Chốn cũ người xưa
Tôi không biết phải bắt đầu câu chuyện này từ đâu, để
nói về một thời đã qua và những người mà tôi đã gặp. Dẫu vậy, dù thời gian có
xa cách bao nhiêu, thì những người mà tôi đã gặp ấy, cùng những câu chuyện về họ,
tôi đã nghe, đã thấy, thì có lẽ không bao giờ tôi quên được.
Trước hết, xin được
nhắc lại một sự kiện xảy ra ở Vĩnh Linh cách đây 52 năm trước. Ấy là vào năm
1967, năm mà giặc Mỹ leo thang đánh phá Vĩnh Linh với một cường độ ác liệt chưa
từng có. Trước tình hình đó, đồng bào Vĩnh Linh đã phải sơ tán ra các tỉnh phía
bắc để tránh sự hủy diệt của bom đạn Mỹ. Kế hoạch sơ tán được chia làm hai đợt.
Đợt một bao gồm tất cả học sinh các cấp sẽ sơ tán ra các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ
được gọi là “học sinh K8”. Đợt hai bao gồm người già, phụ nữ và trẻ em chưa đến
tuổi đi học, sẽ tản cư ra Nghệ An, được gọi chung là “đồng bào K10”. Có thể
nói, đây là cuộc di dân lớn nhất diễn ra chưa từng có nơi mảnh đất này.
Học sinh K8 trong những năm xa quê, đã được sống
trong tình yêu thương, đùm bọc của nhân dân các tỉnh phía bắc. Và đây chính là
khởi đầu cho nhiều câu chuyện cảm động, đầy ắp tình người xảy ra sau này…
Tôi nhớ vào khoảng
tháng Ba hay tháng Tư gì đó năm 2003, Tổng cục Chính trị Quân đội có mở một Trại
sáng tác văn học tại Cửa Tùng. Thành viên tham dự trại viết có đủ các thành phần
trong và ngoài quân đội. Ban đầu, trại viên chẳng ai biết ai, nhưng khi giới
thiệu bút danh, tên tuổi, thì phần đông mọi người ồ lên vui vẻ nhận ra nhau, vì
ít nhiều đã từng đọc tác phẩm của nhau trên các báo, tạp chí. Có một người ở tận
Lào Cao vào dự trại viết, đó là nhà văn Đoàn Hữu Nam. Anh có dáng người cao
ráo, trắng trẻo, vẻ thư sinh. Qua giới thiệu, tôi được biết anh hiện đang làm
Trưởng ban Biên tập Tạp chí Phansipan của Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Lào
Cai...
Ngay hôm đầu tiên
đến Cửa Tùng, Đoàn Hữu Nam đã tâm sự với tôi rằng, anh rất yêu Vĩnh Linh, dù là
lần đầu đến đây, nhưng hai tiếng Vĩnh Linh đối với anh đã từ lâu trở nên rất đỗi
thân thiết và quen thuộc. Tôi nhận ra trong giọng nói của anh có một cái gì đó
rất thật, rất tình cảm. Rồi anh kể, quê anh ở huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, thời
chiến tranh có rất nhiều học sinh từ Vĩnh Linh sơ tán ra sinh sống, học tập.
Gia đình anh cũng nhận đỡ đầu một cậu bé 10 tuổi, tên là Nguyễn Văn Bình. Bình
sống với gia đình anh từ năm 1967 đến năm 1973, khi ký Hiệp định Paris, lập lại
hòa bình ở Việt Nam, Bình mới trở về quê hương. Bố mẹ anh ngày ấy rất thương
Bình, coi Bình như con đẻ. Còn Nam, cùng tuổi với Bình nên cũng xem Bình như
anh em ruột thịt.
