Thứ Tư, 26 tháng 8, 2020

Dấu chân trên cát 1

Dấu chân trên cát 1

Nguyên Phong phóng tác theo 
THE EGYPTIAN
 của Mika Waltari 
Lời giới thiệu 
Ngày nay Ai Cập chỉ được biết đến như một quốc gia chậm tiến với những Kim Tự Tháp đồ sộ và những cổ mộ chứa xác ướp. Rất ít ai biết về quá khứ đầy huy hoàng của nền văn minh đã bị vùi lấp trong lòng cát sa mạc này. Hiển nhiên lịch sử đã ghi nhận về triều đại của các vua Pharaoh, những người đã tốn rất nhiều xương máu dân chúng để xây cất các Kim Tự Tháp, nhưng xây cất vào việc gì thì vẫn còn là một câu hỏi mà ngày nay người ta chưa tìm được câu trả lời. Lịch sử triều đại vua chúa Ai Cập cũng chứa đựng nhiều bí mật lạ lùng không thể giải thích. Hiện nay các nhà khảo cổ thông thái nhất vẫn không tìm được một chút manh mối hay di tích gì về các đấng quân vương, những người đã xây dựng lên nền văn minh bậc nhất bên bờ sông Nile này. Họ chỉ khai quật được mồ mả, lăng tẩm của các bạo chúa, những người đã gây chiến tranh khắp nơi, làm đổ máu dân lành vô tội.
Nhà khảo cổ Kevin Livingston đã viết: "Hình như các vị minh quân không hề xây cất lăng tẩm, không hề dựng bia đá khắc ghi công trạng của mình. Phần lớn các lăng tẩm hay mồ mả đã được đào lên chỉ toàn của các vị vua bất tài, những bạo chúa khát máu, những người mà tên tuổi không còn ai muốn nhắc đến nữa". Ngày nay người ta biết đến triều đại các vua chúa Ai Cập thời cổ qua sách vở của người Hy Lạp. Sở dĩ các sử gia Hy Lạp biết được các chi tiết này vì họ đã học hỏi từ một người Ai Cập bị đày biệt xứ tên là Sinuhe. Đây là một nhân vật lạ lùng, đã có công mang văn minh Ai Cập truyền vào Hy Lạp khi quốc gia này còn ở một tình trạng kém mở mang so với Ai Cập lúc đó.
Các sử gia ngày nay đã đưa ra nhiều giả thuyết về nhân vật Sinuhe này. Có người cho rằng ông chỉ là một lái buôn đến Hy Lạp lập nghiệp nhưng làm sao một lái buôn lại mở trường dạy học và để lại nhiều tài liệu quí giá như thế được? Từ ngàn xưa, chỉ riêng giai cấp vua chúa và giáo sĩ mới được hưởng quy chế giáo dục toàn vẹn như vậy mà thôi. Do đó, một số người cho rằng ông thuộc giai cấp giáo sĩ nhưng việc một giáo sĩ Ai Cập đến mở trường dạy học tại Hy Lạp cũng là điều khó chấp nhận. Mặc dù khi đó văn minh Hy Lạp chưa tiến bộ như Ai Cập nhưng tôn giáo xứ này đã phát triển rất mạnh, hiển nhiên các giáo sĩ Hy Lạp không thể chấp nhận cho một giáo sĩ ngoại quốc đến mở trường dạy học tại thánh địa Olympia của họ được. Nếu thế, phải chăng Sinuhe thuộc giai cấp hoàng tộc? Điều này xét ra cũng không có lý vì một người thuộc giai cấp hoàng tộc không thể bị đày biệt xứ. Luật pháp Ai Cập chủ trương xử tử những kẻ trong hoàng tộc nếu họ vi phạm một tội trọng nào đó chứ không có lệ đày biệt xứ, vì các vua Pharaoh rất sợ những người trong bọn họ chiêu binh mãi mã làm phản. Việc một người Ai Cập, thân thế mơ hồ, bị đày biệt xứ, đến mở trường dạy học tại Athens, trung tâm văn hóa của Hy Lạp, vẫn là một bí mật đến nay các nhà khảo cổ chưa tìm được câu trả lời.
Tiểu sử tác giả
Mika Waltari (1908-1979) là một nhà soạn kịch nổi tiếng, đã viết hơn tám mươi kịch bản cho sân khấu kịch nghệ Broadway. Trong chuyến du lịch Hy Lạp, ông nghe kể về Sinuhe, một giai thoại phổ thông vẫn được lưu truyền trong dân gian xứ này. Ông đã tìm hiểu, tiếp xúc với các bô lão để ghi chép, thâu tập chi tiết về nhân vật lạ lùng này; rồi thêm vào đó một vài tình tiết với ý định sẽ dựng lên một vở kịch lớn nhưng nửa chừng, ông bỏ ý định và soạn thành cuốn tiểu thuyết The Egyptian (tạm dịch: Dấu Chân Trên Cát). Xuất bản năm 1945, The Egyptian là một trong những cuốn sách có số bán rất chạy và đã được tái bản nhiều lần. Tuy là một tiểu thuyết hư cấu (fiction) nhưng tác giả đã xây dựng nó từ những truyền thuyết trong dân gian, nên nó vẫn có giá trị trên địa hạt sử liệu và khảo cổ.
Cho đến nay, dù đã soạn hơn tám mươi vở kịch nổi tiếng nhưng The Egyptian vẫn là cuốn tiểu thuyết đầu tay và duy nhất của ông.
CHƯƠNG 1
Tôi tên là Sinuhe, câu chuyện tôi kể lại sau đây là chuyện của tôi, một người Ai Cập, mặc dù hiện nay tôi không còn được sống tại quê hương của tôi nữa. Tên tuổi tôi đã hoàn toàn bị xóa bỏ trong các đền đài, lăng tẩm, văn kiện, bia đá, và có lẽ hiện nay không còn ai nhắc nhở gì đến tôi nữa. Tôi viết lại chuyện này không phải để phục hồi tên tuổi cho tôi nhưng vì tôi thấy cần phải ghi lại các biến cố đã xảy ra tại quê hương tôi một cách trung thực, để thế hệ sau có thể biết rõ về những biến cố trong buổi giao thời lịch sử này. Tôi hy vọng nhờ thế họ có thể học hỏi, tránh không đi vào các vết xe cũ, những lỗi lầm xưa.
Người Ai Cập có thành ngữ: "Kẻ nào đã từng uống nước sông Nile thì không thể uống nước ở đâu được nữa." Quả thế, tuy sống tại Hy Lạp nhưng không bao giờ tôi có thể quên được Ai Cập, quê hương thân yêu của tôi. Mặc dù hiện nay được giải khát bằng những loại rượu nho thơm ngon nhất của Hy Lạp nhưng không bao giờ tôi có thể quên được hương vị trong mát, ngọt ngào của những bình nước được múc lên từ sông Nile, dòng sông mà người Ai Cập thường gọi là "mẹ Nile", một danh từ tràn đầy thương yêu, không bút mực nào có thể tả xiết.
Tôi xin bắt đầu câu chuyện của tôi…
Tôi là một đứa bé Ai Cập sống tại thành Thebes. Hôm đó đang chạy nhảy nô đùa cùng những đứa trẻ đồng tuổi ngoài phố thì mẹ tôi gọi:
- Này Sinuhe, cha muốn con trở về nhà ngay.
Cha tôi là Sen Moot, một y sĩ nổi tiếng đã được huấn luyện tại Abydos, trung tâm giáo dục nổi tiếng nhất tại Ai Cập lúc đó. Mặc dù đỗ thủ khoa, được coi là một trong những y sĩ giỏi nhất nước, nhưng không như các bạn đồng nghiệp, chỉ tiếp bệnh nhân thuộc thành phần giàu có, cha tôi lại chọn một khu xóm bình dân để mở phòng mạch. Ông không đòi hỏi một giá biểu nhất định như các y sĩ đương thời, mà chỉ đặt một hòm gỗ trước cửa phòng khám bệnh để bệnh nhân có thể tùy ý, muốn bỏ vào đó bao nhiêu tiền cũng được.
Có hôm sau khi đóng cửa phòng mạch, mẹ tôi mở hòm ra và chỉ thấy vài đồng xu lẻ, vừa đủ mua một con cá ngoài chợ. Thấy bà có vẻ thất vọng, cha tôi đã khuyên: "Chúng ta còn sung sướng chán, ít ra cũng có một con cá để ăn bữa chiều."
Mẹ tôi nhẹ nhàng giải thích: "Em không cần ăn nhiều nhưng thằng Sinuhe cũng cần phải có thức ăn bổ dưỡng, nó đang tuổi lớn."
Cha tôi bật cười rồi vỗ mạnh lên vai tôi một cách tự hào: "Bà đừng lo, nó chỉ cần uống vài thang thuốc bổ của ta bào chế là đủ. Xem chừng bà không mấy tin công hiệu của các thang thuốc bổ của ta thì phải?" Mẹ tôi lắc đầu: "Đâu phải em không tin nhưng trẻ con cũng cần phải ăn chút thịt cá chứ, ăn uống mấy loại rễ cây đó mãi đâu có tốt."
Cha tôi bèn quay qua tôi âu yếm: "Này con trai, người ta ăn để sống hay sống để ăn?" Dĩ nhiên đã quá quen thuộc với những lời khuyên bảo này nên tôi trả lời ngay: "Con chỉ ăn đủ để sống mà thôi."
Cha tôi bật cười sung sướng, nhấc bổng tôi lên quay mấy vòng và reo lớn: "Thật đúng ý ta. Con ngoan lắm!"
Tuy nhiên không phải ngày nào tình trạng tài chánh cũng bi đát như thế. Mỗi khi có những đoàn lái buôn từ phương xa ghé qua thành phố thì chiếc hòm gỗ của cha tôi thường chứa đầy những đồng tiền vàng, tiền bạc. Thấy mẹ tôi lúi húi đếm tiền, cha tôi ân cần nhắc nhở: "Này em, chúng ta chỉ nên giữ một món tiền nhỏ, vừa đủ ăn tiêu trong vòng bảy ngày thôi, còn dư ra bao nhiêu em đem phân phát cho những người nghèo khó hơn chúng ta." Mẹ tôi mỉm cười đồng ý rồi cúi xuống đống bạc trước mặt, chia ra làm hai phần không đều nhau, phần nhỏ bà cất đi để dành chi dùng, phần kia sẽ được đem ra phân phát cho người nghèo trong xóm.
Mẹ tôi xuất thân từ một gia đình thế gia vọng tộc nhưng ngay từ nhỏ bà đã không thích nếp sống xa hoa phung phí này. Bà thường dành nhiều thì giờ chăm lo săn sóc những kẻ nô lệ hay người nghèo khó trong xã hội. Tôi nghe kể có lần ông ngoại tôi mua cho bà một chiếc vòng ngọc rất quí nhưng bà đã đem bán chiếc vòng đó đi, lấy tiền mua thuốc giúp nhưng kẻ nô lệ đang mắc bệnh thời khí. Sự kiện này khiến ông ngoại tôi nổi giận lôi đình và có ý trừng phạt bà thật nặng. May thay, tấm lòng nhân hậu của bà đã cảm đến cha tôi, người y sĩ mà bà tìm đến mua thuốc. Cha tôi bèn cầu hôn. Lúc đầu mẹ tôi từ chối vì bà vẫn có ý định trở nên một nữ tu trong đền thần Isis. Tuy nhiên vì lý do gì đó mà cha tôi đã thuyết phục được mẹ tôi bỏ ý định này. Sau hôn lễ, cha mẹ tôi rời thủ đô Memphis dọn đến Thebes, mở phòng khám bệnh tại khu phố bình dân này. Cả hai cha mẹ tôi đều phát nguyện sống thanh bần để phụng sự nhân loại.
Hôm đó khi vừa về đến nhà thì tôi thấy cha tôi đang cạo tóc cho một bệnh nhân. Có lẽ đã được uống một thang thuốc mê nên hai mắt y nhắm nghiền như đang say ngủ. Cha tôi thong thả tuyên bố:
- Này Sinuhe, năm nay con đã lên bảy tuổi rồi, không còn là một đứa bé nữa. Kể từ nay, con sẽ phụ việc cho ta và ta muốn con quan sát những phương cách chữa trị hiếm có. Ngày hôm nay, ta sẽ mổ sọ cho bệnh nhân này…
Sống trong căn nhà nhỏ, vỏn vẹn có hai phòng, tôi không lạ gì công việc chữa trị của cha tôi. Không những tôi rất quen thuộc với những dụng cụ y khoa mà còn biết cả tên những chậu dược thảo hay các vị thuốc mà ông đích thân bào chế nữa. Tôi đã chứng kiến cha tôi chẩn bệnh, chữa bệnh, bào chế thuốc, băng bó cho các bệnh nhân trật tay, gẫy chân. Đã có lần tôi xem cha tôi đỡ đẻ cho một sản phụ và giải phẫu cho một người có bướu trong ruột, nhưng mổ sọ người là việc hiếm có chưa từng thấy.
Nhìn vẻ mặt đầy thích thú của tôi, cha tôi gật đầu và nói một cách hãnh diện:
- Này con trai, mổ sọ người là một việc vô cùng khó khăn mà rất ít y sĩ có thể làm được. Tuy nhiên đây là môn sở trường của ta, vì thế ta muốn con phụ giúp ta trong cơ hội hiếm có này.
Ông lấy ra một chiếc hộp lớn chứa đầy những dụng cụ giải phẫu kỳ lạ và bắt đầu giải thích công dụng của từng cái một. Tôi im lặng theo dõi và đặt câu hỏi mỗi khi không hiểu rõ. Cha tôi giải thích từng chi tiết cho đến khi cuộc giải phẫu bắt đầu. Ông đặt những dụng cụ này vào một chiếc đĩa bằng đồng, rắc lên đó một chút hương liệu và châm lửa đốt. Tôi nín thở theo dõi những ánh lửa màu xanh liếm quanh những con dao mổ hình thù kỳ lạ. Không khí trong căn phòng đột nhiên trở nên im lặng khác thường. Cha tôi thong thả làm việc. Vừa làm ông vừa giải thích và sau cùng ông dừng tay đưa mắt nhìn tôi, chậm rãi nói:
- Này Sinuhe, con có sợ không?
Tôi lắc đầu. Cha tôi mỉm cười đặt lưỡi dao lên sọ bệnh nhân:
- Tốt lắm! Trong nghề này, việc giáp mặt với cái chết là lẽ thường, không có gì phải sợ hãi. Khi ta khởi sự làm việc này thì thần chết cũng đã lảng vảng quanh đây rồi. Ta và y sẽ bắt đầu một cuộc so tài và kết quả ra sao khó có thể biết trước được.
Ông khởi sự bằng những đường mổ quanh đầu bệnh nhân rồi lấy ra một cái búa nhỏ khẽ gõ quanh đầu bệnh nhân mấy cái. Trước cặp mắt kinh ngạc của tôi, ông thong thả nhấc hẳn mảng sọ ra khỏi đầu bệnh nhân một cách nhẹ nhàng như người ta nhắc nắp vung ra khỏi cái nồi. Ông chỉ vào một vết bầm màu xám trong bộ óc:
- Con hãy xem đây… Bệnh nhân này bị một cái bướu đè lên màng óc nên y không thể nói năng được nữa. Khi cắt cái bướu này đi thì y sẽ phục hồi và có thể nói được như thường.
- Tại sao như thế?
- Có lẽ cái bướu này ngăn trở sự lưu thông của huyết mạch liên hệ đến các giác quan nói trên.
- Nhưng cái bướu đó ở đâu ra? Làm sao nó lại có thể chui vào sọ của bệnh nhân được?
- Nếu xét về nguyên nhân bệnh trạng thì vô chừng, không thể giải thích ngay được. Sau này ta sẽ giải thích cho con nhưng hiện nay không phải là lúc.
Ông hít một hơi dài như để định thần rồi bắt đầu làm việc. Tôi im lặng theo dõi từng cử chỉ của ông với vẻ thán phục. Thỉnh thoảng ông ra lệnh cho tôi mang đến cho ông một ít thuốc cầm máu hay vài dụng cụ mà ông không thể với tay lấy được. Không khí trong phòng dần dần trở nên căng thẳng, tôi thấy trán của cha tôi lấm tấm mồ hôi nhưng mắt ông vẫn không rời vết thương, hai tay ông vẫn thoăn thoắt làm việc. Sau cùng ông ngưng lại ngắm nghía công trình của mình rồi bật lên một tràng cười sảng khoái:
- A ha! Lần này thì ta lại lừa được gã thần chết một lần nữa rồi.
Dĩ nhiên không phải lần nào cha tôi cũng may mắn như vậy. Kể từ khi trở nên người phụ tá cho ông, tôi đã chứng kiến nhiều cuộc tranh đấu đầy gay go giữa ông với thần chết. Có khi cha tôi thắng nhưng cũng có lúc ông đành bó tay sau khi đã tận lực cứu chữa. Nhìn những thể xác nằm bất động, tôi thắc mắc:
- Tại sao người ta lại chết?
Cha tôi thản nhiên trả lời:
- Con hỡi, đã sinh ra ai chẳng phải chết. Điều khác biệt chỉ là vấn đề thời gian mà thôi. Người chết sớm, kẻ chết muộn nhưng trước sau ai cũng chết…
- Nếu vậy thì cứu chữa làm gì nếu trước sau ai cũng chết?
Cha tôi nheo mắt nhìn tôi với vẻ thích thú rồi nói:
- Bởi thế mới có cuộc so tài giữa y sĩ và thần chết để kéo dài thêm thời gian.
- Nhưng rốt cuộc thần chết vẫn thắng vì trước sau ai cũng phải chết.
- Đúng thế.
- Nếu vậy tại sao cha lại tốn công nhọc sức làm gì?
- Điều này ta không thể nói được mà con phải tự tìm ra.
- Tại sao đã biết, cha lại không thể nói ra được?
Cha tôi dịu dàng nhìn tôi một lúc rồi thong thả nói:
- Con hỡi, cuộc đời là một bài toán hết sức phức tạp mà trong đó mỗi người phải tự tìm kiếm ra câu giải đáp cho mình. Kẻ nào không biết sử dụng đời mình để tìm kiếm ra câu giải đáp đó thì thật không đáng sống chút nào. Đời sống vốn là một sự bí mật, đòi hỏi một sự tìm kiếm không ngừng, và đó chính là ý nghĩa chân thật nhất của đời sống.
- Nhưng sau khi chết, người ta đi về đâu? Cha tôi im lặng như suy nghĩ rồi nói một cách chậm rãi:
- Này con trai, có một khoa học của sự sống và cũng có một khoa học của sự chết. Điều ta được truyền dạy là khoa học của sự sống, do đó trọn đời ta chỉ nghiên cứu các kỹ thuật, phương pháp, cùng các loại dược thảo có công hiệu chữa trị và kéo dài sự sống mà thôi. Đối với những người nghiên cứu khoa học của sự chết thì đối tượng của họ là một thế giới khác hẳn với thế giới của ta. Họ nghiên cứu các kỹ thuật, phương pháp làm cho những sự vật vô hình trở nên hữu hình, khám phá các định luật huyền bí trong vũ trụ, đi vào các cõi giới xa xăm để bào chế các chất liệu bí mật rồi sử dụng vào những điều mà ta không biết rõ vì nó ở ngoài khả năng hiểu biết của ta. 
 
Từ khi trở nên người phụ tá cho cha tôi thì tôi ít có cơ hội ra phố chạy nhảy, chơi đùa với những đứa bé cùng xóm như trước nữa. Tuổi thơ của tôi trôi qua rất nhanh. Những trò chạy nhảy, bơi bội, đánh chuyền… đã được thay thế bằng những phương pháp chẩn bệnh, định bệnh và bào chế các vị thuốc lấy ra từ những lá cây, rễ cây mà cha tôi gửi mua từ những nơi rất xa. Thỉnh thoảng cũng có khi cha tôi phải đích thân đi hái thuốc. Những lần như thế, có khi ông đi cả tháng mới trở về nhà. Khi ông đi vắng, tôi lại có dịp nô đùa với những đứa bé cùng tuổi trong xóm nhưng các trò chơi này không còn quyến rũ tôi như trước nữa. Giáp mặt thường xuyên với cái sống và cái chết, tôi trở thành một đứa bé hay tư lự, suy nghĩ với những điều mà một đứa bé cùng tuổi ít khi nào nghĩ đến.
Một hôm cha tôi đi vắng, mấy đứa bạn cùng xóm rủ tôi đi câu cá ở một chiếc hồ phía bắc thành phố. Trong lúc chúng tôi đang câu thì có một đám trẻ khác ở đâu cũng mang cần câu đến. Thấy chúng tôi, một đứa bé to lớn lực lưỡng, trông có vẻ như tên cầm đầu nhóm kia, đã xông đến quát nạt:
- Mấy thằng kia, ai cho phép chúng mày câu cá ở đây?
Thấy dáng điệu hung hăng của đám trẻ kia, chúng tôi vội thu hồi cần câu lại, toan bỏ đi nhưng không kịp nữa, đám trẻ kia đã xông đến cướp lấy rổ cá mà chúng tôi vừa câu được. Thằng bé to lớn quát:
- Hồ này là của chúng ta, cá trong hồ cũng thuộc quyền của chúng ta. Ai cho phép chúng mày được câu?
Mấy đứa tôi sợ hãi nên tình nguyện đưa hết mấy rổ cá cho chúng nhưng thằng đầu đảng vẫn ra lệnh:
- Tịch thu luôn cả cần câu của bọn chúng. Tuy tiếc rẻ nhưng trước vẻ hung hăng của đám trẻ kia, chúng tôi đành líu ríu đưa cần câu cho chúng. Bọn chúng được thể, xông đến lục soát túi quần túi áo của chúng tôi, xem chúng tôi còn cất giấu những gì. Chúng tịch thu thêm được vài chiếc bánh, vài lưỡi câu và mấy món đồ chơi vặt vãnh. Nhìn vẻ mặt ngơ ngác đầy sợ hãi của chúng tôi, thằng cầm đầu thích thú ra lệnh: - Mấy đứa mày cởi quần áo ra, ta tịch thu luôn cả quần áo của bọn mày để trừng phạt tội đã đến câu tại hồ của tao.
Tuy sợ hãi nhưng tôi cũng cố năn nỉ:
- Các anh đã lấy cần câu và cá của chúng tôi rồi thì hãy để cho chúng tôi đi.
Nghe thấy thế, thằng cầm đầu bèn ra oai bằng cách xông tới đấm vào mặt tôi khiến tôi loạng choạng, máu mũi tuôn xối xả. Hắn cười lớn:
- Đó là bài học cho những đứa dám cãi lời tao.
Tôi vừa đưa vạt áo lên chùi mặt thì thằng này đã tiện chân đá tôi thêm một cái nữa khiến tôi ngã lăn ra đất. Trong lúc cố gắng đứng dậy thì tôi thấy một đứa bé cởi trần, chỉ khoác một cái khố nhỏ, tay xách cần câu ở đâu đi đến. Đứa bé vừa thả cần câu xuống hồ vừa hỏi:
- Tại sao chúng mày lại đánh nhau vậy? Một đứa trong bọn kia lên tiếng:
- Này thằng kia! Ai cho phép mày đến câu cá ở đây như thế? Mày muốn chung số phận với những thằng này hay sao?
Thằng bé mới đến ngạc nhiên:
- Tại sao lại thế được? Tao vẫn thường câu cá ở đây và có ai cấm đâu?
Đám trẻ bật cười khoái chí, đứng bao quanh thằng bé cởi trần:
- Hồ này là của bọn tao, tất cả tôm cá trong hồ cũng là của bọn tao và đứa nào đến đây câu cá cũng đều phải nộp hết tôm cá cho bọn tao.
Thằng bé mới đến cười nhạt:
- Thì ra thế! Tao không biết cá trong hồ này là của chúng mày.
- Thì mấy đứa này không biết, dám đến câu nên mới bị trừng phạt đấy! Thằng bé nghe xong, gật gù như vừa tìm ra điều gì thích thú lắm:
- May quá! Tao đang muốn biết xem ai làm chủ cái hồ này. Hôm qua tao câu được mấy con cá ở hồ này mang về ăn thì bị đau bụng nên đang muốn tìm xem ai là chủ mấy con cá đó để bắt đền đây.
Trước cặp mắt kinh ngạc của đám trẻ kia, thằng bé cởi trần lạnh lùng:
- Chúng mày phải để mọi thứ lại đây cho tao, nếu không chớ có trách.
Tình thế trở nên căng thẳng. Đám trẻ kia vội vã bỏ chúng tôi xoay ra vây quanh thằng bé cởi trần. Thằng bé này không hề sợ hãi, chỉ cười nhạt:
- Tốt lắm! Cả đám cùng đánh thì càng tiện! Vừa dứt lời, hắn đã xông đến tấn công ngay thằng đầu bọn. Thằng này cũng không phải tay vừa, hắn vừa đánh đỡ vừa quát tháo om sòm. Đám trẻ đồng bọn vội vàng xông vào tiếp tay, bụi cát bay mù mịt. Nhóm bạn tôi nhân lúc lộn xộn, vội kéo tôi bỏ chạy. Tuy không muốn đụng chạm nhưng tôi cũng không muốn thấy thằng bé mới đến bị ăn đòn nên ngần ngại không chịu đi. Tôi hy vọng có thể làm được một cái gì đó. Mấy đứa bạn tôi vừa chạy, vừa kêu lớn:
- Sinuhe, chạy mau lên!
Tôi chần chừ:
- Khoan đã, chúng ta không thể bỏ chạy như thế được.
Ngay lúc đó thằng bé cởi trần bị một đứa trong bọn xông đến ôm lấy chân, quật nó ngã xuống đất. Đám trẻ kia mừng rỡ vội xông đến đấm đá túi bụi. Nhìn thấy thế, tự nhiên tôi cảm thấy trong người nóng ran lên, không còn tự chủ được nữa. Tôi hét lên rồi xông vào trợ chiến. Tôi ôm lấy chân thằng đầu đảng, kéo nó ngã xuống đất, bất chấp những trận mưa đấm đá trút lên người. Không hiểu sao lúc đó tôi không cảm thấy đau đớn nữa mà chỉ thấy hung hăng kỳ lạ.
Bất ngờ những quả đấm thưa dần rồi những tiếng rên la đau đớn vang lên. Hình như đang có ai đỡ tôi dậy. Tôi giật mình mở choàng mắt ra thấy thằng bé cởi trần đang đỡ tôi đứng dậy, còn đám trẻ kia thì đang lăn lộn dưới đất. Thằng bé cởi trần nhìn tôi mỉm cười:
- Khá lắm! Mày can đảm lắm, nhưng tao không cần có đứa giúp. Tao có thể tự lo lấy thân được rồi.
Hắn thong thả bước đến bên thằng đầu bọn đang nằm rên la dưới đất: 
- Thế nào? Chúng mày còn muốn nằm đó chơi hay sao? Có muốn ăn thêm mấy quả đấm nữa không?
Thằng bé kia hoảng hốt lồm cồm ngồi dậy kêu đồng bọn bỏ đi nhưng thằng bé cởi trần đã lạnh lùng:
- Không được, chúng bay phải để lại cần câu và rổ cá lại đây.
Mấy đứa bé tiu nghỉu như mèo cụt đuôi, bỏ lại "chiến lợi phẩm" rồi dắt díu nhau bỏ đi, nhưng tôi đã quay lại thằng bé cởi trần hỏi: - Tại sao bạn làm thế?
Thằng bé cởi trần lạnh lùng:
- Chúng lấy cần câu của mày thì nay tao lấy cần câu của chúng chứ có gì lạ đâu?
- Như thế… không đúng.
- Cái gì? Chúng vừa đánh mày chảy máu mũi mà mày không muốn trả thù hay sao? - Không, tôi không muốn như thế.
Thằng bé cởi trần nhếch miệng:
- Thế mày muốn gì?
Tôi do dự một lúc rồi ngập ngừng:
- Tôi nghĩ bạn nên trả lại cần câu cho chúng. Nếu bạn lấy cần câu của chúng thì bạn… có khác gì chúng đâu?
Thằng bé cởi trần trợn mắt nhìn tôi một lúc rồi quay qua đám trẻ kia:
- Chúng mày nhặt cần câu và cút ngay đi chỗ khác, tao đổi ý là có đứa ăn đòn thêm. Đám trẻ kia vội vã nhặt cần câu và kéo nhau bỏ đi. Thằng bé cởi trần nhìn tôi từ đầu đến chân rồi thong thả hỏi:
- Tại sao mày lại… khác người như vậy? Tôi bật cười vì hai chữ "tại sao". Đây vốn là câu quen thuộc trên đầu môi, chót lưỡi của tôi. Là một đứa bé hay thắc mắc, suốt ngày tôi thường hỏi cha mẹ tôi "tại sao" lại thế này hay "tại sao" lại thế kia, nhưng đây là lần đầu tôi bị hỏi "tại sao" và thấy mình không trả lời được.
Thằng bé cởi trần thong thả nhặt cần câu và rổ cá lên rồi hỏi tôi:
- Mày tên gì?
- Tôi là Sinuhe. Còn bạn tên gì?
- Tao là Horemheb. Phải chăng mày là con của y sĩ Sen Moot?
