 1985
Dịch giả: Đặng Ngọc Long
Theo http://vnthuquan.org/






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Thơ Trẻ 20 năm đầu thế kỷ XXI – Những tìm tòi và thử nghiệm Đặt vấn đề thơ Trẻ trong 20 năm đầu thế kỷ XX, chúng tôi muốn nhắc đến đội n...