Đất nước thời chiến
tranh trăm bề khó khăn. Mọi gia đình đều túng thiếu. Thiếu từ cái ăn, cái mặc,
đến cả cuốn vở, cái bút, lọ mực… của con trẻ đến trường. Học sinh K8 thời ấy, mọi
điều kiện sinh sống, học tập, dù được Chính phủ chăm lo, vẫn phải dựa vào nhân
dân là chính. Thấy các cháu còn quá nhỏ đã phải xa cha mẹ, người thân, đi sơ
tán, nên ai cũng thương. Họ đã cưu mang, đùm bọc, chăm sóc cho các cháu như con
cái trong nhà. Gia đình Nam rất nghèo. Bố mẹ anh làm nông, quanh năm đầu tắt mặt
tối, nuôi bốn người con ăn học, thêm Bình nữa là năm. Cái ăn đã khó, cái mặc
còn khó hơn. Áo quần, vải vóc ngày ấy rất hiếm, muốn mua được mảnh vải phải có
tem phiếu. Nam đi học cũng chỉ có một chiếc áo sơ mi lành lặn. Đi học về lỡ
không may bị mưa ướt, phải nhanh nhanh thay ra kịp giặt phơi khô để ngày mai mặc
lại đi học. Áo Nam mặc chật, thì nhường lại cho các em. Đôi khi Nam và Bình còn
mặc chung áo quần của nhau. Khổ nhất là vào mùa đông, chăn không đủ ấm, phải
dùng rơm khô rải xuống bên dưới chiếu. Nam và Bình đã có “sáng kiến” lấy những
chiếc bao tải được dệt bằng sợi đay, khoét thủng đáy, để khi ngủ luồn cả người
vào bao, cuộn tròn lại cho đỡ lạnh. Cuộc sống khó khăn nhường vậy, nhưng gia
đình lúc nào cũng rộn rã tiếng cười. Ngày ấy, bố Nam đi dân công lau súng cho bộ
đội, có xin được mấy chiếc áo bộ đội cũ về cho các con. Những chiếc áo ấy là dẻ
lau súng, thu lại của các anh bộ đội vào miền Nam chiến đấu, để phát quân phục
mới. Hầu hết những chiếc áo đều bị rách ở phần lưng, hoặc vai, được bố mẹ anh
chong đèn suốt đêm, khâu lại cho các con mặc thêm về mùa đông cho đỡ lạnh. Bình
cũng được bố anh cho một chiếc áo như thế. Có một chi tiết Nam không thể quên, ấy
là chiếc áo của Bình khi khâu chỗ bị rách, hiện rõ sau lưng một miếng vá to, có
dáng dấp hình khẩu súng lục, khiến Bình rất thích. Bình đã mặc chiếc áo ấy suốt
mấy mùa đông của những năm sơ tán.
Nam và Bình đã sống
với nhau, chia sẻ mọi niềm vui, nỗi buồn cùng nhau, trong từng ấy năm trời. Từ
ngày Bình chia tay trở về quê hương, tính đến nay đã 36 năm, chưa một lần gặp lại.
Không một phong thư, không một tin tức. Không biết Bình nay ra sao? Khi biết
Nam nhận được giấy mời vào Vĩnh Linh dự trại sáng tác văn học, bố anh vui lắm!
Mấy ngày liền ông cụ cứ nhắc đến Bình mãi. “Hồi nó ra đây sống với nhà mình còn
bé tý, người gầy gò, nước da đen nhẻm, thấy mà thương”. Rồi lại: “Ngày ấy tuy
bé nhưng nó rất ngoan và chăm học, lại tranh thủ những ngày nghỉ học giúp nhà
ta đi chăn trâu, cắt cỏ…”. Trước ngày Nam chuẩn bị ra đi, anh thấy bố anh trằn
trọc cả đêm không ngủ, sáng ra ông cụ dặn đi dặn lại, như sợ anh không nhớ:
“Con vào trong ấy cố tìm cho được thằng Bình xem nó thế nào. Phải tìm cho được
nó, rồi bảo nó về ngoài này chơi…”. Bố anh dặn thế, âu cũng là nguyện vọng tha
thiết của ông cụ, Nam không thể không thực hiện.
Câu chuyện của Nam
về người học sinh K8 năm xưa thế nào lại đến tai ông Dương Cận, lúc ấy là Bí
thư Huyện ủy huyện Vĩnh Linh, thay mặt lãnh đạo huyện đến dự khai mạc trại viết.
Cuối buổi chiều hôm ấy, ông Dương Cận trực tiếp gặp Nam và bảo: “Tôi có nghe
câu chuyện của anh, nếu anh muốn tìm lại người học sinh K8 ấy thì tôi sẽ cử người
cho ôtô xuống tại đây đưa anh đi”. Ban đầu nghe ông Bí thư Huyện ủy nói vậy,
Nam rất mừng và đã cảm ơn ông. Nhưng rồi suy nghĩ lại, anh thấy đây là việc
riêng, không nên làm phiền đến huyện, nên anh đã lựa lời từ chối. Trại viết diễn
ra được chừng một tuần thì Nam rủ tôi cùng đi tìm Bình với anh. Vì cũng là học
sinh K8, thấu hiểu được tình cảm của Nam, nên tôi vui vẻ đồng ý ngay.