- Phải rồi. Thế còn bạn? Horemheb ngần ngại một lúc rồi nói:
- Tao là con của… Bitha.
- Bitha? Phải chăng… Bitha, người bán bánh ngoài chợ?
Horemheb gật đầu ngượng nghịu:
- Phải rồi, Bitha… người bán bánh.
Thấy hắn có vẻ không sốt sắng khi nói về gia thế của mình nên tôi hỏi:
- Tại sao bạn lại không được… tự nhiên như thế?
Horemheb bực mình:
- Sao mày cứ hỏi "tại sao" mãi! Bán bánh thì có ra cái quái gì đâu!
Tôi ngạc nhiên và theo thói quen lại hỏi:
- Tại sao?
Horemheb im lặng như suy nghĩ một lúc rồi ngập ngừng:
- Đáng lẽ ra cha tao phải là một… sĩ quan hay ít ra cũng là một người lính chứ bán bánh thì có ra gì!
- Nhưng… tại sao? Đó là một nghề lương thiện.
Horemheb giận dữ:
- Lương thiện làm cái quái gì! Tao chỉ muốn cha tao là một người hùng thôi.
- Tại sao?
Horemheb nhìn tôi một lúc rồi chậm rãi:
- Mày không thể hiểu đâu. Cha mày là một y sĩ, dù không giàu có gì nhưng ít ra ông ta cũng được mọi người nể vì, kính trọng. Còn cha tao chỉ là một người bán bánh rong ngoài chợ, một kẻ tầm thường, hèn mọn, không ai thèm để ý đến.
- Nhưng như thế thì đã sao?
Horemheb trừng mắt vung tay lên đấm mạnh vào không khí:
- Đó là một điều không thể chấp nhận được. Tao không thể làm con một kẻ hèn mọn, lúc nào cũng khúm núm trước những mụ đàn bà vừa mua bánh vừa chê ỏng, chê eo. Tao không thể làm con một kẻ cúi rạp mình xuống cám ơn những tên nô lệ, vừa đi mua bánh cho chủ, vừa kỳ kèo bớt một thêm hai để ăn xén tiền chợ. Tao không thể làm con một kẻ quì mọp xuống năn nỉ những tên chủ nợ mập ú, chuyên cho vay lấy lãi cắt cổ. Tao không thể làm con một kẻ nịnh bợ những kẻ đi thâu thuế chợ vừa tham lam, vừa hống hách. Tao không thể là con của một thằng bán bánh tầm thường như thế được!
Tôi đứng im không biết phải nói gì để an ủi Horemheb. Đây là lần đầu tiên tôi biết giữ im lặng thay vì lên tiếng hỏi như thường lệ. Chúng tôi gật đầu chia tay nhau một cách ngượng nghịu, không ai nói thêm câu gì. Chiều hôm đó, sau bữa cơm, tôi đã mang câu chuyện này ra kể cho mẹ tôi. Bà trầm ngâm một lúc rồi chép miệng:
- Tội nghiệp thằng Horemheb!
- Tại sao?
- Nó là một đứa bé đáng thương. Nó chưa biết gì về mình mà đã lo chạy đuổi theo những ảo tưởng điên rồ.
- Tại sao?
- Dù muốn hay không, nó cũng là một phần của cha mẹ nó. Nó không thể phủ nhận cha mẹ của nó được. Phủ nhận cha mẹ có khác gì phủ nhận chính mình.
- Tại sao?
- Này Sinuhe, một ngày nào đó con sẽ hiểu điều ta muốn nói.
Tôi sà vào lòng mẹ:
- Con thì không như thế đâu! Con rất hãnh diện được làm con của mẹ.
Không hiểu sao mẹ tôi bỗng bật lên khóc, bà tiếp tục khóc và ôm chặt lấy tôi một lúc rất lâu.
Vài hôm sau Horemheb đến rủ tôi đi câu cá. Tôi giữ ý không nhắc gì đến câu chuyện hôm trước, và từ đó tình bạn giữa hai chúng tôi nảy nở mỗi ngày một thắm thiết. Từ khi quen Horemheb, tôi đã học hỏi được nhiều điều mới lạ. Horemheb là một đứa bé từng trải giang hồ, giao thiệp nhiều, quen biết rộng. Hắn đưa tôi đi dạo chơi khắp thành Thebes, gần như chỗ nào hắn cũng biết, gặp ai hắn cũng quen, nhưng thường hắn chỉ thích quanh quẩn gần mấy trại lính, xem thao diễn quân sự hoặc tập luyện võ nghệ mà thôi. Đối với một đứa bé nhút nhát, từ nhỏ chỉ quanh quẩn ở nhà bên cha mẹ thì việc giao du với Horemheb đã mở ra cho tôi một khung trời mới lạ với nhiều thích thú. Vì Horemheb đến nhà tôi chơi thường xuyên nên cha mẹ tôi cũng đối đãi với hắn như một người con trong nhà. Có khi hắn sống ở nhà tôi cả tuần lễ hay nửa tháng.
Thời gian êm đềm trôi. Một hôm sau bữa cơm chiều, cha tôi lên tiếng:
- Sinuhe, năm nay con đã được mười sáu tuổi rồi. Con đã phụ giúp ta trong mấy năm qua và đã học hỏi rất nhiều về cách chữa trị của ta, bây giờ đến lúc con phải đi Abydos để học thêm. Con hãy cố gắng học hỏi và đừng bao giờ quên rằng sứ mạng thiêng liêng của một y sĩ là phụng sự nhân loại và phụng sự không ngừng.
Đã được dạy dỗ từ nhỏ về việc này nên tôi không ngần ngại:
- Cha đừng lo! Những điều cha dạy con luôn ghi nhớ.
Cha tôi im lặng quan sát tôi một lúc rồi chậm rãi:
"Này Sinuhe, trước khi con lên đường đi học xa, ta có mấy lời khuyên và con phải ghi nhớ cho kỹ. Để trở nên một người sở hữu những kiến thức đặc biệt, con cần phải trau giồi tính kiên nhẫn. Nếu không kiên nhẫn, chịu đựng thì con không thể đi xa được. Đó là lời khuyên thứ nhất.
Khi vượt qua thử thách này, con sẽ phải học thêm tính khiêm tốn. Chỉ khi nào biết khiêm tốn, nhũn nhặn thì con mới học hỏi được những điều cao thượng, quý báu. Đây là lời khuyên thứ hai.
Sau đó, con phải chuyên cần, học hỏi không ngừng và biết rút tỉa bài học từ những đắng cay cũng như vui sướng mà cuộc sống đem đến. Này Sinuhe, cuộc đời là một trường học vĩ đại mà trong đó phần lớn con người chỉ học được các bài học cần thiết qua yếu tố đau khổ. Đó là lời khuyên thứ ba của ta.
Nếu con biết áp dụng cả ba lời khuyên này thì con có thể giải quyết được câu hỏi về ý nghĩa của cuộc đời. Đây là một câu hỏi quan trọng mà ít ai có thể giải đáp được nhưng nếu con thành công thì tất cả mọi chân lý trong vũ trụ này sẽ phơi bày ra cho con, và con hỡi, lúc đó không có một điều gì là không tốt đẹp, mỹ lệ hay hoàn hảo cả. Đó chính là ý nghĩa bí mật của "khoa học của sự sống" mà ta đã được truyền dạy."
 - Con xin ghi nhận lời cha khuyên bảo.
- Tốt lắm! Ngày mai chúng ta sẽ lên đường đi Abydos. Ta đã lo mọi thủ tục nhập học cho con rồi.
- Tại sao lại ngày mai? Như vậy có sớm quá không?
Cha tôi ngạc nhiên:
- Ta đã thu xếp chuyến xe đi Abydos rồi. Con muốn gì nữa?
Tôi ngần ngại một lúc rồi lên tiếng:
- Con không biết cha đã sắp đặt trước như vậy. Nếu ngày mai lên đường thì con muốn đến từ giã Horemheb.
Mẹ tôi gật đầu:
- Phải rồi, con đến từ giã Horemheb đi. Chắc con đi xa hắn sẽ nhớ lắm đấy! Mọi hành trang cứ để mẹ thu xếp cho.
Khi nghe nói về việc đi học tại Abydos, Horemheb im lặng một lúc rồi chua chát nói:
- Tao biết trước sau gì mày cũng đi Abydos. Bọn y sĩ chúng mày đều như thế cả, cha làm y sĩ thì con cũng làm y sĩ. Rồi mày sẽ trở nên một người có địa vị trong xã hội, mày sẽ được mọi người kính nể, sẽ có nhiều tiền, ở nhà lớn, có vợ đẹp con khôn, rồi có rất nhiều nô lệ hầu cận…
- Tao sẽ theo gương cha tao, chỉ làm y sĩ cho người nghèo.
Horemheb nheo mắt nhìn tôi rồi cười nhạt: - Bây giờ thì mày nói thế nhưng khi tốt nghiệp thành một y sĩ thì mày sẽ nói khác. Theo thời gian chẳng có ai lại không thay đổi.
- Nhưng tao khác.
- Được lắm! Để xem lúc đó mày còn nhớ đến thằng Horemheb, con nhà bán bánh nghèo hèn này không!
- Trước sau gì tao vẫn là Sinuhe, thằng bạn của mày.
Horemheb nhún vai, lạnh lùng:
- Rồi đến lúc đó sẽ hay.
Tôi khẳng khái nắm chặt lấy tay hắn:
- Này Horemheb, ngoài mày ra tao chẳng có đứa bạn thân nào. Nếu không chơi với mày thì tao chơi với ai? Mày có thể nghĩ gì về tao cũng được, nhưng đừng bao giờ mày nghĩ rằng tao sẽ thay đổi hay coi thường mày. Tao xin thề trước mặt thần Osiris, lúc nào cũng coi mày như người bạn thân nhất của tao. Thật ra tao vẫn coi mày như một người anh… phải rồi, một người anh lớn thì đúng hơn.
Horemheb có vẻ cảm động. Hắn im lặng một lúc rồi xiết chặt tay tôi:
- Được lắm! Hay lắm! Tao Horemheb, cũng xin thề trước mặt thần Osiris từ nay sẽ coi mày như một đứa em. Tao thề sẽ hết lòng bảo vệ mày, dù gặp khó khăn trở ngại thế nào, tao cũng lo cho mày như một đứa em ruột thịt. Mạng sống của mày là mạng sống của tao, đứa nào đụng chạm đến mày tức là đụng chạm đến tao, và thằng Horemheb này sẽ không để cho nó yên.
CHƯƠNG 2
Trường y khoa Abydos hay trường dạy về "Khoa Học Của Sự Sống" là một tu viện nên các giáo sư giảng dạy đều là tu sĩ. Vì là tu viện nên kỷ luật của trường rất nghiêm khắc. Theo truyền thống, học sinh năm thứ nhất phải phục vụ, hầu hạ những học sinh lớp trên một cách tuyệt đối, để được dạy bảo những kiến thức căn bản cần thiết. Đây cũng là dịp để học sinh lớp trên có dịp quan sát, xem xét khả năng những học sinh mới nhập học và tuyển lựa ra những người xứng đáng. Chỉ khi nào vượt qua kỳ khảo hạch gắt gao của các bậc đàn anh này thì học sinh mới được trực tiếp đến học với các tu sĩ về kiến thức y học.
Người Ai Cập rất quý trọng kiến thức, truyền thống xứ này cho kiến thức là những thứ có giá trị rất lớn, được gìn giữ cẩn thận và chỉ một số rất ít, được tuyển chọn kỹ lưỡng, mới được truyền dạy các kiến thức này.
Khi nhập học, học sinh được chia ra làm nhiều nhóm, mỗi nhóm khoảng vài người, và giao cho một học sinh lớp trên trông coi. Học sinh này có trách nhiệm dạy dỗ, hướng dẫn đàn em của mình các kiến thức căn bản để chuẩn bị cho kỳ thi tuyển lúc cuối năm. Có vượt qua kỳ thi này, học sinh mới được chính thức thâu nhận vào trường Khoa Học Của Sự Sống. Sau đó việc huấn luyện còn kéo dài nhiều năm với những kỳ thi và thử thách gắt gao trước khi học sinh tốt nghiệp thành y sĩ.
Ngay từ hôm đầu, tôi và hai đứa mới nhập học đã được xếp vào một nhóm, đặt dưới quyền chỉ huy của một học sinh lớp trên tên là Kareb. Ba đứa chúng tôi quì trước mặt Kareb để nhận chỉ thị:
- "Tao cần một đứa dọn dẹp căn phòng. Khi tao ra khỏi phòng, nó sẽ phải vào lau chùi thật sạch. Nếu tao trở về mà căn phòng bừa bộn, nó sẽ ăn đòn. Nhẹ thì mười roi, nặng thì năm chục roi. Nếu vi phạm ba lần tao sẽ báo cáo đuổi nó ra khỏi trường.
Tao cũng cần một đứa giặt giũ quần áo, lau chùi giày dép, hễ quần áo bẩn nó phải giặt lập tức. Nếu tao thấy bẩn thì nó sẽ bị trừng phạt.
Ngoài ra tao cũng cần một đứa làm thư ký, thu xếp tài liệu và soạn thảo các hồ sơ cho tao…"
Kareb ngưng nói đưa mắt nhìn ba đứa chúng tôi như dò xét. Thấy vậy, một thằng trong bọn vội rút trong người ra một chiếc túi nhỏ:
- Xin đàn anh nhận cho em chút lễ vật ra mắt này.
Kareb thản nhiên mở chiếc túi ra coi. Đó là một số tiền vàng trị giá bằng năm con ngựa. Hắn có vẻ hài lòng, nhét ngay túi tiền vào áo.
Thằng thứ hai cũng vội vã mang ra một hộp nhỏ đựng những dụng cụ y khoa bằng vàng chói lọi. Kareb hài lòng thâu nhận lễ vật rồi đưa mắt nhìn tôi.
Tôi lúng túng không biết phải xử trí ra sao vì gia cảnh nghèo, hành trang chỉ vỏn vẹn mấy bộ quần áo cũ và ít xu lẻ mẹ tôi đưa cho để ăn uống dọc đường. Không thấy tôi nói gì, Kareb mỉm cười nhắc khẽ:
- Này Sinuhe, tao chắc mày phải có một món quà ra mắt đặc biệt lắm?
Không biết phải làm gì hơn, tôi đành đưa chiếc túi nhỏ đựng ít đồng xu ra. Kareb mở chiếc túi ra xem. Khuôn mặt hắn bỗng sa sầm xuống:
- Này Sinuhe, tao chắc mày không đùa đấy chứ?
Tôi lắp bắp:
- Không… đó là tất cả những gì tôi có. Kareb vung tay ném thẳng chiếc túi vào mặt tôi rồi rít lên:
- Tao không ngờ có một đứa đàn em không biết điều như thế này! Mày nghĩ rằng với mấy chục xu lẻ đó mà mày sẽ được tao dạy bảo các kiến thức về y khoa hay sao?
- Nhưng… nhưng…
Kareb giận dữ quát lớn: - "Không! Không bao giờ! Những kẻ bần tiện như mày sẽ không bao giờ được dạy dỗ một điều gì hết. Tao không hiểu sao lại bị giao phó trách nhiệm hướng dẫn một thằng nghèo mạt rệp như mày!
Được lắm! Đã thế thì mày sẽ là thằng dọn dẹp, lau chùi căn phòng và kiêm luôn cả việc giặt quần áo cho tao nữa. Mày sẽ làm việc này cho đến khi nào tao thấy công phu của mày tương xứng với những món quà kia thì mày mới có quyền đến lớp học."
- Tại sao như thế?
Kareb rít lên:
- Một thằng mới nhập học như mày mà dám chất vấn tao hay sao? Mày nên biết rằng trong năm đầu, chúng mày thuộc quyền sở hữu của tao. Tao có quyền đánh đập hoặc đuổi mày ra khỏi trường. Tương lai của mày hoàn toàn tùy thuộc vào sự báo cáo của tao lên các tu sĩ. Nếu tao nói rằng mày không có khả năng hay không thích hợp với nghề y sĩ thì mày sẽ bị đuổi ra khỏi trường ngay.
- Nhưng… tại sao?
Kareb không giữ được bình tĩnh, hét lớn:
- "Đồ ngu! Mày có biết mấy năm nay tao đã khổ sở như thế nào không? Tao đã phải hầu hạ các bậc đàn anh, đã phải tốn kém biết bao tiền bạc, công sức mới được địa vị như ngày nay.
Bây giờ đến lượt tao được hưởng sự sung sướng, thế mà vẫn có đứa ngu si cho rằng chỉ cần bỏ ra vài xu là được tao truyền dạy các kiến thức quí báu như vàng này!"
Tôi định biện bạch thêm nhưng may thay lúc đó tôi nhớ đến lời khuyên của cha tôi: "Con cần phải kiên nhẫn và chịu đựng. Nếu không thì không thể đi xa được", tôi bèn im lặng không nói gì nữa.
Kareb chăm chú nhìn tôi nhưng thấy tôi không phản ứng gì, hắn hậm hực:
- Thằng nghèo kiết xác kia, từ nay mày sẽ là nô lệ của tao.
Từ đó tôi trở nên kẻ hầu cho Kareb. Hắn đối xử với tôi vô cùng tàn nhẫn, chỉ một sơ hở hắn đã thẳng tay trừng trị tôi bằng chiếc roi da mà hắn mang theo mình. Thời gian trôi qua, thấm thoát tôi đã sống tại Abydos gần một năm.
Một năm với những đau khổ, nhục nhằn; với những vết roi ngang dọc trên mình nhưng tôi vẫn cắn răng chịu đựng, hy vọng sẽ được dạy bảo các kiến thức cần thiết. Tuy nhiên tôi không hề được chỉ dẫn một điều gì trong khi hai thằng bạn cùng nhóm thỉnh thoảng còn được dạy dỗ ít nhiều. Một hôm tôi nghe nói đã sắp đến kỳ thi tuyển nên hỏi Kareb:
- Chỉ còn ít lâu nữa sẽ đến kỳ thi, em muốn biết phải học hỏi những gì để còn chuẩn bị.
- Mày nói sao?
- Chỉ còn vài tháng nữa…
Kareb nổi giận quát ầm lên:
- Mày dám đòi hỏi hay sao? Số mạng và tương lai của mày hoàn toàn tùy thuộc vào tao. Nếu thấy mày xứng đáng thì tao sẽ dạy cho mày, nếu mày không có khả năng thì nhà trường sẽ đuổi mày ra…
- Nhưng làm sao người ta có thể biết được khả năng của em khi em không biết rõ về chương trình học hay được dạy dỗ điều gì? Kareb bật cười:
- Thằng ngu dốt kia, nếu tao không dạy cho mày thì không ai có thể chỉ dạy cho mày hết.
- Nhưng… khi nào anh sẽ dạy em?
- Tao là người quyết định số phận của mày. Luật lệ ở đây đã ghi rõ rằng học sinh lớp trên sẽ quan sát, nhận xét khả năng của những học sinh lớp dưới. Nếu xét thấy không có khả năng thì phải báo cáo để trục xuất nó ra khỏi trường.
Tự nhiên tôi có cảm tưởng rằng Kareb sẽ không dạy dỗ gì cho tôi hết. Tôi bèn thu hết can đảm đặt câu hỏi:
- Phải chăng nếu anh không dạy thì em không thể vượt qua kỳ thi tuyển và như thế em sẽ bị đuổi ra khỏi trường.
- Đúng thế.
- Mặc dù… em đã tận lực hầu hạ anh? Kareb ôm bụng cười sằng sặc:
- Đúng thế. Số phận của mày tùy thuộc vào sự quyết định của tao. Này Sinuhe, dù mày có tận lực hầu hạ tao thêm mười năm nữa, tao cũng chẳng dạy gì cho mày vì tao không ưa những đứa thích hỏi những câu lẩm cẩm như mày.
Tôi đứng yên, mồ hôi toát ra như tắm. Không lẽ tương lai của tôi lại sụp đổ chỉ vì thằng đàn anh này hay sao? Tôi nhớ lại những lời hứa hẹn, những trận đòn, những lúc hầu hạ, dọn dẹp lau chùi căn phòng cho hắn. Thì ra hắn chỉ lợi dụng truyền thống "ma cũ bắt nạt ma mới" và sự ngây thơ của tôi mà thôi.
Cơn giận ở đâu kéo đến khiến tôi quên cả lời khuyên của cha tôi, quên kỷ luật khắt khe của nhà trường. Tôi gầm lên một tiếng rồi vung tay đấm mạnh vào khuôn mặt khả ố của Kareb. Trong lúc bất ngờ, thằng này trúng đòn ngã nhào xuống đất nhưng hai đứa bạn cùng nhóm đã vội vã nhảy vào can thiệp.
Chỉ trong thoáng giây, tôi đã bị đè nghiến xuống đất. Kareb hầm hầm rút chiếc roi da treo gần đó và cứ thế liên tiếp quất xuống người tôi. Đây không phải là lần đầu tôi bị đánh nhưng không hiểu sao, lần này tôi không cảm thấy đau đớn nữa mà đầu óc chỉ sôi sục một ý nghĩ lạ lùng, một điều từ trước đến nay chưa bao giờ tôi nghĩ đến. Sau khi đánh đập một trận cho hả giận, Kareb ra lệnh trói gô tôi vào cột nhà rồi hầm hầm dắt hai đứa kia ra khỏi phòng. Tôi biết hắn sẽ báo cáo lên các tu sĩ, hiển nhiên hai đứa kia sẽ làm chứng cho hắn và với kỷ luật hết sức nghiêm khắc của tu viện, chắc chắn tôi sẽ bị trục xuất ngay. Trong cơn đau đớn cùng cực, tôi gục xuống thiếp đi cho đến khi tỉnh dậy thì trời bên ngoài đã sáng.
Tôi vùng vẫy muốn thoát ra, nhưng sợi dây trói chặt quá khiến tôi không sao cựa quậy gì được. Vì cố gắng nên các vết thương trên mình trở nên đau đớn vô cùng. Tôi cảm thấy khát nước, muốn lên tiếng nhưng không sao nói được, cổ họng tôi khô ran và đau buốt nên tôi đành chịu đựng, chờ Kareb trở về.
Trời đã về chiều mà Kareb vẫn chưa trở lại. Phải chăng hắn lại đi uống rượu như thường lệ? Mỗi khi giận dữ điều gì, hắn thường đi uống rượu và khi say lại trút cơn thịnh nộ lên đầu tôi.
Mãi đến khuya Kareb mới về. Thay vì giận dữ, hắn vội vã cởi trói rồi dìu tôi nằm xuống giường của hắn. Hai thằng học sinh kia mang đến một chậu nước nóng để lau chùi các vết thương cho tôi.
Kareb run rẩy nói:
- Thưa… bạn… Sinuhe, xin… bạn… đừng giận chúng tôi.
- ?
- Xin bạn hãy nghỉ ngơi tĩnh dưỡng… Khi nào khỏe… chúng ta sẽ bắt đầu duyệt qua các kiến thức cần thiết…
- ?
- Bạn đừng lo, với tài trí thông minh của bạn thì… vài tháng cũng đủ rồi. Tôi sẽ hết lòng hướng dẫn cho bạn. Tôi sẽ báo cáo lên các tu sĩ rằng không một ai tài giỏi hơn, xứng đáng hơn và có đầy đủ khả năng để trở thành y sĩ hơn bạn.
Tôi ngạc nhiên muốn lên tiếng nhưng cổ họng đau quá không nói gì được. Kareb thấy tôi yên lặng, nghĩ rằng tôi vẫn còn giận nên quì sát xuống bên giường:
- Xin bạn hãy nghĩ lại… chúng tôi có mắt mà như mù… không biết bạn là người… có thế lực… Xin bạn bỏ qua cho…
Dưới ánh nến leo lét, tôi thấy rõ khuôn mặt của Kareb sưng vù và đầy máu. Tôi quay qua nhìn hai thằng học sinh đang lau chùi những vết thương cho tôi, đứa nào cũng áo quần lem luốc, mặt mày đầy máu.
- Tại sao? Chuyện gì xảy ra thế này?
Ngay lúc đó một người to lớn ở đâu bước vào, lạnh lùng lên tiếng:
- Ba thằng khốn nạn kia! Nếu Sinuhe có làm sao thì tao sẽ thiến cả ba đứa chúng mày.
Tôi nhận ra ngay Horemheb. Xa nhau gần một năm Horemheb đã thay đổi khá nhiều, trông hắn lực lưỡng khỏe mạnh hơn xưa. Ba thằng học trò vội quì mọp xuống đất. Horemheb giận dữ:
- Tao không ngờ lại có những đứa tồi tệ như vậy!
Tôi muốn ngồi dậy nhưng không sao nhấc mình lên được. Horemheb cúi xuống đỡ tôi lên nhưng nhìn thấy thân thể đầy máu me của tôi, hắn nổi giận tung chân đá mạnh vào Kareb:
- Tội của mày đáng bị thiến lắm!
Thằng đàn anh oai phong lẫm liệt khi xưa quỳ mọp dưới đất không dám lên tiếng. Horemheb quay qua phía tôi:
- Này Sinuhe, xa nhau đã lâu nên tao đi thăm mày, không ngờ lại có chuyện như thế này. Nếu mày có mệnh hệ gì thì tao sẽ đốt cháy cả ngôi trường này.
Thì ra trên đường đi thăm tôi, Horemheb ghé vào một quán rượu và gặp Kareb cùng hai thằng học sinh kia cũng đang uống rượu tại đó. Trong lúc say sưa, chúng vô tình nhắc đến tên tôi khiến Horemheb chú ý. Hắn bèn giả say để hỏi sự tình và sau khi biết rõ mọi sự, hắn đã dạy cho chúng một bài học đích đáng.
Từ đó tôi không phải hầu hạ Kareb nữa mà lại được hắn săn sóc cẩn thận. Thằng đàn anh này đã mang tất cả kiến thức của hắn ra chỉ bảo cho tôi. Hai đứa bạn học trò cũng hầu hạ, săn sóc tôi tận tình. Cuối năm đó, tôi trúng tuyển vào trường Khoa Học Của Sự Sống. Horemheb lưu lại Abydos một thời gian chờ đến khi biết tôi thi đậu mới trở về Thebes.
Trường "Khoa Học Của Sự Sống" là một đạo viện gồm nhiều dãy nhà bao quanh một ngôi đền rất lớn có hai cánh cửa bằng đá luôn luôn khép chặt. Chúng tôi được dạy rất kỹ rằng đó là một nơi chốn linh thiêng, chỉ những bậc đạo trưởng mới được vào trong đó mà thôi. Trước cửa ngôi đền là một pho tượng thần Osiris rất lớn, nơi các buổi tế lễ quan trọng được cử hành. Ngày hôm đó, những học sinh trúng tuyển được đưa đến trước thần Osiris làm nghi thức nhập môn.
Sau buổi lễ, một vị đạo trưởng tuổi đã cao, râu tóc bạc phơ, bước ra nói:
- "Ta là đạo trưởng Akhanuxem, một trong những người trông coi ngôi trường này. Hôm nay là ngày đầu nhập học nên ta có mấy lời muốn nói với các con.
Này các học sinh của trường Khoa Học Của Sự Sống, các con cần biết rằng phương pháp chữa trị là một nghệ thuật có tính cách thiêng liêng. Vì là một nghệ thuật thiêng liêng nên việc chữa trị phải bao gồm cả phần thể xác lẫn phần linh hồn. Không một người nào có thể gọi là khỏe mạnh nếu tâm hồn của họ què quặt, yếu đau.
Vì tính chất tổng quan toàn diện này, nên phương pháp chữa trị đòi hỏi một sự cố gắng, học hỏi không ngừng. Do đó các con cần phải cố gắng, chuyên cần…"
Vị đạo trưởng già đưa mắt nhìn các học sinh đứng quanh rồi nói tiếp: 
- "Các con sẽ được truyền dạy những kiến thức đặc biệt, những kiến thức vẫn được giữ kín từ bao thế kỷ nay, và chỉ truyền dạy cho một thiểu số những kẻ xứng đáng mà thôi. Từ nay các con sẽ được học hỏi những phương pháp chữa trị, những vị thuốc bí truyền, cũng như những khoa học mà ít ai biết đến.
Kiến thức của chúng ta dựa trên những sự nghiên cứu và kinh nghiệm của những vị thầy đã khổ công tìm hiểu các hiện tượng thiên nhiên bên ngoài cũng như những chỗ sâu kín nhất của bên trong tâm hồn con người.
Này các con, khoa học của sự sống chính là phương pháp biết sống thuận theo thiên nhiên, biết rung động cùng nhịp với sự tuần hoàn của thiên nhiên, và biết sống hòa hợp với các sinh vật khác trong thiên nhiên. Khi con người không biết sống thuận theo thiên nhiên, không biết rung động đồng nhịp với sự tuần hoàn của thiên nhiên, thì sẽ phát sinh ra các phản ứng không tự nhiên hay bất bình thường.
Chính các phản ứng này sẽ tạo ra các sự rung động không tốt lên cơ thể, và từ đó bệnh tật phát sinh.