Gần một ngày rong
ruổi bằng xe máy đi qua rất nhiều xã, từ Vĩnh Hòa, lên Vĩnh Nam, về Vĩnh Chấp…
chúng tôi vẫn không tìm được Bình. Cái khó là vì Nam không biết cụ thể Bình hiện
sinh sống ở đâu. Thôn không biết đã đành. Đến xã cũng không biết nốt. Vĩnh Linh
có đến hơn 20 xã, xã nào ngày ấy cũng có học sinh đi sơ tán ra các tỉnh phía bắc,
vậy phải tìm thế nào đây? Đến lúc chán nản định quay về thì Nam sực nhớ ra ngày
ấy có lần Bình nói với Nam rằng, nhà Bình ở gần sông Bến Hải, con sông chia cắt
hai miền Nam - Bắc. Bình còn nói rằng, ngày ấy đứng ở bên này bờ bắc đã có thể
nhìn thấy lính tráng, xe cộ của địch đi lại bên phía bờ nam. Chi tiết nhỏ ấy
giúp tôi khẳng định, nơi ấy chắc chắn chỉ có thể là xã Vĩnh Sơn. Tôi và Nam tiếp
tục lên Vĩnh Sơn, đi hầu hết các thôn dọc bờ sông Bến Hải, hỏi người này người
kia, quả nhiên đây chính là quê Bình. Nhưng tiếc là Bình đã không còn ở làng cũ
nữa, mà đã đi xây dựng vùng kinh tế mới Dục Đức, ở phía tây huyện. Nghe một người
họ hàng với Bình kể, Bình hiện là thương binh, đã có thời gian làm Chủ nhiệm Hợp
tác xã, sau đó tình nguyện đưa vợ con đi xây dựng vùng kinh tế mới. Chúng tôi
thở phào quên hết mọi mệt nhọc.
Đường lên vùng
kinh tế mới Dục Đức ngày ấy chỉ là những lối mòn, nhiều khe suối, đèo dốc, có
chỗ xe máy không đi được, phải xuống xe dắt bộ. Nhưng niềm vui đổi lại là chiều
ấy chúng tôi đã tìm được đến nhà Bình. Dù đã 16 năm trôi qua, tôi vẫn không sao
quên được phút giây gặp gỡ giữa Nam và Bình vào buổi chiều hôm ấy. Một cuộc gặp
sau ba mươi sáu năm xa cách. Hồi ấy cả Nam và Bình mới lên chín, lên mười, nay
họ gặp lại nhau, tóc ai cũng đã điểm bạc. Họ ôm lấy nhau, tay bắt mặt mừng, cười
đấy, nói đấy, nhưng mắt ai cũng rưng rưng lệ.
Trong bữa cơm thân
mật, Nam và Bình kể với nhau đủ chuyện, nhưng có lẽ nhiều nhất là chuyện về quê
hương, gia đình. Bình rất xúc động khi biết bố mẹ nuôi vẫn khỏe, giờ không còn ở
quê cũ Hà Nam, mà đã lên thành phố Lào Cai, nơi con trai công tác, sống cùng
Nam, để tiện cho việc chăm sóc. Bình nói với bố mẹ nuôi qua máy ghi âm của Nam:
“Bố mẹ ơi, con là Bình K8 ngày xưa của bố mẹ đây. Con rất vui vì Nam đã vào tận
đây tìm con. Chúng con đã gặp lại nhau. Rồi con sẽ ra thăm bố mẹ và gia đình
ta. Con chúc bố mẹ và các em sức khỏe!”. Tiếng Bình nghẹn lại giữa chừng. Rồi
như bỗng nhớ ra điều gì, Bình đi vào buồng trong, một lúc anh đi ra, tay xách
theo một chiếc cặp. Từ trong chiếc cặp ấy, Bình lấy ra một chiếc áo bộ đội. Cả
tôi và Nam cùng hướng mắt về phía ấy. Bình dở tung chiếc áo ấy ra. Tôi nhận thấy
chiếc áo bộ đội tuy cũ, nhưng vẫn còn nguyên màu xanh, đặc biệt phía sau lưng
áo có một miếng vá mang hình khẩu súng lục. Không nói ra, nhưng tôi cũng đoán
biết đó là chiếc áo bộ đội mà bố mẹ nuôi đã tặng cho Bình mấy mươi năm trước.