Dựa trên quy tắc căn bản này, chúng ta đã sắp đặt và phân chia bệnh tật ra nhiều loại khác nhau. Tùy theo cách phân loại bệnh tật mà cách chữa trị cũng thay đổi theo, từ việc sử dụng dược chất, đến việc giải phẫu, hay sử dụng các năng lực từ điện. Ngoài khả năng chuyên môn thông thường, một y sĩ còn phải học hỏi thêm kiến thức về thiên nhiên và biết sống theo các kỷ luật đặc biệt để phát triển khả năng định bệnh một cách chính xác. Tùy theo khả năng định bệnh mà các con sẽ được thu xếp để học hỏi các nghệ thuật chữa trị khác.
Do đó tuy cũng là y sĩ nhưng cách thức chữa trị của mỗi người sẽ không giống nhau."
Từ đó chúng tôi bắt đầu học hỏi những kiến thức chuyên môn về Khoa Học Của Sự Sống. Ngoài việc mổ xẻ, nghiên cứu các cơ quan trong thân thể, chương trình học còn chú trọng đến việc dinh dưỡng, phương pháp hô hấp, sự vận động như: thư giãn, xoa bóp… cũng như công dụng của các dược chất đối với thân thể con người. Vì đã từng phụ giúp cha tôi từ nhỏ, tôi rất quen thuộc với các phương pháp này nên chỉ một thời gian ngắn, tôi đã trở nên một học sinh xuất sắc nhất trường. Hôm đó tôi đang đi dạo ngoài sân thì gặp đạo trưởng Akhanuxem đi đến. Ông đứng lại nói với tôi:
- Ta rất hài lòng về việc học của con. Con là một trong những học sinh mà ta hy vọng là sẽ làm rạng danh trung tâm Abydos này. - Thưa đạo trưởng, đó là nhờ công ơn dạy dỗ của các giáo sư…
Đạo trưởng Akhanuxem vuốt râu cười rồi lắc đầu:
- Con không cần phải khiêm tốn như thế. Ta đã để ý đến con từ lâu và vẫn theo dõi việc học của con. Con là một học sinh thông minh, hiếu học, có óc cầu tiến, lúc nào cũng muốn tìm tòi hiểu biết thêm.
Ông nhìn tôi một lúc rồi nói:
- Đó là điều tốt. Ta rất thích những học sinh hiếu học như thế. Từ nay nếu có gì thắc mắc, con có thể đến hỏi ta, và ta sẵn sàng giúp con.
Đây là một cơ hội hiếm có vì đạo trưởng Akhanuxem là người có kiến thức uyên bác nhất trường. Được ông chỉ dạy không những là một đặc ân mà còn bảo đảm cho việc sưu tầm, học hỏi các kiến thức về "Khoa Học Của Sự Sống" nữa.
Không bỏ lỡ cơ hội, tôi lên tiếng hỏi ngay: - Thưa đạo trưởng, phải chăng "Khoa Học Của Sự Sống" chú trọng đến việc nghiên cứu các nguyên nhân gây nên bệnh tật vì đã biết nguyên nhân thì có thể tìm được cách chữa trị?
- Đúng thế, đó là nguyên tắc căn bản. Chúng ta tin rằng bệnh tật chỉ là phản ứng của cơ thể đối với những thái độ sống hay các hành động ngược với thiên nhiên vì sống thuận theo thiên nhiên không thể có bệnh. Phản ứng của cơ thể này có thể xảy ra trên phương diện vật chất hay tinh thần, do đó mới có các bệnh thuộc về thân và bệnh thuộc về tâm.
- Như thế… phải chăng tất cả bệnh tật đều do hành động trái với các định luật thiên nhiên?
Đạo trưởng Akhanuxem cười lớn:
- Không hẳn thế đâu. Có những bệnh gây ra do tai nạn như té gẫy tay, trẹo chân hoặc ăn uống thiếu dinh dưỡng, và những bệnh này không hẳn bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa nào khác. Ngoài ra còn có những bệnh bẩm sinh, hiển nhiên một đứa trẻ sơ sinh đâu đã biết sống thuận hay nghịch với thiên nhiên. - Nhưng nếu một đứa bé vừa sinh ra đã có bệnh thì nguyên nhân từ đâu đến?
Đạo trưởng Akhanuxem vuốt râu gật gù:
- Theo sự hiểu biết của ta thì các bệnh bẩm sinh xảy ra do những nguyên nhân từ trước, vượt ngoài tầm nghiên cứu của "Khoa Học Của Sự Sống". Nó là những kiến thức thuộc về cõi giới bên kia cửa tử, xuất phát từ ký ức của một kiếp sống khác. Đó là đối tượng của "Khoa Học Của Sự Chết".
- Làm sao người ta có thể hiểu biết về những kiến thức này?
Đạo trưởng Akhanuxem bật cười:
- Con quả là người có nhiều thắc mắc. Chỉ những giáo sĩ chuyên nghiên cứu cõi âm, những người lãnh việc tống táng, ướp xác mới biết về những kiến thức này. Đối tượng của họ là sự kiện ở thế giới bên kia cửa tử. Là y sĩ, con chỉ nên quan tâm đến sự kiện xảy ra trong đời sống hiện tại mà thôi.
- Nhưng… nếu thế không lẽ chúng ta phải bó tay trước những bệnh tật phát xuất từ những nguyên nhân ngoài sự hiểu biết của chúng ta hay sao?
Đạo trưởng Akhanuxem im lặng một lúc như suy nghĩ rồi lên tiếng:
- "Này Sinuhe, con thật là người ham hiểu biết. Rất ít ai đặt câu hỏi như thế với ta. Hiển nhiên có những định luật bất biến của vũ trụ mà chúng ta được học hỏi mặc dù nó vượt ngoài phạm vi nghiên cứu của chúng ta.
Nếu con biết nhìn đời sống này như một phần nhỏ của một hành trình kéo dài rất lâu, qua các cõi giới, các kiếp sống khác nhau, thì con sẽ thấy việc sống ngược với các định luật thiên nhiên có thể gây ra những hậu quả, không hẳn xảy ra trong kiếp này, mà có thể ảnh hưởng đến những kiếp sống khác nữa. Bệnh bẩm sinh có thể bắt nguồn từ các hành động trái ngược với luật thiên nhiên từ một kiếp sống trước…" - Như thế… Phải chăng có những yếu tố nhất định nào đó chi phối đời sống hiện tại hay sao?
- Hiển nhiên phải như thế rồi.
- Nếu thế làm sao một y sĩ có thể chữa trị các bệnh này khi nguyên nhân của nó bắt nguồn từ những điều xảy ra trong quá khứ?
Đạo trưởng Akhanuxem gật đầu, vuốt chùm râu bạc:
- "Đây là một vấn đề phức tạp, không thể giải thích vắn tắt được nhưng vấn đế chính vẫn là việc chẩn bệnh và tìm hiểu nguyên nhân, dù nguyên nhân này nằm ngoài đối tượng nghiên cứu. Nếu biết được nguyên nhân thì sẽ tìm được cách chữa.
Có nhiều cách chẩn bệnh và chữa trị khác nhau, nhưng phương pháp thông thường như giải phẫu, xoa nắn, hay sử dụng dược chất chỉ là một phần trong Khoa Học Của Sự Sống mà thôi."
- Như thế phải chăng còn có những phần khác nữa?
Đạo trưởng Akhanuxem tỏ ra dè dặt:
- Đúng thế. Điều chúng ta biết thì nhiều nhưng điều chúng ta truyền dạy cho học sinh thì giới hạn vì có phần chỉ được truyền dạy trong phạm vi thu hẹp mà thôi.
- Tại sao?
Đạo trưởng Akhanuxem mỉm cười:
- Này Sinuhe, kiến thức là một kho tàng vô giá, không phải những điều có thể mang ra truyền dạy bừa bãi. Nếu không cẩn thận, người ta có thể lạm dụng các kiến thức đặc biệt này vào mục đích ích kỷ, sằng bậy.
- Nếu vậy, phần thuộc phạm vi bí truyền này như thế nào?
Đạo trưởng Akhanuxem do dự một lúc rồi ngập ngừng giải thích:
- "Hãy lấy thí dụ như môn Cơ Thể Học mà hiện nay con đang theo học. Kiến thức về Cơ Thể Học của chúng ta không giới hạn vào thể xác hay thể hữu hình, mà còn mở rộng đến những thể vô hình nữa.
Nếu con biết rằng con người không phải chỉ có một thể xác này mà còn sở hữu rất nhiều các thể khác nữa. Trước khi triệu chứng bệnh tật phát sinh trên thể xác hay thể hữu hình, nó đã phát sinh trên những thể vô hình rồi.
Do đó, thay vì chẩn bệnh qua việc quan sát triệu chứng trên thể xác bệnh nhân, người sở hữu kiến thức bí truyền có thể chẩn bệnh qua việc xem xét các rung động trên những thể vô hình. Nói một cách khác, họ có thể biết căn bệnh đó trước khi nó phát xuất…"
Tôi giật mình kêu lớn:
- Nếu thế… tại sao những kiến thức hữu dụng to tát như vậy lại được giữ bí mật?
- "Kiến thức về những thể vô hình đòi hỏi một công phu tu tập đặc biệt, không mấy ai có đủ khả năng và kiên nhẫn để học. Nó có những ưu điểm cũng như khuyết điểm mà ta khó giải thích cho người chưa có kiến thức về huyền môn như con.
Này Sinuhe, nếu con có khả năng chẩn bệnh đó thì con sẽ phải thuyết phục bệnh nhân thế nào khi triệu chứng bệnh đó chưa hề phát ra? Mấy ai tin là con nói đúng hay bằng lòng để con chữa trị một căn bệnh còn đang tiềm ẩn?"
Tôi im lặng, điều này quả là tôi chưa hề nghĩ đến. Đạo trưởng Akhanuxem nói tiếp: - "Này Sinuhe, trong thiên nhiên không có bệnh tật nào lại phát sinh ra một cách nhanh chóng bất ngờ cả đâu. Tất cả đều bắt nguồn từ những nguyên nhân nào đó. Các nguyên nhân này âm thầm ảnh hưởng lên thân thể bệnh nhân mà họ không hề hay biết đó thôi. Một khi nó bột phát thì đó là giai đoạn cuối rồi.
Phần lớn con người không biết sống một cách ý thức nên họ không biết được những đổi thay âm thầm đang diễn ra trong thân thể họ. Họ chỉ cảm thấy hậu quả của bệnh tật khi nó đã ăn sâu vào thể xác chứ đâu biết gì khi nó chỉ là những rung động bất bình thường trên các thể vô hình khác."
- Nếu vậy làm sao người ta có thể chữa bệnh khi nó chưa phát ra?
Đạo trưởng Akhanuxem im lặng một lúc rồi trả lời:
- "Có một cách chữa bệnh khác với các phương pháp điều trị thông thường. Đó là phương pháp sử dụng năng lượng (energy).
Nếu bệnh tật chỉ là những rối loạn do các hành động đi ngược với luật thiên nhiên gây ra, thì người ta có thể sử dụng năng lượng để tái tạo trật tự này. Khi các thể vô hình được quân bình thì các ảnh hưởng chi phối lên thể xác cũng chấm dứt. Do đó thay vì chữa các triệu chứng xảy ra trên thể xác, người ta sẽ tập trung việc chữa trị trên các thể vô hình.
Con nên biết rằng trong phương pháp này, sự liên hệ giữa người chữa trị cũng như kẻ được chữa trị hết sức quan trọng. Thật ra không hề có việc người này chữa cho người kia mà cả hai đều là những yếu tố của một tiến trình chữa trị chi phối bởi những động năng mầu nhiệm, chứ không phải những năng lượng có tính cách cá nhân."
- Tại sao nó không có tính cách cá nhân?
- Vì năng lượng tự nó không có tính cách cá nhân. Người ta không thể tạo ra nó hay hủy hoại nó được.
- Như vậy muốn học phương pháp sử dụng năng lượng này con phải làm gì?
Đạo trưởng Akhanuxem mỉm cười:
- "Trước hết con phải học hỏi các kiến thức về thiên nhiên, vũ trụ và sự liên quan giữa con người và vũ trụ. Khi đã có kiến thức về sự tuần hoàn của vũ trụ thì con sẽ hiểu rằng mọi đổi thay trong vũ trụ không phải do ngẫu nhiên mà do một quyền năng cao cả điều hành tất cả mọi vật. Mọi năng lượng trong vũ trụ này đều xuất từ quyền năng cao cả đó mà ra.
Con sẽ học phương pháp sử dụng các năng lượng phát xuất từ quyền năng đó vào mục đích chữa bênh. Muốn thế, con phải sống theo những kỷ luật và quy tắc nhất định. Con phải biết khiêm tốn, không tự xem mình là quan trọng và phải biết hoàn toàn dẹp bỏ bản ngã. Trong phương pháp này không thể có một bản ngã riêng tư được."
- Tại sao?
- "Vì trong phương pháp sử dụng năng lượng, người y sĩ chỉ đóng vai trò trung gian mà thôi. Họ chỉ là một khí cụ chứ không phải một tác nhân chính. Nếu họ nắm vai chủ động thì năng lượng phát xuất từ chính họ sẽ chuyển qua bệnh nhân chứ không phải năng lượng phát xuất từ quyền năng cao cả kia, và như thế việc chữa trị sẽ chuyển qua một vấn đề khác.
Trong tiến trình chữa trị có sự trao đổi năng lượng giữa hai bên, khi năng lượng từ cá nhân y sĩ chuyển qua bệnh nhân thì năng lượng từ bệnh nhân cũng sẽ chuyển qua y sĩ. Hậu quả của việc này là chính y sĩ sẽ vô tình nhiễm phải căn bệnh kia mà không hay biết.
Cũng vì lý do này, phương pháp chữa bệnh bằng năng lượng được giữ bí mật, không truyền cho các y sĩ mà chỉ dành riêng cho một số giáo sĩ."
Tôi ngạc nhiên:
- Tại sao? Tại sao… chỉ giáo sĩ mới được học phương pháp này?
- Vì các giáo sĩ có những lời thề nguyện thiêng liêng, cương quyết bước vào một đời sống tôn giáo với những sự thanh lọc, với những kỷ luật tự giác để không còn bản ngã riêng tư.
- Nếu vậy một người như con không thể học phương pháp này?
Đạo trưởng Akhanuxem gật đầu:
- Đúng thế, trừ khi con phát nguyện trở nên một giáo sĩ như ta.
Tôi đâm ra bất mãn:
- Vậy bệnh nhân đi kiếm y sĩ làm chi cho mất công. Cứ đến thẳng các giáo sĩ chuyên về phương pháp chữa bệnh này có hơn không?
Đạo trưởng Akhanuxem lắc đầu:
- "Này Sinuhe, có những việc không giản dị như con nghĩ đâu. Con chớ nên vội vàng kết luận khi chưa hiểu rõ. Mỗi người đều có một sứ mạng riêng phù hợp với những ước nguyện riêng. Một y sĩ có những chức năng của một y sĩ và một giáo sĩ cũng có những nhiệm vụ của một giáo sĩ.
Kiến thức là một kho tàng quý báu nhưng đôi khi nó cũng là một con dao hai lưỡi, nếu không biết sử dụng cẩn thận, nó có thể đem đến những hậu quả tai hại."
Lúc đó tôi chưa hiểu hết ý nghĩa câu nói của đạo sĩ Akhanuxem nên chua chát:
- Phải chăng ngài muốn nói khi các y sĩ bó tay thì bệnh nhân chỉ có cách tìm đến các giáo sĩ? Ngoài ra đâu còn cách nào khác, phải không?
Đạo trưởng Akhanuxem lắc đầu:
- "Không hẳn thế! Trong việc chữa trị bằng năng lượng, một khí cụ trung gian không hẳn đã cần thiết. Nếu một bệnh nhân biết mở rộng tâm hồn trước quyền năng cao cả, biết giao trọn đời mình cho quyền năng cao cả, biết phục thiện và thay đổi lối sống, từ thể xác đến tinh thần, thì sự chữa trị trực tiếp có thể xảy ra, và đó là sự chữa bệnh bằng niềm tin."
Đạo trưởng Akhanuxem im lặng một lúc như đắm chìm trong một ý nghĩ nào đó. Sau cùng ông nhìn tôi như muốn nói gì thêm nhưng không hiểu sao ông chỉ đưa tay ra vỗ nhẹ lên vai tôi như khuyến khích rồi đi thẳng vào căn phòng nhỏ của ông gần đó.
Buổi nói chuyện ngắn ngủi này đã khơi dậy lòng ham muốn hiểu biết của tôi về những phương pháp bí truyền tại đây. Là người nhiều thắc mắc và thích tìm hiểu, tôi mong có dịp học hỏi những phương pháp chữa bệnh này nhưng tôi không có ý định trở nên một giáo sĩ mà chỉ muốn theo gương cha tôi, làm y sĩ phục vụ người nghèo mà thôi. Cuối năm đó, Horemheb đến thăm tôi. Chúng tôi tâm sự với nhau rất tương đắc, và tôi vô tình kể cho hắn nghe về những phương pháp chữa bệnh bí truyền này. Horemheb lắc đầu cười nhạt:
- Mấy thằng giáo sĩ quỷ quyệt chỉ lừa được những đứa ngây thơ như mày thôi chứ chẳng thể lừa được tao.
- Mày nói gì?
Horemheb mỉm cười:
- Tao không ưa trò "mỡ nhử miệng mèo" như thế. Nếu quả là có những phương pháp bí mật thì tại sao họ nói ra cho mày biết làm gì? Phải chăng họ muốn khuyến khích mày trở nên một giáo sĩ như họ? Theo tao, đó chỉ là những lời hứa hẹn viễn vông, hão huyền để dụ dỗ những đứa ngây thơ, dễ tin như mày.
- Nhưng… nhưng đạo trưởng Akhanuxem là người… rất đứng đắn…
Horemheb bật cười lớn:
- Một người đứng đắn thì đã sao? Theo mày, một người đứng đắn không biết dụ dỗ hay sao? Thôi được, nếu các giáo sĩ có phương pháp cất giữ bí mật thì mày có muốn coi không?
- Dĩ nhiên rồi, mày biết tao rất ham học hỏi…
- Tốt lắm! Nếu biết họ giấu tài liệu bí mật đó ở đâu thì tao sẽ tìm ra cho mày coi chơi, biết đâu mày chẳng giỏi hơn tụi giáo sĩ kia. Lúc đó có lẽ vì lòng ham muốn thôi thúc nên tôi chỉ ngay vào ngôi đền lớn, có hai cánh cửa bằng đá lúc nào cũng khép chặt: - Tao chắc họ cất giấu trong đó vì chỉ các bậc đạo trưởng mới được vào trong ngôi đền này mà thôi.
Horemheb sung sướng reo lên:
- Thế ư? Tưởng gì chứ nếu họ cất giấu trong đó thì tao có thể lấy ra dễ dàng. Đối với tao, việc trèo tường khoét vách chỉ là trò trẻ.
- Nhưng… kỷ luật nhà trường rất nghiêm khắc, nếu có chuyện gì…
Horemheb vỗ mạnh lên vai tôi:
- Điều đó chẳng ăn nhập gì tới tao cả. Mày là học sinh chứ tao có phải là học sinh đâu mà sợ vi phạm kỷ luật.
Bất chấp sự khuyên can của tôi, Horemheb quyết tâm đột nhập ngôi đền cấm. Tôi biết tính hắn đã quyết thì không thể can ngăn nhưng đêm đó khi hắn ra đi, tôi thấy hồi hộp, vừa lo sợ, vừa mừng nên cứ đứng ngồi không yên.
Gần sáng Horemheb trở về với vẻ thất vọng:
- Tao chắc mày lầm rồi. Trong ngôi đền đó chẳng có tài liệu, sách vở gì hết.
- Mày nói sao?
- Đó chỉ là một ngôi đền trống rỗng.
- Tại sao lại như thế được? Ngôi đền đó luôn luôn được canh giữ cẩn thận, không ai được phép vào ngoại trừ những vị đạo trưởng…
Horemheb trầm ngâm:
- Tao đã lục soát khắp nơi nhưng không thấy gì. Trong đền hoàn toàn trống trơn không có đồ đạc gì hết mà chỉ có một cỗ quan tài bằng đá.
- Cái gì? Một cỗ quan tài bằng đá?
- Đúng thế, một cỗ quan tài lớn bằng đá nhưng lại không có nắp đậy, bên trong trống rỗng, chẳng có một thây ma nào hết. - Horemheb, mày không đùa đấy chứ? Horemheb nghiêm trang lắc đầu:
- Tao đã xem xét cẩn thận, ngoài cỗ quan tài rỗng đó ra, trong đền cũng không có các đồ vật tẩm liệm hay bàn ghế, đồ đạc gì hết. Thật kỳ lạ! Một ngôi đền không có hình tượng thần linh, ngay cả trên vách cũng trống trơn, không có hình vẽ hay dấu hiệu chi hết. Nếu cất giấu tài liệu bí mật thì chắc họ giấu ở chỗ nào khác…
- Nhưng… nhưng biết đâu chẳng có những chỗ cất giấu bí mật?
Horemheb lắc đầu:
- Tao đã xem xét kỹ từng phiến đá dưới sàn, từng vách tường để tìm kiếm nhưng không thấy một dấu vết khả nghi nào. Nếu không tin, đêm mai tao sẽ đưa mày vào đó xem cho biết.
Tôi không phải là người thích mạo hiểm nhưng câu chuyện Horemheb kể về ngôi đền và cỗ quan tài đã kích thích óc tò mò của tôi rất nhiều. Sau một lúc đắn đo, tôi quyết định cùng Horemheb lẻn vào ngôi đền để xem xét thực hư.
Đó là một đêm không trăng, trời tối đen như mực. Horemheb dẫn tôi đi về phía đền cấm. Thỉnh thoảng hắn lại ra hiệu cho tôi núp vào một chỗ khi gặp những toán nô lệ canh phòng đi ngang. Ngôi đền cấm tọa lạc giữa một khoảng sân rộng, chung quanh có người canh gác cẩn thận nhưng Horemheb đã nghiên cứu từ trước. Hắn biết rõ đường đi nước bước của nhóm người canh gác này nên chúng tôi vào sát ngôi đền mà không gặp khó khăn nào. Horemheb quả là tay "nhà nghề", chỉ thoáng cái hắn đã leo lên nóc đền, nhẹ nhàng như một con mèo, rồi thả dây xuống cho tôi leo lên. Chúng tôi lần theo những hàng cột đá chống giữ nóc đền rồi chui vào chỗ thông hơi trên nóc. Từ đây, chúng tôi có thể quan sát phía bên trong ngôi đền. Mặc dù bên trong rất tối, chỉ có vài ngọn đèn nhỏ nhưng đúng như lời Horemheb nói, đó là một căn phòng lớn, không có đồ đạc hay hình tượng thần linh như những ngôi đền khác. Dưới ánh đèn lờ mờ, tôi thấy giữa phòng có một cỗ quan tài lớn bằng đá.
Horemheb nói nhỏ:
- Để tao thả dây xuống cho mày xuống đó xem xét.
Chúng tôi đang chuẩn bị trèo xuống thì đột nhiên có tiếng động. Cánh cửa chính được mở ra, và một nhóm tu sĩ ở đâu bước vào. Dưới ánh sáng của những ngọn đuốc, các vị đạo trưởng mặc y phục hành lễ rất long trọng. Đi đầu là đạo trưởng Akhanuxem khoác áo thụng, hai tay trịnh trọng nâng một cái khay lớn. Theo sau ông là bốn vị trưởng lão, mỗi người cầm một tích trượng chạm trổ những hình ảnh thần linh. Kế tiếp là một người cao lớn mặc quần áo trắng, đầu quấn một cái khăn lớn phủ kín mặt nên tôi không nhận ra y là ai. Sau cùng là sáu vị đạo trưởng bưng những chiếc khay đồng trên để các dụng cụ hành lễ.
Họ thong thả đi đến trước cỗ quan tài đá rồi đứng quây chung quanh đó và khởi sự các nghi thức dâng hương. Việc các đạo trưởng hành lễ giữa đêm khuya không có gì lạ vì trong tu viện vẫn có những khóa lễ ngày cũng như đêm, nhưng tại sao họ không hành lễ trước bàn thờ các thần linh mà lại dâng hương trước cỗ quan tài bằng đá như vậy? Chúng tôi im lặng theo dõi các nghi thức long trọng, kéo dài rất lâu này. Sau cùng Horemheb nói khẽ:
- Tao thấy chẳng có gì đáng xem, chúng ta nên rời đây kẻo trời sắp sáng rồi.
Tôi gật đầu đồng ý và định leo ra nhưng lúc đó khóa lễ cũng vừa chấm dứt. Giữa làn khói hương nghi ngút, đạo trưởng Akhanuxem trịnh trọng bước đến bên người mặc áo trắng, giơ hai tay đặt lên trán người kia như làm một nghi thức gì đó. Người này thong thả bước vào nằm trong cỗ quan tài.
Horemheb giật mình buột miệng nói:
- Thằng khùng kia chui vào quan tài làm gì vậy?
May mắn là lúc đó đạo trưởng Akhanuxem và bốn vị trưởng lão đồng loạt giơ hai tay lên trời, đọc thần chú nên không ai nghe thấy. Đó là một bài thần chú hết sức lạ lùng, âm thanh kỳ lạ khác hẳn những bài thần chú mà tôi thường nghe trong các khóa lễ. Sau một lúc đọc thần chú và làm các nghi lễ, đạo trưởng Akhanuxem phất tay, ra hiệu cho các giáo sĩ đi vòng quanh cỗ quan tài rồi sắp thành hàng một, từ từ tiến ra cửa. Đạo trưởng Akhanuxem đi sau cùng, đi đến đâu ông tắt đèn đến đó, chỉ chừa lại một ngọn đèn rất nhỏ, đặt trên đầu cỗ quan tài mà thôi. Cánh cửa đá từ từ đóng, để lại bóng tối dầy đặc mênh mông phía trong ngôi đền.
Horemheb quay qua tôi, nói nhỏ: 
- Bây giờ chúng ta trở về phòng.
Lúc đó không hiểu sao tính tò mò của tôi nổi lên: 
- Tao muốn xem xét cái thằng nằm trong cỗ quan tài kia đã.
Đến lượt Horemheb ngạc nhiên: 
- Cái gì? Mày muốn gì? 
- Tại sao các giáo sĩ lại để người kia nằm trong quan tài như vậy? Tại sao họ lại tắt hết đèn đuốc? Hắn nằm trong đó làm gì? Liệu hắn còn sống hay đã chết?
Horemheb lắc đầu: 
- Có lẽ đó là một nghi thức quái đản gì đó của bọn giáo sĩ nhưng tìm hiểu điều này đâu phải mục đích của chúng ta.
Tôi biết Horemheb là người chỉ thích làm những việc có mục đích rõ rệt nên nói khích: 
- Tao chắc mày sợ rồi… Có lẽ chuyện kỳ quái này đã làm mày sợ hãi…
- Cái gì, thằng Horemheb này mà sợ ư? 
- Nếu không sợ thì mày hãy để tao leo xuống đó xem xét.
Chúng tôi rón rén leo xuống đất và tiến thẳng về cỗ quan tài. Dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn dầu, người kia vẫn nằm yên bất động. Khuôn mặt y được phủ bằng một tấm khăn mỏng nên chúng tôi không biết hắn đang tỉnh hay mê.
Chúng tôi đứng yên lặng trong bóng tối quan sát rất lâu nhưng y vẫn nằm bất động, tấm màn mỏng phủ trên mặt cũng không hề rung động, hình như y không thở nữa thì phải. Không lẽ y đã chết?
Chờ mãi vẫn không thấy động tĩnh gì, Horemheb đánh bạo đưa tay nhấc tấm khăn mỏng đó lên để lộ ra khuôn mặt của một thanh niên còn trẻ, có gò má cao và đôi lông mày rất rậm. Người thanh niên vẫn nằm yên không nhúc nhích, như một pho tượng. Horemheb đưa tay để gần lên mũi y và thấy gã này không thở nữa.
Hắn giật mình nói khẽ: 
- Hình như thằng nầy đã chết rồi!
Tôi ngạc nhiên. Không lẽ người này có thể chết một cách dễ dàng như vậy sao? Tôi vội đưa tay bắt mạch thì thấy rõ tim hắn cũng đã ngưng đập mặc dù cơ thể hắn vẫn còn hơi ấm.
Horemheb nói nhỏ vào tai tôi: 
- Mày thỏa mãn rồi chứ? 
- Tại sao hắn lại chết như vậy? 
- Mày thắc mắc làm gì cho mệt, hay mau đi khỏi nơi đây kẻo trời sắp sáng rồi.
Tôi còn đang chần chừ chưa quyết định thì Horemheb đã kéo xốc tôi đi. Chúng tôi leo lên nóc đền và theo lối cũ trở về.
Khi về đến phòng tôi vẫn thắc mắc: 
- Thật lạ lùng! Rõ ràng người thanh niên kia tự nguyện chui vào nằm trong quan tài rồi không hiểu sao lại tắt thở. Chắc phải có một sự kiện bí mật nào đó. 
- Hắn sống hay chết thì ăn nhập gì đến việc tìm tài liệu bí mật của các giáo sĩ? 
- Nhưng đây là một sự kiện kỳ quái, phải chi tao có thể khám nghiệm tử thi để tìm ra nguyên nhân của cái chết. Biết đâu… Horemheb bật cười:
- Mày thắc mắc nhiều quá chỉ khổ thân thôi. Chúng ta có một mục đích là tìm kiếm những tài liệu mật thì chỉ để hết nỗ lực vào việc đó mà thôi. Việc khác hãy để qua một bên.
Tôi biết tính Horemheb rất thực tế, trái ngược với tôi là kẻ nhiều mơ mộng, hay thắc mắc viễn vông nhưng tôi không thể quên được sự kiện lạ lùng mà tôi chứng kiến ở ngôi đền cấm cũng như khuôn mặt kỳ lạ của người thanh niên nằm trong cỗ quan tài đá kia. Hình như có một cảm giác gì đó kỳ lạ, thân mật giữa tôi và cái tử thi đó mà tôi không thể diễn tả. Nhiều đêm tôi đã giật mình thức giấc rồi mất ngủ vì bị khuôn mặt người đó ám ảnh. Là một y sĩ, tôi đã từng khám nghiệm và mổ tử thi, đã nhìn thấy hàng trăm khuôn mặt người chết nhưng tại sao tôi lại bị ám ảnh bởi khuôn mặt đó? Tại sao chỉ nhìn thoáng qua khuôn mặt người chết trong một khung cảnh tranh tối tranh sáng mà người ta có thể bị ám ảnh mạnh như thế được?
Mấy tuần lễ sau, dù cố công tìm kiếm nhưng chúng tôi không tìm ra manh mối gì về những tài liệu bí mật mà chúng tôi nghĩ vẫn được cất giữ tại một nơi chốn nào đó trong khuôn viên tu viện. Ít hôm sau, Horemheb trở về Thebes, còn tôi tiếp tục việc học về "Khoa Học Của Sự Sống".
Thời gian thấm thoát trôi, chẳng mấy chốc tôi đã hoàn tất chương trình huấn luyện tại Abydos. Tôi thi đỗ thủ khoa và chính thức trở nên một y sĩ như cha tôi. Năm đó tôi vừa tròn hai mươi ba tuổi.
CHƯƠNG 3
Khi tôi trở về thành Thebes thì cha mẹ tôi đã chờ sẵn với một bữa cơm thịnh soạn để ăn mừng. Trong lúc khuân hành lý vào nhà, tôi ngạc nhiên thấy cha mẹ tôi cũng đã thu xếp quần áo, hành trang như chuẩn bị cho một chuyến đi xa.
- Cha lại đi hái thuốc hay sao?
Cha tôi mỉm cười lắc đầu:
- Không. Lần này ta và mẹ con sẽ đi thăm viếng một số đạo viện. Từ nhiều năm nay, chúng ta vẫn mong có cơ hội theo đuổi những công việc tinh thần nhưng vì còn trách nhiệm săn sóc những bệnh nhân nghèo nên chúng ta chưa hoàn thành ý định. Hiện nay con đã trở thành một y sĩ, có thể thay ta nối tiếp việc này nên chúng ta muốn lên đường để hoàn tất những ước nguyện thuở trước.
- Nếu vậy cha mẹ dự định sẽ đi trong bao lâu?
- Điều đó còn tùy hoàn cảnh, có thể vài tháng hay vài năm không chừng.
Tôi nhìn khuôn mặt đầy những vết nhăn của cha tôi, người y sĩ cả đời tận tụy với việc cứu nhân độ thế, rồi nắm chặt lấy tay ông:
- Cha cứ yên chí, con sẽ thay mặt cha trông nom săn sóc những bệnh nhân nghèo, đúng như ý cha muốn.
Cha tôi cảm động. Ông ngập ngừng một lúc rồi nói:
- Tốt lắm, ta biết con sẽ làm được việc này. Từ nhiều năm nay chúng ta vẫn sống thanh bạch, không sở hữu gì ngoại trừ căn nhà làm nơi khám bệnh. Chúng ta giao cho con trông nom khi chúng ta đi xa. Tuy nhiên lần này chúng ta đi không biết bao giờ về nên ta muốn nói với con một điều quan trọng… Cha tôi ngưng lại một lúc như suy nghĩ rồi nói tiếp:
- Này Sinuhe, đáng lẽ ra chúng ta phải nói cho con biết về việc này từ lâu rồi nhưng ta không muốn con thắc mắc suy nghĩ nhiều có thể ảnh hưởng đến việc học nên hôm nay mới có dịp cho con biết. Theo ý ta, những việc đã qua thì có lẽ nên để nó chìm vào quá khứ thì hơn nhưng mẹ con đã bàn với ta không nên giấu con điều gì, do đó ta muốn kể cho con nghe một câu chuyện xảy ra cách đây hơn hai mươi năm…
Cha tôi im lặng, cặp mắt ông trở nên mơ màng như đang chìm đắm trong một kỷ niệm nào đó. Sau cùng ông thong thả lên tiếng:
- "Hồi đó ta là một y sĩ trẻ, vừa tốt nghiệp như con ngày nay vậy. Như con đã biết, kiến thức về Khoa Học Của Sự Sống thì bao la vô cùng nhưng kiến thức về y giới chỉ giới hạn trong phương diện chữa trị mà thôi. Chỉ riêng các giáo sĩ trong dòng tu Osiris, những người đã phát nguyện sống trong sạch để phụng sự nhân loại, mới được truyền dạy thêm kiến thức về Khoa Học Của Sự Sống. Vì muốn học hỏi kiến thức này, ta đã phát nguyện không lập gia đình để trở thành một giáo sĩ dành hết thì giờ cho việc nghiên cứu.
Khi đó mẹ con là con gái út của hoàng thân Oka Mazuk trong triều. Hoàng thân Oka Mazuk là em họ của hoàng đế Pharaoh, được lệnh cai quản khắp miền nam Ai Cập, sát biên giới Nubia. Tuy xuất thân trong một gia đình giàu có, thế lực vào bậc nhất Ai Cập nhưng ngay từ nhỏ, mẹ con đã không ham thích đời sống xa hoa đài các này. Bà chỉ muốn theo đuổi những công việc tinh thần nên đã phát nguyện trở nên một nữ tu của dòng tu Isis, chứ không hề muốn lập gia đình như những phụ nữ khác. Năm đó ông ngoại con theo hoàng đế Pharaoh kéo binh chinh phạt xứ Nubia, mang về rất nhiều nô lệ. Gặp thời tiết nóng nực, có dịch thời khí nên số nô lệ đem về bị chết rất nhiều. Mẹ con thấy vậy động lòng thương xót nên đã hết lòng tìm thầy thuốc chữa chạy, săn sóc những người nô lệ. Bà đã bán chiếc vòng ngọc mà ông ngoại con đã tặng bà nhân sinh nhật mười sáu tuổi, để mua thuốc chữa trị cho các nô lệ. Đây là một chiếc vòng ngọc vô cùng quí báu, có giá trị rất lớn mà ông ngoại con đã tốn rất nhiều công sức mới chiếm đoạt được nó.
Khi hay tin mẹ con đem bán chiếc vòng để giúp nô lệ, ông ngoại con nổi giận. Để trừng phạt. ông có ý định gả mẹ cho một sĩ quan đã lập nhiều chiến công cho triều đình, bất chấp việc bà đã phát nguyện trở nên một nữ tu trong sạch. Trước tình trạng ấy, mẹ con quyết định tự tử để giữ tròn lời nguyện. Là y sĩ bán thuốc cho mẹ con và cũng là người được bà yêu cầu bào chế một thang thuốc độc, ta biết rõ tình trạng căng thẳng lúc đó. Để cứu một người mà ta vô cùng kính phục, ta bèn đưa ra một giải pháp tạm thời cho tình trạng lúc đó, là ngỏ lời cầu hôn mẹ con.
Vì cả hai chúng ta đều đã phát nguyện sống trong sạch nên cuộc hôn nhân của chúng ta chỉ xảy ra trên danh nghĩa mà thôi chứ thật ra không hề có sự ô nhiễm tình dục. Ta hy vọng thời gian sẽ làm nguôi cơn giận của ông ngoại con và rồi mọi việc sẽ sáng tỏ…"
Đây không phải là điều mới lạ vì tôi đã nghe kể về việc này từ trước mặc dù lần này cha tôi kể chi tiết hơn. Cha tôi nhìn tôi một lúc rồi tiếp tục:
- "Dĩ nhiên là điều này qua mắt được ông ngoại con nhưng không lọt qua sự nghi ngờ của Smenkere, người quan đã lập nhiều chiến công cho triều đình lúc đó. Smenkere vẫn thầm nuôi hy vọng lấy được một người thuộc giai cấp hoàng tộc như mẹ con vì đó là con đường dẫn đến danh vọng và quyền lực cho hắn. Khi nghe mẹ con và ta lập gia đình, hắn vô cùng thất vọng và tức giận. Dĩ nhiên nếu cuộc hôn nhân giả mạo này bại lộ, ta sẽ không thoát khỏi án tử hình, và mẹ con sẽ không tránh khỏi việc bị ép làm vợ Smenkere.
Sau nhiều ngày suy nghĩ, ta bàn với mẹ con nên rời Memphis đến Thebes lập nghiệp, để tránh cặp mắt soi mói của Smenkere. Tuy đã đi xa nhưng chúng ta vẫn bị theo dõi rất gắt. May thay lúc đó cuộc chiến với dân Hitites xảy ra nên Smenkere phải cầm quân ra trận…"
Tôi thắc mắc:
- Rồi sao nữa? Liệu… cha mẹ có giữ… lời nguyện không?
Cha tôi quay sang nhìn mẹ tôi rồi mỉm cười:
- Này Sinuhe, khi một người đã chọn để theo đuổi một lý tưởng thì thà chết chứ không bao giờ vi phạm lời nguyện, nhất là khi cả hai chúng ta đều phát nguyện trong những buổi lễ điểm đạo tại các thánh điện trang nghiêm.
Tôi giật mình kêu lớn:
- Nhưng nếu… nếu thế… làm sao lại có con được?
Mẹ tôi vẫn ngồi yên lặng, bây giờ mới lên tiếng:
- Này Sinuhe, lúc đầu chúng ta giả vờ kết hôn để giải quyết một khó khăn nhất thời nhưng chúng ta không ngờ nó lại tạo ra những khó khăn khác. Chúng ta đã nguyện sống trong sạch, coi nhau như anh em ruột thì làm sao có con với nhau được…
Cha tôi đỡ lời:
- Mẹ con nói đúng đấy. Chúng ta đến Thebes nhưng vẫn bị theo dõi vì dường như Smenkere đã nghe nói về lời nguyện giữ mình trong sạch của chúng ta.
Tôi nóng nảy, không giữ được bình tĩnh:
- Như vậy con là… con là con của ai?
Cha tôi thong thả trả lời:
- "Hôm đó chúng ta có việc đi ngang một khúc sông vắng thì nghe có tiếng trẻ khóc từ một giỏ mây thả trôi trên sông Nile. Con biết đấy, xã hội nào cũng có những đứa con rơi, những giọt máu vô thừa nhận, hậu quả của những cuộc tình lầm lỡ. Những bà mẹ bất hạnh thường đặt những đứa trẻ vô thừa nhận đó vào những giỏ mây thả trôi trên sông Nile, phó mặc cho thần sông Nile che chở. Hàng năm có biết bao đứa trẻ bị thả trôi sông như vậy.
Nghe tiếng trẻ khóc, mẹ con động lòng nên yêu cầu ta vớt đứa bé đó vào bờ nhưng không ai muốn nuôi đứa trẻ ấy cả. Bất chợt mẹ con nảy ra một ý kiến hay, bà bàn với ta rằng nếu chúng ta làm như đã có con với nhau thì sẽ đánh tan được mối nghi ngờ của Smenkere, và chúng ta có thể sống yên ổn. Hiển nhiên đã giả việc kết hôn thì việc nhận nuôi một đứa trẻ để giả làm con ruột cũng đâu có khó gì.
Và con chính là đứa trẻ được chúng ta vớt từ sông về nuôi để che mắt mọi người…"
Tôi kêu lớn:
- Như thế… con là một đứa trẻ… vô thừa nhận?
Mẹ tôi an ủi:
- Này Sinuhe, tuy ta không sinh ra con nhưng lúc nào con cũng là con của ta. Lúc đầu chúng ta nuôi con chỉ vì muốn che mắt Smenkere nhưng về sau chúng ta đã yêu thương con đâu khác gì một đứa con ruột. Tôi thất vọng:
- Thế rồi… sao nữa?
- Khi Smenkere đánh trận trở về và nghe tin chúng ta đã có con với nhau thì hắn đành bỏ mộng làm rể gia đình hoàng gia. Từ đó chúng ta được sống yên ổn, không bị ai nhòm ngó, theo dõi nữa.
Cha tôi mở tủ thuốc lấy ra một cái chăn đã cũ:
- Đây chính là tấm chăn đã lót con trong giỏ mây, nó được may bằng một loại sợi đan rất thô. Loại sợi này chỉ có ở vùng Phalon, thượng lưu sông Nile. Đây là miền mà đa số dân chúng đều sống bằng nghề chài lưới nên chúng ta đoán rằng có lẽ con xuất thân là con nhà thuyền chài…
Thấy tôi thất vọng, mẹ tôi khuyên giải:
- Này Sinuhe, có thể hiện nay con đang bàng hoàng xúc động nhưng rồi cảm xúc này sẽ qua đi vì trước sau gì con vẫn là con của chúng ta. Ngày trước chúng ta yêu con bao nhiêu thì bây giờ chúng ta vẫn yêu thương con như vậy. Chúng ta chỉ muốn con biết rõ nguồn gốc của mình mà thôi. Chuyện đã qua, có lẽ nên để nó chìm vào quá khứ thì hơn nhưng chúng ta không muốn giấu con một điều gì. Con đã trưởng thành, có thể chấp nhận được sự thật này. Đúng như lời mẹ tôi nói, tôi đã xúc động một thời gian nhưng sau khi cha mẹ tôi lên đường và tôi bắt đầu trông coi phòng mạch, thì thời gian và công việc đã giúp tôi nguôi ngoai rất nhiều. Được tin tôi trở về, Horemheb vội vã đến thăm. Trong lúc hàn huyên tâm sự, tôi đã kể cho hắn nghe về thân thế mình. Horemheb bật cười vỗ mạnh lên vai tôi:
- Thì ra thân thế mày cũng chẳng hơn gì tao. Mày là một thằng con rơi, không ai thèm nhận; còn tao là con một tên bán bánh tầm thường, không ai thèm để ý. Như thế chúng ta kết bạn là đúng quá rồi. Tuy nhiên nếu mày đã kể cho tao nghe về việc bí mật của mày thì tao cũng có một việc riêng để nói với mày và muốn mày đừng kể với ai…
Tôi ngạc nhiên:
- Cái gì nữa đây? Phải chăng mày cũng là…
Horemheb lắc đầu:
- Thôi đi Sinuhe, đừng nghĩ rằng ai cũng là con rơi như mày đâu! Thân thế tao hèn kém, là con một tên bán bánh ngoài chợ thì tao chỉ có thể hành nghề bán bánh, quét chợ hay làm phu khuân vác mà thôi. Tuy nhiên tao đã quen được một sĩ quan trong đội Ngự lâm quân, người này sẵn sàng thâu nhận tao làm lính. Thật ra tao đã man khai lý lịch rằng cha tao là một người lính đã tử trận để được thâu nhận.
- Tại sao mày làm vậy?
Horemheb giải thích:
- Này Sinuhe, tuy mày không phải là con ruột của y sĩ Sen Moot nhưng đã mấy ai biết điều ấy. Hiện nay mày là một y sĩ, được xã hội kính trọng. Phần tao thuộc giai cấp hèn kém, chỉ hơn giai cấp nô lệ một chút, có muốn ngóc đầu lên cũng không thể được nên tao mới phải làm lý lịch giả như thế. Giai cấp quân nhân, dù không vẻ vang gì nhưng cũng còn hơn giai cấp thợ thuyền. Tao đã quyết định rời thành Thebes lên Memphis đầu quân, tao sẽ mời mày lên đó ăn mừng.
Tôi biết lúc nào Horemheb cũng nuôi mộng làm lính nên không ngạc nhiên về chuyện này. Sau khi Horemheb lên đường, tôi tiếp tục hành nghề y sĩ. Đã quen với cuộc sống thanh bạch, tôi không phiền hà gì về số tiền thu nhập thất thường trong chiếc thùng gỗ để trước cửa phòng mạch. Có nhiều hôm tôi chỉ nhận được ít tiền lẻ, vừa đủ mua một ổ bánh mì khô, nhưng cũng có khi tôi nhận được những số tiền khá lớn. Theo lệ cũ, tôi chia số phần này ra làm hai phần, một phần giữ lại để đủ ăn trong bảy ngày, phần kia tôi mang ra phân phát cho những người nghèo khó trong xóm.
Thời gian êm đềm trôi. Một hôm tôi để ý thấy trong suốt mấy tháng, số tiền trong thùng càng ngày càng ít đi. Hình như bệnh nhân không chịu trả tiền nữa thì phải. Lúc đầu tôi không để ý nhưng về sau tôi thấy lần nào mở thùng ra, tôi cũng chỉ thu được một ít xu lẻ, vừa đủ mua một ổ bánh cho bữa tối mà thôi. Một hôm tôi mổ óc cho một lái buôn giàu có, đeo đồ trang sức đầy người. Ông này cám ơn cứu mạng nên ra lệnh cho tên nô lệ theo hầu bỏ vào thùng gỗ của tôi một số tiền rất lớn. Tôi nghe rõ tiếng tiền bạc kêu rổn rảng trong hòm, thế mà buổi chiều hôm đó, khi mở thùng ra, tôi vẫn chỉ thấy có một ít xu lẻ như mọi lần. Biết có kẻ lấy trộm, tôi bèn để ý rình.
Hôm sau, khi bệnh nhân cuối cùng vừa bước vào phòng khám bệnh, thay vì chữa trị, tôi yêu cầu bệnh nhân ngồi chờ, còn tôi thì lẻn ra phía sau nhà quan sát. Tôi tin rằng nếu có kẻ trộm tiền thì hắn sẽ phải ra tay trước khi tôi đóng cửa phòng mạch. Quả nhiên đúng như dự đoán, tôi thấy một người to lớn, quần áo xốc xếch, bước đến bên cạnh thùng tiền. Hắn lấm lét nhìn trước nhìn sau, rồi rút trong mình ra một chiếc chìa khóa nhỏ, mở thùng và trút hết tiền bạc trong đó vào túi. Cơn giận ở đâu nổi lên, tôi xông ra túm chặt lấy hắn quát tháo ầm ĩ. Tên trộm vùng vẫy toan chạy nhưng tôi đã ôm chầm lấy hắn, đẩy hắn ngã lăn ra đất. Biết không thể chạy được, hắn vội quỳ mọp bên chân tôi năn nỉ:
- Thưa y sĩ, tôi… trót dại, mong ông tha cho.
- Thằng khốn! Mi ăn trộm tiền của ta từ bao lâu rồi?
- Thưa ông, tôi nghèo đói nên lỡ dại…
Nhìn thấy khuôn mặt lấm lem và con mắt bên phải của gã trắng dã, không tròng, tôi động lòng thương xót:
- Này thằng chột kia, mi tên gì, ở đâu đến đây?
- Tôi tên là Kepta, thuộc bộ lạc Do Thái. Tôi vốn là một nô lệ nhưng chẳng may chủ tôi chết sớm, không để lại tiền bạc gì nên trở nên một kẻ vô chủ, lang thang đầu đường xó chợ. Tôi già yếu, không làm được việc lao động, lại chột mắt, hình dáng xấu xí nên chẳng ai muốn nuôi. Tôi lang thang xin ăn khắp thành Thebes cho đến khi thấy thùng tiền của ông để trước cửa…
Kepta vừa nói vừa chăm chú nhìn tôi. Khi thấy tôi có vẻ nguôi giận, hắn lập tức đổi giọng lý luận:
- Thưa y sĩ, tôi biết ông thường đem tiền này giúp kẻ nghèo khó trong xóm; nhưng thưa ông, tôi là kẻ nghèo khó nhất xóm. Tôi cam đoan không ai nghèo hơn tôi nên tôi đành phải… tạm thời sử dụng số tiền này đấy thôi. Điều nầy thật ra cũng đâu có hại gì vì nếu tôi không lấy thì ông cũng đem tiền cho người khác.
Tôi suýt bật cười vì giọng lưỡi ngụy biện của tên Do Thái chột mắt này: 
- Mi giỏi thật! Đã lấy trộm tiền lại còn dám cãi lý với ta nữa.
Kepta nhăn mặt xua tay rối rít:
- Ấy chết, xin ông đừng nói quá! Nếu tôi lấy trộm thì phải lấy hết số tiền này chứ nhưng… tôi vẫn để lại… một chút cho ông dùng kia mà!
Tôi bật cười vì miệng lưỡi lợi hại của tên nô lệ vô chủ này:
- Thằng chột kia, nếu đã để lại ít tiền thì sao mi không để lại một số tiền kha khá mà lần nào cũng chỉ một vài xu lẻ?
Kepta lấm lét nhìn tôi rồi cười xòa:
- Tôi biết ông là người ăn uống thanh đạm. Một ổ bánh mì cũng đủ nên tôi để lại vừa đủ tiền cho ông ăn bánh mì…
Nếu để lại nhiều tiền hơn, ông lại mất công mang đi cho người khác. Như thế là tôi giúp ông đấy chứ…
Tôi chưa biết phải nói làm sao thì nghe tiếng bệnh nhân trong phòng mạch gọi nên tôi bèn chỉ mặt tên chột mắt:
- Thôi được! Lần này ta tha cho mi, hãy mau cút đi nơi khác kiếm ăn. Nếu ta còn bắt gặp mi lảng vảng quanh đây thì chớ có trách.
Tôi nghĩ tên chột mắt này sẽ sợ hãi bỏ đi ngay nhưng chiều hôm đó, khi vừa khám bệnh xong tôi đã thấy Kepta ngồi chờ trước cửa. Hắn nói ngay:
- Thưa y sĩ, tôi biết ông không nuôi nô lệ nhưng nếu ông không chê tên chột mắt, xấu xí, thì hãy thu nhận tôi làm nô lệ hầu hạ cho ông.
- Cái gì? Ta nhận để ngươi ăn cắp tiền chữa bệnh của ta nữa ư?
Kepta lắc đầu:
- Không, không đời nào! Nếu tôi làm nô lệ cho y sĩ thì tôi sẽ bảo vệ thùng tiền này bằng mạng sống của tôi. Đứa nào đụng vào sẽ chết với thằng chột này.
Tôi không hề có ý định nuôi nô lệ nhưng bấy lâu nay sống cô độc, không ai trò chuyện, gặp tên Do Thái ăn nói có duyên tôi cũng thích. Tôi bèn nhận cho hắn ở chung, để dọn dẹp nhà cửa và làm những việc vặt. Từ đó Kepta trở nên một người phụ tá đắc lực cho tôi. Không biết hắn ra phố quảng cáo những gì mà từ ngày có hắn, số bệnh nhân tăng lên rất nhiều và số tiền thu được cũng tăng lên thấy rõ. Mặc dù tôi chủ trương sống thanh bạch, ăn uống giản dị nhưng Kepta không quan niệm như vậy. Hắn ép tôi phải ăn uống đàng hoàng, cẩn thận để có sức khỏe, phục vụ mọi người.
Một hôm tôi nhận được tin của Horemheb từ Memphis báo rằng hắn vừa được tuyển làm lính Ngự lâm quân và muốn tôi lên đó ăn mừng với hắn. Tôi vội thu xếp lên Memphis ngay. Gặp tôi, Horemheb mừng rỡ kéo vào một quán rượu gần đó:
- Tao đã được chấp nhận, chỉ còn chờ ngày làm nhập ngũ mặc quân phục nữa thôi. Mày phải uống rượu mừng cho tao.
Tôi chưa hề uống rượu nhưng vì muốn chung vui với Horemheb nên cũng vui lòng cầm ly lên uống một hơi. Mùi rượu nồng nặc khiến tôi ho sặc sụa. Thấy vậy, Horemheb vỗ vai tôi cười lớn:
- Trước sau gì mày cũng phải tập uống rượu. Đàn ông mà không biết uống rượu thì có ra gì!
Horemheb là người quảng giao, quen nhiều biết rộng nên chúng tôi vừa ngồi vào bàn thì đã có nhiều người khác cũng đến uống rượu chung vui với hắn. Một lúc sau, bàn của chúng tôi đã qui tụ hàng chục người say sưa ăn uống nói cười, hết sức vui vẻ. Horemheb luôn miệng gọi rót thêm rượu và nhất định bắt mọi người phải nâng ly uống cho hết. Vì không quen uống nên tôi rất dè dặt, chỉ nhắp vài ngụm lấy lệ, nhưng mặc dù uống rất ít, tôi cũng bị choáng váng, xây xẩm mặt mày. Hiển nhiên những tay bợm nhậu này thấy ngay, họ ép tôi phải uống cho thật say.
Người rót rượu, một thiếu nữ rất trẻ, lên tiếng bênh vực:
- Các ông chớ ép ông này uống nữa. Tôi xem chừng ông ta không chịu nổi đâu. Đám bợm nhậu nhao nhao lên:
- Say chút ít đâu có sao!
- Phải cho hắn nếm mùi say một lần cho biết.
Cô gái lắc đầu:
- Nhưng ông này coi bộ chịu hết nổi rồi, xin các ông tha cho… Đám bợm nhậu rú lên cười:
- Này Meryt, hôm nay cô làm sao vậy? Hắn càng uống nhiều thì cô càng thu lắm tiền kia mà?
- Tại sao cô không muốn cho tên này uống rượu?
- Phải chăng cô đã thích hắn?
Meryt, người thiếu nữ bán rượu, lên tiếng: - Tôi xem chừng ông này muốn quị rồi, uống thêm sợ có chuyện gì…
Horemheb cười ha hả, gạt đi:
- Cô cứ tiếp tục rót đi. Sinuhe là em tôi, hắn phải uống mừng cho tôi, có chuyện gì thì để Horemheb này chịu.
Trong lúc đám bợm nhậu đang ồn ào bắt tôi phải uống thêm thì bỗng có tiếng tù và thổi vang khắp nơi rồi tiếng người nhốn nháo kêu gọi khắp đường phố. Horemheb giật mình đặt ly rượu xuống bàn, nghe ngóng:
- Tại sao có tiếng tù và báo động như vậy?
Tiếng tù và mỗi lúc một cấp bách rồi tiếng chân người chạy dồn dập. Một lúc sau có thêm tiếng kèn và tiếng hò hét rầm rĩ. Horemheb biến sắc:
- Đó là tiếng kèn báo động trong hoàng cung. Horemheb và đám bạn vội bước ra cửa thì thấy quân lính xuất hiện khắp nơi, gươm giáo sáng ngời.
Horemheb lên tiếng hỏi:
- Chuyện gì vậy?
Một người lính trả lời:
- Hoàng đế Pharaoh vừa qua đời.
- Tại sao lại náo loạn như thế?
Một người lính khác xen vào:
- Hoàng đế đã được mang đi chôn cất nhưng đám nô lệ lo việc mai táng không chịu chết theo, chúng nổi loạn và đang đánh nhau với lính ngự lâm.
Phong tục chôn cất những nô lệ hay cung nữ theo các vị vua chúa để hầu hạ những người này ở cõi giới bên kia là một việc thường. Đối với người Ai Cập, Hoàng đế Pharaoh là một vị thần nên sự chết đối với họ chỉ là một cuộc hành trình đi qua cõi giới khác mà thôi. Để bảo đảm cuộc hành trình này, việc chôn cất luôn luôn được cử hành theo những nghi thức nhất định, tiễn đưa vua Pharaoh lên đường. Một trong những nghi thức rất quan trọng là việc giữ gìn thể xác vì tính cách thiêng liêng của thể xác này. Nếu thể xác bị hư hại, đời sống vĩnh cửu ở thế giới bên kia sẽ gặp khó khăn. Đây là một điều được các giáo sĩ thuộc nhóm nghiên cứu Khoa Học Của Sự Chết ghi nhận rất kỹ.
Cũng vì sự tin tưởng này nên việc đầu tiên của bất cứ vị vua Pharaoh nào khi vừa lên ngôi là lo chuẩn bị xây cất cho mình một lăng tẩm, một ngôi mộ kiên cố, để giữ gìn thể xác của mình, để bảo đảm cho đời sống ở cõi giới bên kia. Để có thêm những tiện nghi, các vua Pharaoh bắt chôn theo những tùy tùng, nô lệ và cung nữ để hầu hạ nên việc những người này phản đối, không chịu bị chôn sống theo không phải là điều đáng ngạc nhiên. Thường thì bao giờ họ cũng bị cưỡng bách, đàn áp bằng võ lực hoặc cho uống những loại thuốc mê trước khi mang đi chôn sống.
Cuộc nổi dậy của nhóm nô lệ kéo dài suốt mấy ngày nhưng rồi cũng bị dẹp tan và tình hình Memphis trở lại bình thường. Vài hôm sau khi Horemheb đến làm thủ tục nhập ngũ thì hắn được biết vị sĩ quan chỉ huy nhóm Ngự lâm quân, người mà hắn đặt nhiều hy vọng, đã bị giết trong cuộc chống đối vừa qua. Vị sĩ quan chỉ huy mới lạnh lùng: 
- Ta không biết ngươi là ai, hiện nay chúng ta không cần tuyển thêm lính vì còn phải chờ lệnh vị tân hoàng đế. 