Chiếc áo quân phục ấy, không ai có thể ngờ được là Bình còn giữ đến hôm nay.
Bình nâng chiếc áo trên tay, nói tiếp vào máy ghi âm: “Bố mẹ ơi, chiếc áo bố mẹ
cho con ngày ấy, con vẫn còn giữ. Mai kia ra thăm bố mẹ, con sẽ mang theo chiếc
áo này ra. Chắc khi nhận ra chiếc áo này bố mẹ cũng sẽ cảm động lắm!”. Chiếc áo
quân phục mới hôm nào được nghe Nam kể, giờ tận mắt nhìn thấy, là câu chuyện có
thật, diễn ra ngay trước mắt tôi, vậy mà tôi vẫn ngỡ như trong mơ, vẫn ngỡ như
ai đó tưởng tượng ra, thêu dệt nên. Tôi tiếc ngày ấy, mình đã không có chiếc
máy ảnh để ghi lại khoảnh khắc này.
Nam và Bình gặp
nhau khiến tôi liên tưởng đến những cuộc hội ngộ, trùng phùng khác. Có cả những
cuộc hội ngộ giữa học sinh K8 trước đây với… người xưa để rồi từ đó nảy nở tình
yêu đôi lứa sau này. Hôm ấy tôi đã kể cho Nam và Bình nghe về một tình yêu đã
đơm hoa kết trái trong một hoàn cảnh như thế. Đó là chuyện vợ chồng Thu, Thảo ở
xã Vĩnh Giang. Thu là học sinh K8, còn Thảo là con gái bà chủ nhà, người đã
nuôi Thu khi anh sơ tán ra Hà Nam. Năm ấy, cả Thu và Thảo mới chỉ 8 tuổi tròn.
Cô cậu này ở chung với nhau một nhà, học chung với nhau một lớp. Họ đã sống với
nhau như thế trong nhiều năm, cho đến khi Thu trở về quê hương. Họ không còn liên
lạc với nhau từ đó. Lớn lên, Thu vào bộ đội. Cô bạn “chung một nhà” thuở ấu thơ
của anh cũng nhập ngũ sau anh vài năm. Thế rồi mười năm sau, vào năm 1983, họ
tình cờ gặp lại nhau trong một lần cả hai cùng đợi tàu từ thành phố Hồ Chí Minh
ra Bắc. Từ đó là những lá thư họ gửi cho nhau. Tình yêu của họ bắt đầu được
nhen lên từ những lá thư ấy. Ba năm sau, Thu lần đầu một mình ra Bắc, tìm về chốn
cũ người xưa, vừa để thăm bố mẹ Thảo, là người đã cưu mang anh từ bé, vừa để gặp
người con gái mà anh hẹn hò. Mới bước vào cửa, mẹ Thảo đã chửi yêu: “Cha bố
anh, anh hẹn với con gái tôi bao nhiêu lần, lần này anh không ra ngoài này, tôi
sẽ vào Vĩnh Linh tôi chửi cho mà xem…”. Bây giờ thì vợ chồng Thu, Thảo đã yên bề
gia thất, các con của họ cũng đã lớn, có gia đình, mỗi đứa một việc. Nhớ lại
ngày còn trẻ, mỗi lần đưa các con ra thăm quê ngoại, khi nhắc đến mối nhân
duyên giữa Thu và Thảo, mọi người lại cười bảo: “Chúng nó yêu nhau từ bé, khi
còn ở với nhau một nhà!”.