- Nhưng tôi đã hoàn tất đầy đủ các nghi thức nhập ngũ. 
- Điều đó ta không cần biết. Chúng ta chỉ tuyển lính khi có lệnh mới.
- Nếu vậy chừng nào sẽ có lệnh mới? Người sĩ quan bật cười lớn: 
- Điều này chắc còn lâu lắm. Các vị hoàng đế Pharaoh vừa lên ngôi có hàng trăm, hàng ngàn việc quan trọng phải làm. Việc tuyển thêm lính hầu chỉ là việc phụ, chắc cũng phải nhiều năm nữa.
Dĩ nhiên Horemheb biết ngay rằng người sĩ quan này không muốn tuyển lựa những người đã được viên sĩ quan trước thâu nhận. Vị chỉ huy nào cũng muốn đưa bè phái, phe nhóm của mình vào, để bảo đảm sự trung thành tuyệt đối.
Horemheb vô cùng thất vọng, cái mộng được mang quân phục Ngự lâm ấp ủ trong bao năm qua đã tan tành như mây khói. Trong suốt mấy ngày sau, Horemheb uống rượu liên miên và say lúy túy. Hắn chửi rủa tất cả những gì có thể chửi được, và rồi lên cơn sốt nặng khiến tôi phải tốn rất nhiều thì giờ và công sức săn sóc cho hắn. Horemheb mê sảng cả tuần lễ nhưng nhờ các loại thuốc an thần cực mạnh nên bệnh tình của hắn cũng thuyên giảm dần. Một buổi sáng, hắn tỏ ra bình tĩnh hơn trước, thay vì đòi uống rượu hắn đã nói với tôi:
- Cám ơn mày đã săn sóc cho tao. Có lẽ những kẻ tầm thường như chúng mình chỉ nên yên phận, mong muốn nhiều quá chỉ khổ thôi. Bây giờ tao muốn trở về Thebes bán bánh, quét chợ rồi thỉnh thoảng đi câu cá với mày.
Tôi mừng rỡ:
- Mày cứ tĩnh dưỡng cho thật khỏe đã, chuyện đâu còn đó.
- Nhưng tao thấy trong mình khỏe rồi và muốn trở về Thebes ngay.
Tôi liền chuẩn bị hành trang cùng với Horemheb trở về Thebes, nhưng trước khi lên đường hắn hỏi tôi:
- Này Sinuhe, mày đã đi săn sư tử bao giờ chưa?
- Cái gì? Săn sư tử ư? Mày không đùa đấy chứ?
Horemheb mỉm cười vỗ mạnh lên vai tôi:
- Một thú vui như thế mà mày không biết sao?
- Không, tao không nghe ai nói săn sư tử là một thú vui hết.
Horemheb chăm chú nhìn tôi rồi lắc đầu than:
- Săn sư tử là một trò giải trí đặc biệt của dân chúng thủ đô Memphis, gần như ai cũng biết săn sư tử. Một trò vui như thế mà mày chưa nếm mùi sao?
Tôi hết sức ngạc nhiên:
- Không, tao chưa từng săn sư tử nhưng… liệu có nguy hiểm không?
Horemheb bật cười ha hả:
- Lối đi săn này không nguy hiểm vì người săn ngồi trên xe ngựa chạy như bay, sư tử nào đuổi kịp họ được. Họ sử dụng cung tên thay vì giáo mác. Tao đã từng săn vài chục con sư tử như thế rồi, cũng dễ như đi… câu cá thôi.
Thấy tôi có vẻ ngần ngại, Horemheb thúc giục:
- Một trò vui như thế không nên bỏ qua. Trước khi về Thebes, mày cũng nên hưởng thú săn sư tử với tao cho biết. Không đợi tôi trả lời, Horemheb đã lo thu xếp chuyến đi săn sư tử ngay. Tôi biết hắn buồn chán, thất vọng vì việc nhập ngũ không thành nên thấy hắn lấy lại tinh thần, tôi cũng mừng và không muốn làm phật lòng hắn.
Chiều hôm sau, Horemheb mang ở đâu về một cỗ xe ngựa với đầy đủ các dụng cụ đi săn như cung tên, giáo mác. Tôi và hắn vượt cổng thành tiến ra sa mạc. Trên đường, tôi thấy khắp nơi quân lính canh phòng rất nghiêm, mặc dù cuộc nổi dậy của nhóm nô lệ đã bị dẹp tan nhưng hình như triều đình vẫn cẩn thận đề phòng một chuyện gì.
Đêm ấy trăng tròn, ánh trăng tỏa sáng khắp sa mạc, soi rõ những cồn cát trắng xóa chạy dài đến tận chân trời. Horemheb điều khiển cỗ xe một cách khéo léo khiến xe chạy như bay. Khoảng nửa đêm, chúng tôi đến một thung lũng hẹp, phong cảnh hoang vu, Horemheb lên tiếng:
- Người ta thường săn sư tử vào ban đêm. Ban ngày chúng ngủ trong hang núi nên rất khó tìm…
Horemheb chưa dứt lời, tôi đã nghe thấy một tiếng gầm dữ dội và một con sư tử lớn, bộ bờm mầu sẫm ở đâu xuất hiện. Horemheb trao cương ngựa cho tôi:
- Mày cứ bình tĩnh điều khiển cỗ xe, mọi việc đã có tao…
Vì bất ngờ nên tôi luống cuống không biết phải làm gì. Từ trước đến nay tôi chưa hề điều khiển một cỗ xe như thế này. Tuy nhiên tôi không có thì giờ phản ứng vì con sư tử đã từ xa phóng đến. Horemheb thản nhiên lắp tên vào cung:
- Mày đã muốn chết thì tao cho mày chết ngay.
Mặc dù tôi đã cố gắng giữ cương thật chặt nhưng hai con ngựa thấy sư tử xông đến đã hoảng sợ hí vang và sải vó chạy. Horemheb hét lớn:
- Cẩn thận! Nắm chặt dây cương!
Bất chấp sự điều khiển vụng về của tôi, hai con ngựa cắm đầu chạy khiến cỗ xe hết nghiêng bên này lại ngả bên kia làm Horemheb bắn hụt mấy lần. Hắn bình tĩnh lắp tên vào cung và ra lệnh:
- Mày kềm cương ngựa cho thật chặt… Nhưng không kịp nữa rồi! Trong lúc luống cuống tôi đã để tuột dây cương. Hai con ngựa không người điều khiển, lồng lên, cắm đầu chạy về phía trước. Horemheb vội vã chồm người lên để nắm lấy cương nhưng vì xe ngựa chạy quá nhanh, hắn không bắt kịp. Con sư tử tiếp tục đuổi và chỉ một lúc chúng tôi đã vượt qua thung lũng, tiến về một hẻm núi đầy những tảng đá lớn. Horemheb quát lớn:
- Cẩn thận! Chỗ này nguy hiểm lắm!
Hắn vừa dứt lời thì cỗ xe đã cán trúng một tảng đá lớn và lật qua một bên. Tôi và Horemheb bị hất ngã nhào ra khỏi xe. Chiếc trục xe gẫy lìa nên hai con ngựa được tự do, vùng lên chạy mất. Con sư tử mải miết đuổi theo hai con ngựa nên không để ý đến chúng tôi. Horemheb bình tĩnh rút cây giáo dài bên hông xe:
- Mày đi sát bên tao, mình chạy lên phía hốc đá trên kia.
Chúng tôi chạy dọc theo sườn núi. Horemheb nói nhỏ:
- Nếu con sư tử không đuổi kịp hai con ngựa, nó sẽ quay về đây. Chúng ta cần rời khỏi chỗ này càng sớm càng tốt.
Chúng tôi tiếp tục di chuyển theo những tảng đá nhấp nhô bên sườn núi, thỉnh thoảng lại đứng lại để thở. Horemheb vừa đi vừa quan sát địa thế, sau cùng hắn tìm được một hốc đá nhỏ:
- Chúng tạm chui vào đây nghỉ ngơi, đợi đến sáng sẽ tìm đường ra khỏi sa mạc.
Lúc trước vì mải lo chạy nên tôi không để ý đến thời tiết. Sau khi chui vào trong hốc đá được một lúc thì tôi mới cảm thấy khí hậu sa mạc về đêm rất lạnh. Mặc dù đã cố thu mình lại nhưng tôi vẫn run lên, răng đập vào nhau lập cập. Horemheb bật cười:
- Mày cẩn thận kẻo sư tử nghe tiếng răng mày mà tìm đến thì nguy đấy!
Tôi thầm phục trong tình trạng nguy hiểm như thế mà Horemheb vẫn bình tĩnh khôi hài được. Horemheb nắm chặt chiếc giáo nhọn trong tay:
- Mày hãy ngủ để lấy sức vì ngày mai chúng ta cần rời khỏi nơi đây.
Tôi ngập ngừng:
- Này Horemheb, tao tiếc… không quen điều khiển xe ngựa nên…
Horemheb bỗng trở nên lạnh lùng:
- Mày tưởng tao không biết việc đó sao?
- Cái gì? Mày biết tao chưa bao giờ điều khiển xe ngựa mà vẫn…
Horemheb chăm chú nhìn tôi. Trong bóng đêm chập chờn, cặp mắt hắn sáng quắc lên một cách kỳ lạ. Sau cùng hắn trầm giọng nói:
- Này Sinuhe, tao rất ân hận đã đưa mày vào tình trạng này. Đáng lẽ ra tao không nên rủ mày đi như thế, thật ra tao không còn muốn sống nữa nên…
Tuy hắn không nói hết câu nhưng tôi hiểu. Thì ra tâm trạng bình tĩnh kỳ lạ của hắn sau cơn mê sảng tuyệt vọng vừa qua chỉ là một sự che đậy và cuộc đi săn sư tử này là cách đi tìm cái chết của Horemheb.
Tôi run giọng:
- Như vậy… đi săn sư tử không… giản dị như mày nói?
Horemheb gật đầu cười nhạt:
- Mày tưởng săn sư tử dễ như đi câu cá hay sao? Này Sinuhe, mày quả là một đứa bé ngây thơ khờ dại.
Cả hai chúng tôi im lặng nhìn nhau. Mỗi người theo đuổi một ý nghĩa riêng. Sau cùng Horemheb lên tiếng:
- Lúc trước tao quả có ý định muốn tìm cái chết. Nhưng bây giờ tao lại thấy chết không dễ như tao nghĩ. Trong tình trạng nguy hiểm này tao lại muốn sống hơn bao giờ hết. Này Sinuhe, mày cứ yên trí, thằng Horemheb này đã thề sẽ bảo vệ cho mày thì nó sẽ làm tròn điều đó.
Tôi im lặng, đầu óc quay cuồng với bao ý nghĩ nhưng sau cùng tôi cũng lên tiếng:
- Này Horemheb, chúng ta đã thề sống chết có nhau thì dù việc xảy ra thế nào, tao cũng không trách mày. Tao sẽ tận tâm giúp mày như mày đã lo cho tao vậy.
Horemheb có vẻ cảm động lắm. Hắn im lặng một lúc rồi nói nhỏ:
- Mày nên ngủ một chút đi, trời sắp sáng rồi.
Tôi chợp mắt được một lúc thì Horemheb đánh thức tôi dậy:
- Chúng cần lên đường ngay. Trời đã sáng rồi.
Chúng tôi rời hốc đá đi dọc theo hẻm núi. Mặt trời vừa nhô cao, tỏa ra muôn ngàn tia sáng chói lọi khiến tôi cảm thấy choáng váng, hoa cả mắt. Đi được một quãng, bỗng Horemheb giật mình chỉ về phía trước:
- Sinuhe, nhìn kìa!
Trên tảng đá lớn gần đó, một người trong chiếc áo khoác trắng đang xếp bằng ngồi yên quay mặt về phía mặt trời mọc. Horemheb ngạc nhiên:
- Tại sao giữa sa mạc đầy thú dữ lại có kẻ dám đến đây?
Chúng tôi rảo bước về phía người kia nhưng y vẫn ngồi yên bất động. Dường như y không để ý đến chúng tôi mà chỉ tập trung vào vầng thái dương trước mặt.
Khi đến cách người đó khoảng mấy thước thì tôi giật mình. Hình như người này có một cái gì quen thuộc lắm! Bất chợt tôi nổi gai ốc khắp mình vì nhận ra người đang ngồi kia chính là kẻ đã chui vào nằm chết trong cỗ quan tài ở đền cấm Abydos. Tôi không thể quên khuôn mặt dài như mặt ngựa và đôi lông mày rậm rạp đó được. Nhưng tại sao lại như thế vì rõ ràng hắn đã chết kia mà? Chính tay tôi đã bắt mạch và thấy tim hắn đã ngưng đập từ lâu. Horemheb bước đến trước mặt người kia: - Này, ông bạn làm gì ở đây thế?
Người thanh niên vẫn ngồi yên lặng, hai mắt mở lớn như đang tập trung tinh thần vào một cái gì. Tôi định lên tiếng thì một tiếng gầm dữ dội vang lên. Con sư tử đã đánh hơi chúng tôi và tìm đến. Horemheb vội vã nói: - Mày và thằng kia chạy đi, để tao cản đường cho.
Nhưng không kịp nữa rồi! Con sư tử đã xông đến trước mặt chúng tôi, vừa đi vừa gầm gừ rất dữ dội. Horemheb im lặng ghì chặt cây giáo trong tay. Thời gian dường như ngưng lại. Tôi luống cuống muốn chạy nhưng vì qua sợ hãi nên không sao nhấc chân được.
Con sư tử chăm chú nhìn chúng tôi rồi bất chợt phóng mình lao thẳng vào tôi. Horemheb chỉ chờ có thế, hắn nghiêng người vung tay phóng thẳng ngọn giáo vào ngực con thú. Con sư tử bị lưỡi giáo xuyên trúng ngực nhưng sức phóng của nó quá mạnh nên nó vẫn vồ trúng tôi. Tôi ngã ngửa, đè cả lên mình gã thanh niên đang ngồi kia. Mặc dù bị trọng thương, nhưng con sư tử vẫn còn sức, nó há miệng cắn mạnh vào tay tôi. Horemheb quát lớn rồi nhảy lên nắm chặt lấy bờm con sư tử, tay kia hắn rút dao liên tiếp đâm vào cổ họng con thú. Máu con vật phun ra có vòi. Nó giẫy giụa một lúc rồi nằm im không cử động nữa.
Tôi lồm cồm ngồi dậy, khắp mình bị máu sư tử phun ướt đẫm. Tôi quay qua định đỡ gã thanh niên kia dậy nhưng thấy gã vẫn nằm yên, miệng sùi bọt, lưỡi thè ra và chân tay thì co quắp lại. Horemheb ngạc nhiên kêu lớn:
- Nó cũng bị sư tử vồ trúng hay sao?
Tôi hoảng hốt lắc đầu:
- Không. Có lẽ là tao ngã đè lên người nó nhưng… tại sao lại thế này?
Horemheb và tôi cúi xuống xem xét. Chỉ một thoáng giây, tôi biết ngay lý do:
- Có lẽ vì kinh hãi nên hắn lên cơn động kinh, chân tay co quắp, miệng sùi bọt ra như vậy. Horemheb, mày xé cho tao một miếng vải để tao đút vào miệng hắn, nếu để hắn cắn trúng lưỡi thì phiền lắm.
Là y sĩ nên tôi quen thuộc với những trường hợp khẩn cấp như thế này. Tôi cắm cúi săn sóc cho gã thanh niên cho đến khi nghe Horemheb kêu lớn mới ngẩng đầu nhìn lên. Một đoàn quân võ trang ở đâu kéo đến, cầm đầu là một sĩ quan lớn tuổi, khuôn mặt khắc khổ đầy những nét nhăn. Ông ta quát lớn:
- Hãy bắt những tên phản loạn kia! Horemheb giật mình phản đối:
- Cái gì vậy? Chúng tôi đã làm gì?
Hắn chưa dứt lời đã bị toán lính xông đến đè nghiến xuống đất, trói chặt tay chân lại. Tôi vừa đứng lên thì cũng bị chung số phận. Tôi vùng vẫy kêu lớn nhưng bị đập một gậy lên đầu khiến tôi bất tỉnh.
Tôi không biết mình ngất đi bao lâu nhưng khi tỉnh dậy, tôi thấy chân tay bị trói chặt, không sao cử động được. Quanh chỗ tôi nằm cũng có hàng chục người bị trói chặt như vậy, mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Tôi nghe văng vẳng tiếng gào thét của những người bị tra tấn cùng tiếng gầm rú ghê rợn của những con sư tử đói. Đầu óc tôi trở nên hoang mang. Tôi cố ôn lại chuyện xảy ra nhưng có lẽ vì bị đập mạnh vào đầu nên tôi thấy choáng váng, không nhớ được gì rõ rệt.
Tôi nằm được khoảng nửa ngày thì một toán lính ở đâu bước vào lôi chúng tôi dậy, xiềng bằng những sợi xích rất nặng rồi áp tải chúng tôi đi theo những con đường hầm ngoằn ngoèo, sâu hun hút, mùi tanh tưởi bốc lên khắp nơi. Một tù nhân vừa lên tiếng đã bị người cai ngục đập cho một gậy ngã nhào. Horemheb đi sát bên cạnh tôi như để che chở và ra hiệu cho tôi đừng nói gì.
Sau một lúc loanh quanh trong đường hầm, chúng tôi được đưa vào một căn phòng lớn có rất nhiều binh sĩ võ trang cẩn thận. Đám tù nhân được lệnh phải quỳ cả xuống đất trước mặt một sĩ quan trông rất oai vệ. Dưới ánh đuốc chập chờn, tôi nhận ra đó là người chỉ huy già có khuôn mặt khắc khổ hôm trước. Ông ta lên tiếng:
- Chúng ta có đầy đủ bằng chứng về âm mưu phản nghịch của các ngươi và chiếu theo luật pháp, tội phản nghịch phải xử tử hình…
Ông quay qua nhìn một tù nhân đang quì dưới đất, gằn giọng:
- Hoàng thân Kira, ông đâu có ngờ có ngày hôm nay phải không?
Người kia tức giận, ngửng mặt lên nói như quát:
- Smenkere, tên phản phúc! Thần Seth sẽ giết mày!
Vừa nghe đến tên Smenkere tôi đã giật mình. Phải chăng đây là người mà cha mẹ tôi vẫn thường nhắc đến? Smenkere cười ha hả:
- Này Kira, ngươi mới là kẻ phản bội. Từ trước đến nay triều đình vẫn đối đãi với ngươi tử tế, sao ngươi dám làm phản? Hoàng đế Pharaoh chết chưa lạnh mồ mà ngươi đã âm mưu soán nghịch. Tội rành rành ra đó mà ngươi dám cãi sao?
Hoàng thân Kira gầm lên:
- Hoàng tử Amenophis mất tích đã cả năm và thái hậu Taiya là đàn bà, không thể cầm quyền nhiếp chính được nên… nên… Smenkere cười nhạt: - Bởi thế nên người mới đòi làm Pharaoh chứ gì? Hoàng thân Kira tức giận:
- Ai Cập không thể thiếu người lãnh đạo được. Hoàng đế Pharaoh qua đời, hoàng tử Amenophis mất tích. Ta là em ruột hoàng đế, dĩ nhiên ngôi vị Pharaoh phải thuộc về ta.
Smenkere, mày không làm Pharaoh được. Lẽ ra ta phải giết mày từ lâu… Đồ phản nghịch! Smenkere cười lớn:
- Ngươi lầm rồi! Smenkere này đâu dám đòi làm Pharaoh.
Hoàng thân Kira ngạc nhiên: - Nhưng… nhưng thái hậu Taiya cũng không thể làm Pharaoh được. Chúng ta không thể để lịch sử tái diễn việc Pharaoh Hatshepshut… Smenkere bật cười:
- Ai bảo ngươi là thái hậu Taiya muốn làm Pharaoh?
Hoàng thân Kira sửng sốt:
- Vậy chứ còn ai vào đây nữa?
Smenkere gằn giọng:
- Còn ai xứng đáng với ngôi vị Pharaoh hơn hoàng tử Amenophis?
Hoàng thân Kira giật mình, lắp bắp:
- Mày nói gì? Hoàng tử… hoàng tử Amenophis đã mất tích cả năm nay rồi. Không lẽ… không lẽ…
Smenkere đắc chí:
- Đúng thế. Ta đã tìm ra hoàng tử Amenophis và suy tôn ngài lên địa vị Pharaoh. Lễ đăng quang đã được cử hành sáng hôm nay rồi. Này Kira, tội soán nghịch như ngươi phải quăng vào hầm sư tử đói mới đúng…
Smenkere đang hứng chí thì một người lính hấp tấp chạy vào báo cáo: -
 Thưa ngài, hoàng đế Pharaoh muốn gặp hoàng thân Kira.
Smenkere biến sắc. Khuôn mặt nhăn nheo của hắn co rúm lại như vừa gặp một chuyện gì ghê gớm lắm. Hắn chưa kịp nói gì thì một toán lính võ trang ở đâu đã xông vào, đứng dàn ra hai bên để chừa lối đi cho một người mặc quần áo trắng, khoan thai chậm rãi bước vào. Người này không phải ai xa lạ mà chính là gã thanh niên có khuôn mặt dài và đôi lông mày rậm, kẻ đã mắc chứng động kinh trong sa mạc.
Smenkere và toán lính vội quì cả xuống. Người thanh niên thong thả nói:
- Này Smenkere, ông đang nói chuyện gì với hoàng thân Kira vậy?
Hoàng thân Kira kêu lớn:
- Cháu Amenophis đấy ư? Ta tưởng cháu bị mất tích…
Smenkere quát lớn:
- Tên phản loạn kia! Ngươi không được hỗn! Đây là hoàng đế Pharaoh, vị lãnh đạo tối cao của Ai Cập, người đã được các thần linh lựa chọn…
Người thanh niên gạt đi: - Này Smenkere, đây không phải là chốn triều đình. Hơn nữa, lúc này ta không đến đây với tư cách Pharaoh mà chỉ là của một người cháu đến hỏi thăm chú ta, hoàng thân Kira mà thôi. Smenkere nghiêm giọng nhắc khẽ:
- Ngài đã lên ngôi Pharaoh rồi. Một Pharaoh lúc nào cũng là Pharaoh, lúc nào cũng là thần linh tối cao, lãnh đạo và cai quản Ai Cập…
Người thanh niên mỉm cười, từ tốn nói:
- Ngươi không phải nói nhiều, ta biết việc đó. Quân sĩ, hãy mau cởi trói cho những người này, ta muốn nói chuyện với họ. Trước cặp mắt khó chịu của Smenkere, nhóm quân sĩ vội vã bước đến cởi trói cho mọi người kể cả tôi và Horemheb. Hoàng đế Pharaoh bước đến cạnh hoàng thân Kira, nói bằng giọng từ tốn, nhẹ nhàng:
- Tuy chú đã làm đổ máu nhiều người vô tội nhưng đó cũng là do hoàn cảnh mà thôi. Lúc cha cháu qua đời, cháu không có mặt tại triều. Một nước không thể thiếu người lãnh đạo được nên cháu chắc chú cũng vì bất đắc dĩ mà phải làm thế. Cháu tin rằng đã có những sự hiểu lầm…
Hoàng thân Kira ấp úng không nói nên lời. Hoàng đế Pharaoh thong thả nói tiếp:
- Tuy nhiên khi cha cháu vừa qua đời, chú đã cho người vào cung ám sát mẹ cháu và em Baketamon. Chuyện này chắc phải có những dự tính, âm mưu từ trước. Vậy chú nghĩ như thế nào?
Hoàng thân Kira nghẹn họng không biết nói gì. Hoàng đế Pharaoh vẫn nhẹ nhàng nói tiếp:
- Nếu đã có âm mưu từ trước thì có lẽ cũng do sự thiếu suy xét mà thôi. Luật pháp Ai Cập đã ghi rõ tội phản nghịch phải tử hình nhưng máu đã chảy nhiều rồi, và cháu không muốn thấy máu chảy nữa. Smenkere vội kêu lớn:
- Xin Hoàng đế hãy xét lại, luật pháp là do các vua Pharaoh đời trước đặt ra…
Hoàng đế Pharaoh quay qua nhìn Smenkere, nói một cách oai vệ:
- Ta biết điều này nhưng phải chăng ta cũng là Pharaoh? Phải chăng chỉ có Pharaoh mới có thể sửa đổi được luật pháp của các Pharaoh khác? Các ngươi hãy nghe lệnh của ta đây: "Hoàng thân Kira sẽ được đưa đến tu viện Karnak, tại đây ông sẽ làm tu sĩ cho đến ngày cuối cuộc đời, để ăn năn về tội lỗi của mình. Tên tuổi của ông sẽ bị xóa bỏ vĩnh viễn trên mọi bia đá, lăng tẩm, đền đài và các thạch trụ. Dòng họ Amenophis của chúng ta không có những người phản nghịch như vậy." Hoàng đế Pharaoh vừa nói vừa đưa tay lên, trong tay ông cầm cái vương ấn bằng vàng chói lọi. Toàn thể quân sĩ vội quì mọp xuống, một người thư ký (Scribe) vội vã cắm cúi ghi chép lệnh này lên tấm bảng đá. Truyền thống Ai Cập vẫn cho ghi chép lại mọi mệnh lệnh của Pharaoh lên bia đá như vậy.
Hoàng thân Kira run rẩy định nói gì nhưng hoàng đế Pharaoh đã phất tay ra lệnh, hai người lính vội vã dìu ông nầy ra cửa ngay. Smenkere im lặng nhưng khuôn mặt đầy vết nhăn của hắn trở nên nhăn nhúm hơn trước.
Hoàng đế Pharaoh quay qua những người khác, truyền lệnh:
- Các ngươi đều là tướng sĩ của triều đình nhưng đã theo hoàng thân Kira làm phản, gây đổ máu cho quân sĩ và dân lành vô tội. Đáng lẽ các ngươi đều phải bị tử hình nhưng ta quyết định tha tội chết, chỉ bắt các ngươi trở thành nô lệ, đầy đi các công trường xây cất lăng tẩm, đền đài để chuộc tội.
Hoàng đế phất tay, những người này đều bị áp tải đi ra bên ngoài nhưng Smenkere đã giơ tay chỉ hai đứa chúng tôi:
- Khoan đã! Hai thằng này đã phạm tội đụng chạm vào thân thể của hoàng đế Pharaoh, tội này phải bị xử tử.
Horemheb vội vã lên tiếng:
- Xin Hoàng đế hãy nghe tôi nói. Lúc đó chúng tôi không biết ngài là Pharaoh và trong tình trạng đó, chính chúng tôi đã cứu ngài khỏi nanh vuốt sư tử…
- Nanh vuốt sư tử ư? Này Smenkere, chuyện này thế nào?
Smenkere ngần ngại một lúc rồi nói:
- Quả có xác một con sư tử gần đó nhưng…
Horemheb lên tiếng:
- Ngài đang ngồi trên một tảng đá lớn và bị một con sư tử tấn công, chính chúng tôi đã phải tranh đấu với thú dữ để cứu mạng ngài. Sau đó ngài bị…
Smenkere quát lớn: - Câm miệng! Không ai được nói về tình trạng của…
Hoàng đế Pharaoh gật đầu như đã hiểu:
- Thì ra thế! Quan ngự y đã nói rõ về tình trạng của ta và nếu không có sự chữa trị cấp thời thì chắc ta đã qua đời rồi.
Sắc mặt của Smenkere trở nên nhợt nhạt, hình như hắn muốn nói gì nhưng lại ngập ngừng không lên tiếng. Hoàng đế Pharaoh mỉm cười:
- Quan ngự y tỏ ra khen ngợi tài chữa bệnh của các ngươi. Phải chăng các ngươi cũng là y sĩ?
Horemheb mau mắn trả lời:
- Thưa hoàng đế, Sinuhe là y sĩ giỏi nhất thành Thebes. Hắn đã tốt nghiệp thủ khoa tại Abydos…
Khuôn mặt của hoàng đế Pharaoh bỗng trở nên rạng rỡ, ông mỉm cười:
- Trường khoa học tại Abydos ư? Hay lắm, hay lắm…
Horemheb tiếp tục:
- Hắn là con của Sen Moot, cha hắn cũng là một y sĩ giải phẫu nổi tiếng tại Thebes. Khi tên của cha tôi vừa được nhắc đến, Smenkere bỗng giật nẩy mình. Cặp mắt hắn trợn lên, nửa ngạc nhiên nửa tức giận. Toàn thân hắn run bắn lên khiến hắn phải nắm chặt hai tay vào nhau để giữ bình tĩnh. Tự nhiên tôi cảm thấy thương hại người sĩ quan đã yêu say đắm mẹ tôi khi xưa. Dường như có một động năng nào không rõ thúc giục, tôi bèn lên tiếng cải chính:
- Kính thưa hoàng đế, thật ra kẻ này không phải là con ruột của y sĩ Sen Moot mà chỉ là một đứa bé vô thừa nhận…
Tôi kể lại chuyện cha mẹ tôi đã vớt tôi từ dưới sông như thế nào nhưng dĩ nhiên giữ ý, không nói gì về mối tình tuyệt vọng của Smenkere cả.
Hoàng đế Pharaoh nhìn tôi thích thú:
- Hay lắm! Câu chuyện ngươi kể rất hấp dẫn. Ngày mai ngươi hãy vào trong cung để kể chuyện này cho Nefertiti, ta chắc nàng sẽ thích lắm. Ngoài ra ta cũng muốn thưởng công cho ngươi một cách xứng đáng.
Tôi vội vã cúi đầu thưa:
- Xin cám ơn hoàng đế đã có lòng nghĩ đến, nhưng kẻ này đã phát nguyện sống thanh bần, tuyệt sở hữu để phụng sự những người nghèo khó.
Hoàng đế Pharaoh tỏ ra ngạc nhiên:
- Ngươi không muốn nhận phần thưởng hay một đặc ân gì sao?
Tôi chỉ vào Horemheb:
- Kính thưa hoàng đế, kẻ này không dám xin đặc ân gì nhưng người bạn này, người đã giết sư tử để cứu mạng hoàng đế, vẫn mong được làm lính ngự lâm. Xin ngài thu dụng hắn.
Hoàng đế Pharaoh quay qua nhìn Horemheb rồi gật đầu:
- Phải lắm. Ngươi cũng có công cứu mạng ta. Một kẻ dám đương đầu với sư tử thì cũng không phải là tay tầm thường. Ta sắc phong cho ngươi làm sĩ quan chỉ huy đội ngự lâm trong nội cung của ta.
Đây quả là một đặc ân lớn lao, vượt ngoài sự mong ước của Horemheb. Hắn vội vã quì mọp xuống đất:
- Xin cám ơn hoàng đế. Horemheb này nguyện đem sinh mạng mình để bảo vệ cho ngài. Dù phải vào sinh ra tử, kẻ này quyết trung thành với ngài mãi mãi.
Hoàng đế Pharaoh quay qua nhìn Smenkere:
- Này Smenkere, công lao của ông không nhỏ. Ngày mai thiết triều ta sẽ thưởng công cho ông xứng đáng.
Smenkere im lặng quì xuống cám ơn nhưng nét mặt của hắn vẫn lạnh lùng, không cảm xúc. Hoàng đế Pharaoh gật đầu có vẻ hài lòng rồi thong thả bước ra ngoài, đám quân sĩ hộ tống vội bước theo. Smenkere chỉ vào Horemheb, nói với một người lính hầu:
- Ngươi hãy đưa người này vào cung nhận chức theo lệnh Hoàng đế. Ta muốn nói chuyện riêng với Sinuhe.
Horemheb vỗ nhẹ lên vai tôi ngỏ ý cảm kích:
- Mày cứ yên chí, ngày mai tao sẽ gặp mày trong cung.
Sau khi Horemheb và nhóm quân sĩ rời căn phòng, Smenkere nhìn tôi chằm chặp rồi ra hiệu cho tôi ngồi xuống ghế:
- Thì ra ngươi không phải là con ruột của Sen Moot? Nhưng ngươi có biết ta là ai không?
- Tôi có nghe cha mẹ tôi nói về ông. Smenkere ngạc nhiên:
- Cha mẹ ngươi đã nói gì về ta?
- Tôi biết ông ngày trước là sĩ quan chỉ huy quân đội cho ông ngoại tôi. Ông vẫn nuôi mộng làm rể gia đình Oka nhưng chuyện không thành…
Smenkere lạnh lùng:
- Nếu ngươi biết vậy, tại sao lúc nãy lại không kể chuyện này?
- Cha tôi thường nói: "Chuyện đã qua hãy để nó chìm vào quá khứ thì hơn. Nếu không ích lợi thì chẳng nên nói ra". Thật ra cha mẹ tôi đều là những người lý tưởng và họ chỉ mong được sống trọn vẹn với lý tưởng cao đẹp đó mà thôi…
Tôi thành thật kể lại lời phát nguyện sống trong sạch của cha mẹ tôi và những sự việc phức tạp xảy ra sau đó.
Smenkere im lặng nghe, tuy khuôn mặt của hắn vẫn nhăn nhó nhưng ánh mắt đã bớt hung hãn và dần dần trở nên mơ màng như hồi tưởng những kỷ niệm quá khứ. Hắn im lặng một lúc rất lâu rồi thở dài:
- Ta không ngờ sự việc lại xảy ra như vậy. Cám ơn ngươi đã cho ta biết những chi tiết mà ta không hề hay biết. Ta cũng cám ơn ngươi đã có ý, không nhắc gì đến chuyện quá khứ của ta. Sen Moot nói đúng, việc đã qua hãy để nó chìm vào quá khứ thì hơn. Ngươi hãy về nói với cha mẹ ngươi rằng từ nay Smenkere này sẽ không bao giờ làm phiền những người có lý tưởng thanh cao như vậy nữa. Smenkere im lặng một lúc rồi thân mật hỏi:
- Ngươi có công cứu mạng Pharaoh thì cũng nên xin một chức vụ trong triều.
- Không đâu. Tôi đã phát nguyện theo gót cha tôi phục vụ những người nghèo khó và sống thanh bần, tuyệt sở hữu. Tôi không nhận chức vụ gì đâu.
- Thế còn Horemheb, bạn của ngươi, thì sao?
- Horemheb vẫn nuôi mộng làm quân nhân nhưng tôi chỉ mong làm y sĩ sống với lý tưởng phụng sự mà cha mẹ tôi đã đề xướng. Tôi sẽ trở về Thebes tiếp tục công việc của cha tôi.
Smenkere im lặng quan sát tôi một lúc rồi gật đầu, nói một cách thong thả:
- Hay lắm! Ta mong ngươi có thể sống trọn vẹn với cái lý tưởng cao đẹp ấy như cha mẹ của ngươi vậy. Này Sinuhe, con đường danh lợi mà chúng ta đang theo đuổi có những khó khăn trở ngại của nó, nhưng con đường tinh thần mà ngươi muốn theo đuổi còn khó khăn hơn gấp bội. Ngươi còn trẻ, nhiều nhiệt huyết và lý tưởng nhưng ngươi cần biết rằng con đường mà ngươi muốn đi thật không dễ dàng chút nào đâu. Ngươi hãy suy nghĩ cho kỹ trước khi chọn lựa và khi đã quyết định một con đường nào thì hãy đi cho đến cùng. Đừng để xao lãng. Một ngày nào đó ngươi sẽ hiểu điều ta nói.
CHƯƠNG 4
Horemheb đứng chờ tôi trước cửa cung điện trong bộ quân phục oai nghiêm. Hắn tươi cười vỗ mạnh lên vai tôi:
- Này Sinuhe, có bao giờ mày nghĩ tao sẽ trở nên một sĩ quan chỉ huy Ngự lâm quân cho hoàng đế Pharaoh như thế này không?
Tôi vui mừng nắm chặt tay bạn:
- Tao mừng cho mày đã đạt được điều mong ước.
- Hôm nay hoàng đế Pharaoh thiết triều, các quan khắp nơi kéo về chúc mừng và tao đã cho quân sĩ đề phòng cẩn thận.
- Tại sao lại như thế?
Horemheb nghiêm mặt:
- "Khi Pharaoh đời trước lâm chung, thái tử vắng mặt, triều đình rối loạn vì không người thừa kế. Các quan chia phe nhóm tranh giành quyền lực nên tang lễ hoàng đế phải cử hành gấp rút. Vì thiếu chuẩn bị nên kế hoạch chôn sống nô lệ bị tiết lộ khiến nhóm phu xây mộ và nô lệ nổi loạn. Hoàng thân Kira lợi dụng tình trạng này, kéo quân vào Memphis, lấy cớ dẹp loạn để tự xưng là Pharaoh.
Trong mấy tuần qua đã có nhiều cuộc giao tranh dữ dội giữa nhóm Ngự lâm quân và nhóm phản loạn này. Hoàng thân Kira âm mưu chia quyền với hoàng thân Oka nhưng ông này tương kế tựu kế, cho tướng Smenkere mang quân về thủ đô, giả vờ theo phe Kira rồi nhân cơ hội bắt trọn nhóm phản loạn. Tướng Smenkere điều tra và biết thái tử đang ẩn tu trong sa mạc nên rước ngài về lên ngôi Pharaoh. Mặc dù tình hình bên ngoài có vẻ ổn định nhưng bên trong vẫn còn nhiều rắc rối lắm…"
- Tại sao mày biết nhiều vậy?
Horemheb hãnh diện trả lời:
- Ngay sau khi được phong chỉ huy Ngự lâm quân, tao đã được tường trình đầy đủ về tình hình an ninh trong nước. Suốt đêm qua tao đã bí mật điều động binh sĩ bổ sung vào những chỗ trọng yếu.
- Mày giỏi quá! Tao thật không ngờ. Horemheb vỗ mạnh vào vai tôi:
- Này Sinuhe, có lẽ vận may của tao đã đến và tao không bỏ lỡ cơ hội ngàn năm một thuở này đâu.
Tôi chăm chú nhìn người bạn mà tôi quen biết từ thuở nhỏ. Trong bộ quân phục, Horemheb trông hùng dũng, oai nghiêm khác hẳn khi xưa. Toàn thân hắn dường như toát ra một sức mạnh, một niềm tự tin mãnh liệt mà trước đó tôi không nhận thấy. Horemheb đưa tôi vào một căn phòng rất lớn, trần thiết nguy nga tráng lệ. Trong phòng, từng nhóm quan lại đang tụ tập thì thầm bàn tán nhưng mặt người nào cũng lộ rõ vẻ lo âu. Nhiều toán quân sĩ đi qua đi lại, gươm giáo sáng ngời, canh phòng cẩn thận. Một hồi chuông trống vang lên, hai hàng quân sĩ hùng dũng bước vào cung điện, đi đầu là tướng Smenkere trong bộ quân phục oai nghiêm, bên ngoài khoác chiếc áo choàng may bằng da báo.
Ông đến trước ngai vàng, hô lớn:
- Xin các thần linh phù hộ cho Pharaoh. Xin mời hoàng đế giáng lâm.
Một hồi chuông trống vang lên, các quan vội vã quì mọp xuống đất. Hoàng đế Pharaoh ở trong bước ra, phong thái ung dung chậm rãi. Bên cạnh ông là hoàng hậu Nefertiti và sau đó là các hoàng phi, công chúa. Mỗi người đều tiến thẳng vào các vị trí nhất định và an tọa.
Smenkere hô lớn:
- Kính chúc hoàng đế Pharaoh, vị thần lãnh đạo dân Ai Cập, an khang vạn tuế.
Các quan cùng hô lớn những lời chúc mừng. Hoàng đế Pharaoh mỉm cười:
- Các ngươi hãy bình thân và đứng dậy. Smenkere lật đật can thiệp:
- Trước mặt Pharaoh, vị thần linh lãnh đạo Ai Cập, mọi người đều phải quỳ để tỏ lòng kính phục…
Hoàng đế Pharaoh lên tiếng:
- Ta biết đó là phong tục từ ngàn xưa nhưng ta không thích trông thấy mọi người phải quì như thế. Kể từ nay vào triều, các ngươi hãy đứng…
Mỗi mệnh lệnh của Pharaoh đều là luật pháp của quốc gia nên người thư ký triều đình đã vội quì xuống nghi chép. Các quan ngập ngừng đứng lên nhưng người nào cũng ngơ ngác, vừa ngạc nhiên, vừa sợ hãi. Đây là buổi thiết triều đầu tiên của một vị hoàng đế, lên ngôi chưa đầy một ngày, nhưng đã ban hành ngay một mệnh lệnh khác với truyền thống. Trong hoàn cảnh xáo trộn bất an hiện nay, không ai biết ông vua này sẽ còn ban hành những lệnh gì nữa đây.
Hoàng đế Pharaoh phất tay ra hiệu cho Smenkere:
- Này Smenkere, ông hãy bắt đầu tường trình tình hình trong nước đi.
Smenkere lạnh lùng bước ra, tay cầm một cuộn giấy chỉ thảo giơ lên cao:
- Đây là danh sách và hồ sơ những quan lại trong triều đã tư thông với hoàng thân Kira làm phản. Hạ thần đã điều tra kỹ lưỡng và có đầy đủ bằng chứng qua những văn kiện, thư từ liên lạc giữa các quan và phe nhóm phản loạn. Luật pháp từ ngàn xưa đã ghi rõ: Tội phản loạn phải xử tử hình. Kính xin hoàng đế ban chỉ thị để hạ thần thi hành pháp luật.
Horemheb ghé tai tôi nói nhỏ:
- Phải lắm! Nếu lúc này không thẳng tay tiêu diệt đám phản thần thì còn đợi đến lúc nào? Tao chắc trong đám quan triều kia, nhiều đứa đang run rẩy vì sợ hãi.
Hoàng đế Pharaoh dõng dạc lên tiếng:
- Khi thân phụ ta qua đời, ta không có mặt trong triều. Một quốc gia không thể thiếu người lãnh đạo, dù chỉ một ngày, nên việc các ngươi ủng hộ hoàng thân Kira cũng là điều dễ hiểu. Hiện nay tình hình Ai Cập chưa được yên ổn, ở phía bắc thì nước Hitites đang đe dọa vùng biên giới; ở phía nam thì xứ Nubia cũng đang chuẩn bị chiến tranh. Đây không phải là lúc người Ai Cập chúng ta có thể chia rẽ được. Ta sẵn sàng bỏ qua mọi việc cũ và mong từ nay các quan triều hãy vì Ai Cập, hãy vì ích lợi chung của toàn dân, đoàn kết lại để chống ngoại xâm. Này Smenkere, ngươi hãy đốt ngay cuốn giấy chỉ thảo đó đi, ta không muốn xem nó…
Smenkere ngạc nhiên sững người, khuôn mặt vốn nhăn nhó của y lại càng nhăn nhó hơn. Y run rẩy nói:
- Kính xin hoàng đế hãy xét lại, pháp luật đã ghi rõ…
Hoàng đế Pharaoh giơ cao chiếc vương ấn lên:
- Đây là lệnh của ta. Quân bay đâu! Hãy đốt ngay cuốn giấy kia đi cho ta.
Một người lính cầm bó đuốc bước đến. Smenkere run tay châm lửa đốt. Cuốn giấy chỉ thảo bắt lửa cháy bùng lên. Toàn thể các quan trong triều đều nín thở, vài người thở ra nhẹ nhõm.
Horemheb lắc đầu nói nhỏ vào tai tôi:
- Hỏng rồi! Thế là hoàng đế nuôi ong tay áo mất rồi?
Từ trước đến nay tôi vẫn phục sự nhận xét của Horemheb nhưng không hiểu sao lần này tôi lại không đồng ý với hắn. Tôi thán phục hành động cao cả phi thường, vì quyền lợi chung mà quên việc riêng của vị hoàng đế còn trẻ kia. Cử chỉ trầm tĩnh, bình thản và phong thái oai nghiêm của ngài đã chinh phục được tôi.
Smenkere đứng sững nhìn cuộn giấy đang cháy thành tro, rơi lả tả dưới đất. Bàn tay y run lên khiến y phải nắm chặt hai tay vào nhau để giữ bình tĩnh.
Hoàng đế Pharaoh nhìn suốt đám triều thần rồi thong thả tuyên bố:
- "Chuyện đã qua, cấm không ai được nhắc đến nữa. Từ nay các ngươi phải đoàn kết, nhất tâm thi hành bổn phận đã được đặt ra.
Này Smenkere, công lao dẹp loạn của ông không nhỏ. Hôm nay ta sắc phong cho ông làm tể tướng, chỉ huy tất cả các quan trong triều. Ta cho phép ông được đổi họ, được coi là người thuộc dòng họ Amenophis. Ngoài ra, ta còn ban cho ông tất cả đất đai, tài sản của hoàng thân Kira nữa. Từ nay ông sẽ là hoàng thân Aya Smenkere Amenophis."
Đây quả là một đặc ân hết sức bất ngờ. Từ xưa đến nay, chức vị tể tướng chỉ dành riêng cho các hoàng thân quốc thích, những người hết sức thân tín cật ruột trong họ Amenophis mà thôi. Một người ngoài, dù công lớn đến đâu, cũng chỉ có thể hy vọng làm quan triều hay làm tướng trấn giữ một địa hạt nào đó. Việc nhận một người ngoài vào trong họ là điều chưa hề xảy ra. Một lần nữa, vị tân hoàng đế Pharaoh đã ban hành một lệnh mới khác hẳn truyền thống cổ xưa.
Smenkere vội quỳ mọp xuống để nhận chức, tôi thấy rõ hai tay y run lẩy bẩy vì cảm động. Khi trước Smenkere chỉ mong lấy mẹ tôi để tạo sự liên hệ với hoàng tộc, có lẽ hắn đã ấp ủ giấc mộng trở thành một hoàng thân như thế này từ lâu. Không hiểu sao Smenkere quay lại nhìn tôi, hình như có một biến chuyển lạ lùng nào đó nên khuôn mặt nhăn nhó của hắn bỗng rạng rỡ một nụ cười.
Hắn lên tiếng:
- Kính thưa Pharaoh, một người khác cũng rất xứng đáng được hưởng ân huệ của ngài là y sĩ Sinuhe. Hạ thần xin được tiến cử Sinuhe làm chức Ngự y trong triều. Hoàng đế Pharaoh quay qua phía tôi:
- Sinuhe hãy bước ra đây. Tể tướng Smenkere đã có lòng tiến cử, vậy ngươi nghĩ thế nào?
Tôi bước ra quỳ mọp bên cạnh Smenkere và khẩn khoản:
- Xin đội ơn Pharaoh, nhưng kẻ này đã phát nguyện sống thanh bần, tuyệt sở hữu để phụng sự những người nghèo khó. Xin ngài cho phép kẻ này được sống đúng với sở nguyện.
Hoàng đế Pharaoh gật đầu:
- Được lắm. Nếu ngươi muốn thế thì ta cũng chuẩn y nhưng ngươi có công cứu mạng ta thì phải được thưởng một cách xứng đáng. Ta biết ngươi đã phát nguyện sống thanh bần, tuyệt sở hữu nhưng ta vẫn có phần thưởng dành riêng cho ngươi. Hoàng đế đưa tay lên cổ rút ra một sợi dây nhỏ có đeo một miếng đá khắc những hàng chữ loằng ngoằng quanh một chiếc dĩa tròn. Thông thường một vị Pharaoh luôn luôn đeo đồ trang sức bằng vàng hay ngọc nhưng không hiểu sao ông vua này lại đeo một đồ vật tầm thường như vậy.
Hoàng đế giơ cao sợi dây lên, nói:
- Đây là vật mà chính ta đã làm lấy trong thời gian ẩn cư ngoài sa mạc. Tuy nó không có giá trị bao nhiêu nhưng ta đã đeo nó khá lâu, nay trao lại cho ngươi làm vật kỷ niệm. Ngươi hãy giữ gìn cẩn thận…
Tôi vui vẻ nhận lấy tặng vật của Pharaoh rồi đeo lên cổ. Smenkere ra hiệu cho tôi trở về chỗ cũ rồi bắt đầu tường trình những việc xảy ra trong nước.
Hoàng đế Pharaoh chăm chú lắng nghe rồi phán:
- Này Smenkere, ta biết có nhiều việc cần phải giải quyết nhưng ta tin ông có thể thu xếp những việc đó cho ta. Hiện nay ta muốn ông cử một phái đoàn ngoại giao qua xứ Hitites và Nubia để nói với quốc vương hai xứ đó rằng ta không muốn có chiến tranh. Bằng mọi giá, ông hãy sử dụng tài khéo léo để tránh cho dân chúng nạn binh đao. Công việc hôm nay đủ rồi, ta truyền lệnh bãi triều.
Tôi và Horemheb vừa bước ra khỏi cung điện thì một người nô lệ ở đâu bước đến nói nhỏ với tôi:
- Hoàng đế Pharaoh truyền cho gọi ông vào nội cung nói chuyện riêng.
Horemheb toan bước theo nhưng người nô lệ đã ngăn hắn lại.
Horemheb nhăn mặt: - Nhưng ta là người chỉ huy Ngự lâm quân ở nội cung.
- Chúng tôi có lệnh chỉ mời riêng Sinuhe mà thôi.
Horemheb ngạc nhiên nhưng không nói gì. Hắn vỗ vai tôi:
- Mày vào với hoàng đế đi, có gì tao sẽ gặp mày sau.
Người nô lệ đưa tôi đến một căn phòng nhỏ, trần thiết giản dị, trên tường có treo một chiếc dĩa tròn màu vàng y như hình chiếc dĩa khắc trên miếng đá mà hoàng đế Pharaoh đã ban cho tôi. Tôi đang đứng nhìn thì hoàng đế Pharaoh bước vào:
- Này Sinuhe, đó là biểu tượng của Anten đấy, đấng Chân lý Tuyệt đối duy nhất, điều khiển muôn loài.
Đây là lần đầu tiên tôi nghe nói đến danh từ "Chân lý Tuyệt đối". Truyền thống Ai Cập tin rằng trong thiên nhiên có rất nhiều thần linh khác nhau, mỗi vị có một trách nhiệm riêng như thần Amun-Re cai quản sự sống; thần Maat tượng trưng cho công lý hay cai quản pháp luật; thần Anubis trông coi sự chết, v.v… Pharaoh vừa là người vừa là thần, là trung gian giữa con người và thần linh, có nhiệm vụ cai quản Ai Cập. Danh từ "Chân lý Tuyệt đối" là một quan niệm lạ lùng mà tôi chưa từng nghe nói đến.
Thấy tôi ngơ ngác, hoàng đế Pharaoh bật cười:
- Ta biết ngươi chưa từng nghe nói đến Aten, điều này cũng dễ hiểu. Aten biểu hiệu qua chiếc dĩa tròn, tượng trưng cho Chân lý Tuyệt đối điều hành tất cả mọi vật.
- Như vậy các thần linh thì sao?
- Mỗi vị thần chỉ tiêu biểu một phần nhỏ của Chân Lý mà thôi. Một người hiểu biết không thể hài lòng với những giải thích hay lập luận của các tín ngưỡng thờ thần linh đó được. Có bao giờ ngươi tự hỏi rằng chúng ta từ đâu đến đây? Chúng ta đến đây làm gì? Rồi chúng ta sẽ đi về đâu? Phải chăng cuộc đời này là một sự ngẫu nhiên hay có một ý nghĩa cao cả hơn các truyền thống và các quan niệm thông thường? Này Sinuhe, ngươi là một y sĩ đã được giáo dục trong trường Khoa Học Của Sự Sống, vậy ngươi đã biết gì về sự sống? Tôi bối rối trước câu hỏi của Pharaoh. Là một người hay thắc mắc, tôi đã từng đặt nhiều câu hỏi với các giáo sĩ nhưng lần này tôi lại bị dồn vào thế bị động.
Hoàng đế Pharaoh bật cười nói tiếp:
- "Này Sinuhe, nếu ta hỏi các giáo sĩ thì mỗi người sẽ trả lời ta theo quan niệm riêng hay theo tín ngưỡng của họ. Có câu trả lời làm thỏa mãn lý trí ta nhưng lại không giải đáp được tâm tình ta. Có cách trả lời giải quyết được tâm tình nhưng lại không làm cho lý trí của ta chịu khuất phục. Tóm lại, giáo lý của các tín ngưỡng thờ thần linh kia đều bất toàn vì không thể làm ta hài lòng. Ta đã tìm hiểu, nghiên cứu trong nhiều năm và thấy rằng các tín ngưỡng thờ thần linh này vốn xuất phát từ các bộ lạc hoang dã cổ xưa, mỗi bộ lạc thờ một vị thần như thần sông, thần núi, thần cây, thần đất, v.v…
Khi xưa, tổ tiên ta, các hoàng đế Pharaoh thống nhất những bộ lạc, đặt nền móng cai trị, tổ chức thành quốc gia thì họ đã có một tôn giáo xây dựng trên căn bản minh triết thiêng liêng. Chính nhờ căn bản của nền tôn giáo này mà họ đã đưa Ai Cập từ tình trạng man dã đến sự văn minh huy hoàng ngày nay. Chính nền tôn giáo này đã đào tạo nên các thế hệ học giả, giáo sĩ, khoa học gia, triết gia, … những người đã xây dựng nên nền văn hóa Ai Cập. Chính nền tôn giáo này đã đặt căn bản cho các kiến trúc hùng vĩ, những Kim Tự Tháp vĩ đại, những môn học như thiên văn, địa lý, toán học, những khoa học của sự sống cũng như sự chết.
Tiếc thay, theo thời gian nền tôn giáo cao cả này đã bị suy thoái, thất truyền bởi các giáo sĩ lười biếng, thiếu kinh nghiệm tâm linh. Thêm vào đó, các hoàng đế Pharaoh đầy tham vọng cũng bị mê hoặc bởi các tín điều huyền hoặc của các tôn giáo thờ thần linh này nên dần dần nền tôn giáo cổ bị thất truyền.
Ngày nay, tôn giáo Ai Cập đã trở thành một thứ tôn giáo đa thần với hàng trăm đền thờ, hàng ngàn thần linh khác nhau. Ta không thể chấp nhận thứ tôn giáo đa thần như vậy, do đó ta đã ra công nghiên cứu, tìm về mạch nguồn cổ xưa, và ý thức rõ rệt rằng vốn có một định luật cao cả điều khiển tất cả mọi vật trong trời đất…"
- Làm sao ngài biết như vậy?
- Để hiểu được sự thật này đòi hỏi một công phu nghiên cứu đặt nền tảng trên một sự hiểu biết đứng đắn, không dựa trên những lý thuyết mơ hồ, không dựa trên sự tin tưởng mà các giáo sĩ thường giảng dạy. Nó đòi hỏi một công phu tu tập và quan sát các sự kiện xảy ra trong thiên nhiên. Đó chính là lý do khiến ta ẩn cư trong sa mạc hoang vu với mục đích tìm hiểu cho ra những nguyên lý này.
- Nhưng… nhưng hình như ngài cũng đã đến… trường Khoa Học Của Sự Sống… Hoàng đế Pharaoh ngạc nhiên nhìn tôi:
- Làm sao ngươi biết ta đã từng thụ giáo tại trường Khoa Học Của Sự Sống?
Tôi giật mình, biết mình đã lỡ lời. Hình ảnh người thanh niên nằm chết trong cỗ quan tài lại hiện ra trong trí tôi. Tôi phải giải thích thế nào đây? Làm sao một người đã chết lại có thể sống dậy và trở thành một Pharaoh được? Trong lúc tôi đang bối rối chưa biết phải nói gì thì may thay, người nô lệ hầu cận đã bước vào nói nhỏ vào tai hoàng đế Pharaoh.
Ông gật đầu vui vẻ:
- Hoàng hậu Nefertiti nghe ta nói về ngươi và nàng muốn nghe chính ngươi kể về thân thế của ngươi. Ta biết nàng rất thích những chuyện như vậy…
Hoàng đế Amenophis thong thả dẫn tôi đi qua những dãy hành lang dài có quân sĩ canh phòng nghiêm ngặt. Chúng tôi đến một căn phòng khá lớn với khá đông phụ nữ đang ngồi chờ đợi.
Vừa thấy tôi, hoàng hậu Nefertiti đã nói ngay:
- Ta nghe Pharaoh nói rằng ngươi có một thân thế rất ly kỳ, ngươi hãy kể cho chúng ta nghe đi…
Hoàng đế Amenophis mỉm cười nói nhỏ với tôi:
- Các hoàng phi, cung nữ sống trong cung, không mấy khi được ra ngoài nên rất thích nghe kể chuyện. Ta thường cho mời các nhà kể chuyện trứ danh khắp nước đến kể chuyện cho họ giải trí. Câu chuyện của ngươi là chuyện thật, hiển nhiên phải hay hơn các câu chuyện thần thoại rồi… Ngươi hãy kể đi.
Tôi thong thả kể lại đời mình: khi còn nhỏ theo cha tôi đi chữa bệnh như thế nào, khi đi câu cá gặp Horemheb rồi kết bạn ra sao, và khi trưởng thành đi học tại Abydos đã gặp những khó khăn gì. Tôi không phải là người có tài kể chuyện nhưng kể đến đâu, mọi người chăm chú theo dõi đến đó. Thỉnh thoảng họ lại ồ lên, tỏ vẻ ngạc nhiên thích thú lắm. Về sau tôi mới biết đa số hoàng phi, cung nữ được tuyển vào cung từ nhỏ, ít có dịp tiếp xúc với bên ngoài. Cuộc sống êm đềm, bình thản trong cung khiến một câu chuyện, dù chẳng đặc biệt gì như đời sống của tôi, cũng trở nên ly kỳ hấp dẫn lắm.
Tôi không nói gì về nguyên nhân khiến cha mẹ tôi lập gia đình mà chỉ kể rằng khi cha mẹ tôi đi qua sông Nile, nghe tiếng trẻ khóc và vớt tôi ở dưới sông lên như thế nào. Mọi người đang nín thở theo dõi thì bất ngờ có một giọng già nua vang lên:
- Này Sinuhe, ngươi có nhớ cha mẹ ngươi đã vớt ngươi vào lúc nào không?
Người hỏi là một bà lão to lớn khỏe mạnh, nước da bánh mật, tay đang cầm một ly rượu lớn.
Hoàng đế Pharaoh nói nhỏ với tôi:
- Đó là mẹ ta, thái hậu Taiya.