Bà Nguyễn Thị
Doan, hồi còn đảm đương chức vụ Phó Chủ tịch nước, vào năm 2013, đã có chuyến
thăm và làm việc tại Quảng Trị. Khi đến thăm và tặng quà cho người dân địa
phương bị thiệt hại do bão gây ra ở huyện Vĩnh Linh, bà đã hỏi thăm về hai học
sinh K8 từng ở với gia đình bà thời chiến tranh. Bà kể, những năm học sinh Vĩnh
Linh sơ tán ra Hà Nam sinh sống, học tập, thì bà đang học Đại học ở Hà Nội. Thỉnh
thoảng vài ba tháng, bà mới có dịp về thăm quê một lần. Về vài ba ngày bà lại
phải trở ra Hà Nội ngay, không ở nhà được lâu. Bà nhớ ngày ấy có hai học sinh
là chị em ruột, đứa chị chừng 11, 12 tuổi, đứa em khoảng lên 9 lên 10, sống với
mẹ và em trai bà ở quê nhà, xã Chân Lý, huyện Lý Nhân. Vì đã hơn 45 năm, lại
không ở cùng các em, nên tên của hai chị em, bà cũng chỉ nhớ mang máng cô chị
tên Hương và thằng em tên Thủy. Bà bảo, hai chị em còn bé nhưng rất ngoan và
chăm học. Cô chị là học sinh giỏi cấp II nhiều năm. Năm 1973, học xong Đại học,
bà ở lại Hà Nội, công tác luôn ngoài ấy nên càng ít biết về các em. Bà cũng
không rõ các em ở xã nào trong huyện. Bà muốn gặp lại các em, để biết xem các
em bây giờ ra sao. Những người có mặt hôm ấy nghe chuyện cũng không ai biết hai
chị em Hương và Thủy thuộc xã nào ở Vĩnh Linh. Bây giờ họ ở đâu, còn sinh sống ở
quê, hay phiêu bạt làm ăn phương nào? Có thể, ở đâu đó, hai chị em họ chưa hay
biết gì về chuyện này, và họ cũng chưa có may mắn gặp lại bà Nguyễn Thị Doan.
Nhưng tôi vẫn hằng tin, nhất định một ngày nào đó, Hương và Thủy sẽ thăm lại
nơi mình từng sống và gặp lại những người rất đỗi thân thương của họ.
Nửa thế kỷ trôi
qua. Những học sinh K8 ngày ấy, nay đã thành ông thành bà, nhiều người thành đạt,
có địa vị trong xã hội, nhưng cũng có người vẫn phải bươn chải mưu sinh kiếm sống
hàng ngày. Nhưng, dù là ai đi chăng nữa, thì họ, những học sinh K8 ngày ấy vẫn
không thể quên nơi một thời tuổi thơ gắn bó. Họ gọi những nơi ấy là quê hương
thứ hai. Tôi được biết, mấy chục năm nay, hầu như năm nào cũng có người ra thăm
quê hương thứ hai của mình. Những chuyến đi ấy thật xiết bao cảm động. Họ gặp lại
thầy cô, bạn bè một thuở hàn vi khốn khó. Thăm lại trường xưa lớp cũ mà mình từng
học. Tìm lại mái đình, cây đa, bến nước, dòng sông của làng quê yêu dấu. Rồi
mái nhà xưa, với cái bậu cửa, chiếc mành mành tre treo phía trước, cái bể đựng
nước mưa ở góc sân… dù có thay đổi, vẫn lưu lại hình dáng cũ của những năm
tháng xa xưa đầy kỷ niệm. Và hơn tất cả là được sống lại cái tình cảm
thân thương, gần gũi, của những người đã từng cưu mang, đùm bọc, nhường cơm sẻ
áo, nuôi mình lớn lên.
Gần đây, Huyện ủy,
Ủy ban nhân dân huyện Vĩnh Linh; Đảng ủy, Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn
trong huyện cũng đã cử đoàn ra thăm, cảm ơn, ủng hộ quỹ khuyến học cho những địa
phương từng nuôi dưỡng, chăm sóc các cháu K8. Nhiều huyện, xã ở các tỉnh Thanh
Hóa, Hà Nam, Thái Bình, Hà Bắc… trong những ngày lễ cũng cử đoàn đại biểu vào
chia vui với Vĩnh Linh. Tình cảm giữa hai bên vì thế mà ngày càng trở nên gần
gũi, thân thiết hơn bao giờ hết.