- Kính thưa thái hậu, theo cha tôi nói thì đó là một ngày trăng tròn, khoảng đầu mùa gặt. Có lẽ tôi là con nhà thuyền chài vì tấm chăn lót được dệt bằng một thứ sợi chỉ có ở làng Phalon, thuộc thượng lưu sông Nile. - Làm sao ngươi biết đó là loại sợi dệt ở làng Phalon?
- Cha tôi nói chỉ dân làng Phalon mới dệt loại sợi này, nó được đan bằng tay và thắt lại bằng một nút thuyền chài đặc biệt.
Thái hậu Taiya ngửa cổ uống cạn ly rượu rồi cười lớn:
- Thì ra ngươi là con nhà thuyền chài. Hay lắm! Hay lắm!
Hoàng hậu Nefertiti vui vẻ:
- Ngươi kể chuyện hấp dẫn lắm. Từ nay mỗi lần có chuyện gì hay thì hãy vào đây kể cho chúng ta nghe…
- Tôi là y sĩ, chỉ biết săn sóc bệnh nhân nhưng bạn tôi, Horemheb mới là người từng trải, quen biết nhiều, giao thiệp rộng…
Hoàng đế Amenophis bật cười lớn:
- Ngươi thật là người tốt, lúc nào cũng nghĩ đến bạn bè. Horemheb chính là kẻ đã giết sư tử để cứu ta. Để ngày mai ta gọi hắn vào đây kể chuyện…
Khi tôi đem chuyện này thuật lại cho Horemheb thì hắn tỏ ra khó chịu:
- Làm sao mày có thể làm một chuyện ngu xuẩn như thế được? Mày tưởng tao thích kể chuyện cho lũ đàn bà lười biếng đó nghe à! Tao thà đi đánh nhau với sư tử hay uống rượu với những kẻ xa lạ, còn hơn tốn thời giờ với đám phụ nữ vô tích sự đó. Nếu được gọi, tao sẽ cáo bệnh…
Nhưng Horemheb không dám cáo bệnh khi được Pharaoh triệu vào cung. May thay lần này chúng tôi không được gọi vào để kể chuyện. Khi chúng tôi bước vào căn phòng nhỏ thì hoàng đế Amenophis đang nói chuyện với hai vị võ quan đã già, râu tóc bạc phơ.
Một người chỉ vào tấm bản đồ trên vách, nói:
- Muốn hùng cường, chúng ta cần phải mở mang phát triển bờ cõi. Khi xưa, tiên đế đã từng mang quân chinh phạt Nubia, chiếm được nhiều hầm mỏ và tài nguyên thiên nhiên, làm giàu cho Ai Cập. Hiện nay quốc vương xứ này đang có ý nhòm ngó nước ta, chúng ta cần khởi binh chinh phạt ngay thì mới mong toàn thắng…
Ông lão còn lại gật đầu nói thêm:
- Hoàng đế vừa lên ngôi, cần có những thắng lợi to tát thì sự nghiệp mới vẻ vang được. Ở đời mạnh được yếu thua là lẽ tất nhiên. Lúc này binh lực chúng ta đang hùng cường, chúng ta cần lợi dụng cơ hội…
Hoàng đế Pharaoh bình tĩnh nói:
- Luật của kẻ mạnh sẽ khiến cho xã hội trở nên một bãi chiến trường. Nếu mọi người tiếp tục chém giết lẫn nhau thì xã hội sẽ như thế nào?
- Nhưng thưa Pharaoh, đó là luật thiên nhiên. Người ta tranh đấu để sống còn. Hoàng đế lắc đầu, ôn tồn nói:
- "Các ông đã biết gì về luật thiên nhiên? Nếu mạnh sống yếu chết thì sư tử là giống mạnh nhất ắt phải sống và hươu nai thuộc giống yếu đã phải chết hết, nhưng chúng đâu hề chết! Ta đã quan sát và suy nghiệm về điều này rất lâu.
Luật của kẻ mạnh chỉ có giá trị giới hạn nhưng không phải là sự thật."
- Nhưng trong thiên nhiên, sự tranh đấu là lẽ thường tình. Sư tử giết hươu nai thì chúng ta cũng giết người Hitites hay Nubia. Có thể chúng ta không giết sạch được họ nhưng nếu không tấn công thì họ cũng khởi binh đánh ta. Trong đời sống, kẻ nào gan dạ, liều lĩnh, kẻ đó thành công lớn… Hoàng đế Pharaoh lắc đầu:
- Chúng ta không phải là loài thú, chúng ta là người và con người hơn con thú ở điểm lương tâm.
- Xin Pharaoh xét lại, trong xã hội, người có lương tâm chẳng phải là người thành công nhất. Phần lớn những người lanh lợi, có mưu lược và thủ đoạn mới chiếm được các địa vị khả quan. Những người giàu sang, có quyền lực là những người khôn ngoan, quỷ quyệt, dám làm tất cả mọi việc…
Hoàng đế Pharaoh ngắt lời vị quan triều:
- Hiển nhiên họ là những kẻ có tâm hồn chai đá, không hề biết thương xót ai hết. Các ông đều là những kẻ có địa vị khả quan, giàu sang và có thế lực, nhưng có bao giờ các ông tự hỏi tại sao mình lại lên được địa vị như thế không?
Hai vị võ quan biết mình lỡ lời nên im bặt, lấm lét nhìn hoàng đế không biết phải xử trí ra sao. Pharaoh cũng im lặng nhìn họ không nói gì. Không khí trong phòng bỗng trở nên căng thẳng.
Một vị quan run rẩy:
- Xin hoàng đế ban chỉ thị… Kẻ này ngu dốt không hiểu ý ngài…
Hoàng đế Pharaoh đột nhiên quay qua Horemheb, hỏi:
- Ngươi thấy thế nào?
Horemheb thẳng thắn trả lời ngay:
- Hoàng đế là người đã được thần linh chọn lựa để chỉ huy Ai Cập. Bất cứ ngài quyết định thế nào, Horemheb này cũng triệt để tuân theo. Nếu ngài ban chỉ thị thì kẻ này sẽ thi hành ngay.
Vừa nói Horemheb vừa đặt tay lên đốc kiếm. Hình như hắn chỉ chờ hoàng đế hạ lệnh là ra tay ngay nhưng hoàng đế Pharaoh đã lắc đầu, ôn tồn nói:
- Người cao cả là người không chà đạp lên những kẻ yếu đuối, hiếp đáp kẻ thế cô. Người cao cả là người biết thương yêu, giúp đỡ kẻ khác, biết hy sinh bản thân mình cho kẻ khác. Người cao cả là người có lòng nhân ái, biết bênh vực những kẻ khốn cùng, che chở kẻ yếu đuối. Một quốc gia hùng cường là quốc gia sản xuất ra những con người cao cả như vậy và một xã hội tiến bộ là xã hội xây dựng trên những căn bản nhân ái đó.
Vị võ quan dè dặt hỏi:
- Phải chăng hoàng đế không muốn gây chiến tranh?
- Ta đã ra lệnh cho Smenkere triệu tập một phái đoàn ngoại giao đi Hitites và Nubia để thương lượng việc này.
Hai vị võ quan nhìn nhau rồi một người đánh bạo lên tiếng:
- Kính thưa Pharaoh, kẻ hèn này đã từng theo tiên đế cầm quân chinh phạt Nubia nhiều lần. Khi ngài còn nằm trong nôi, kẻ này đã tả xung hữu đột để mở mang bờ cõi cho Ai Cập. Kẻ này biết rõ người Nubia hiếu chiến và khó thuyết phục. Hiện nay vua xứ Nubia là người nhiều mưu lược, xảo trá…
Hoàng đế Pharaoh mỉm cười nói ngay:
- Đúng thế, do đó ta mới gọi riêng hai ông vào đây để bàn việc này. Vì các ông biết rõ người Nubia nên ta muốn hai ông cầm đầu phái đoàn ngoại giao qua đó thương thuyết. Khi xưa hai ông đã tạo nhiều chiến công hiển hách, bây giờ hai ông hãy sử dụng miệng lưỡi của mình để tránh cho dân chúng hai bên khỏi cảnh chinh chiến, máu đổ đầu rơi.
Hai vị võ quan ngạc nhiên há hốc miệng không biết nói gì. Một người hỏi lại:
- Thưa Pharaoh. Ngài muốn chúng tôi qua Nubia để thương lượng hòa bình?
Hoàng đế Pharaoh gật đầu:
- Đúng thế. Ngày trước ông đã cầm quân chinh phạt Nubia, bây giờ ta muốn ông cầm đầu một phái đoàn chinh phục nhân tâm xứ này. Võ khí mới của ông không phải là cung tên, giáo mác nữa mà là các giáo sĩ, học giả, nghệ sĩ và khoa học gia. Từ nay, công lao của ông ghi khắc trên bia đá, lăng tẩm không phải là người cầm quân chinh phạt nhưng là người đem lại hòa binh, thịnh vượng cho dân chúng cả hai xứ. Hai vị võ quan lấm lét nhìn hoàng đế Pharaoh, ngập ngừng muốn nói nhưng không biết phải bày tỏ ra sao.
Hoàng đế Pharaoh thong thả đứng dậy, đặt tay lên vai vị võ quan rồi ân cần nói:
- "Ta biết ông chủ trương kẻ nào muốn gây chiến với ta thì ta phải tiêu diệt họ trước khi họ tiêu diệt ta. Nhưng nếu ông bình tĩnh suy nghĩ kỹ thì ông sẽ thấy rằng kẻ nào chỉ khăng khăng đòi tiêu diệt kẻ khác thì kẻ ấy không thể nào tiến bộ được, và chỉ quanh quẩn mãi trong phạm vi thù hận, bạo lực mà thôi. Một hoàng đế chỉ nghĩ đến chiến tranh thì luôn luôn sợ hãi, bất an và không thể cai trị quốc gia hữu hiệu được. Một quốc gia chỉ chuẩn bị cho chiến tranh thì không thể tiến bộ về các phương diện khác được.
Các ông phải biết trách nhiệm của hoàng đế rất lớn, sự thịnh suy của quốc gia đều nằm trong sự suy xét và quyết định của người này. Một hoàng đế chỉ lo củng cố quyền lực của mình qua chiến tranh, thù hận thì quốc gia sẽ suy kiệt, thoái hóa; dân chúng sẽ lầm than, khổ cực.
Trái lại. một hoàng đế biết vượt ra khỏi những lý luận tầm thường của sự oán hận, biết tha thứ những kẻ gây khó khăn cho mình, sẽ vươn lên cao và kéo kẻ khác tiến bộ với mình.
Sở dĩ các ông muốn khởi binh đánh Nubia vì các ông muốn trừng phạt họ; vì nếu không, họ cũng sẽ mang quân xâm phạm lãnh thổ của chúng ta. Hiển nhiên người Nubia muốn đem quân đánh chúng ta vì nếu họ không ra tay trước, có lẽ chúng ta cũng sẽ xâm lăng xứ họ. Cái vòng luẩn quẩn của chiến tranh cứ thế tiếp diễn, chẳng ai chịu nhường ai. Kẻ thắng thì vinh quang, người thua thì nhục nhã và thù hận, cứ thế kéo dài từ đời này sang đời khác, biết bao giờ chấm dứt.
Tuy nhiên thắng bại, được thua chỉ như thời tiết, đến rồi đi. Lần này quân ta thắng, lần khác quân ta thua, rốt cuộc chỉ có dân chúng là chịu thiệt thòi. Là hoàng đế, ta quyết định phải chấm dứt cái vòng luẩn quẩn này. Ta sẵn sàng bỏ qua mọi sự, dù phải chịu đựng nhiều thử thách.
Các ông đừng cho rằng ta hèn nhát mà phải chịu đựng. Lúc này binh lực nước ta hùng cường nhưng ta sẽ không gây chiến vì ta muốn cho người Nubia hiểu lòng ta. Khi họ hiểu ta, họ sẽ từ bỏ giấc mộng xâm lăng và rồi mọi sự sẽ đổi khác. Ta biết mình mới lên ngôi Pharaoh, cả Ai Cập muốn xem ta sẽ làm gì. Họ sẽ đánh giá ta trong lúc này và sẽ có dư luận cho rằng ta hèn nhát, sợ hãi nhưng ta sẵn sàng chịu đựng vì sự đau khổ sẽ làm ta dũng cảm hơn. Ngay cả những nước chư hầu khác cũng sẽ chê bai ta nhưng ta sẽ nhẫn nại vì sự nhẫn nại sẽ làm cho nội tâm ta phong phú hơn.
Này các ông. Sở dĩ ta làm thế vì ta đã biết rõ đâu là sự vĩnh cửu thực sự. Ta mong các ông hiểu sự khó khăn của ta trong những ngày sắp tới và giúp ta hoàn thành sứ mạng của ta đối với Ai Cập. Dĩ nhiên ta có thể lựa chọn những sứ giả khác, nhưng ta quyết định chọn hai ông cầm đầu phái đoàn vì người dân xứ Nubia biết rõ hai ông hơn ai hết. Ta muốn nhờ sự khôn khéo của hai ông mà họ hiểu được lòng ta, và hiểu được ta thì ta có thể giúp cho cả hai quốc gia cùng tiến bộ, phát triển về mọi lãnh vực. Ta mong hai ông hãy nhận lãnh trách nhiệm lịch sử này, cố gắng hoàn tất sứ mạng và chớ phụ lòng tin tưởng của ta." Hai vị võ quan già run rẩy nhìn nhau, không biết vì cảm động hay còn điều gì khác, nhưng hoàng đế đã phất tay ra hiệu nên họ cúi đầu bước ra khỏi phòng. Hoàng đế Pharaoh trầm ngâm suy nghĩ một lúc rồi nói với tôi:
- Này Sinuhe, hôm nay mẹ ta mệt và muốn ngươi đến khám sức khỏe cho bà. Horemheb hãy ở lại đây, ta có việc quan trọng cần bàn với ngươi.
Tôi theo người nô lệ đến cung điện của thái hậu Taiya. Đó là một căn phong trần thiết lủng củng, đồ đạc rất nhiều nhưng để bừa bãi, lung tung. Thái hậu Taiya là một phụ nữ to lớn, đẫy đà, khác hẳn những hoàng phi trong cung.
Bà ngồi trên chiếc ghế dài, tay cầm một ly rượu lớn:
- Này Sinuhe, ta muốn ngươi xem rằng ta còn sống được bao lâu nữa?
Tôi cúi đầu bước đến bắt mạch và khởi sự khám bệnh. Thái hậu Taiya tiếp tục uống rượu. Tôi bỗng giật mình vì thấy trên nệm ghế của bà có phủ một tấm chăn lớn, đan bằng thứ sợi rất thô kệch, xấu xí được cột bằng những nút thuyền chài đặc biệt của dân làng Phalon.
Thái hậu Taiya chăm chú nhìn tôi rồi hỏi:
- Hình như ngươi đã nhận ra chiếc chăn này?
- Thưa thái hậu, hình như đây là loại sợi Phalon?
- Đúng thế, ngươi nhận xét khá lắm.
- Chiếc chăn lót nôi của kẻ này cũng giống như thế…
Thái hậu Taiya gật đầu cười lớn: - "Hiển nhiên rồi, vì chỉ có làng Phalon mới dệt loại sợi này và ta xuất thân từ làng Phalon. Đúng thế, ta là con nhà thuyền chài, suốt ngày dầm mưa dãi nắng nên nước da của ta mới đen sậm như thế này. Cách đây mấy chục năm, hoàng đế Amenophis đi thuyền ngang đó, thấy ta đang giăng lưới bên sông nên gọi ta vào hầu.
Ha ha ha, ta tung mẻ lưới bắt được con cá to nhất sông Nile. Ta biết mình chẳng đẹp đẽ gì, chẳng thể so sánh với các hoàng phi, cung nữ nhưng ta khỏe mạnh, rừng rú nên làm hoàng đế vui lòng. Thế là ta được đưa về triều. Chỉ một thời gian ngắn, ta đã sinh ngay một hoàng nam và lên ngôi hoàng hậu. Năm sau ta còn sinh thêm một công chúa nữa, thế là ta củng cố địa vị của mình. Hiện nay hoàng đế đã qua đời, con ta lên ngôi Pharaoh nên ta toại nguyện, chẳng muốn sống nữa. Ngươi hãy xem bao giờ đến ngày ta ra đi để ta chuẩn bị."
- Thưa thái hậu, kẻ này thấy ngài rất khỏe mạnh chẳng có bệnh tật chi. Chắc chắn ngài còn sống vài chục năm nữa nếu ngài… bớt uống rượu một chút.
- Ha ha ha… Bọn y sĩ các ngươi đều nói giống nhau cả, nhưng sống lâu để làm gì? Chồng ta đã qua đời, các con ta đều khôn lớn, kéo dài thêm đời sống vô vị, tẻ nhạt, chán chường trong cung làm gì. Ngươi hãy bào chế cho ta một viên thuốc độc để trả nợ đời cho xong.
Tôi chưa kịp lên tiếng thì một giọng nói rổn rảng vang lên:
- Này Sinuhe, ngươi chớ nghe lời mụ già đó. Bà ta say rồi…
Tôi giật mình quay lại thì thấy một thiếu nữ còn trẻ, dáng người to lớn, mặc võ phục, tay cầm chiếc roi da đang bước vào.
Thái hậu Taiya bật cười:
- Đó là con gái ta, công chúa Baketamon. Ta vô phúc sinh ra một đứa con trai hiền lành như con gái và một đứa con gái hung hăng như con trai…
Công chúa Baketamon cười ha hả:
- Mẹ muốn nói rằng con mới xứng đáng làm Pharaoh phải không? Anh Amenophis hiền lành quá, không thể lãnh đạo Ai Cập được.
- Trong hai đứa bay, đứa nào làm Pharaoh cũng được. Riêng ta chỉ muốn chết cho thật nhanh mà thôi.
- Nhưng đàn bà đâu làm Pharaoh được. Do đó con cần phải lấy chồng để chồng con làm Pharaoh, phần con chỉ đứng ở phía sau ra lệnh cho hắn mà thôi.
Thái hậu Taiya lắc đầu cười lớn:
- Đứa nào lấy mày chỉ khổ thôi. Mày ngang bướng, hung hăng lại ham chuộng võ nghệ, suốt ngày đi đánh nhau với các binh sĩ. Ai lấy mày để mày xé xác nó ra hay sao? Tôi ngượng ngùng không biết phải làm gì. Từ trước đến nay tôi chỉ tiếp xúc với những phụ nữ đến nhờ tôi chữa trị chứ đâu biết phải làm gì với những phụ nữ như thế này. May thay, đang luống cuống thì Horemheb ở đâu bước vào:
- Này Sinuhe, người đã khám bệnh xong chưa? Công chúa Baketamon chăm chú nhìn Horemheb:
- Ngươi là ai? - Kính thưa công chúa, kẻ hèn này là Horemheb, sĩ quan chỉ huy Ngự lâm.
Công chúa reo lên:
- A phải rồi, ngươi đã giết sư tử cứu mạng anh ta. Hay lắm! Hay lắm!
Cô vừa dứt lời đã vung tay quất thẳng ngọn roi vào Horemheb. Tôi há hốc miệng kinh ngạc. Baketamon ra tay đã nhanh mà Horemheb còn nhanh hơn. Hắn đưa tay ra bắt trúng ngọn roi nắm chặt khiến Baketamon loạng choạng suýt ngã.
Cô cười lớn:
- Khá lắm! Khá lắm! Ít ai tránh được ngọn roi của ta. Ngươi hẳn là người có bản lãnh. Horemheb vội vã cúi đầu:
- Xin công chúa tha tội, kẻ này trót dại, đó chỉ là phản ứng tự nhiên…
- Không sao, không sao đâu…
Baketamon ném cây roi xuống đất. Horemheb vội cúi xuống nhặt lên nhưng công chúa thừa thế tung chân đá mạnh vào người Horemheb. Một lần nữa, tôi trợn mắt kinh ngạc nhưng Horemheb lại nhanh nhẹn xoay người tránh được cái đá song phi đó.
Thái hậu Taiya quát lớn:
- Thôi, dừng tay lại! Như thế đủ rồi!
Công chúa Baketamon thản nhiên nói:
- Ta chỉ muốn xem ngươi có xứng đáng chỉ huy quân Ngự lâm không!
Horemheb cười nhạt không nói gì nhưng tôi biết mỗi khi hắn cười nhạt là đang mưu tính một việc gì. Hắn cúi chào thái hậu và công chúa rồi ra hiệu cho tôi đi theo.
Ra khỏi cung, hắn nắm tay tôi nói nhỏ:
- Hiện nay Pharaoh còn phải đương đầu với nhiều khó khăn. Là người chỉ huy Ngự lâm nên tao rất bận, không thể tiễn mày về Thebes được. Tuy nhiên thỉnh thoảng có dịp mày nên ghé qua đây thăm tao.
Tôi trở về Thebes, tiếp tục công việc săn sóc bệnh nhân như xưa. Hôm đó tôi và Kepta đang mang tiền phân phát cho người nghèo trong xóm thì một thiếu nữ đi ngang nhìn tôi mỉm cười. Hình như tôi đã gặp cô này ở đâu nhưng không sao nhớ được. Kepta thấy vậy liền vặn hỏi ngay:
- Phải chăng cô đó là bệnh nhân của y sĩ?
- Ta không nhớ rõ.
Kepta mỉm cười nói nhỏ:
- Này y sĩ, cứ nhìn nụ cười và ánh mắt đó, tôi thấy cô ta phải có cảm tình với y sĩ lắm lắm.
- Ngươi đừng nói bậy. Ta cắt lưỡi ngươi bây giờ.
Kepta bật cười lắc đầu:
- Thằng nô lệ này chột mắt chứ chưa có mù đâu!
Thấy thiếu nữ đang múc nước giếng, Kepta vội bước đến gần:
- Ông chủ tôi đi đường xa khát nước, phiền cô cho mượn cái gáo múc nước.
Thiếu nữ vội trao cho Kepta chiếc gáo nhỏ. Trong lúc Kepta múc nước, cô ta vẫn nhìn tôi mỉm cười khiến tôi bối rối.
Kepta bèn hỏi:
- Hình như cô có quen biết ông chủ tôi?
- Tôi là Meryt, bán rượu ở thành Memphis. Y sĩ Sinuhe và Horemheb thường ghé qua đó uống rượu…
Lúc đó tôi mới sực nhớ ra người thiếu nữ bán rượu này:
- Thì ra cô Meryt, tôi nhớ ra rồi… Cô làm gì ở đây?
Meryt có vẻ thẹn thùng:
- Lúc này trên Memphis làm ăn khó khăn nên… em dọn về Thebes…
Kepta vội vã quảng cáo ngay:
- Tốt lắm! Nếu cô đau ốm thì hãy đến phòng mạch của ông chủ tôi. Ông là y sĩ tài giỏi nhất thành Thebes này, bệnh gì ông chủ tôi cũng chữa khỏi…
Meryt gật đầu nói ngay:
- Em biết điều đó.
Kepta chăm chú nhìn Meryt rồi hỏi tiếp:
- Cô đến Thebes này một mình hay với ai? Meryt cúi đầu nhìn xuống đất nói nhỏ:
- Em còn cha mẹ già.
Kepta tủm tỉm cười hỏi tiếp:
- Như vậy cô chưa lập gia đình? Một người đẹp như cô mà chưa có gia đình sao? Meryt vẫn cúi mặt vân vê tà áo:
- Em còn phải săn sóc cha mẹ già…
Tôi thấy Kepta đã bắt đầu đi quá xa nên nắm lấy áo gã, lôi đi chỗ khác:
- Thằng chột mắt này, mi không được nói năng lộn xộn.
Từ đó thỉnh thoảng tôi vẫn gặp Meryt trong xóm. Lần nào gặp nhau cô đều mỉm cười và tỏ ra bẽn lẽn nhưng tôi không hề chú ý đến Meryt. Đầu óc tôi vẫn còn mải suy nghĩ những chuyện không đâu. Tôi nghĩ đến hoàng đế Amenophis và chủ trương mới mẻ của ông, tôi cũng băn khoăn về Aten, hay định luật tối cao điều hành tất cả mọi sự.
Một hôm tôi đang bào chế mấy vị thuốc thì có tiếng ngựa hí vang trước cửa rồi Kepta chạy vào báo cáo:
- Thưa y sĩ, có một nhóm quân sĩ ở đâu kéo đến…
Tôi ngạc nhiên chưa biết phải làm gì thì đã thấy Horemheb đẩy cửa bước vào, theo sau là một nhóm lính hầu võ trang cẩn thận:
- Này Sinuhe, tao có việc cần bàn riêng với mày.
- Chuyện gì vậy?
Horemheb phất tay ra hiệu cho lính hầu bước ra ngoài canh phòng cẩn thận rồi ngồi xuống cạnh tôi:
- Tao biết mày chỉ muốn phục vụ cho người nghèo nhưng lúc này tao cần một y sĩ tin cẩn ở bên hoàng đế.
- Tại sao?
Horemheb hạ giọng nói nhỏ:
- Chắc mày cũng biết hoàng đế Amenophis không được khỏe lắm. Ngài mắc chứng động kinh, thỉnh thoảng lại lên cơn, chân tay co quắp, miệng sùi bọt. Đây là bí mật quốc gia, phải được giữ kín. Ngày trước chúng ta đã chẳng suýt chết khi cứu chữa cho ngài ở sa mạc đó sao!
- Nhưng trong triều đã có các ngự y tài giỏi…
Horemheb gật đầu:
- Đúng thế, nhưng tao không thể tin những người đó được.
- Tại sao?
- Vì hôm trước tao phát hiện một âm mưu đầu độc hoàng đế.
- Cái gì? Ngài có sao không?
Horemheb lắc đầu:
- May là âm mưu kịp thời bị phát hiện. Thằng nô lệ vừa bỏ thuốc độc đã bị phát giác. Tao đích thân điều tra và tóm được một số kẻ phản nghịch.
- Nhưng… nhưng phe nhóm của hoàng thân Kira đã bị bắt cả rồi…
Horemheb ghé sát vào tai tôi:
- Không phải phe Kira đâu, còn những nhóm khác trong bóng tối nữa. Trong triều có nhiều phe nhóm tranh chấp lẫn nhau. Ngay cả tể tướng Smenkere cũng bị ám sát hụt mấy lần. Sự việc triều đình phức tạp chứ không giản dị như mày nghĩ đâu.
- Nhưng tại sao lại như thế?
Horemheb nhìn tôi một lúc rồi thong thả giải thích:
- Trên đời có hai điều mà ai cũng thèm muốn là quyền lực và danh lợi. Khi Hoàng đế sắc phong cho Smenkere, một người ngoài dòng họ, chức vị tể tướng thì ngài đã làm phật ý nhiều người trong hoàng gia đang thèm muốn địa vị này. Ngoài ra, Hoàng đế còn ban hành nhiều sắc lệnh cải tổ mới như giảm thuế, bỏ việc sưu tra để bắt đinh, thay đổi lễ nghi trong triều và những điều này dĩ nhiên đụng chạm đến quyền lợi của một số người khác nữa.
- Nhưng một y sĩ như tao thì làm được gì? Horemheb nói nhỏ:
- Trong tình trạng đầy xáo trộn, bất an hiện nay, tao không tin ai cả, trừ mày. Không hiểu sao Smenkere cũng tỏ ra thích mày và Hoàng đế vẫn thường nhắc đến mày luôn. Tiếc quá, mày chỉ muốn sống thanh bần, nếu không đã có biết bao cơ hội để tiến thân rồi.
- Nhưng… nhưng tao đã quyết theo gương cha tao.
Horemheb vỗ nhẹ lên vai tôi:
- Tao biết điều đó nhưng lúc này Ai Cập cần mày, Hoàng đế cần mày và tao cũng cần mày. Tao mong mày hãy suy nghĩ lại. Hiện nay Hoàng đế đang đi Nekhen chọn đất để xây mồ. Nekhen ở gần đây và có lẽ đã lâu không gặp mày nên ngài muốn mày đến đó đàm đạo với ngài ít lâu.
Theo truyền thống, khi một Pharaoh lên ngôi hoàng đế là lập tức lo tìm đất để xây mồ cho mình. Việc xây cất này hết sức quan trọng vì một triều đại vua chúa thường được đánh giá qua những công trình xây cất. Người Ai Cập tin rằng linh hồn con người vốn bất tử và chỉ khoác lấy thể xác để làm một số việc nào đó thôi. Việc này có thể là cai trị quốc gia, như trường hợp các Pharaoh, hoặc trồng trọt, săn bắn, đánh cá, xây cất như trường hợp thường dân. Sau khi chết, con người sẽ được phán xét, định công luận tội trước mặt thần Osiris. Tùy theo việc làm của họ khi sống mà họ sẽ được dẫn dắt đến những cảnh giới tương xứng. Vì đời sống ở cõi trần chỉ là phần nhỏ của một đời sống khác bao la rộng rãi hơn nên các vua chúa đều chuẩn bị rất kỹ cho đời sống sau khi chết này.
Khởi đầu, người ta soạn thảo kế hoạch xây cất dựa theo niên lịch của các nhà chiêm tinh. Mọi việc xây cất tại Ai Cập đều được soạn thảo theo họa đồ của các nhà chiêm tinh trước khi giao cho thợ xây cất chuyên môn. Nhà chiêm tinh Ai Cập không phải chỉ nghiên cứu về tinh tú mà còn phải chuyên môn về toán học, vật lý học, địa lý học và cả kiến trúc nữa. Tất cả mọi công trình xây cất tại Ai Cập đều dựa theo họa đồ của các nhà chiêm tinh và những đền đài, cổ mộ, lăng tẩm, kim tự tháp đều được xây cất theo những vị trí nhất định có liên quan mật thiết với các bầu tinh tú trong vũ trụ. Từ những kích thước, hình thái, chiều cao, bề sâu, chu vi và diện tích đều dựa trên những tiêu chuẩn của các tinh tú xuất hiện vào những thời điểm nhất định. Người ta không thể hiểu kiến trúc Ai Cập nếu không có kiến thức về khoa chiêm tinh vì mọi họa đồ xây cất đều có những mục đích rõ rệt dựa theo sự vận hành của tinh tú.
Nekhen là vùng có nhiều đồi đá trơ trụi nằm dọc theo bờ sông Nile. Đây là địa bàn hoạt động của các chiêm tinh gia. Trên đỉnh ngọn đồi cao nhất là một viễn vọng đài rất lớn, trong có đền thờ thần Khem. Horemheb đưa tôi đi theo một cầu thang hình xoắn ốc lên đỉnh tháp. Tôi thấy Hoàng đế Amenophis đang trầm ngâm quan sát bầu trời với muôn ngàn tinh tú lấp lánh. Nghe tiếng động, ông quay lại và nhìn thấy tôi.
- Sinuhe đấy ư? Ngươi có biết gì về khoa chiêm tinh không?
- Thưa Pharaoh, kẻ này là y sĩ chứ không phải nhà chiêm tinh.
- Nếu vậy có lẽ người cần phải học thêm vì đây là một kiến thức quan trọng.
- Tại sao?
- Con người cần phải có kiến thức về vũ trụ cũng như về môi trường thiên nhiên mà họ sinh sống. Chỉ khi nào biết quan sát vũ trụ bao la hùng vĩ, con người mới thấy họ nhỏ bé như con sâu, cái kiến. Chỉ khi nào biết quan sát đại dương sâu thẳm, con người mới thấy họ chỉ là những bèo bọt nổi trôi. Chỉ khi nào biết quan sát sa mạc mênh mông, con người mới thấy họ chỉ là những cát bụi bé bỏng. Nhờ biết quan sát mà con người ý thức được sự tương quan giữa vũ trụ và con người, rồi biết được những định luật cao cả điều hành mọi vật. Từ đó họ biết khiêm tốn hơn và không còn đòi làm những chuyện vá trời lấp biển nữa. Theo ta, người nào biết được vũ trụ sẽ hiểu được mình và kẻ nào hiểu được mình sẽ biết được vũ trụ.
- Tại sao lại thế?
- Vì vũ trụ là môi trường hoạt động của mọi sinh vật, từ côn trùng đến thảo mộc, từ cầm thú đến con người và biết bao sinh vật mà kiến thức của chúng ta chưa biết đến. Vũ trụ không phải là một cái gì trống rỗng mà mọi sự xảy ra một cách ngẫu nhiên. Trong vũ trụ có một sự sắp đặt khéo léo mà ở đó tất cả đều phản ảnh một sự thật rằng có một định luật cao cả chi phối mọi sự. Do đó một người hiểu biết cần phải có kiến thức về vũ trụ.
- Nhưng… đó là kiến thức chuyên môn của các nhà chiêm tinh và dễ gì mà họ chịu truyền dạy cho người khác!
Hoàng đế khẽ vỗ tay. Một ông già từ trong góc phòng bước ra.
Hoàng đế chỉ vào tôi, nói:
- Này quan Thiên Giám, ta muốn ông đặc biệt chỉ dạy thêm cho Sinuhe kiến thức về khoa chiêm tinh. Ông hãy chỉ dẫn cho y tất cả những gì mà ông đã truyền dạy cho ta. Ông lão vội vã cúi đầu:
- Xin tuân lệnh Pharaoh. Lúc nào y sĩ muốn học thì hãy đến đây, tôi sẵn sàng hướng dẫn.
Hoàng đế Amenophis chỉ tay lên bầu trời:
- "Này Sinuhe, chiêm tinh là một khoa học về vũ trụ mà người Ai Cập chúng ta đã bỏ ra rất nhiều công trình để nghiên cứu. Theo khoa này thì có một ảnh hưởng hỗ tương giữa các bầu tinh tú, trái đất và các sinh vật sống trong đó. Nếu nhìn lên không trung, ngươi sẽ cho rằng đó là một khoảng trống bao la, nhưng thật ra có một khí lực bàng bạc bao trùm khắp vũ trụ.
Cái khí lực này hết sức tế vi mà chỉ một số rất ít người biết. Nó có khả năng thu nhận, phổ biến và truyền đạt tất cả những ấn tượng của mọi động lực trong thiên nhiên. Cái ảnh hưởng hỗ tương đó là những từ lực vì tinh tú đều là những khối nam châm có sức thu hút và ảnh hưởng lẫn nhau. Chính trái đất chúng ta đang sống cũng là một khối nam châm rất lớn có sức thu hút mạnh mẽ và dĩ nhiên cũng bị chi phối bởi những từ lực phát sinh từ mặt trời hay các vì tinh tú khác.
Chính vì ảnh hưởng của những từ lực này mà mọi sự vật trong thiên nhiên luôn luôn biến đổi, lên xuống, trồi sụt theo các chu kỳ. Một người nghiên cứu về vũ trụ phải biết rõ định luật về chu kỳ. Đối với đa số mọi người thì chu kỳ chỉ là những sự thay đổi về thời tiết hay mực nước thủy triều lên xuống. Nhưng với người hiểu biết thì nó là những sự sắp đặt huyền bí và mầu nhiệm vô cùng. Thật ra mọi sinh vật đều có khả năng kinh nghiệm được sự vận chuyển của luồng từ lực này vì sự rung động của nó ảnh hưởng lên thể chất của mọi sinh vật." - Nó ảnh hưởng như thế nào?
Hoàng đế nhìn tôi mỉm cười:
- Chắc hẳn ngươi đã biết ảnh hưởng lên xuống của thủy triều tùy thuộc vào sự vận chuyển của mặt trăng. Mặt trăng cũng ảnh hưởng đến kinh nguyệt của phụ nữ. Là y sĩ, ngươi biết rõ về những chứng bệnh điên loạn thần kinh chỉ phát động vào những ngày trăng tròn. Nếu sự vận chuyển của mặt trăng có thể gây ra những ảnh hưởng cụ thể như thế thì hẳn không phải là điều vô lý khi cho rằng sự tác động của các bầu tinh tú khác trong không gian cũng có thể gây nên những ảnh hưởng mạnh mẽ đối với sự sống của mọi loài trên trái đất. Chắc ngươi cũng biết trường Khoa Học Của Sự Sống đã nghiên cứu rất kỹ về những luồng khí lực vũ trụ trong việc chữa trị?
- Thưa, điều này chỉ được truyền dạy giới hạn cho các giáo sĩ.
Hoàng đế gật đầu:
- "Ta biết điều đó, vì những kiến thức đặc biệt không thể mang ra truyền dạy một cách bừa bãi được. Ngươi phải biết rằng trong vũ trụ có những luồng từ điện rất mạnh, luôn luôn thu hút, ảnh hưởng lẫn nhau theo sự di chuyển của các bầu tinh tú. Tất cả các tinh tú đều chứa đựng những luồng từ điện rất mạnh vì chúng vận chuyển trong luồng từ khí của vũ trụ. Do đó tùy theo sự rung động của cơ thể các sinh vật cảm ứng với luồng từ điện nào mà chúng chịu ảnh hưởng của các bầu tinh tú ấy.
Là y sĩ đi hái thuốc, hẳn ngươi biết rằng có những loại cây cỏ chịu sức thu hút của mặt trời và một số loại khác chịu sự thu hút của mặt trăng. Đa số hoa nở khi có ánh sáng mặt trời nhưng vẫn có một số loài hoa chỉ nở về đêm. Một số cây cỏ chỉ tiết ra dược chất vào giờ khắc nhất định khi các tinh tú nằm ở một vị trí nào đó và người y sĩ đi hái thuốc phải biết rõ điều này."
Tôi giật mình. Kiến thức về y học là khả năng chuyên môn của tôi và tôi đã được dạy bảo rất kỹ về công dụng của các loại dược thảo. Tại sao Hoàng đế lại có thể nói đến vấn đề này một cách rõ ràng như thế? Phải chăng ông đã được thụ giáo những kiến thức này từ Abydos?
Hoàng đế Amenophis thản nhiên nói tiếp:
- "Có những loại cây cỏ hợp tính chất nhau và có những cây cỏ xung khắc nhau vì chúng rung động theo các luồng từ lực khác nhau. Một cây nho không bao giờ mọc gần cây cải vì tính chất xung khắc nhưng cây nho lại thích leo bám vào cây olive vì chúng hợp nhau. Dĩ nhiên cây cỏ đã như thế thì loài người chắc chắn phải có những rung động mạnh hơn.
Nếu ngươi biết rằng phần lớn những xúc cảm của con người cũng chịu ảnh hưởng những biến đổi của trạng thái từ điện trong thiên nhiên. Sự nóng giận, ghen tức, tình thương hay thù hận đều là những biến chứng của trạng thái rung động từ khí trong cơ thể con người.
Tình thương là một trạng thái rung động rất phức tạp, do đó biến thái của nó được biểu hiện ra dưới muôn ngàn khía cạnh khác nhau. Tình yêu cao thượng như tình mẹ con, tình yêu nghệ thuật, tình bằng hữu đều là sự biểu lộ từ điện của sự giao cảm giữa những tâm hồn có sự rung động đồng nhịp hay đồng thanh, đồng khí với nhau. Từ lực của tình thương thuần túy này là căn bản của sự sáng tạo. Do đó một người chưa biết yêu hay không hề yêu chẳng thể sáng tạo được.
Cũng như thế, một kẻ để cho tâm hồn trở nên khô khan, chai đá, dửng dưng không còn xúc cảm thì khả năng sáng tạo của y cũng sẽ kiệt quệ, thui chột đi."
Hoàng đế Amenophis im lặng một lúc như đắm chìm trong một suy tưởng nào rồi nói tiếp:
- Cái luồng khí lực từ điện bao gồm toàn thể vũ trụ này chính là một tâm thức thiêng liêng thấm nhuần tất cả vạn vật. Nó ẩn tàng trong mọi chất liệu và nhờ những tác động và mãnh lực của nó mà những vật thể thu hút lẫn nhau, dần dần kết hợp lại thành những yếu tố vật chất. Chính nhờ nó mà tất cả mọi sự được khích động, nảy sinh, phát triển và thay đổi một cách mầu nhiệm. Đối với những kẻ "có mắt mà không nhìn thấy" thì đó là những thay đổi một cách tình cờ ngẫu nhiên; nhưng với người nào biết quan sát học hỏi thì nó là một kho tàng kiến thức hết sức thâm thúy. Cái luồng khí lực này giữ gìn và lưu trữ tất cả những gì đã có, đang có và sẽ có trong trời đất. Từ những hành vi nhỏ nhặt nhất đến các tư tưởng trừu tượng nhất đều ghi lại trên đó những rung động rõ rệt.
- Làm sao người ta biết được điều đó?
- Đây là điều mà tổ tiên người Ai Cập chúng ta đã bỏ ra rất nhiều công trình để nghiên cứu. Nó chính là tinh hoa của nền tôn giáo cổ mà ngày nay ít nhiều đã bị mai một. Tuy nhiên từ nhiều năm qua, ta đã nghiên cứu, học hỏi với các bậc danh sư, đạo trưởng khắp nơi để khôi phục cái mạch nguồn đã bị bế tắc này. Ngoài ra ta còn nhờ sự giúp đỡ của những người có khả năng Linh Thị (Psychometry) nữa.
- Khả năng Linh Thị là gì?
- Đó là khả năng đặc biệt của một số người có thể thu nhận những ấn tượng phát sinh từ những đồ vật. Một tập bản thảo, một bức họa, một món trang sức cổ xưa vẫn chứa đựng trong nó những từ lực hay sự rung động của người viết, của họa sĩ hay của người thợ kim hoàn. Chỉ cần cầm lấy vật ấy, người có khả năng Linh Thị có thể truy nguyên ra nguồn gốc của nó. Này Sinuhe, trong vũ trụ không một chiếc lá rơi, không một làn sóng gợn trên mặt hồ nào lại không được ghi nhận một cách trung thực trong tâm thức vũ trụ (Akashic Record).
Tôi bàng hoàng. Từ trước đến nay tôi là người rất ham mê học hỏi và luôn luôn đặt câu hỏi với mọi người. Tôi đang được nghe nói về một kho tàng kiến thức vĩ đại. Một dịp may hiếm có để học hỏi thêm nhưng không hiểu sao tôi lại ngần ngại.
Tôi lắp bắp:
- Như thế phải chăng người có khả năng linh thị có thể biết trước được mọi việc?
- Không hẳn như thế. Người ta có thể biết tường tận những việc đã xảy ra trong quá khứ nhưng việc tương lai thì khác.
- Tại sao?
- Vì tương lai là những gì đang ở trạng thái phôi thai trong khí lực của trời đất, và tùy theo những yếu tố khác nhau mà biến đổi. Đời sống không phải là những gì có tính cách nhất định mà luôn luôn sống động, biến đổi không ngừng theo những diễn tiến rất phức tạp. Tuy nhiên, dù thay đổi thế nào nó cũng vẫn phải tuân theo những định luật bất biến. Mặc dù con người có thể hành động theo ý muốn, nhưng cách thức mà họ hành động vẫn phải tuân theo những quy tắc của một định luật chung.
- Như thế là thế nào?
Hoàng đế Amenophis ôn tồn giải thích:
- "Này Sinuhe, nếu ta gảy một giây đàn thì âm ba rung động của nó sẽ không thể chuyển thành âm ba rung động của một giây đàn khác được. Cũng như thế, bất kỳ một hành động gì cũng đều có những hậu quả tương ứng nhất định nhưng con người hành động như thế nào thì vẫn tùy thuộc vào tự do ý chí của người ấy. Hãy nhìn một cây đàn. Nó có vô số giây và tùy theo giây nào ta gảy thì sẽ có những âm thanh tiết tấu tương ứng. Người nghệ sĩ nhờ biết rõ các quy luật về âm nhạc này mà sáng tạo ra các bản nhạc du dương, trầm bổng tùy theo cảm hứng riêng. Cảm hứng là tự do ý chí nhưng sự rung động và phối hợp của âm thanh hoàn toàn tùy thuộc các quy luật của âm nhạc. Nếu không nắm vững quy luật về âm nhạc này thì người ta chỉ tạo ra những âm thanh rời rạc, vô hồn chứ không thể sáng tác ra âm nhạc được.
Cũng thế, một người đã hiểu rõ qui luật của vũ trụ không bao giờ hành động trái với thiên nhiên, trái với những nhịp điệu điều hòa của trời đất mà chỉ làm những việc thuận với lòng trời. Kẻ thiếu hiểu biết nghĩ rằng mình có thể thay đổi tất cả và làm những việc trái với luân thường đạo lý, trái với luật thiên nhiên và dĩ nhiên kết quả sẽ không đi đến đâu. Con người chỉ có thể kiểm soát được hành động của mình chứ không thể kiểm soát được kết quả. Do đó Pharaoh phải là người biết rõ các định luật thiên nhiên này và hành động theo đó.
Ta có thể gây chiến với Nubia hay gìn giữ sự giao hảo giữa hai nước nhưng kết quả ra sao thì ta không thể biết được. Tuy nhiên ta hy vọng nhờ sự hiểu biết của ta mà Ai Cập sẽ tiến bộ và khi Ai Cập tiến bộ, nó sẽ ảnh hưởng đến những quốc gia chung quanh, và theo thời gian một nền văn minh tiến bộ thực sự sẽ được phát triển khắp nơi."
Hoàng đế Amenophis đưa mắt nhìn lên bầu trời mênh mông, tiếp:
- Đó là sứ mạng của ta. Sứ mạng của Pharaoh với đúng ý nghĩa cao đẹp của nó. Chúng tôi im lặng, mỗi người đều theo đuổi những cảm xúc riêng. Thời gian gần như ngưng lại cho đến khi Hoàng đế quay qua nói với quan Thiên Giám:
- Này quan Thiên Giám, gần đây ta đã quan sát rất kỹ những biến chuyển của những bầu tinh tú. Theo sự suy nghiệm của ta thì hiện nay nhân loại đang ở trong khúc quanh thấp nhất của một chu kỳ và hiển nhiên đang ở trong giai đoạn chuyển tiếp. Ta cảm thấy có sự cằn cỗi, suy hoại trong các nhịp điệu điều hòa của thiên nhiên. Mối tương quan giữa con người và thiên nhiên dường như hoàn toàn bị gián đoạn. Sự giao cảm giữa người và cây cỏ, giữa các sinh vật và khoáng vật chỉ còn là những rung động mơ hồ.
Ta thấy rõ sự hoài nghi chán nản mỗi ngày một lan rộng khắp nơi; các giá trị đạo đức, tâm linh bị coi thường và tiếng nói huyền diệu của thiên nhiên chỉ là một tiếng vang ngoài sa mạc.
Ta thấy rõ các giáo sĩ đã không làm tròn nhiệm vụ hướng dẫn tâm thức con người. Các tôn giáo thờ thần linh đã gây chia rẽ khắp nơi, giáo sĩ nào cũng cho rằng giáo lý của mình đúng nhất, hay nhất và chê bai những giáo lý khác. Tín đồ các tôn giáo cũng cho đấng thần linh của mình mạnh nhất và nhiều quyền lực nhất.
Ta thấy rõ sự liên hệ giữa con người với nhau cũng ngày một suy đồi và chỉ còn sự tranh giành, bóc lột, cướp đoạt, thù hằn, lợi dụng lẫn nhau không thương tiếc.
Ta thấy rõ thảm họa chiến tranh chỉ còn trong sớm tối vì quốc gia nào cũng lo chuẩn bị cho một cuộc chiến không thể tránh.
Ta thấy rõ tiềm lực của nhân loại đang bị hoang phí cho những giấc mộng viển vông, những ảo vọng của những kẻ lãnh đạo nhiều tham vọng nhưng thiếu hiểu biết. Làm vua, ai chẳng muốn tìm cho mình những bầy tôi trung thành, những hiền tài để giúp nước, vậy mà trải qua bao đời, tại sao các quốc gia quanh vùng đều suy kiệt, hết vua này đến vua khác đều đưa quốc gia đến chỗ suy vong, phá gia hại nước.
Ta đã suy nghiệm về điều này và thấy rằng người mà vua cho là bầy tôi trung, thật ra chẳng trung thành chút nào. Người vua cho là tướng giỏi, thật ra cũng chẳng giỏi gì. Họ chỉ biết nghĩ đến quyền lợi của mình hay phe nhóm mình mà thôi. Vì phần đông các vua chúa đều mê muội trong việc dùng người như vậy mà xứ Nubia đã mất đi phân nửa đất đai và kinh tế xứ Hitites thì kiệt quệ, dân tình đói khổ triền miên.
Ngay trong triều đình ta, đa số các quan vẫn còn nuối tiếc những chiến thắng ngày trước, những cuộc xâm lăng đẫm máu, mượn danh nghĩa mở mang bờ cõi, nhưng thật ra chỉ là những cuộc tranh cướp đất đai, tài nguyên. Sự hận thù giữa Ai Cập và các quốc gia lân cận ngày một gia tăng và nước nào cũng lo tăng cường binh lực, chờ dịp xâm lăng chém giết lẫn nhau.
Là Pharaoh, ta có thể theo gương cha ta, mang quân chinh phạt khắp nơi, tiếp tục bành trướng bờ cõi Ai Cập. Tuy nhiên ta thấy trọn đời cha của ta chỉ biết đến chiến tranh, lúc nào cũng lo sợ Ai Cập bị các xứ láng giềng đánh úp. Cha ta đã sử dụng hầu hết các tiềm lực quốc gia cho quân sự và trong suốt mấy chục năm nay, Ai Cập chưa được hưởng một ngày thái bình. Chẳng gia đình nào lại không có người chết trận, và không vùng đất nào lại không đầy những uất khí của những kẻ tử trận.
Ta đã sống một mình trong sa mạc hoang vu, hằng đêm ta vẫn nghe tiếng than khóc ai oán của các hồn ma. Không! Ta không thể tiếp tục đi theo vết chân của cha ta được! Ta không thể để cho Ai Cập tiếp tục lăn theo những vết xe lịch sử. Đã đến lúc Ai Cập cần một thay đổi lớn, một sự thay đổi tận gốc rễ."
Quan Thiên Giám ngập ngừng:
- Thưa Pharaoh, theo thiển ý thì chúng ta đang ở trong một giai đoạn hắc ám xấu xa, trong lúc này bất cứ sự thay đổi nào cũng đều bất lợi.
Hoàng đế Amenophis mỉm cười:
- Này quan Thiên Giám, ông là thầy của ta và đã dạy dỗ ta rất nhiều, nhưng ta cũng có sự quan sát và quyết định của riêng ta. Quan Thiên Giám im lặng suy nghĩ rồi mạnh dạn lên tiếng:
- "Thưa Pharaoh. Suốt bao năm nay thần đã quan sát và nghiên cứu kỹ lưỡng các bầu thiên thể cai quản vận mạng con người cũng như các quốc gia. Hẳn ngài cũng biết trong chu kỳ trước đã có những sự thay đổi hết sức lớn lao, ảnh hưởng đến khắp mọi loài trên trái đất.
Ngài đã từng biết về những thiên tai, những trận đại hồng thủy thay đổi hoàn toàn các chủng loại trên mặt địa cầu.
Ngài đã được chỉ dẫn về những điềm báo trước, thời kỳ mà các tai ương, hoạn nạn, thiên tai, bệnh tật, chiến tranh xảy ra một cách đột ngột, bất ngờ hơn những thời kỳ khác.
Ngài đã được học hỏi về thời kỳ mà toàn thể nhân loại đều bị ô nhiễm vì chịu ảnh hưởng xấu xa từ thể xác đến tinh thần và trở nên sa đọa đến cực điểm.
Ngài cũng biết rằng có thời kỳ mà sự tranh chấp xảy ra liên miên khắp nơi, các thảm cảnh như chiến tranh, bóc lột, ngược đãi, khủng bố, đàn áp và rồi các bệnh tật, tai ương lan tràn và sau cùng là các thiên tai như hạn hán, bão tố, động đất, núi lửa phun rồi toàn thể địa cầu sẽ thay đổi một cách nhanh chóng bất ngờ và phũ phàng hơn mọi sự tưởng tượng.
Theo sự quan sát của thần thì hiện nay chúng ta đang ở trong thời buổi hắc ám tương tự, do đó thần mong ngài hãy suy nghĩ lại trước khi cho thi hành những đường lối cải cách vì không ai biết kết quả xấu tốt sẽ như thế nào."
Hoàng đế Amenophis thong thả nói:
- "Ta hiểu rõ sự liên hệ của các bầu tinh tú cũng như ảnh hưởng của chúng đối với mọi sinh vật. Ta cũng biết quan sát các bầu thiên thể đang di chuyển vào những cung rất xấu nhưng ta cũng thấy bầu thiên thể lớn nhất là ngôi Thái Dương đang nằm ở một vị trí đối lập với các bầu thiên thể kia, do đó ta không tuyệt vọng như ông.
Ta biết nếu không có ảnh hưởng của ngôi Thái Dương thì tất cả mọi sinh vật trên trái đất này đều chết hết cả rồi. Chúng ta, những người đã được truyền dạy về kiến thức bí truyền, những người luôn luôn phóng tầm mắt ra ngoài vũ trụ để tìm hiểu những năng lực bí ẩn ảnh hưởng đến vận mạng con người hầu đi đến những quyết định hợp thời, hợp cảnh.
Này quan Thiên Giám, chúng ta cũng có đủ khôn ngoan để biết rằng, nếu các bầu tinh tú có thể ảnh hưởng đến con người thì con người cũng có thể ảnh hưởng đến các bầu tinh tú. Bằng sự đổi thay qua sức mạnh của ý chí, chúng ta có thể thắng đoạt các nghịch cảnh và chế ngự các khuynh hướng bất hảo. Nếu con người biết phục thiện, biết nhìn nhận các lỗi lầm quá khứ, biết thay đổi đường hướng cho tương lai thì họ có thể thay đổi vận mạng của mình, của xã hội, của quốc gia, chứ không thụ động, cam chịu mặc cho số phận đưa đẩy đến đâu hay đến đó."
Quan Thiên Giám thở dài:
- Theo sự tính toán của kẻ này thì thời điểm hoàng kim đó chưa đến đâu. Có lẽ phải cần thời gian…
Hoàng đế Amenophis lắc đầu: - Ta biết sự thay đổi nào cũng cần một thời gian nhưng thời gian là điều ta không thể kiểm soát được. Hôm nay ta đang nói chuyện với các ông nhưng ngày mai ta sẽ ra sao là điều ta không thể biết được. Chỉ một kẻ liều lĩnh với lưỡi dao nhọn, hay một tên nô lệ với liều thuốc độc là tất cả sẽ đổi khác, nhưng ta không thể vì quá lo lắng cho mình mà để cho Ai Cập đi vào tình trạng thoái hóa đó được…
Horemheb khẳng khái vỗ mạnh lên ngực:
- Xin Hoàng đế chớ lo ngại. Ngày nào kẻ này còn được ở bên ngài thì không một kẻ liều lĩnh nào có thể đụng chạm đến ngài được. Tự nhiên tôi cũng cảm thấy một bầu nhiệt huyết ở đâu dâng lên:
- Xin Hoàng đế hãy yên chí. Ngày nào tên y sĩ này còn ở bên ngài thì không một liều độc dược nào có thể qua mắt kẻ này được. Hoàng đế Amenophis có vẻ hài lòng. Ông mỉm cười:
- "Hay lắm! Nếu các quan trong triều đều một lòng như các ngươi thì làm gì mà kế hoạch cải tổ và phục hưng Ai Cập của ta chẳng thành công. Ta chỉ mong Ai Cập sẽ hùng cường, không phải bằng lực lượng quân sự mà bằng một nền văn hóa và tôn giáo đầy minh triết. Ta muốn biến Ai Cập thành một trung tâm văn minh của thế giới. Này quan Thiên Giám, ông hãy nhìn kỹ vị trí của ngôi Thái Dương, nó đứng một mình đối diện với các bầu thiên thể khác mà vẫn tỏa ánh sáng, nuôi sống muôn loài. Chính nhờ quan sát ngôi Thái Dương trong bao năm nay mà ta biết rằng sự thật không bao giờ thay đổi và không sức mạnh nào có thể khuất phục được nó.
Do đó, với tư cách một Pharaoh, ta phải can đảm, dũng mãnh và cương quyết thay đổi đường lối cai trị hà khắc hiện nay vì một người hiểu biết như ta không thể làm những việc trái với lương tâm được." Hoàng đế ngưng nói, chỉ tay về phía chân trời. Bình minh đang bắt đầu. Một giải mây đỏ ửng từ từ xuất hiện rồi một bầu ánh sáng chói chan tỏa lan ra khắp nơi. Ánh sáng soi đến đâu, màn đêm tan biến đến đó và ngôi Thái Dương xuất hiện như một chiếc đĩa tròn (Aten) rực rỡ hơn bao giờ hết.
Hoàng đế Amenophis quỳ xuống đất kêu lớn: 
- Hỡi Aten, xin cho con sức mạnh để thực hiện những việc đúng với sứ mạng của con.
Quan Thiên Giám ra hiệu cho chúng tôi quì cả xuống bên cạnh Pharaoh. Hoàng đế tiếp tục cầu nguyện: 
- Hỡi Aten, xin cho con hòa nhập với ngài, để cho con có được sự minh triết như ngài… Re-Harakhty. (Đây là cầu thần chú ghi ở phần đầu cuốn Tử Thư Ai Cập nói về sự tái sinh hay đổi mới. Dịch sát nghĩa là sự hòa nhập với mặt trời nơi cuối chân trời hay sự tiến lên cõi sáng
- Ghi chú của dịch giả).
Hoàng đế Amenophis giơ hai tay ra như muốn ôm lấy mặt trời nhưng ông loạng choạng suýt ngã. Horemheb vội vã bước lại đỡ lấy ông nhưng ông đã lấy tay vuốt ngực rồi nói nhỏ: 
- Ta phải cẩn thận hơn. Mỗi lần chiêm ngưỡng sự rực rỡ của ngôi Thái Dương thì ta lại xúc động. Thôi, các ngươi hãy lui ra để ta nghỉ ngơi một lúc.
Ra khỏi phòng, Horemheb vỗ mạnh lên vai tôi:
- Tao rất mừng thấy mày nhận lời săn sóc Hoàng đế. Từ này tao và mày sẽ gần nhau hơn và tao sẽ đưa mày đi chơi khắp thành Memphis.
Mika Waltari
Nguyên Phong dịch
Theo https://thuvienhoasen.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Đoàn Văn Cừ với hội xuân và những phiên chợ tết Những phiên chợ tết, những hội xuân của làng quê xưa, những làng quê cổ truyền Việt Nam ...