Trở lại câu chuyện
giữa Nam và Bình. Hồi đầu tháng Tư năm nay, nhân chuyến vào Đồng Hới dự Trại
sáng tác Văn học về đề tài an ninh do Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp
tổ chức, Nam gọi cho tôi, và hẹn với tôi là anh sẽ vào Vĩnh Linh, rồi cùng tôi
lên Dục Đức, thăm Bình. Tất nhiên tôi rất vui và đồng ý ngay. Vì dẫu sao thì
cũng đã mười mấy năm rồi, tôi và anh chưa gặp lại nhau. Với Bình cũng vậy, dù
anh ở ngay trong huyện, nhưng từ dạo ấy đến nay, tôi cũng chưa gặp lại anh lần
nào. Vậy là, một phần mong gặp lại Nam, một phần mong gặp lại Bình, nên lòng dạ
tôi cũng nôn nao, thấp tha thấp thỏm.
Khác với lần gặp
ban đầu, Đoàn Hữu Nam bây giờ đã là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và đã có một
số lượng tác phẩm đáng kể. Ngoài hơn 10 tập truyện ngắn, thơ, trường ca, và 5
cuốn tiểu thuyết, trong đó tiểu thuyết Thổ phỉ đã mang lại cho anh giải
thưởng cao nhất của Hội Văn học Nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam… Câu
chuyện giữa anh và Bình, sau chuyến vào Vĩnh Linh ngày ấy, trở ra Lào Cai, anh
đã có ngay tiểu thuyết Một thời như thế để nói về học sinh K8 thời bấy
giờ. Cuốn tiểu thuyết đã được Nhà xuất bản Hà Nội ấn hành năm 2017. Nhân vật
chính của tiểu thuyết không ai khác mà là Bình, được anh lấy làm nguyên mẫu cho
nhân vật của mình.
Còn Bình, nay cũng
rất khác so với hồi tôi gặp lần đầu. Bình khoe với tôi, các con anh nay đã xây
dựng gia đình, mỗi đứa đều có cuộc sống riêng và công việc làm ăn ổn định. Vợ
chồng anh túc tắc làm nông nghiệp, cấy lúa, trồng tiêu, trồng cao su, và cả cây
lâm nghiệp. Anh bảo, vùng kinh tế mới không gì thuận lợi bằng đất đai rộng rãi,
tha hồ sản xuất, chăn nuôi. Vì thế mà anh có tới 2 hécta cao su, 3 hécta cây
lâm nghiệp, 7 sào ruộng lúa. Mỗi năm sản phẩm nông nghiệp mang lại cho gia đình
anh nguồn lợi không nhỏ. Căn nhà tạm xưa của anh nay được thay thế bằng ngôi
nhà xây kiên cố. Phong cảnh nơi vùng quê bán sơn địa này, non nước hữu tình, thật
đẹp. Bình khoe với tôi, vợ chồng anh đã bốn lần ra Lào Cai thăm bố mẹ nuôi. Mỗi
lần gặp là các cụ lại rỉ rả hàng giờ ngồi ôn chuyện xưa. Rồi mỗi khi chia tay
ra về, bao giờ bà cụ cũng lấy khăn dụi mắt và bảo: “Nhớ ra ngoài này luôn luôn
các con nhé! Mẹ già rồi, chẳng đi đâu được…”. Lần gần đây nhất là khi anh nhận
được tin mẹ nuôi mất. Vợ chồng anh tức tốc lên xe đi cả đêm mà cũng không kịp
nhìn thấy mặt bà cụ lần cuối. Khi anh ra tới nơi thì mọi việc đã đâu vào đó,
anh chỉ còn biết nhìn di ảnh mẹ nuôi và khóc…
Tìm về chốn cũ người
xưa là tìm lại một thời tuổi thơ đong đầy kỷ niệm. Với họ, các anh các chị học
sinh K8 ngày ấy, có lẽ những ngày đã qua là những ngày đẹp hơn tất cả. Và tình
đất, tình người, qua đó được soi sáng, càng trở nên đẹp đẽ biết bao. Họ là những
người rất đỗi bình thường mà tôi đã gặp, nhưng cùng để lại trong tôi dấu ấn khó
phai. Chuyện về họ là những câu chuyện chân thật, có thể nghe đấy rồi quên đấy,
nhưng với những người như Nam, như Bình, như vợ chồng Thu - Thảo, thì chốn cũ
người xưa và những kỷ niệm khó phai ấy, tôi tin sẽ đồng hành cùng họ trong suốt
cuộc đời.
Vĩnh Linh, tháng 5.2019
Nguyễn Ngọc Chiến
Nguồn: Văn nghệ số 34/2019
Theo http://baovannghe.com.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét